Caroline Thanh Hương
Chuyện thúng, mủng, rổ, rá…
Lúa
đã cấy xong, nước nôi ngoài ruộng cũng đã ổn, được hôm rảnh việc, anh
Tuy đem rựa ra ngồi dựa gốc mít vót nan để đan thêm mấy cặp trạt dùng
gánh phân cho kỳ bón phân sắp tới. Đến chừng nửa buổi, thấy số nan đã
đủ, anh dẹp gọn rác rưởi, rồi lui cui ngồi đan.
Võ Hương An
Nguồn: http://khoahocnet.com
Ba cô gái
Xóm Dưới đi chợ ngang qua ngõ, thấy anh chàng chưa vợ, đẹp trai đang
chăm chỉ làm việc, bèn chỉ trỏ với nhau và cười khúc khích. Cô Lài là
người bạo gan mau miệng nhất đám, lên tiếng hát rằng:
Liệu mà đát được thì đan,
Gầy rồi bỏ đó, thế gian chê cười.
Anh Tuy
ngửng đầu lên, nhận ra cô Lài, là người anh không mấy cảm tình vì cái
tính lẳng lơ lại hay xía vô chuyện người khác, bèn hắng giọng trả lời
ngay:
Bớ các o ơi!
Anh đây đan cũng giỏi mà đát cũng tài.
Lận thì trên nhún xuống,
Nứt thì ngoài chui vô.
Bớ các o ơi!
Tui đây không phải là trai hư.
Tui đan được, tui đát được, tui lận chừ cho o coi.
Lận rồi, tui chấn lột hẳn hoi,
Ở trên tui nhún xuống, ở ngoài tui đè vô.
Nói ra sợ mất lòng o,
Ngó vô trong mủng, chỗ mô tui cũng dùi.
Chưa nghe
hết câu hát , mấy cô đã ré lên “đồ con khỉ” rồi ù té chạy thiệt mau qua
khỏi ngõ nhà anh Tuy. Mấy cô chạy trốn cho mau cũng phải, nhất là cô
Lài, vì thua nặng quá. Ai không biết chi về đan đát thì không thấy cái
“thâm” trong câu hát của anh Tuy, Bề ngoài, anh ta nói toàn chuyện đan
đát không hà, nhưng bên trong lại ngụ ý toàn chuyện phòng the trai gái
thì biểu mấy cô không “dị” mà bỏ chạy cho được.
Liệu mà đát được thì đan
Người Tây
phương dùng cành non của cây liễu hoặc thân của các loài cây leo để
đan. Việt Nam ta thì lấy họ nhà tre (tre, nứa, vầu, giang, lồ-ô . . )
làm nguồn nguyên liệu chính, bên cạnh những thứ khác như mây, lá nón, lá
dừa, cỏ lát v.v. Từ tre, người ta đã làm ra nào thúng, nào mủng, nào
rổ nào rá, rồi giần. sàng, nong, nia, bồ, sề, trẹt (mẹt), bầu, sọt và
nhiều thứ khác nưã, không kể xiết.
Dù đan gì đi nữa thì người thợ đan cũng thường trải qua những bước sau đây để hoàn thành một đồ dùng:
-Vót nan,
-Gầy,
-Đan,
-Đát,
-Lận,
-Nứt.
Thử lấy việc
đan một cái rổ sưa (rổ thưa) làm thí dụ. Rổ thưa là loại rổ mà hồi
chưa có sản phẩm bằng plastic thì các cô các bà thường dùng đi chợ hay
để đựng thứ gì cần được thông thoáng và ráo nước sau khi rửa xong, như
rau, chẳng hạn.
-Vót nan: là làm ra nan để đan.
Người ta
thường chọn loại tre già dài lóng, để làm nan. Tùy theo kích thước sản
phẩm to hay nhỏ mà người ta cưa tre thành từng đoạn dài ngắn khác nhau,
rồi dùng rựa hay mác để chẽ tre ra thành từng thanh mỏng, gọi là nan.
