Kính gửi quý chị 2 bài sưu tầm về lịch sử danh nhân Việt Nam và nghe nhạc Bạh Đằng Giang.
Lý Thường Kiệt - Nhà quân sự, chính trị kiệt xuất
Bài thơ được xem như là bản tuyên ngôn độc
lập đầu tiên của Việt Nam.
|
Lý Thường Kiệt vốn thuộc họ Ngô, tên thật là Tuấn, tự là Thường Kiệt, sau
được ban quốc tính (được mang họ nhà vua), nên gọi là Lý Thường Kiệt.
Quê gốc của ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức, kinh thành Thăng Long. Làng An
Xá sau đổi tên là Phúc Xá (nay thuộc quận Ba Đình).
Từ nhỏ Lý Thường Kiệt đã tỏ ra người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập,
rèn luyện cả văn lẫn võ, từng nghiên cứu về binh pháp.
Dưới triều Lý Thái Tông, ông được bổ nhiệm giữ chức Kỵ mã hiệu úy (một chức quan
nhỏ trong kỵ binh), lúc ông 21 tuổi. Năm 1041, 23 tuổi, ông được sung vào ngạch
thị vệ để hầu vua, giữ chức Hoàng môn chi hậu, và được thăng dần lên chức Đô
tri, trông coi mọi việc trong cung.
Đầu Triều Lý Thái Tông, ông được phong chức Bổng hành quân hiệu úy (một chức võ
quan cao cấp), rồi được thăng Kiểm hiệu thái bảo. Năm 1061, ông được lệnh cầm
quân đi trấn yên Thanh - Nghệ.
Năm 1069, ông cầm quân đi đánh Champa. Lần này
vua Lý Thánh Tông thân chinh, Lý Thường Kiệt được phong đại tướng, chỉ huy đội
tiên phong tiến vào đánh phá kinh thành. Quốc vương Champa bị bắt đưa về Thăng
Long, đã xin dâng đất để chuộc tội, gồm ba châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh (nay là
địa phận Quảng Bình và bắc Quảng Trị).
Sau khi toàn thắng, giữ yên được biên giới phía Nam, Lý Thường Kiệt được ban các
chức tước: Phụ quốc tháo phó và Phụ quốc Thượng tướng quân, Thượng trụ quốc,
Khai quốc công. Ít lâu sau ông lại được thăng chức Thái úy, Đồng trung thư môn
hạ bình chương sự (là chức quan thứ hai trong triều), đứng sau chức Thái sư lúc
ấy là do Lý Đạo Thành đảm nhiệm.
Năm 1072, Lý Thánh Tông từ trần. Lý Nhân Tông lên nối ngôi khi mới có 7 tuổi.
Trong khi ấy, chính quyền phương Bắc vẫn luôn nhòm ngó. Chúng xem đây là một cơ
hội tốt để tiến hành ráo riết việc chuẩn bị xâm lược nước ta. Tại ba châu Ung,
Khâm, Liêm (thuộc Quảng Đông , Quảng Tây ngày nay), chúng xây dựng những căn cứ
quân sự và hậu to lớn để làm nơi xuất phát trực tiếp cho các đạo quân xâm lược.
Lúc này, sau khi Lý Nhân Tông lên ngôi, Lý Thường Kiệt được giữ chức Đôn quốc
thái úy, Đại tướng quân, Đại tư đồ, tược hiệu Thượng phụ công. Với cương vị như
Tể tướng, ông nắm toàn quyền cả văn lẫn võ. Điều có cũng có nghĩa là phải gánh
vác nặng nề và chịu trách nhiệm to lớn đối với giang sơn xã tắc. Ông nhận lấy sứ
mệnh thiêng liêng, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân
Tống xâm lược.
Đứng trước âm mưu và hành động rõ ràng công khai của địch, ông cho rằng: "Ngồi
yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc". Được triều
đình tán thành, ông huy động 10 vạn quân tiến hành một cuộc tập kích đánh thẳng
vào các căn cứ chuẩn bị xâm lược của kẻ thù ngay trên đất Tống.
Với danh nghĩa chính đáng là chỉ đánh Tống để giữ nước là đưa quân tới là để cứu
dân, Lý Thường Kiệt đã viết bài hịch Phạt Tống lộ bố văn (bài văn công bố đánh
giặc Tống) và cho yết bảng ở khắp nơi mà quân đội ta đi qua.
Bài hịch truyền đi đã đạt hiệu quả lớn: quân đội của Lý Thường Kiệt tiến đến đâu
cũng đều được nhân dân Trung Hoa ở đó hoan nghênh, hưởng ứng.
Quân Việt bắt đầu tiến công vào đất Tống từ ngày 27 tháng 10 năm 1075. Thoạt tiên,
quân Việt phá hủy một loạt các đồn trại biên giới, rồi lần lượt đổ bộ lên cảng và
đánh chiếm các thành Khâm, Liêm. Sau đó đại quân tiếp tục tiến sâu vào đất địch.
Ngày 18 tháng 1 năm 1076 áp sát thành Ung. Đây là căn cứ quan trọng nhất trong
những căn cứ địch dùng cho cuộc viễn chinh xâm lược vào Đại Việt. Sau 42 ngày vây
hãm và tấn công quyết liệt, ta hạ được thành, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên
địch.
Theo chủ trương đã định, quân ta được lệnh san bằng các thành lũy lớn nhỏ, tiêu
huy các kho tàng lương thực, vũ khí, giáng đòn sấm sét làm tổn thất nghiêm trọng
các cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh của địch, làm nhụt nhuệ của bọn
cầm quyền phương Bắc trong việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược.
Sau khi đã đạt mục tiêu của cuộc đánh sang đất Tống, Lý Thường Kiệt
quyết định
rút nhanh quân về nước. Cuộc rút quân rất đúng lúc, vừa bảo toàn được
lực lượng, vừa phá được kế hiểm của giặc: chúng định điều quân lẻn sang
đánh úp Đại Việt nhân lúc đại quân còn đang ở bên nước chúng.
Cuộc tập kích chiến lược đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Lịch sử ghi nhận
chiến công kỳ diệu này, chiến công có một không hai trong lịch sử kháng chiến
chống ngoại xâm của dân tộc Việt. Gắn liền với chiến công ấy, là tên tuổi vị chủ
tướng tài ba Lý Thường Kiệt.
Nhà viết sử Ngô Thì Sĩ ca ngợi ông: "bày trận đường đường, kéo cờ chính chính,
mười vạn thẳng sâu vào đất khách, phá quân ba châu như chẻ trúc, lúc tới còn
không ai dám địch, lúc rút quân còn không ai dám đuổi, dụng binh như thế, chẳng
phải nước ta chưa từng có bao giờ"? (Việt sử tiêu án).
Tuy bị thua đau, nhưng nhà Tống vẫn rất ngoan cố. Lý Thường Kiệt biết chắc thế
nào chúng cũng sẽ kéo quân sang phục thù và tiếp tục thực hiện mục tiêu xâm lược
mà chúng chưa bao giờ chịu từ bỏ.
Ông cử người vào đất Tống để theo dõi cụ thể công việc chuẩn bị và kế hoạch xâm
lược của quân Tống.
Ông tự mình đi xem xét vùng biên cương phía nam và tăng cường lực lượng bố phòng
ở đó nhằm chặn sự tiến công quấy rối của quân Champa.
Ông bố trí kế hoạch cho các lực lượng vũ trang địa phương, các thổ binh, hương
binh ở vùng núi phía bắc làm nhiệm vụ kiềm chế và tiêu hao địch trên các con
đường tiến vào của chúng.
Ông tập trung xây dựng phòng tuyến chính của quân ta dựa vào bờ nam sông Như
Nguyệt (sông Cầu), có rào giậu nhiều tầng, chạy dài trên 200 dặm từ chân núi Tam
Đảo đến sông Lục Đầu. Dưới sông có thủy quân, trên thành có quân đóng và tuần
tiễu. Với phòng tuyến này, quân ta nắm chắc khả năng chặn địch, bảo vệ an toàn
kinh thành Thăng Long và cả một vùng trung châu rộng lớn và trù phú của đất
nước.
Cuối năm 1076, đại quân Tống chia làm nhiều cách vượt biên giới tiên ào
ạt vào Đại Việt. Sau một tháng phải luôn luôn đối phó với những cuộc
chống trả quyết
liệt của nhân dân Đại Việt trên vùng biên giới và thượng du. Cuối cùng
ngày 18 tháng 1
năm 1077, đại quân Tống cũng tiến được tới bờ bắc sông Cầu. Nhưng đến
đây, chúng
đã bị chặn đứng lại. Phòng tuyến sông Cầu sừng sững như một bức tường
thành,
vững chãi, uy nghiêm và đầy thách thức. Chúng buộc phải dừng quân, tập
kết trên
một trận tuyến dài 30km từ bến đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, để
từ đó
triển khai các đợt tiến công sang phòng tuyến của quân Việt.
Một lần, chúng tập trung binh lực, đột phá trận tuyến quân Việt ở bến đò Như
Nguyệt, chọc thủng được một đoạn phòng tuyến quân tiên phong của chúng tiến về
phía Thăng Long. Nhưng quân Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã phản công kịch liệt.
Chúng bị tổn thất nặng nề, phải mở đường máu mà tháo chạy.
Lần khác, chúng lại mở đợt tấn công mới. Với những bè lớn, mỗi bè trở được 500
quân qua sông, chúng liên tiếp đưa những đạo quân mạnh đổ bộ lên bờ nam. Nhưng ở
đây chúng lại đụng phải sức phản công dữ dội của lực lượng chiến đấu dũng mãnh
dưới sự chỉ huy linh hoạt sắc bén của tướng quân Lý Thường Kiệt. Những đạo quân
đổ bộ đều bị tiêu diệt hoặc phải đầu hàng.
Vào lúc cuộc chiến ra vô cùng quyết liệt, Lý Thường Kiệt đã viết Nam quốc sơn hà
- một bài thơ bất hủ để cổ vũ tinh thần binh sĩ. Tương truyền rằng ông đã sai
người giả làm thần nhân, nấp trong đền Truơng Hát ở bờ nam cửa sông Như Nguyệt,
đọc bài thơ này.
Theo sách Việt điện u linh thì tướng quân Trương Hát là thần sông Như Nguyệt,
chính thần nhân này đã được đọc bài thơ trên. Sách còn nói: "Đang đêm nghe tiếng
vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đẩm,
không đánh cũng tan".
Bài thơ Nam quốc sơn hà khẳng định chân lý hùng hồn: Nước Nam là một quốc gia
lãnh thổ riêng, cương giới rạch ròi, quyền độc lập tự chủ của dân tộc là thiêng
liêng bất khả xâm phạm.
Bài thơ thể hiện khí phách hào hùng về ý chí gang thép của dân tộc, cảnh cáo
nghiêm khắc kẻ ngoại xâm, đồng thời cổ vũ mạnh mẽ quân dân ta hăng hái chiến
đấu, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi hoàn toàn.
Đi vào lịch sử, bài thơ được coi như bài Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc
ta sau hơn một ngàn năm bị phong kiến nước ngoài đô hộ.
Qua thực tế chiến trường trên phòng tuyến sông Cầu, bài "thơ thần"đã truyền đi
đã có một sức mạnh kỳ lạ, làm nao núng tinh thần quân địch, làm tăng nhuệ khí và
thêm sức chiến đấu cho quân ta, trực tiếp góp phần làm xoay chuyển cục diện cuộc
chiến đang trong giai đoạn cực kỳ quyết liệt, tạo điều kiện cho cuộc phản công
chiến lược giành thắng lợi quyết định. Đó là cuộc phản công chiến lược do Lý
Thường Kiệt chỉ huy, đại quân ta vượt sông bất ngờ đánh úp vào doanh trại chính
của địch. Theo Việt sử lược thì quân Tống đại bại, bị tiêu diệt đến năm, sáu
phần mười.
Sau chiến thắng trên, Lý Thường Kiệt đã chủ động phái người sang sông gặp tướng
chỉ huy quân Tống, đặt vấn đề hòa giải nhằm sớm chấm dứt chiến tranh, với điều
kiện là toàn bộ quân Tống phải rút khỏi đất Việt.
Bọn chỉ huy quân Tống đang lúc hoang mang cực độ trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn
toàn, chúng vội vàng nhận điều kiện trên và lập tức rút quân hồi tháng 3 năm
1077, không cần chờ lệnh của triều đình nhà Tống.
Trong cuộc chiến đấu lần này, quân dân Đại Việt đã tiêu diệt hơn 19.000 quân địch. Tính cả cuộc
tập kích lần trước vào Ung-Khâm-Liêm, quân Việt đã tiêu diệt gần 30.000 tên.
Thắng lợi huy hoàng của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống
(1075-1077) là một minh chứng hùng hồn về sự phát triển vượt bậc của dân tộc Việt
sau một thế kỷ giành độc lập, quốc gia Đại Việt đã có đủ sức mạnh để chống lại
một đế quốc lớn mạnh.
Làm nên thắng lợi, có công sức và sự hy sinh to lớn của toàn dân đoàn kết, chiến
đấu kiên cường, dũng cảm và mưu trí sáng tạo. Làm nên thắng lợi, có cống hiến
lớn lao của vị tướng tổng chỉ huy Lý Thường Kiệt. Với tài năng thao lược và nghệ
thuật chỉ đạo chiến tranh kiệt xuất, luôn luôn thể hiện một tư tưởng tiến công
rất cao trong chỉ đạo tác chiến, ông liên tục tiến công kẻ thù: đánh phủ đầu
quân xâm lược khi chúng chưa kịp hành động, phản công nhanh chóng và quyết liệt
ngay khi bị kẻ thù tiến công, đánh ngay vào đội quân mạnh nhất của địch, ngay
trên hướng tiến công chủ yếu của chúng. Ông khéo kết hợp giữa tiến công và phòng
ngự tích cực, giữa các cách đánh tập trung, đánh trận địa và đánh vận động. Ông
vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và
hoạt động ngoại giao.
Non sông sạch bóng quân thù. Lúc này vua mới 12 tuổi. Lý Thường Kiệt lại tiếp
tục gánh trách nhiệm lớn của triều đình trong công cuộc xây dựng đất nước, chăm
lo đời sống nhân dân. Ông đã cho tu bổ đê điều, đường sá, đình chùa hư hỏng
trong chiến tranh và tiến hành nhiều biện pháp nhằm cải tổ bộ máy hành chính
trong toàn quốc.
Năm 1028, ông thôi chức Tể tướng và được cử về trị nhậm trấn Thanh Hóa. Làm việc
ở đây suốt 19 năm trời, đến năm 1101 thì vua Lý Nhân Tông lại mời ông trở lại về
triều giữ lại chức Tể tướng. Lúc này ông đã 82 tuổi.
Già rồi, nhưng ông vẫn tình
nguyện cầm quân đi đánh giặc Lý Giác ở Diễn Châu (năm 1103), dẹp giặc Chiêm
Thành quấy nhiễu ở Bố Chính (năm 1104). Ông còn tổ chức lại quân đội, duyệt đổi
lại các đơn vị từ cấm binh đến dân quân.
Lý Thường Kiệt là một trọng thần đã trải ba triều vua (Lý Thái Tông, Lý Thánh
Tông, Lý Nhân Tông), luôn luôn được triều đình tin tưởng, nể trọng.
Từ đời Lý
Thánh Tông, ông đã được cất lên ngang hàng các hoàng tử, được vua nhận làm con
nuôi và ban hiệu Thiên tử nghĩa nam. Đời Lý Nhân Tông, ông được nhà vua coi như
em và ban hiệu Thiên tử nghĩa đệ
Ông mất năm 1105, thọ 86 tuổi. Khi mất được phong tặng Kiểm hiệu Thái úy bình
chương quân quốc trọng sự, Việt quốc công, được lập đền thờ ở nhiều nơi.
Lý Thường Kiệt là một nhà quân sự kiệt xuất, có tài thao lược lỗi lạc, phá Tống
bình Chiêm, đánh đâu thắng đấy. Ông cũng là một nhà chính trị tài giỏi và ngoại
giao xuất sắc. Về văn học, ông để lại cho đời bài thơ bất hủ Nam quốc sơn hà,tác
phẩm nổi tiếng nhất đời Lý và bài hịch hùng tráng Phạt Tống lộ bố văn.
Ông là một nhân cách lớn. Văn bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn đã ca ngợi ông
như sau:
"Làm việc thì siêng năng, điều khiển dân thì đôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy.
Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính
trọng. Dùng uy vũ để trừ gian ác, đem minh chứng để giải quyết ngục tụng, cho
nên hình ngục không quá lạm. Thái úy biết rằng dân lấy sự no ấm làm đầu, nước
lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để nỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe
khoang. Nuôi dưỡng đến cả những người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ
thế mà được yên thân. Phép tắc như vậy có thể là cái gốc trị nước, cái thuật yên
dân, sự tốt đẹp đều ở đấy cả".
Lý Thường Kiệt là một anh hùng dân tộc bậc nhất của đời Lý mà tên tuổi và sự
nghiệp vẫn sáng chói mãi trong lịch sử vinh quang của dân tộc./.
Mô hình chiến thắng Bạch Đằng 938. (Ảnh: Wikipedia)
Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng
Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898) ở xứ Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã
Sơn Tây, Hà Nội, cùng quê với người anh hùng Bố Cái Đại vương Phùng Hưng.
Cha ông là Ngô Mân đã từng làm chức Châu mục Đường Lâm. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã
sống trong truyền thống yêu nước của quê hương.
Đại Việt sử ký toàn thư (ngoại
kỷ, quyển 5) mô tả: "Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các
thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương, nhân đó (Ngô Mân)
mới đặt cho vua tên là Quyền. Khi vua lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như
chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc"
Lúc trưởng thành, Ngô Quyền có võ nghệ tinh thông và có chí lớn. Ông đã từng
tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La, đã từng theo Dương Đình Nghệ
đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La năm 931.
Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, vẫn tự xưng là Tiết độ sứ, đóng tại thành Đại La.
Ông phong cho Đinh Công Trứ (cha Đinh Bộ Lĩnh) chức thứ sử Hoan Châu, gả con
gái là Dương Thị Như Ngọc cho Ngô Quyền và giao coi giữ Ái châu. Chính quyền họ
Dương tồn tại bảy năm (từ năm 931 đén tháng 3 năm Đinh Dậu 937) thì Dương Đình
Ngệ bị kẻ phản bội là Kiều Công Tiễn (một viên tướng dưới quyền) sát hại để cướp
đoạt chức Tiết độ sứ.
Là người có tài đức và ý
chí, ngay sau khi chủ tướng Dương Đình Nghệ bị sát hại, Ngô Quyền sớm trở thành
linh hồn của ngọn cờ yêu nước.
Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử
Vào những ngày mùa đông năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền từ Ái châu đem quân ra hỏi
tội Kiều Công Tiễn.
Theo thần tích, truyền thuyết dân gian và gia đình họ Dương
ở làng Ràng (xã Dương Xá, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa) thì dưới sự
chỉ đạo của Ngô Quyền, Dương Tam Kha (con Dương Đình Nghệ) và Đỗ Cảnh
Thạc đã cầm quân tiến công thành Đại La, giết Kiều Công Tiễn.
Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền vào thành họp bàn với các tướng lĩnh về kế hoạch
chống ngoại xâm. Thành Đại La trở thành trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến
chống quân Nam Hán lần thứ hai. Hào kiệt bốn phương đem quân hội tụ về Đại La
dưới cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền.
Tại đây, một kế hoạch chiến đấu mưu trí và chắc thắng đã được Ngô Quyền và các
tướng lĩnh bàn định và thông qua. Trong một cuộc họp bàn, với lòng tự tin và làm
chủ tình thế, Ngô Quyền đề ra ý kiến như sau:
"Hoằng Thao là một đứa trẻ, lại đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe
Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta
sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được. Song giặc có lợi về thuyền
chiến, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được.
Nhưng ta sẽ cho người đem theo cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt đầu nhọn
bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước thuỷ triều lên tiến vào bên trong hàng
cọc, bây giờ ta sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hay hơn kế ấy cả".
Kế hoạch và việc lựa chọn chiến trường cho trận "quyết chiến chiến lược" đã được
quyết định. Tướng sĩ ai cũng vui mừng, tin rằng chắc thắng. Sau đó, Ngô Quyền và
bộ chỉ huy tạm rời thành Đại La, kéo quân về vùng biển đông bắc chuẩn bị chiến
trường đón đánh thủy quân Nam Hán.
Theo thần tích và truyền thuyết dân gian các làng và hơn 30 đền thờ Ngô Quyền và
các tướng có công phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, thì vùng đóng quân của Ngô
Quyền lúc bấy giờ được trải dài từ các làng Bình Kiều, Hạ Đoan tới Lương Khê,
còn đại bản doanh thì đặt tại các thôn Lương Sâm, Gia Viện (đều thuộc huyện An
Hải, Hải Phòng).
Trước đây, đại bộ phận quân đội của Ngô Quyền là người Ái châu, nơi ông trấn
trị. Trước nạn Nam Hán xâm lược, đạo quân này được bổ sung tăng cường và nhanh
chóng. Nhân dân khắp nơi nô nức mang vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ
quân đội. Chỉ riêng một thôn Gia Viện nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh cũng đã có
hàng mấy chục trai tráng dưới quyền chỉ huy của Đào Nhuận và Nguyễn Tất Tố tình
nguyện nhập ngũ.
Vùng cửa sông và hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm điểm quyết chiến.
Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là giao thông quan trọng từ biển Đông
vào đất Việt. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và
tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông.
Sông Bạch Đằng chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ
vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Triều lên từ nửa
đêm về sáng, cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km.
Đến gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh
Bấy giờ vào cuối năm 938. Trời rét, gió đông bắc tràn về, mưa dầm lê thê kéo dài
hàng nửa tháng. Chính trong những ngày ấy, theo kế hoạch của Ngô Quyền, quân và
dân ta lặn lội mưa rét, ngày đêm vận chuyển gỗ, dựng cọc.
Hàng nghìn cây gỗ lim, sến, đầu được vạt nhọn và bịt sắt được đem về đây cắm
xuống hai bên bờ sông (quãng cửa Nam Triệu hiện nay) thành những hàng dài chắc
chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn.
Khi triều rút các hàng cọc mới phơi ra, còn lúc sáng sớm nước mênh mông thì
thuyền lớn qua lại hai bên bờ vẫn dễ dàng. Trận địa cọc được tiến hành rất gấp
rút và chỉ trong khoảng thời gian hơn một tháng là mọi việc đã hoàn thành.
Theo dự kiến của Ngô Quyền, trận đánh sẽ diễn ra ở phía trong bãi cọc. Tướng
Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ) chỉ huy đội quân bên tả ngạn, Ngô Xương
Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu
ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và
sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ.
Từ cửa biên ngược lên phía trên không xa là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn do
chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ
xuôi dòng đánh lại đội binh thuyền địch.
Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán từ Quảng Đông kéo sang. Cuộc
chiến đấu đã diễn ra như sự trù liệu và dự tính của Ngô Quyền đã vạch ra.
Cả
đoàn binh thuyền lớn của Hoằng Thao vừa vượt biển vào cửa sông Bạch Đằng đã bị
dồn dắt vào thế trận bố trí sẵn của ta, và bị tiêu diệt trong thời gian ngắn.
Toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm xuống biển, hầu hết quân địch bị tiêu
diệt, chủ soái Lưu Hoằng Thao bị giết tại trận.
Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra
nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không
kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: "Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà
rút lui'.
Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ
thuật quân sự Việt Nam.
Trong điều kiện lực lượng ta địch chênh lệch không nhiều,
Ngô Quyền đã lợi dụng được cả thời tiết, địa hình có lợi cho ta, tạo len thế
mạnh giáng cho quân xâm lược vừa mới thò mặt tới một đòn trời giáng, giành thắng
lợi quyết định bằng một trận mai phục thủy chiến trên sông.
Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiền Ngô
Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu
Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa.
Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là trận trung kết toàn thắng của dân tộc ta trên
con đường đấu tranh Bắc thuộc, giành lại độc lập hoàn toàn.
Chiến công hiển hách
đó đập tan mưu đồ xâm lược của Nam Hán, tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính
quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, chấm dứt hoàn toàn
thời Bắc thuộc kéo dài trên nghìn năm.
Ngô Vương Quyền và kinh đô Cổ Loa
Bằng chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, dân tộc ta không những chấm dứt
ách đô hộ hơn nghìn năm của Phương Bắc, mà còn tạo điều kiện tiến lên xây dựng
một quốc gia độc lập hoàn toàn.
Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng
vương, thành lập một vương quốc độc lập đàng hoàng. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô
nước Việt, Ngô Vương Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua
Thục.
Sử gia Lê Văn Hưu đời Trần nêu cao ý tưởng này của Ngô Vương Quyền khi viết với
Ngô Vương "chính thống của nước Việt ta đã nối lại được".
Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương bước đầu tổ chức một triều chính độc lập: "đặt
trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của đế
vương".
Bà vợ họ Dương, con gái Dương Đình Nghệ, được lập làm hoàng hậu. Triều đình của
Ngô Vương tuy còn đơn sơ, nhưng được xây dựng theo thể chế của một vương triều
hoàn toàn độc lập.
Các tướng sĩ có công trong cuộc chiến tranh chống Nam Hán đều được phong tước,
cấp thái ấp như Phạm Lệnh Công được phong đất ở miền Nam Sách Giang (Nam Sách,
Hải Dương).
Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa được 6 năm (939 944). Trong sáu năm ngắn ngủi đó chắc
chắn triều Ngô vẫn chưa xây dựng được thêm gì nhiều ở Loa thành xưa. Khảo cổ học
chỉ phát hiện được những đoạn thành sửa đắp vào thời Ngô Quyền trên nền tảng
hoang phế thành cũ của Thục An Dương Vương.
Truyền thuyết dân gian vùng đất Cổ Loa kể lại rằng, Ngô Vương Quyền khi đóng đô
ở đây đã cho trồng cây đa ở trước am thờ Mỵ Châu và cho đào cái giếng nước ở
trên của đền. Người dân vùng này còn truyền tụng những câu cửa miệng: "Cây đa
nghìn tuổi", "giếng nước nhà Ngô".
Với việc Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa, vùng đất Hà Nội lại khôi phục vị trí trung
tâm chính trị của đất nước trong buổi đầu phục hưng độc lập sau hơn nghìn năm
Bắc thuộc.
Ngô Quyền mất năm 944, thọ 47 tuổi.Tại quê hương xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Tây) có đình thờ và lăng Ngô
Quyền. Trong nhà truyền thống xã Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như
rìu đá, di chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch Đằng; gần đó có những rộc sâu, tương
truyền xưa kia là hồ sen, nơi Ngô Quyền thường cùng bạn bè thuở nhỏ chơi trò
thủy chiến.
Tại thành phố Hải Phòng, bên cạnh dòng sông Bạch Đằng lịch sử, cũng có những
ngôi đền và đình thờ Ngô Quyền. Ở đình Hàng Kênh - ngôi đình tráng lệ ở Hải
Phòng xây dựng năm 1718 - có câu đối lớn với dòng chữ nho:
"Vương nghiệp khởi
nghiệp Loa Thành, trường biên thanh sử.
Chiến công lưu Đằng thủy, cộng mộc hồng ân"
nghĩa là: "Vương nghiệp bắt đầu từ
Loa thành lưu mãi trong sử sách. Chiến công lưu lại trên sông Đằng, trong đó có
ân phúc của loài cây"./.