Kính gửi quý anh chị một bài thơ của anh Trần Văn Lương.
Cũng như thường lệ, thơ anh Lương là những bài thơ buồn ngậm ngùi, có khi khóc không ra nước mắt và tuy tôi không thuộc loại người hay bỏ cuộc mà đành chờ khi lòng mình lắng xuống khi đã đưa tiễn bà vú nuôi của mình ra đi ở tuần anh gửi bài thơ này đến điển đàn của chúng ta.
Những ngày nước pháp chưa vào confinement thứ ba, những lần tôi đi bộ ngang qua tiệm chôn cất người thì thấy lòng mình trầm xuống, vì chưa bao giờ danh sách trước cửa tiệm này chen chúc những tên người ra đi như mấy tháng nay.
Tôi không biết họ ra đi vì lý do gì, nhưng những tuổi gần tám mươi và trên chín mươi thì kẻ trước, người sau báo tin mình đã mãn phần.
Họ là người bản xứ, có người sinh nơi này và cũng ra đi trên mảnh đất trong sự thương tiếc của gia đình, nhưng mình ở nơi này cũng lâu như những con cái họ, mình cũng là người đóng góp công sức tiền bạc để xây dựng đất nước này như chính đất nước của mình trước đây.
Đất nước này đã không còn ciến tranh bao nhiêu năm nay, tuy qua những cuộc khủng bố, nhưng chưa ai bị cầm tù như thời gian hơn một năm nay tại căn nhà của chính mình.
Người ta đi ra, đi vào và chờ đợi mỏi mòn tin vui để trở lại ngày tháng cũ, nhưng ngoài những con số, chính xác hay không thì khó mà biết được, thì bầu trời tuy vẫn xanh, có hôm nóng đến hai mươi độ C vào tháng đầu xuân, nhưng hồn Xuân thì đã không còn như xưa.
Gọi đến bạn bè để nhắc lại những người thân đã ra đi, lòng buồn khôn tả khi tôi nhớ đến em út tôi, đến cậu tôi và những người dì tôi, chú tôi và nay đến bà vú nuôi tôi từ tấm bé.
Tôi cũng tự hỏi mình có như anh Lương tìm tên mình trên những bản tên nào đó mà tử thần đã có danh sách ngày tôi ra đi chưa. Tôi chẳng có gì để lưu luyến thế gian này vì tôi thấy mọi người đều ra đi bình đẳng như nhau: đến với hai bàn tay trắng và khi ra đi cũng thế.
Viết một chút tâm tình để chia sẻ với các anh chị, kính chúc quý anh chị một ngày an lành, vui vẻ.
Caroline Thanh Hương
Kính gửi đến quý anh chị
tt con cóc cuối tuần.
Dạo:
Bao người thiên cổ ra đi,
Sao mình vẫn mãi sống lì dưới đây.
Cóc cuối tuần:
Buồn Trang Cáo Phó
Tần ngần lật từng trang cáo phó,
Xem tên mình có đó hay không,
Thẫn thờ khi đã đọc xong,
Mình còn, người mất, chạnh lòng xiết bao.
Thầm hổ thẹn mình sao chưa chết,
Vẫn miệt mài lê lết dưới đây,
Toi cơm tốn gạo mỗi ngày,
Sống vô tích sự, uổng thay khí trời.
Trong khi đó bao người đáng sống,
Vì số trời thoắt bỗng ra đi,
Bất ngờ, gấp gáp nhiều khi
Còn chưa kịp nói từ ly một lời.
Cơn đại dịch khắp nơi tàn phá,
Người theo nhau gục ngã đêm ngày,
Trên manh đất tạm dung này,
Cũng bao kẻ đã không may mãn phần.
Nhìn cáo phó, toàn thân lạnh ngắt,
Thương người vừa nhắm mắt xuôi tay,
Đơn côi cuối nẻo lưu đày,
Vật vờ trung ấm, lất lây mộ phần.
Công việc chốn dương trần còn đó,
Định mệnh sao bắt họ lên đường,
Tro tàn ủ đất tha phương,
Mộng xưa trải lối đoạn trường xót xa.
x
x x
Kìa cha mẹ tuổi già sức yếu,
Bao năm dài bận bịu vì con,
Niềm vui cuối kiếp chưa tròn,
Gập ghềnh thiên cổ, mỏi mòn lối chung.
Nọ người lính anh hùng thuở trước,
Đã âm thầm vì nước xông pha,
Góp xương máu giữ quê nhà,
Nay đành ôm hận làm ma xứ người.
Đấy là đấng trọn đời bươn chải,
Vì từ bi bác ái hy sinh,
Bỏ quên hạnh phúc riêng mình,
Giúp người bạc phước linh đinh không nhà.
Thương trai trẻ đường xa mới tỏ,
Mộng chưa thành đà bỏ dở dang,
Trong cơn hấp hối vội vàng,
Con tim hụt hẫng ngỡ ngàng héo hon.
Xót xa kẻ, đàn con nheo nhóc
Còn cần cha đùm bọc cưu mang,
Bỗng dưng gãy gánh giữa đàng,
Làm sao nhắm mắt cho đang phút này.
