Kính gửi quý anh chị
CHUYỆN LÀNG VÀ NGƯỜI LÀNG,
Truyện mi-ni
Hồi cải cách ruộng đất năm 1956 tôi còn nhỏ, nhưng cũng đủ lớn để chứng
kiến khá nhiều chuyện xẩy ra trong làng. Mãi đến giờ tôi vẫn không sao
quên nổi cái không khí điên khùng, kỳ cục những ngày ấy. Cả làng như
đang trong cơn lên đồng tập thể. Đêm nào cũng họp hành và đấu tố. Hàng
xóm đấu hàng xóm, thằng ở đấu ông chủ, có cả trường hợp anh em đấu nhau
hay thậm chí con cái đấu cha mẹ. Toàn những mày tao chi tớ, nhổ nước
bọt, chỉ tay dí mặt trông mà khiếp. Ban ngày thì cả làng kéo nhau đi xem
xử bắn bọn “gián điệp” và “cường hào gian ác”. Làng mình không hoặc
chưa có thì xem ở làng khác.
Nổi bật nhất là lễ rước “quả thực”,
tức là lễ rước khắp làng những của cải, đồ đạc tịch thu của địa chủ
trước khi chia cho dân làng. Vui lắm, thích lắm. Nhưng địa chủ thì ít,
lại chủ yếu thuộc diện qui chụp theo chỉ tiêu trên giao xuống, nên cũng
chẳng có nhiều để chia. Thế mà ai cũng hỉ hả ra mặt. Tự dưng không đâu
người ta cho mình cái này cái nọ, hỏi làm sao không vui? Nhà tôi thuộc
diện bần cố nông nên cũng được một cái chum và nửa con trâu, chung với
ông bác. Bố mẹ tôi cũng hỉ hả lắm, dù tôi biết hai cụ chưa bao giờ phải
đi ở hay làm thuê cuốc mướn cho tên địa chủ nào. Qua vụ này, tôi đâm ra
ghét mấy ông bà nông dân tham lam, tráo trở.
Chỉ đạo toàn bộ cuộc
lên đồng tập thể kéo dài cả tháng ấy là hai ông Đội, một từ Vinh, một
từ tận trung ương về. Ông trung ương là người làng, có tên Hoạt, nghe
nói ông tự xung phong, chứ cỡ ông không ai xuống cấp xã. Ông này trạc ba
mươi lăm, bốn mươi tuổi, người vạm vỡ, ít nói và có thói quen chốc chốc
lại ngúc ngắc đầu như đang cố xua một con ruồi vô hình.
Để nêu
gương cách mạng, ông chọn ở nhà lão Thọt theo phương châm ba cùng, là
cùng ăn, cùng ở và cùng làm việc, mặc dù ông chỉ về ngủ vào lúc đêm
khuya, trên cái giường duy nhất trong nhà. Lão Thọt thì ngủ trong ổ rơm
dưới bếp, thường có tôi ngủ cùng vì lão có cả một kho truyện ma để kể.
Bù lại, ban ngày tôi nhổ tóc bạc và bắt rận cho lão. Không hiểu sao
người ta gọi Thọt khi lão đi đứng bình thường như mọi người. Lão còn
khỏe mạnh dù đã hơn sáu mươi, trước từng đi lính sang Dijon bên Pháp.
Nhưng lão mù, mà cũng mới đây thôi, sau một lần đau mắt và được ông thầy
lang làng bên chữa bằng cách đắp hai con nhái đã nướng chín lên mắt.
Mấy ngày sau khi Đội về, đêm nằm lão bảo tôi:
“Chúng nó bắt đầu ăn thịt nhau đấy mày ạ?”
“Sao phải ăn thịt nhau?” tôi hỏi.
“Rồi mày xem. Bọn này chẳng hay ho gì đâu”.
“Bọn nào ạ?”
“Bọn Đội. Bọn chó chết. Nhất là thằng Lan”.