Độ dày mỏng với bề ngang to nhỏ khác nhau của nan hoàn toàn tuỳ thuộc
theo loại sản phẩm. Bởi vậy nan đan rổ không giống nan đan giần sàng.
Nan đan rá không giống nan đan thúng mủng. Chẳng hạn để đan loại rổ chợ
vừa nói thì người ta làm nan với bề ngang chừng 5mm, dày non 1mm. Còn
nan đan rá thì có hình tròn với đường kính chừng 2mm. Nếu là loại rổ
đặt (custom-made) hay rổ gia dụng thì người ta dùng toàn tre cật để cho
được bền bĩ hơn. Bề ngoài của thân tre được gọi là cật tre, có màu xanh
lục, cứng, có sức đàn hồi lớn, độ bền cao. Bên trong của thân tre là
ruột tre, màu trắng, càng gần trung tâm càng xốp, vì vậy phần ruột tre ở
trong cùng thường được vất bỏ. Nếu dùng toàn cật tre để làm nan thì
sản phẩm bền chắc hơn nhưng cũng tốn nhiều tre hơn nên giá thành cao,
khách hàng có “order” người ta mới làm..
Nan ra rồi
thì phải trau chuốt cho có độ dày mỏng trơn láng thích hợp rồi mới đan
. Công việc này gọi là vót nan. Người ta dùng rựa, đôi khi dùng mác, để
vót nan, nhưng rựa vẫn thông dụng hơn vì đa năng hơn. Nan làm kỹ thì
sản phẩm làm ra càng đẹp.
- Gầy: Muốn
xây nhà thì phải làm móng; muốn đan thì trước hết phải gầy, nghĩa là
sắp xếp những nan đầu tiên với nhau theo một lề lối riêng để tạo thành
đường nét căn bản của sản phẩm.
- Đan: Sau khi đã gầy được rồi thì dựa theo đó mà đan tiếp.
Đan nghĩa là
gài cái nan này với những cái nan khác theo một nguyên tắc chồng chéo
trên dưới nào đó để cho chúng tự giữ chặt với nhau. Có nhiều cách đan,
nhưng thông dụng nhất vẫn là đan lòng mốt, đan lòng hai, đan mắt cáo
(lục giác) v.v.
Đan thưa,
đan dày hay đan bít là tùy theo công dụng của sản phẩm. Chẳng hạn rổ
sưa (thưa) và rổ dày có cùng một cách đan nhưng khoảng cách giữa các
nan trong rổ sưa lớn hơn, cỡ lọt ngón tay út, thích hợp với những vật
khi rửa xong cần thông thoáng cho mau ráo nước, như tôm cá hay các thứ
rau chẳng hạn. Giần và sàng cũng thế, cùng một cách đan nhưng sàng có lỗ
thưa hơn để cho hột gạo dễ rơi xuống. Còn như thúng, mủng, bầu thì
dùng để đựng lúa, gạo, các loại ngũ cốc và bột nên phải đan bít để vật
đựng không thể rơi rớt được.
Hình một cái
mê (rổ) điển hình- Các loại mê khác (giần, sàng, thúng, mũng, rá, trẹt,
nong, nia) cũng có hình dáng tương tự, chỉ khác ở kích thước, cách đan,
và đan thưa, đan dày hay đan bít mà thôi.
Ở đây để dễ thấy cấu tạo của phần ĐÁT nên tác giả vẽ thưa ra; trong thức tế, các nan ở phần ĐÁT bao giờ cũng khít nhau
- Đát: Đát
cũng là đan, nhưng theo một lối khác, nghĩa là đan với nan nhỏ hơn và
đan dày hơn, sau khi đã đan xong phần chính của sản phẩm.
Thử mở banh
một cái rổ thưa ra mà xem (xem hình). Trên cái mảnh đan bằng tre đó, mà
người ta gọi là cái mê, thấy rõ có hai phần đan khác nhau: ở giữa là
một mặt hình vuông, nan được sắp xếp cách đều nhau, tạo ra những ô vuông
trống hở, đó là mặt chính của cái rổ, đó là phần đan. Chung quanh bốn
phía của phần đan là những nan nhỏ hơn được đan khít với nhau. Đây
chính là phần đát.