Xin Chúa Phật dang tay chờ đón
Những người đi đã trọn lối trần,
Và ban xuống vạn hồng ân,
Cho vong linh được vững chân qua đò.
x
x x
Lòng dẫu biết toàn do số mệnh,
Nhưng vẫn nghe buốt lạnh trong hồn.
Đời đà hút bóng hoàng hôn,
Còn chi đâu nữa mà nôn nao chờ.
Ngậm ngùi gấp lại tờ báo chợ,
Nợ đời này biết thuở nào xong.
Nhạt dần tiếng sóng biển Đông,
Cánh chim lưu lạc hết mong ngày về.
Trần Văn Lương
Cali, 3/2021
Từ bài thơ của anh Lương lại có bài cảm thơ của anh Huy Văn tiếp nối, mời quý anh chị cùng thưởng thức.
Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần đầu mùa Quốc Hận.
Dạo:
Xưa tuôn máu giữa chiến trường,
Nay tuôn lệ giữa quê hương không còn.
Cóc cuối tuần:
Thăm Lại Chiến Trường Xưa
Từng bước lẻ ngập ngừng theo tiếng nạng,
Nắng xoay chiều, chập choạng bóng thương binh.
Đích viếng thăm bỗng xuất hiện thình lình,
Người chưng hửng, tưởng rằng mình hoa mắt.
Sửng sốt nhìn quanh quất,
Tự hỏi mình có thật đến đúng nơi,
Xưa kia đã một thời,
Mình chấp nhận xương rơi cùng máu đổ?
Mấy mươi năm gian khổ,
Lất lây kiếm sống ở đô thành,
Cố chắt bóp để dành,
Làm một cuộc du hành thăm chốn cũ.
Muốn tìm tới chỗ mình từng tử thủ,
Cùng bạn bè chống lại lũ Cộng quân,
Để giữ gìn lãnh thổ, bảo vệ dân,
Và đã bỏ một phần thân thể lại.
Nhờ ít mốc thiên nhiên còn tồn tại,
Mò mẫm ra nơi đóng trại năm nao,
Nhưng còn đâu bao cát, thép gai rào,
Cùng hệ thống giao thông hào phòng thủ.
Lặng cúi đầu ủ rũ,
Hình ảnh xưa vần vũ kéo nhau về.
Mắt khép hờ, vật lộn với cơn mê,
Ôn lại trận đánh mùa hè năm đó.
x
x x
Trời rực cháy, mênh mông màu lửa đỏ,
Giặc cùng ta đụng độ suốt đêm ngày,
Súng lúc nào cũng nạp đạn luôn tay,
Xác chết cứ chất đầy như rơm rạ.
Trận đánh cuối thật vô cùng vất vả,
Cộng quân đông gần gấp cả chục lần,
Dùng biển người, không ngần ngại thí quân,
Nhưng vẫn bị ta cầm chân từng phút.
Đạn lớn nhỏ hai bên giành nhau trút,
Máu đào loang như nước lụt mùa mưa,
Mình kiên trì chống cự, gắng cù cưa,
Cả đại đội chỉ còn chưa đến chục.
Bạn bè thi nhau ngã gục,
Viện binh may vừa gấp rút đến nơi,
Thêm không quân tới yểm trợ kịp thời,
Quân ta dẹp tan biển người của giặc.
x
x x
Tiếng cãi vã xé toang màn nắng gắt,
Người giật mình mở mắt thoáng nhìn quanh,
Đâu đấy toàn chuyện dối trá gian manh,
Lòng chợt tiếc thời giao tranh chống địch.
Chiến trường cũ giờ thành nơi du lịch,
Chẳng còn gì là vết tích ngày xưa,
Dân tình nay cũng quen thói lọc lừa,
Chuyện đạo đức như chưa hề hay biết.
Trẻ đua đòi trắc nết,
Già mải miết ăn chơi,
Ngày mất nước tới nơi,
Không một lời thắc mắc.
Người uất ức, sắc mặt dần tái ngắt,
Muốn hét lên, nhưng vắt chẳng ra lời,
Ngực phập phồng, dòng đau đớn chợt khơi,
Buồn so sánh hai cảnh đời trái ngược.
Cán bộ với bọn Tàu tiền như nước,
Cậy thế cậy quyền, ngang ngược khắp nơi,
Trong khi dân kiếm cả mấy tháng trời,
Không bằng chúng xài chơi trong thoáng chốc.
Rồi cố nén nỗi sầu đang chực bốc,
Nhìn người già cực nhọc đạp xích lô,
Kẻ tật nguyền, gầy ốm tựa xương khô,
Ôm vé số co ro ngồi rao bán.
Nhưng khi thấy đám mang danh "tỵ nạn",
Kéo nhau về nhan nhản, miệng huyên hoa,
Người thương binh không kềm được xót xa,
Khối tuyệt vọng vỡ oà trên nạng gỗ.
Trần Văn Lương
Cali, đầu mùa Quốc Hận 2021