Lan là tên anh Đội thứ hai. Hắn còn trẻ nhưng rất hống hách, chuyên xúi
người ta đấu nhau, và là thằng đầu têu đánh dã man những người bị qui
oan. Đã thế hắn còn tham ăn và háu gái. Người ta thấy hắn bắt gà vịt và
sờ mông, bóp vú đàn bà giữa ban ngày ban mặt mà chẳng ai dám nói gì. So
với hắn, ông Hoạt còn tử tế hơn nhiều, dẫu vì ông khối người phải khốn
khổ.
Một tối nọ cô Bích, cháu đằng ngoại của lão Thọt, tấm tức
chạy đến bảo lão cô bị hắn đè ra hiếp, dọa nếu không chịu, cả nhà cô sẽ
bị qui địa chủ, tức là bị xử bắn. Lão Thọt nghe không nói một lời nào.
Đêm ấy tôi nghe lão nghiến răng kèn kẹt mãi. Tối hôm sau, lúc ấy đã
khuya, lão chui vào ổ rơm, ôm chặt tôi rồi thì thầm:
“Tao giết hắn rồi!”
“Giết ai?” tôi ngạc nhiên hỏi.
“Thằng chó chết ấy chứ còn ai nữa. Chém một phát đứt ngang cuống họng. Ngoài đíếm canh”.
“Nhưng bác mù…”
“Mù ít thôi. Tao giả vờ đấy. Cấm mà bép xép với ai đấy nhé! Tao giết!”
Khỏi phải nói cả làng bị một phen điêu đứng thế nào. Người ta khám từng
nhà, tra khảo từng người. Có hẳn một đoàn công an từ huyện về mà cuối
cùng vẫn không tìm ra thủ phạm giết thằng Lan. Tất nhiên không ai nghi
ngờ lão Thọt, vì lão mù.
Dần dần mọi chuyện cũng lắng xuống. Tiếp
đến là sửa sai và làng lại đi vào nếp cũ. Ông Hoạt quay ra Hà Nội với
công việc xưa nay của mình trong ngành an ninh. Ông thăng quan tiến chức
nhanh chóng và chẳng bao lâu trở thành người danh giá nhất làng, đặc
biệt khi ông về thăm quê bằng ô tô con, chiếc đài bé xíu đeo bên hông. Ở
thủ đô, lần nào gặp mặt đồng hương xã nhân năm mới ông cũng có mặt, và
đương nhiên ngồi ở chỗ nổi bật nhất, được trọng vọng nhất. Tôi cũng
nhiều lần bắt tay, nói chuyện với ông, dẫu không mấy thân mật vì chênh
lệch tuổi tác và nghề nghiệp. Tôi tặng ông một vài cuốn sách tôi viết,
và ngạc nhiên khi biết ông đọc chúng. Thậm chí đọc kỹ, có lần còn gọi
điện nhận xét. Hình như ông thích tôi, tôi không biết vì sao, nhưng có
cảm giác như thế. Một lần vui miệng, ông nói ông đã cứu tôi khỏi bị công
an bắt.
“Ngày mới về nước, cậu viết mấy bài thơ ủy mị, kêu khổ.
Chúng nó đưa vào sổ đen, định bắt nhưng tớ đỡ cho, bảo người cùng làng
và thằng ấy tốt nên mới thôi”.
Tôi cảm ơn ông và chẳng biết nói
gì thêm. Tôi có biết mình bị theo dõi, nhưng bị bắt và đi tù như một số
văn nghệ sỹ lúc ấy thì quả thật không ngờ tới. Mà rồi tôi chỉ mới tập
tạnh vào nghề chứ đâu đã thành danh như bây giờ.
Một hôm, cách đây khoảng ba năm, ông gọi điện cho tôi và nói, giọng quan trọng:
“Cậu đến ngay nhà tớ, có việc muốn nhờ!”
Đến nơi, tôi ngạc nhiên thấy ông đang đứng chờ trước cổng nhà, mặc bộ
quân phục đại lễ, huân huy chương đầy ngực. Ông vội chui vào xe và nói
như ra lệnh:
“Lên Chèm! Khoan hẵng hỏi. Tớ sẽ chỉ đường.” Ông vẫn
chưa quên cái giọng nói chuyện với cấp dưới khi ở cơ quan, dù đã về hưu
gần hai chục năm nay, và tôi là người làng ông đang nhờ giúp đỡ.
Tôi lặng lẽ làm theo, tò mò muốn biết chuyện gì đang xẩy ra.
Cuối cùng, ông bảo tôi dừng xe bên sông Hồng, cách đền Ông Trọng không
xa. Lúc ấy đã sáu giờ và mặt trời đang tắt dần ở phía Tây. Tôi bước theo
ông đi xuống mép sông, vẫn hoàn toàn chưa biết ông định làm gì. Ở tuổi
tám mươi, trông ông còn khỏe và cao lớn. Cái đầu vẫn thỉnh thoảng lắc
lắc như xưa. Thế mà nghe nói như ông đang bệnh nặng.
Chỗ sông này
nước xuáy, ăn lõm vào bờ khá sâu. Ông đứng lên tảng đá lớn sát bờ, ra
hiệu tôi lại gần và nói, cũng bằng cái giọng ra lệnh lúc nãy:
“Hãy nhìn cho kỹ những gì tớ sắp làm…”
“Bác định làm gì?” tôi hỏi, không dấu nổi sự ngạc nhiên và sợ ông nhảy xuống sông tự tử.
“Cậu sẽ biết ngay đây. Tớ chỉ cần cậu như một người làm chứng”.
|
Rồi ông thong thả cởi từng chiếc huân, huy chương trên bộ quần áo đại
lễ màu trắng, vứt mạnh xuống dòng nước chảy xiết. Khoảng dăm chiếc, và
tôi chẳng biết đó là huân, huy chương gì.
“Xong. Ta về! Coi như cậu đã trả ơn tớ không cho công an bắt ngày nào.”
“Vì sao bác làm thế?” tôi hỏi khi đã ngồi trên xe.
“Vì tớ sắp chết”. Biết tôi đang ngạc nhiên, ông nói tiếp: “Mà trước khi chết ai cũng muốn lòng mình thanh thản”.
“Vâng, nhưng chuyện này liên quan gì đến mấy chiếc huân chương?”
“Tại chỗ nước xuáy kia, sau khi cướp chính quyền năm bốn lăm, tớ đã
giết một lãnh tụ đảng Việt Quốc. Bắt cóc giữa đường, cho vào bao tải rồi
ném úm xuống đó. Ban đêm, tất nhiên, và cùng hai đồng chí khác của Nha
cảnh sát cách mạng”.
Tôi ngồi im, chẳng biết nói gì.
“Và người ta tặng huân chương cho tớ về việc ấy”, ông hạ giọng, vẻ chua chát.
Im lặng một lúc, tôi nói, cốt để an ủi ông:
“Cái thời nó thế thì phải thế. Vả lại, đấy là nhiệm vụ cách mạng giao.”
“Đành vậy, nhưng dẫu sao… Nếu là tớ, cậu có thể chết thảnh thơi được không?”
“Không”.
Khi xe về gần đến nhà, tôi hỏi:
“Sao bác không bảo con cháu làm cái việc bác nhờ tôi hôm nay?”
“Cái bọn hời hợt, hãnh tiến ấy, nhờ để chúng phá à? Chúng chỉ có một
niềm tự hào duy nhất là con cháu cán bộ cách mạng lão thành”.
Một
tháng sau ông chết ở bệnh viện K, suýt đươc an táng trong nghĩa trang
Mai Dịch. Tất nhiên các đài, báo trung ương đều đưa tin, long trọng và
cảm động.