Đát bao giờ
cũng lâu hơn đan, vì vậy dễ làm nản lòng những tay đan tài tử. Nhiều
người mới biết đan thường tỏ ra hăng hái khi bắt tay vào việc. Đan xong
phần chính, thấy khích lệ lắm, nhưng khi vào giai đoạn đát, thấy đan
mãi mà vẫn chưa xong, nản quá, bèn bỏ đó, đi làm việc khác, công trình
trở thành dở dang, chẳng ra cái gì cả. Bởi vậy mới sinh câu ca dao mà
cô Lài đổi chữ đầu câu thứ hai để hát ghẹo anh Tuy :
Liệu mà đát được thì đan.
Đan rồi bỏ đó, thế gian chê cười.
Cười là phải
quá đi chứ. Ở đời chán chi người sức không kham nổi mà cũng thích bày
chuyện ôm đồm, ra vẻ ta đây cũng đủ khả năng, cũng tài giởi như ai.
Hay như Thúc Sinh, sợ vợ như mèo sợ cọp mà cũng bày đặt hứa hẹn với Kiều
rằng Trăm điều hãy cứ trông vào một ta (Kiều).
- Lận: lận là làm cho cái mê hình phẳng trở thành hình dáng của sản phẩm.
Lại nói
chuyện cái rổ thưa. Cho dẫu sau khi đan và đát đã hoàn tất, nó vẫn chỉ
là một cái mê, chưa ra vật dụng gì cả. Phải lận thì mê mới thành rổ.
Trước khi lận, phải chuẩn bị cặp vành, gồm vành trong và vành ngoài,
thường làm bằng tre cật.
Khi lận, chỉ
dùng vành ngoài. Lận xong rồi mới dùng đến vành trong. Một cách mạnh
mẽ nhưng khéo léo, người ta buộc cái mê phải nằm lọt vào bên trong cái
vành để lấy hình dáng của sản phẩm.
Cái câu anh Tuy hát rằng Lận thì trên nhún xuống chính là bao hàm cái kỹ thuật lận vừa nói.
Với những
thứ như giần, sàng, mẹt (trẹt) , mủng, rổ, rá có độ sâu không bao nhiêu,
kích thước lại nhỏ, thì việc lận không khó lắm. Với các loại thúng, có
độ sâu trên dưới 3 tấc, đường kính cũng lớn hơn, khó lận hơn nên có khi
người ta đào một cái hố tròn để cho mê dễ lọt xuống, giúp cho việc
lận dễ hơn. Đối với các loại nong hay nia, đường kính từ một đến hơn 2
thước, mê dày và cứng hơn, thì khi lận người ta phải đóng cọc để giúp
giữ vành cho vững, nhờ vậy mới đủ sức ép cái mê đi vào khuôn khổ.
Khi cái mê
đã vào lọt trong vành, phải sửa sang uốn nắn để cho mê nằm ngay ngắn
đúng vị trí thích hợp rồi bỏ vành trong vào. Người ta tạm thời buộc
chặt vành trong vành ngoài và mê lại với nhau bằng một sợi lạt, cứ cách
chừng 10-20cm (tùy kích thước lớn nhỏ) lại buộc một nút. Nói là tạm
thời vì các nút buộc này sẽ lần lượt được cắt bỏ khi nứt.
Anh Tuy có hát rằng:
Lận rồì, tui chấn lột hẳn hoi.
Ở trên tui nhún xuống, ở ngoài tui đè vô.
Ấy, anh đang
muốn nói về những việc phải làm sau khi lận xong, vậy mà mấy cô nghe
rồi bỏ chạy. Kỳ thiệt. Số là sau khi lận xong và buộc chặt tạm thời
các bộ phận với nhau, sẽ có một số nan thừa lòi ra khỏi vành, cần được
cắt và vứt bỏ để cho miệng sản phẩm được bằng phẳng thì mới nứt được.
Đó là việc chấn và lột. Người ta dùng cái chàng thợ mộc , hoặc cái mác
hay thậm chí cái dao phay để chấn nan thừa. Chấn lột xong rồi thì phải
nhún, phải đè, điều chỉnh lần cuối để cho đâu vào đó trước khi đi vào
khâu cuối cùng là nứt.
- Nứt: Nứt
là dùng dây mây để buộc vành trong, vành ngoài và cái mê lại với nhau
theo một phương cách riêng, vừa đẹp vừa bền. Có nhiều cách nứt, trong
đó có hai lối chính là nứt đơn và nứt kép. Dĩ nhiên nứt kép thì đẹp
hơn, kỹ hơn nhưng cũng tốn công hơn. Nứt không kỹ không kéo thì vành mau
sút, nghĩa là sản phẩm sớm bị phế thải. Hàng chợ đa số thuộc loại này
vì người ta làm ít tốn công để có thể bán giá rẻ.
Khi nứt
người ta không dùng lạt tre mà dùng mây vì mây dẻo dai và cho sợi dài.
Trên rừng có nhiều loại mây. Mây voi cho sợi to bằng cổ tay, mây song
cho sợi cỡ xấp xỉ ngón tay cái, và mây nước hay còn gọi là mây nứt, sợi
chỉ to bằng chiếc đũa, rất thích hợp cho việc nứt các đồ dùng bằng tre.
Mây được chẽ nhỏ làm tư hay làm sáu và vót rất công phu để trở thành
một sợi dây mỏng với bề ngang chừng 2mm thì phù hợp với khâu nứt. Ngày
nay, ở các xưởng đan đát, đã có máy chẽ và chuốt mây rất tiện lợi. Phải
dùng một dùi sắt để dùi thủng cái mê thì mới xỏ sợi dây mây qua được,
và khi nứt người ta thường xỏ sợi dây từ ngoài vào trong, Đó là lý do
khiến anh Tuy có thể dựa vào mà hát ỡm ờ rằng:
Lận thì trên nhún xuống
Nứt thì ngoài chui vô.
Phải sau khi
nứt xong thì sản phẩm mới thực sự hoàn thành. Khi ra tre để đan,
thường là tre tươi để dễ chẽ dễ vót. Vì vậy sau khi đan xong, ngươiø ta
thường dem sản phẩm phơi nắng cho khô. Có nhiều nhà kỹ hơn, đem treo ở
nhà bếp. Sức nóng của nhà bếp sẽ làm cho tre khô dần, khói bếp sẽ phủ
lên một lớp “véc-ni” tự nhiên, rất công hiệu trong việc chống mốc ẩm và
mối mọt.
Rổ rá cạp lại
Đến thành
quách lâu đài mà cũng rụi tàn theo năm tháng, nói chi đến mấy thứ đồ
dùng bằng mây tre. Bung vành sổ nẹp là những bịnh thông thường của các
loại rổ rá thúng mủng. Tuy cái thúng cái rổ đã bung vành, banh miệng,
nhưng vành chưa gãy và cái mê vẫn còn tốt, bỏ đi thì uổng, nếu chịu khó
sửa chữa thì đồ hư trở trên đồ tốt ngay, khỏi phí của đời. Cái việc
làm mới lại, sửa lại rổ rá thúng mủng bị bung vành, người ta gọi là
cạp.
Khi rổ rá
được cạp lại thì rổ rá cũ bắt đầu một cuộc đời mới. Trong đời thường
cũng không thiếu chi những cuộc đời được làm mới theo cái kiểu đó. Ông A
chết vợ nay làm bạn đời với bà B chết chồng. Xóm giềng hay chỗ quen
biết khi nói chuyện với nhau sẽ nói rằng đó là một cặp rổ rá cạp lại.
Ông C ly dị vợ rồi lại lấy bà D ly dị chồng, hai cuộc đời xộc xệch nay
lại chắp nối với nhau để tạo thành một cuộc đời mới, đó cũng là rổ rá
cạp lại.
Với cách nói
vắn tắt nhưng đầy ấn tượng và ý nghĩa như thế, tưởng không phải dân tộc
nào cũng có. Tuy nhiên, một ngày kia khi rổ rá bằng plastic đã thay
thế hoàn toàn rổ rá bằng tre, nghề đan đát mai một thì lối nói như thế
trở thành ngoại ngữ hay cổ ngữ và câu hát của anh Tuy phải cần tới các
nhà nghiên cứu văn học cổ điển mới hiểu được.
Lấy thúng úp miệng voi
Cái thành
ngữ rổ rá cạp lại tôi đã học được từ một bà người Bắc trong xóm. Còn
cái câu lấy thúng úp miệng voi là từ mệ ngoại tôi. Đem cái hình ảnh rổ
rá cạp lại để ví von với sự làm lại cuộc đời của những mảnh đời tình
duyên sứt mẻ thiệt là hay ho đáo để , nhưng cũng hay ho không kém khi ví
von việc che giấu sư thật một cách ấu trĩ với hình ảnh buồn cười của
việc lấy cái thúng bé con đem che cái miệng khổng lo của “ông” voi.
Khen rằng hay, ấy cũng là khen tương đối bởi vì nếu không biết chuyện rổ
rá thúng mủng thì cũng khó mà thưởng thức cái tính cách gợi hình và gợi
cảm của câu nói.Voi thì hy vọng còn mãi với người. Không thấy được voi
trong rừng thì cũng có thể thấy được voi trong gánh xiếc hay trong vườn
bách thú, còn thúng thì một ngày kia chắc không còn nữa vì công nghiệp
hiện đại sẽ cung cấp những loại đồ đựng tương đương với giá rẻ hơn và
bền tốt hơn.
Ở Thừa
Thiên có hai làng nổi tiếng về nghề đan đát, ấy là Bầu La và Dạ Lê. Bầu
La thì được tín nhiệm về thúng mủng rổ rá, còn Dạ Lê thì được tiếng về
gót (cót). Cót hay là gót là một tấm mê đan khít bằng tre, có bề ngang
chừng một thước tây còn bề dài thì tùy ý. Người ta dùng cót làm tấm lót
để phơi khô các sản phẩm thu họach từø mùa màng. Cót cũng được quây
lại để chứa lúa, để che chắn những chỗ cần che chắn. Mặc dù hàng hóa
bằng plastic tấn công khá mạnh nhưng vẫn chưa đánh gục được cái nghề
truyền thống của hai làng đó.
Người thầy
đan đát đầu tiên của tôi là mệ ngoại tôi. Bà vốn khéo tay. Tôi chưa
thấy bà đan rổ rá bao giờ nhưng việc cạp lại rổ rá thúng mủng là ngón
nghề của bà. Thỉnh thoảng, vào mùa hè, bà ngồi chẻ giang để đan quạt
gắp
Bằng lá dừa
hay nan vót dư ra, bà chỉ cho tôi cách đan lòng mốt lòng hai. Rồi đang
khi mệ cháu vừa tẩn mẩn ngồi đan thì bà lại kể chuyện đời xưa cho nghe.
Bà kể rằng ở
làng nọ có một ông nổi tiếng đan rất khéo, rất tài tình. Ông thạo nghề
cho tới nổi chỉ cần nhìn một người ra nan, vót nan là ông biết ngay
người ấy chuẩn bị đan cái gì. Chưa bao giờ ông nói sai. Ông có cô con
gái khá xinh. Khi con tới tuổi gã chồng, ông rao lên rằng đàn ông con
trai, bất kể sang hèn giàu nghèo có học hay dốt đặc cán mai, ai đan cái
gì mà ông không biết thì ông sẽ gả con gái cho, không đòi hỏi sính lễ gì
cả. Rất nhiều anh thợ đan chuyên nghiệp cũng như tài tử tới dự tuyển
nhưng đều rớt cả. Cho đến một hôm có anh chàng nọ tới xin thi. Sau khi
chào hỏi và nói rõ mục đích, anh “xin phép bác cho con đi quanh nhà
một vòng để thăm cơ ngơi của bác cho biết mà học hỏi”. Thấy anh chàng
có cung cách không giống ai, ông vui vẻ dẫn anh ta đi từ nhà trên xuống
nhà ngang, vô nhà bếp, ra chuồng trâu, lẫm lúa, đủ cả. Hễ chỗ nào thấy
sản phẩm đan đát của ông, anh ta cũng sờ nắn, ngắm nghía và khen nức
nở. Xem xong. anh ta xin tre để ra nan, bắt đầu làm.
Nhìn cách ra
nan, ông phán ngay: anh muốn đan cái bội cắt cỏ hả? Dạ không. Ông lặng
thinh, tiếp tục quan sát và đoán. Lại hỏi: với nan này thì không giỏ
bội cũng lồng gà hay rọ xúc heo chứ trật đi đâu? Dạ không. Thiệt là
tức anh ách. Cao thủ võ lâm mà ra hai chiêu đều trật lất thì còn chi là
cao thủ. Ra nan xong, anh ta bắt đầu gầy. Rõ ràng với nan đó và cách
gầy như vậy thì để đan giỏ bộị, nhưng sao nó lại nói không phải? Tức
mình quá, ông buộc miệng hỏi: anh không đan mấy thứ tôi nói thì anh đan
cái quỉ quái chi, nói nghe coi? Nghe xong, anh chàng lập tức buông nan
đứng dậy, vòng tay lễ phép thưa: thưa cha, vậy là cha nhận con làm rễ
rồi. Con đan cái giỏ đựng chày giả chuối cho cha đó. Con đi quanh,
thấy nhà cha không thiếu thứ chi cả, cái chi cha cũng đã đan rồi mà lại
đan khéo nữa, con làm sao bắt kịp. Chỉ có cái chày giả chuối dựng ở
nhà bếp là chưa có cái chi đựng (!!) nên con tính đan cho nó một cái
giỏ để treo lên cho tiện
Tôi đã cười
thích thú khi nghe câu chuyện vừa kể, phục cái thông minh lém lỉnh của
anh chàng kia quá nhưng về sau, khi mệ ngoại tôi kể câu chuyện khác thì
tôi lại thích hơn, tới già vẫn còn thích. Cũng có một ông nọ giỏi nghề
đan đát, kén rể bằng cách thi đua về đan, Ông ra đề tài: ai đan đúng ý
ông thì được con gái. Có hai anh tới xin thi, một anh thuộc loại đan
giỏi, còn anh kia đan dở nhưng vì đã trộm liếc dung nhan người đẹp, mê
quá nên cũng đánh liều, may ra trời ngó lại. Anh đan giỏi có tính ích
kỷ, nhận đề tài và vật liệu xong, vào buồng đóng cửa để đan, mục đích là
dấu nghề, không cho anh kia “cop-pi”à. Còn anh kia biết mình non tay
nên tà tà mang vật liệu ra ngoài ngã ba đường, vừa đan vừa ngó ông đi
qua bà đi lại ra chiều xin giúp đở. Nhiều người biết đan đi qua, thấy
anh chàng đan một cách ngứa mắt quá bèn đứng lại chỉ bảo. Nhờ vậy anh
ta đan đã nhanh lại đúng qui cách, hợp ý cha cô gái, còn anh chàng kia
vào buồng tối mờ mờ, bắt lộn nan, cứ sửa đi sửa lại mãi mà cuối cùng
cũng còn sót lỗi nên mất vợ.
Tôi học anh
chàng đan dở, nói chuyện đan đát ở đây để thò cái dốt ra thì có người
giỏi hơn chỉ cho, nhờ vậy bút ký về đan sẽ phong phú hơn, biết đâu cũng
có chút ích lợi là chuyện đan đát khỏi mất dấu về sau.
Võ Hương An
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire