Có còn không, không gian và thời gian.
Làm ma trơi, quỷ dữ dù muộn màng
Con cháu của người Nam đừng quên nhé.
Thanh Hương
Xin mạn phép cụ đồ Lương dùng hai câu dạo để nối điêu và dòng mua vui chốc lát :
Mau Mau Họp Hội Dziên Hồng
Chiều không nắng cũng không mưa,
Tha phương có kẻ tập chừa nhớ thương.
Phải chăng đấy cụ đồ Lương
Vì không chịu nổi nên thường xót xa
Đau cái đau Việt tộc ta
Xong đành bất lực nói mà ai nghe
Toàn dân trên búa dưới
Nội thù ngoại địch kết bè tóm thâu
Ruộng vườn mất sạch còn đâu
Bao giờ mới cất nổi đầu ngửng lên ?
Cháu con Hưng Đạo nào hèn
Bình Nguyên Diệt Mãn bao phen tung hoành
Mau mau đoàn kết em anh
Hội Dziên Hồng họp quyết phanh thây Tàu
LTĐQB
Kính gửi đến anh Lương bài họa, diễn tả bằng văn chương bình dân :
Tình đã tàn phai Đã lắm lúc bên ly cà phê đắng Nhìn ngoài, trời tắt nắng dội cơn mưa Nghĩ lại xưa, chiếc thuyền mảnh mong, đưa Về đậu bến tự do, vừa chắp nối
Trên mặt biển, sóng gào gây rắc rối Biết lúc nào màn hấp hối sẽ sang Mang hồn đi, loạng choạng đến Thiên đàng Hóa vội kiếp lang thang tìm gió lặng
Trên đất người, tắm gội mình trong nắng Mở lại trang sử liệu vắng bão mưa Để tình thương tràn ngập những sáng, trưa ChIều, tối, mà đưa câu tụng niệm
Cho những người còn nằm yên, chờ nếm Cái bạo tàn, ác độc, đếm từ xưa Tàn tạ thân theo ngọn cỏ gió đưa Từ lũ cáo, manh tâm chưa hề dứt
Cho đến nay tình thương đà rạn nứt Vụn vã như vứt bỏ, rã rời Nhìn bản đồ, đã rách mướp khắp nơi Không còn gì để uổng hơi chắp vá
Tài nguyên, với người dân, chỉ là sỏi đá Vì đã đem dâng tướng tá, nào quên Từ Trung Hoa sang đặt phố, đặt tên Cho mạch huyết cứ tuôn lên từng cuộn
Trẻ ít học cho tinh thần đi xuống Tối ngày chỉ có bác, luống cũng lông bông Đảng là tên nước, Việt Nam bỏ dòng Đảng mà mất, dân cõng chung mệnh số
Chiều hết nắng khi tà tà ra phố Chốn ăn chơi lố nhố tận nơi đâu Gái không nghề, được đầu tư làm mẫu Trai thất nghiệp, đi ngầu ngẫu giải buồn
x x x
Tình thương đã, không còn nơi đáp xuống Vội vã quay lưng về chốn ngàn năm Nhớ những người đang đi chiếc xe lăn Mà phải khóc vì không đành ngoảnh mặt
Tiếng gọi non sông vẫn còn ray rắt Biết làm gì để tay bắt , mắt đưa Khi đảng ôn, đảng bắt phải xin thưa Tôn trọng đảng , mới dựa ơn vào bến
Hồi tưởng lại những ngày còn chinh chiến Giặc giết dân chẳng khiến phút ngơi tay Tết Mậu Thân, tập thể mộ đầy thây Xương máu đổ, cửa nhà vầy, mục nát
Rồi khi chúng cất lên, cao tiếng hát Nhào vào nhà hôi của, át tiếng chuông Cả triệu quân nhân chúng nhốt vào chuồng Thi hành lệnh đảng, luông tuồng làm chủ
Tiếp, mê hoặc cho dân tình yên ngủ Hưởng tối ngày đầy đủ mọi men say Gái gú, quốc sách hay thật là hay Cho chìm đắm trong tay, danh nước việt
x x x
Bao chiến sĩ, chí anh hùng hào kiệt Chạy thoát thân, danh liệt ở bốn phương Có muốn trồi lên, cũng đã hết đường Đâu có thể làm hoa hường bật nở
Dân Chủ, Tự Do, chiêu bài đã mở Vẽ lại trò yên ổn thuở xa xưa Còn đợi chờ ơn Thánh Đế móc mưa Trăm triệu dân, xin đưa tên : Ghi nhớ
Thơ Đường Luật còn có những tên gọi khác nhau như: Thơ Đường, Đường Thi, Thất Ngôn Bát Cú và Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Thơ Đường Luật có 2 loại: Tứ Tuyệt (tức mỗi câu có 7 chữ và mỗi
bài có 4 câu) và Bát Cú (tức mỗi câu
có 7 chữ và mỗi bài có 8 câu). Trong bài này, người viết chỉ lạm bàn tới thể Thất Ngôn Bát Cú mà thôi.
I. Cách Gieo Vần-Thơ Đường Luật có
luật lệ nhất định của nó, bạn không thể biến chế một cách khác được. Cách gieo
vần như sau:
- Suốt bài thơ chỉ gieo theo một vần mà thôi. Ví dụ: Vần ôi thì
đi với ôi, vần ta thì đi với ta hoặc tà.
- Trong bài thơ có 5 vần được gieo ở cuối câu đầu (tức câu số 1) và ở
cuối các câu chẵn (tức câu 2, 4, 6 và 8).
- Gieo vần thì phải hiệp vận
(tức cho đúng vận của nó). Ví dụ:hòn,non, mòn, con...
Nếu gieo vần mưa với mây thì bị lạc vận. Còn nếu gieo
vần không hiệp với nhau thì gọi là cưỡng
vận hay ép vận, chẳng
hạn như: in với tiên.
II. Nguyên Tắc Đối-Các câu đối với
nhau phải thật chỉnh, cả về ý,
về tình, về thể loại từ ngữ, v.v... Thể loại từ ngữ tức tính từ phải đối với tính
từ, danh từ phải đối
với danh từ, động từ phải đối với động từ, v.v...
Trong bài thơ có 4 phần: Đề (gồm có Phá đề và Thừa đề), Thực hoặc Trạng,Luận, và Kết.
1. Đề gồm có hai phần:
- Phá đề (câu thứ 1): Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
- Thừa đề (câu thứ 2): Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
2. Thực hoặc trạng (câu thứ 3 và câu thứ 4):
Hai câu này phải đối với nhau. Lom khom dưới núi, tiều vài
chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Ghi chú:Lom khom đối
với lác đác (trạng tự) và bằng đối với trắc. Tiều đối
với chợ (danh từ) và bằng đối với trắc. Chú
đối với nhà (danh từ) và trắc đối với bằng.
3. Luận (câu thứ 5 và câu thứ
6): Luận có nghĩa là luận bàn. Hai câu này bàn bạc
thêm về nội dung của bài thơ, về phong cảnh hay về tình cảm. Hai câu này phải
đối với nhau. Nhớ nước,đau lòng con quốc
quốc, Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia. Ghi chú: Nhớ đối với thương (động từ) và trắc đối với bằng. Nước
đối với nhà (danh từ) và trắc đối với bằng. Đau lòng
đối với mỏi miệng (trạng từ)
và bằng đối với trắc. Con quốc quốc đối với cái gia
gia (danh từ) và trắc
đối với bằng.
4. Kết (câu thứ 7 và câu thứ
8): Hai câu kết không nhất thiết phải
đối nhau, nhưng phải giữ luật bằng trắc. Dừng chânđứng lại: trời,
non, nước, Một mảnhtình riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan: Qua Đèo Ngang) Ghi chú: Dừng chân là
vần bằng đối với một mảnh là vần trắc;đứng lại là vần trắc đối với tình riêng là vần bằng;nước là vần trắc đối với ta là vần bằng.
III. Luật Bằng Trắc-Luật Bằng Trắc
gồm có Thanh,Luật, và Niêm.
1. Thanh-Gồm có Thanh Bằng và Thanh Trắc.
a. Thanh Bằng-là những tiếng
hay chữ không có dấu (như: minh,
lan, thanh, hoa...) và những tiếng
hay chữ có dấu huyền (như: người, trời,
tình...).
b. Thanh trắc-Là những tiếng
hay chữ có dấu sắc ( '} dấu hỏi ( ?) dấu ngã ( ~} và dấu
nặng ( .). Ví dụ: lá, bát,
tưởng, đỉnh, mũ, cũ, tự, trọ ...
2. Luật-Thơ bát cú làm theo hai
luật: Luật Bằng và Luật Trắc.
a. Luật Bằng-Chữ thứ hai ở câu
đầu thuộc vần Bằng. Ví dụ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
(1) Luật Bằng Vần Bằng-Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B là Bằng, T là Trắc và V là Vần. Luật
Bằng Vần Bằng như sau:
1 B B T T T BB
(V)
2. T T B B T TB (V)
3. T T B B B T T
4. B B T T T BB
(V)
5. B B T T B B T
6. T T B B T TB (V)
7. T T B B B T
8. B B T T T BB (V)
Ví dụ: Cô hàng lấy sách cắp ra đây!
Xem thử truyện nào thú lại say.
Nữ tú có bao xin xếp cả,
Phương hoa phỏng liệu có còn hay...?
Tuyển phu mặc ý tìm cho kỹ,
Chinh phụ thế nào bán lấy may.
Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi,
Giá tiền cả đó tính sao vay.
(Hồ Xuân Hương-Hỏi Cô Hàng Sách)
b. Luật Trắc-Chữ thứ hai ở câu
đầu thuộc vần Trắc. Ví dụ: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
(1) Luật Trắc Vần Bằng-Luật Trắc Vần Bằng nhu sau:
1. T T B BT TB
(V)
2. B B T TT BB
(V)
3. B B T T B BT
4. T T B BT TB
(V)
5. T T B BB TT
6. B B T T T BB
(V)
7. B BT TB B T
8. T T B BT TB
(V)
Ví dụ: Văng vẳng tai nghe tiếng khóc
gì?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại,
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ?
Sinh ký, chàng ơi, tử tắc quy.
(Hồ Xuân Hương-Bà Lang Khóc Chồng)
Chú Thích: Những chữ có gạch ở dưới (chữ thứ 2, 4 và 6) đều phải theo
đúng luật, còn những chữ khác (trừ chữ ở cuối câu) có thể không cần phải theo
luật. Mẹo để nhớ: Nhất (chữ thứ 1), tam (chữ thứ 3), ngũ (chữ thứ 5) bất luận Nhị (chữ thứ 2), tứ (chữ thứ 4), lục (chữ
thứ 6) phân minh
Nghĩa là chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo
đúng luật; còn chữ thứ hai, thứ tư và thứ sáu thì bắt buộc phải theo luật (phân minh). Nếu không
theo luật thì gọi là thất luật.
3. Niêm-Những chữ phải đi cặp với
nhau và dính với nhau. Ví du:Luật Bằng Vần Bằng.
Câu 1 niêm với câu 8
1.B B T T T BB
(V)
Câu 2 niêm với câu 3
2. T T B B T TB (V)
3. T TB B B T T
Câu 4 niêm với câu 5
4. B B T T T BB
(V)
5. B B T T B B T
Câu 6 niêm với câu 7
6. T TB B T TB (V)
7. T T B B B T T
Câu 8 niêm với câu 1
8.B B T TT BB (V)
Ví dụ: Luật Trắc Vần Bằng.
Câu 1 niêm với câu 8
1. T T B BT TB
(V)
Câu 2 niêm với câu 3
2. B B T TT BB
(V)
3. B B T T B BT
Câu 4 niêm với câu 5
4. T T B BT TB
(V)
5. T T B BB TT
Câu 6 niêm với câu 7
6. B B T T T BB
(V)
7. B BT TB B T
Câu 8 niêm với câu 1
8. T T B BT TB
(V)
Cũng có trường hợp nhà thơ làm sai luật, thay vì đang ở Luật Bằng thì lại đổi sang Luật Trắc. Vì Niêm
không đi với nhau nên gọi là Thất Niêm. Ví dụ: Dùng bài thơ Cảnh Làm Lẽ
(Lấy Chồng Chung) của Hồ Xuân Hương (đúng niêm luật) để đổi sang thất niêm (xem
chữ thứ 2 có gạch dưới):
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Đổi thành thất niêm:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng (thất niêm),
Cầm bằng làm mướn, mướn không công. Năm thì mười họa, nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không...
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong. Chú ý: Dù chỉ đặt sai có một câu (câu thứ 3) nhưng bị thất niêm toàn bài thơ. Thế mới
biết luật thơ Đường khắt khe biết dường nào!
Khi làm thơ Đường Luật thì phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không, dù bài thơ
của bạn có nội dung hay mấy đi nữa thì cũng không thể chấp nhận được.
Cám ơn chị Thanh Hương đã khơi cảm hứng
Xin phụng họa cho vui :
Nhìn đồng cỏ cháy cây khô
Càng thêm tiếc nuối cơ đồ dân ta
Sản xuất thóc lúa chật nhà
Mà cam đói khát thực là thảm thương
Nơi đây rất ít đồng hương
Lấy ai vẽ cảnh ruộng nương thuở nào ?
Đã có thần giúp nhà nông
Đã gieo mạ quý khắp đồng chim bay
Đã khiến Lạc Việt gái trai
Đã được vui hát giữ hai lũ mình
Cũng nhờ khoa học văn minh
Giúp cho dân hết sợ kinh khó nghèo
Có ao cá có chuồng heo
Có nguồn an ủi vớt bèo khẩn hoang
Hàng đêm dù lửa đã tàn
Dưới trăng họp mặt ca đoàn vui say
Chen vai sát cánh góp tay
Đã có hạt ngọc tháng ngày cơm no
LTĐQB(Ma Nữ) phụng họa
__._,_.___
Chào quý vị Thái Huy góp vui
Quê Ta
Cảnh đẹp quê ta ruộng lúa vàng
Chiều về thơ thẩn dẫu trâu ngang
Câu hò điệu hát giao duyên thắm
Có nợ không đây lại gặp chàng.
Quê hương ta đó một trời thơ
Sông cửu,Hồng Hà,Hương Huế thơ
Nhịp sống trào dâng như biển sóng
Vậy mà nay mất nét ngây thơ.
Thái Huy
Kính chị Thanh Hương,
Bài gửi muộn, thay lời bình :
CÒN ĐÂU
Dân ta vốn dĩ nghiệp nông
Nhà : ao thả cá, đất trồng : cò bay
Ngày ra đồng lúa, gái trai
Tối về vui vẻ, hai thân thái hòa
Khi tòa ánh sáng văn minh
Tỏa lên, lại khiến nhà nông sinh nghèo
Muốn tăng thu nhập : nuôi heo
Muốn giầu : lên tỉnh, treo cầy, ruộng hoang
Kinh tế nông nghiệp đã tàn
Kinh tế thành thị mở màn mê say
Dân quê lên tỉnh chung tay
Dựng xây thành phố ngày ngày, mới no
Trần Trọng Thiện
Đọc thêm bài viết trên báo VN Net
LÚA THẦN NÔNG VÀ TRƯỜNG NLS CẦN THƠ
Trần Đăng Hồng
Viện Đại Học Cần Thơ được chính thức
thành lập năm 1966, và Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ là Viện Trưởng đầu tiên.
Vì là trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long trù phú, Viện ĐHCT phải có
Đại Học Nông Nghiệp xứng danh với vị trí kinh tế nông nghiệp hàng đầu
của đất nước. GS Phạm Hoàng Hộ tham khảo ý kiến với GS Tôn Thất Trình,
bấy giờ là Giám Đốc Trường Cao Đẳng Nông Nghiệp Sài Gòn, và nhờ GS Trình
giúp thực hiện một thí nghiệm lúa tại ĐH Cần Thơ.
Tôi vốn
là sinh viên được GS Trình hướng dẩn luận án kỹ sư, và sau khi ra trường
về dạy NLS Cần Thơ, tôi vẫn còn tiếp tục liên lạc với GS để học những
kiến thức chuyên môn rất thâm uyên của Thầy. GS Trình giới thiệu tôi với
GS Viện Trưởng Hộ và thuyết phục rằng tôi có khả năng làm thí nghiệm
lúa cho ĐHCT.
Đó là năm
1966, ĐHCT khai giảng với 3 phân khoa chính là Khoa Học, Luật Khoa và
Văn Khoa. Trường Cao Đẳng Nông Nghiệp Cần Thơ chưa có, chỉ mới bổ dụng 2
nhân viên đầu tiên là cụ Kỹ Sư Phan Lương Báu làm Giám Đốc, và kỹ sư
trẻ Phạm Văn Kim làm phụ tá, để nghiên cứu việc thành lập trường. Trường
chưa có cơ sở gì cả. Vì vậy, việc nghiên cứu thí nghiệm lúa phải mượn
cơ sở của trường Trung Học NLS Cần Thơ. Như thế, một sự hợp tác được
thành hình giữa các Trường Nông Nghiệp Sài Gòn, Viện Đại Học Cần Thơ và
Trường NLS Cần Thơ.. Vốn là giáo sư của Trường NLS Cần Thơ, tôi được
phép lấy cơ sở của NLS CT để làm thí nghiệm lúa cho Viện ĐHCT dưới sự
yểm trợ chuyên môn của GS Trình.
GS Trình
giao cho tôi hạt giống lúa IR8 mà GS vừa nhận được từ Viện Nghiên Cứu
Lúa Gạo Quốc Tế (IRRI, International Rice Research Institute) ở Los
Banos, Philippines, một số tài liệu rất mới, và sách chuyên khoa lúa để
cho tôi đọc. GS cùng tôi hoạch định chương trình làm thí nghiệm với kỹ
thuật mới, nói đúng hơn là làm trình diển giống mới với kỹ thuật mới.
Đồng thời, GS Hộ chỉ thị xuống anh Pham Văn Kim phải yểm trợ tài chính
dồi dào và mau lẹ khi tôi yêu cầu. Anh Phạm Văn Kim tuyển dụng cho tôi 2
nhân viên, cô Trần Thị Thịnh (Huấn sự nông chính) và một lao công
thường trực là anh Trần Nhựt Tân để giúp tôi.
Cánh đồng
thí nghiệm là khu đất trống, khoảng 1 ha, đầy lau sậy, bên cạnh lộ Cần
Thơ - Long Xuyên, và lộ 20, nguyên là chổ cho đàn trâu Murat của trường
gậm cỏ. Trong khu đất này có một sân bóng rổ, nền tráng xi măng.
Sau khi
phát sạch lau sậy, các nhóm học viên NLS thực hành nông trại dùng máy
cày, máy xới Kubota, cày xới nhuyển đất, rồi đấp bờ bao quanh. Bây giờ
mới tới phần việc làm đám mạ, theo kỹ thuật mới. Các anh chị lớp huấn
sự, kịểm sự góp phần vào việc này cùng với chị Thịnh, anh lao công Tân
và tôi. Rồi tới ngày cấy, cũng áp dụng kỹ thuật mới, cấy lúa thẳng hàng,
rất đẹp mắt. Chi Thịnh và anh Tân lúc nào cũng ở ngoài đồng từ sáng sớm
đến chiều tối, và báo cáo cho tôi tức khắc những gì bất thường xảy ra.
Nhờ chăm sóc kỹ, phân bón, thuốc trừ sâu đúng theo kỹ thuật mới, đám lúa
IR8 tươi đẹp vô cùng, đánh vào mắt người qua lại trên hai con lộ sầm
uất kế bên.
Khi lúa
sắp trổ thì chuột trong khu gia cư chung quanh trường xuất hiện. Nhờ thủ
tục nhanh chóng, Viện ĐHCT xuất tiền mua tôn kẻm bao chung quanh khu
ruộng, và đánh bả mồi thuốc độc ở bên ngoài và bên trong tường tôn kẻm,
nên không có một con chuột nào chui vào được khu ruộng mà còn sống sót.
Đến lúc lúa chin, chim thành phố bay đến phá hại, chúng tôi phải treo
khắp cánh đồng giấy màu vàng có ánh lấp lóe, vì chim sợ màu vàng, và đặt
bù nhìn khắp cánh đồng. Anh Tân và chị Thịnh thay phiên trực ngoài
ruộng.
Quang
cảnh phấp phới giấy vàng trên cánh đồng lúa tốt xanh tươi và nặng triểu
hạt vàng, gây chú ý của người qua lại. Nhiều người hiếu kỳ, kể cả nông
dân và người ngoại quốc qua lại trên hai con lộ, dừng chân quan sát. Có
người vào trường xin xem cánh đồng và hỏi thăm tên giống lúa, lúc đó còn
mang tên xa lạ IR8.
Gần đến
ngày gặt, tôi báo cáo lên GS Tôn Thất Trình ở Sài Gòn, cụ Giám Đốc Phan
Lương Báu và GS Viện Trưởng Phạm Hoàng Hộ của ĐHCT. Các vị quyết định tổ
chức một cuộc hôi thảo giới thiệu giống lúa mới tại hội trường NLS vào
ngày thâu hoạch.
Sáng sớm
hôm ấy, các phái đoàn của Nha Nông Nghiệp Sài Gòn, trường CĐNN Sài Gòn,
cùng GS Tôn Thất Trình và một vị Giáo Sư về Lúa thuộc ĐH Davis,
California, xuống Cần Thơ. Ty Nông Nghiệp Cần Thơ cùng mấy chục nông dân
tiến bộ của tỉnh đến tham dự. Đăc biệt hơn nữa, viên Cố Vấn Nông Nghiệp
Hoa Kỳ ở Miền Tây dùng trực thăng đưa một số nông dân ở các tỉnh lân
cận đến quan sát và tham dự. Chúng tôi cho gặt một phần đám lúa, cân đo
năng xuất, cho biết là năng xuất 5 tấn lúa/ha, phá kỷ lục về năng xuất
vào thời đó (thời đó chỉ 3 tấn/ha). Cuộc hội thảo trở thành một đại hội
trình diển giống lúa mới. GS Phạm Hoàng Hộ và GS Trình rất hài lòng với
kết quả thí nghiệm này.
Chính nhờ
kết quả trình diển thành công giống lúa IR8 đã biến đổi sự nghiệp của
tôi. GS Viện Trưởng Phạm Hoàng Hộ tuyển dụng tôi vào làm ở Trường Cao
Đẳng Nông Nghiệp Cần Thơ, lúc đó chỉ mới có 4 nhân viên là cụ Phan Lương
Báu (Giám đốc), anh Phạm Văn Kim (phụ tá hành chánh, hiện nay PGS
DHCT), anh Nguyễn Phi Long (phụ tá học vụ, nay là Hiệu Phó Đại Học Cửu
Long, Vĩnh Long) và tôi (phụ trách thí nghiệm và nông trại). Vừa qua
ĐHCT được một tháng, thì GS Tôn Thất Trình được mời ra làm Bộ Trưởng Bộ
Canh Nông. GS Trình xin GS Hộ cho tôi được biệt phái qua Bộ Canh Nông để
giúp GS một thời gian, và GS Trình giao tôi nhiệm vụ thiết lập Trung
Tâm Quốc Gia Huấn Luyện Lúa Gạo tại Sài Gòn, với cơ sở thực hành ở Hiệp
Hòa (Biên Hòa). Tháng 10/1967, GS Bộ Trưởng Tôn Thát Trình đặt tên giống
lúa mới IR8 là Thần Nông 8. Với chức vụ Quản Đốc cho
môt trung tâm huấn luyện mới thành lập, phải mất 3 tháng tôi mới mở được
khóa huấn luyện đầu tiên giảng day canh tác lúa Thần Nông cho 30 vị
Trưởng Ngành Túc Mể và Khuyến Nông trên toàn quốc. Cũng trong thời gian
này, tôi được hân hạnh hướng dẩn vị nguyên thủ quốc gia (Tổng Thống) cấy
lúa Thần Nông 8 trong một lể Hạ Điền (26/3/1968) tại nông xã kiểu mẩu
Phước Thới, Long Xuyên. Nhờ công lao phát huy tiềm năng của lúa Thần
Nông 8 tại trường NLS Cần Thơ, và huấn luyện chuyên viên ngành Túc Mể và
Khuyến Nông của Bộ Canh Nông về kỹ thuật canh tác mới cho lúa Thần
Nông, trước khi trở lại Viện Đại Học Cần Thơ, tôi được tưởng thưởng một
Nông Nghiệp Bội Tinh. Có lẻ tôi là người trẻ nhất (lúc đó mới 27 tuổi)
mà không phải nhân viên của Bộ Canh Nông lại được cái vinh dự này.
Hướng dẫn Tổng Thống cấy lúa Thần Nông 8 ở Long Xuyên
Tóm lại,
chính nhờ mảnh đất của Trường NLS Cần Thơ, nhờ bàn tay lao động của các
em học viên NLS, sư tận tụy của cô Trần Thị Thinh và anh lao công Trần
Nhật Tân, sự yểm trợ nhanh chóng và hửu hiệu của anh Phạm Văn Kim và cụ
Giám Đốc Phan Lương Báu, lòng ưu ái và khuyến khích của GS Viện Trưởng
Phạm Hoàng Hộ và GS Tôn Thất Trình làm bực thang căn bản, vửng chắc, để
từ đó tôi tiến lên sự nghiệp tốt đẹp hơn.
Tôi vô vàng ghi ơn các em học sinh NLS và các vị kể trên đã giúp tôi thành công trong thí nghiệm này.
Reading, 26/9/2008
Trần Đăng Hồng
Bài này viết theo yêu cầu của Ban Biên Tập Đặc San "Trường Củ Tình Xưa" của lớp CT 1970-1973, NLS Cần Thơ.
Khóa huấn luyện canh tác lúa Thần Nông đầu tiên
(9-20/4/1968) ở VN do tôi giảng dạy tại National Rice Production
Training Centre do tôi vừa thành lập. Tôi đúng hàng đầu, thứ tư tính từ
phía có hai chị.
Lời ước ở thế kỷ 21
Ngày
xuân nâng chén ta chúc nơi nơi, mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi,
người thương gia lợi tức, người công nhân ấm no, thoát ly đời gian lao
nghèo khó…
Nhạc
sĩ của những tuyệt khúc đón xuân, Phạm Đình Chương, có tâm nguyện gì
trong lời chúc Ly rượu mừng ấy? Đã 62 năm kể từ mùa xuân Nhâm Thìn ấy
đến xuân Giáp Ngọ năm nay, ba giai tầng xã hội – gồm một giai cấp nông
dân, một khối thương gia (kinh tế thị trường ban đầu) cùng một giai cấp
công nhân – mà ông gửi lời chúc đến, đã chuyển biến, thăng hoa như thế
nào? Có thể làm gì hơn không? "Vui lúa thơm hơi, người thương gia lợi tức"
Năm
1952 ấy, chuyện nông dân thóc lúa đầy bồ không còn là một băn khoăn, mà
là làm sao cho giá trị hàng hóa của gạo (xuất khẩu) cao hơn, nếu như có
được những dòng lúa thơm ngon hơn. Xuân Giáp Ngọ này khi nghe lại “mừng
anh nông phu vui lúa thơm hơi”, ắt hẳn những ai quan tâm đến vấn đề
phát triển nông thôn sẽ phải nhíu mày vì lời chúc “lúa thơm hơi” ấy của
Phạm Đình Chương sao vẫn còn chưa thành sự thực.
Mong ước người nông dân no ấm, mùa màng bội thu
Vấn
nạn cho gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2013 vẫn y hệt vấn nạn cho gạo
xuất khẩu của Đông Dương hơn một thế kỷ trước. Năm 1918, Capus
Guillaume, khi phân tích về gạo xuất khẩu của Đông Dương, đã từng viết:
“Thương mại xuất khẩu gạo của Đông Dương từ lâu đã phải mất ăn đáng kể
do yếu kém hơn so với các nước sản xuất những giống lúa gạo có giá cao
hơn là Miến Điện, Mỹ, Ý, Nhật và Ấn Độ thuộc Hà Lan (Indonesia sau này -
NV) cùng Ấn Độ thuộc Anh (tức Ấn Độ và Pakistan ngày nay – NV). Số thất
thu này lên đến hàng triệu quan Pháp một năm, nhất là khi nay Đông
Dương về mặt số lượng gạo xuất khẩu đứng thứ nhì trong số các nước sản
xuất gạo, đạt 1,5 triệu tấn hàng năm, chỉ thua Miến Điện đứng thứ nhất.
Những
nguyên nhân của sự thua kém này đã được biết đến từ lâu, ghi nhận từ
cách đây hơn 50 năm và bị tố cáo không ngừng như là một trở ngại cho
việc bước vào cạnh tranh thương mại mọi mặt với các đối thủ trong các
thị trường phương Tây. Ngay từ năm 1867, gạo của xứ Nam Kỳ đem dự đấu
xảo thế giới đã cho thấy chất lượng kém… Đến năm 1875, Giám đốc Sở nội
vụ Nam Kỳ ghi nhận rằng loại nông sản hầu như là mặt hàng xuất khẩu duy
nhất của chúng ta không còn có chỗ chen chân trừ phi chấp nhận giá
thấp...".
Một thế kỷ sau, cũng vẫn tồn tại vấn nạn chất lượng gạo
không sánh nổi các đối thủ truyền kiếp. Ai có thể làm gì hơn cho nông
dân thoát khỏi cảnh “nghèo vẫn hoàn nghèo”? Câu trả lời xin nhường cho
các nhà làm chính sách “phát triển nông thôn”.
Trong khi chờ đợi
xin kể một câu chuyện. Khi bắt đầu biết ăn và đòi ăn, tôi đã nghe người
ta gọi mãng cầu xiêm, vịt xiêm, dừa xiêm; nay già rồi, lại phải nghe
xoài Thái, nhãn Thái, me Thái, boòng boong Thái, chôm chôm Thái, sầu
riêng Thái… Và thú thiệt, trái cây của Thái bựu và ngon hơn của ta! Quái
lạ, hết “xiêm” (Siam) nay là Thái! Tại sao giống má của ta cứ phải chào
thua giống Thái ngay trên sân nhà vậy? Có công bằng không khi cứ bó tay
để cho nông dân phải trồng những giống lúa giá bèo như IR50404 vì sợ
thất mùa, vì năng suất cao… hay những giống cây ăn trái đèo đuột?
Gạo Việt Nam đang phải cạnh tranh với các nước
Nếu
người nông dân cứ chưa chịu nghe theo cái mới, thì đó không phải là lỗi
của họ, lẽ ra các nhà hoạch định chính sách phát triển nông thôn phải
cùng “sống chết” với nông dân mà lôi họ theo và các nhà giáo dục và đào
tạo phải thiết kế một hệ thống trung học cộng đồng bên cạnh các lớp cấp 3
phổ thông trung học để đào tạo nền tảng nông nghiệp, theo đặc điểm
trồng trọt, nuôi trồng từng vùng miền, như là một hệ cấp 3 chuyên ngành
“kinh tế nông thôn” – một loại trường trung học chuyên nghiệp mới.
Nhìn
lại câu chuyện trên về hạt gạo xuất khẩu hay bất cứ nông sản, thủy sản
nào khác ở Việt Nam có thể thấy người nông dân, ngư dân trực tiếp sản
xuất sao cứ chỉ “vỗ béo” các doanh nghiệp thu gom, xuất khẩu! Thị trường
thế giới lên hay xuống, cũng chỉ nông, ngư dân lãnh đủ. Nếu không điều
chỉnh được mối quan hệ này, e rằng đứt gãy xã hội sẽ ở đó. “Người thương
gia lợi tức” mà “người nông dân không vui lúa thơm hơi”, thì rõ ràng là
không ổn. "Người công nhân ấm no, thoát ly đời gian lao nghèo khó"
Lời
chúc trong bài ca mừng xuân từ năm 1952 e rằng đến nay vẫn còn là điều
ước đối với một số công nhân. Không lúc nào trong năm mà người lao động
thắm thía sự chênh lệch xã hội bằng mỗi dịp Tết đến. Trước Tết vài tuần
khi báo chí đăng tin về các khoản tiền thưởng “trên không trung” của một
số công ty có vốn đầu tư nước ngoài, cũng là lúc mà người lao động cám
cảnh thân phận mình nhất. Năm ngoái, ở TP.HCM, theo Sở Lao Động – Thương
binh và Xã hội, mức thưởng Tết Nguyên Đán Qúy Tỵ cao nhất gần 540 triệu
đồng, thấp nhất 373.000 đồng, cá biệt, có doanh nghiệp thưởng Tết bằng
xe hơi…Tính ra chênh lệch giữa hai khoản tiền thưởng đối cực này là
1.447 lần! Đã thế, còn có những doanh nghiệp không thưởng, có doanh
nghiệp cho gần 700 công nhân ngừng việc.
Mong người công nhân thoát ly đời gian khó
Chênh
lệch thu nhập là một tất yếu khi mà nền kinh tế thế giới đã bước vào
thời đại kỹ thuật số. Các cuộc cách mạng công nghiệp dựa trên các nguồn
nhiên liệu đã thuộc về dĩ vãng: cuộc cách mạng thứ nhất (1770-1850) với
than đá, mà dấu ấn quan trọng nhất là xe lửa - cuộc cách mạng thứ nhì
(1850-1914) với dầu hỏa, điện, và xe hơi. Ngay cả khái niệm tập đoàn
công nghiệp hùng mạnh trung tâm của thế kỷ 20 nay cũng ra người thiên cổ
trước làn sóng “thế giới phẳng”. Có một giai đoạn, giữa kỹ sư và công
nhân tính liên đới, gắn bó là rất cao: các kỹ sư cố gắng nâng cao tay
nghề của các công nhân, giúp đỡ họ bằng các “câu lạc bộ chất lượng”.
Với “thế giới phẳng”, các tầng nấc của một tập đoàn công nghiệp
trung tâm trước kia nay tan rã. Thay vì sản xuất từ A-Z, người ta sử
dụng gia công bên ngoài cho những công đoạn không thiết yếu. Duy nhất
còn tập trung là các kỹ sư trong các văn phòng nghiên cứu độc lập, mà ở
đó chẳng có công nhân trực tiếp, thậm chí công việc phục vụ, bảo vệ thuê
bên ngoài. Song song, cuộc cách mạng tài chính của những năm 1980 cũng
đã làm thay đổi bộ mặt công ty. Nay không còn là lúc bảo vệ sự sống còn
của người lao động mà là sự lời lãi của các cổ đông.
Daniel Cohen,
một giáo sư kinh tế hàng đầu người Pháp, đã nhận xét: “Xã hội công
nghiệp gắn bó một phương thức sản xuất với một phương thức bảo vệ. Qua
đó, kết làm một bài toán kinh tế và bài toán xã hội. Xã hội “hậu công
nghiệp” thì tách các vế đó ra. Xã hội hậu công nghiệp đó là xã hội dịch
vụ”.
Tờ The Economist ngày 29/5/2005 loan báo số công việc làm
trong ngành công nghiệp ở Mỹ nay chỉ còn không đầy 10% tổng số việc làm,
và rằng tiếp sau Mỹ là Anh, Pháp, Nhật Bản, Đức và Ý… Số liệu đó không
gây sốc bằng lời bình luận kèm theo: “Sự sút giảm công ăn việc làm trong
bất cứ lĩnh vực nào nghe qua cũng có vẻ như là một tin xấu. Song, trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thì công việc làm bấy nhiêu là do nền
kinh tế mạnh khỏe, chớ không đau ốm”.
Tờ báo này giải thích: “Sự
suy giảm của lĩnh vực sản xuất công nghiệp không phải là do sự tràn ngập
hàng hóa “made in China” trên các quầy siêu thị. Sản lượng công nghiệp ở
Mỹ từ năm 1991 vẫn tăng đều đều 4% và Mỹ vẫn là nhà sản xuất lớn nhất
thế giới, sản xuất giá trị hàng hóa gần gấp đôi Trung Quốc…
Tổ chức Tết cho công nhân xa nhà
Đó
là do các công ty của thế giới giàu có đã thay thế người lao động bằng
những công nghiệp mới nhằm đẩy vọt năng suất và thay thế việc sản xuất
các sản phẩm đòi hỏi nhiều lao động như hàng dệt may bằng các lĩnh vực
kỹ thuật cao. Ngay trong nội bộ các xí nghiệp, các công việc ít kỹ thuật
thì cứ thế mà đưa ra nước ngoài gia công. Trong khi R&D (nghiên cứu
và phát triển), thiết kế và tiếp thị thì giữ chặt tại quê nhà”. Tờ báo
này đặt câu hỏi: có phải do dịch vụ thì khó xuất khẩu mà Mỹ lại không
sản xuất hàng hóa nên phải nhập siêu? Câu trả lời là nước Mỹ vẫn cứ đều
đều xuất khẩu dịch vụ, sở dĩ nhập siêu là do dân Mỹ tiêu xài quá thôi!
Nay, thì sự phân công lao động trên không còn gây ngạc nhiên nữa.
Ngạc nhiên nếu có chính là làm thế nào mà từ khi Việt Nam mở cửa vào
đầu thập niên 1990 đến nay, vẫn chỉ phát triển được có mỗi lĩnh vực cung
cấp lao động gia công giản đơn cho các nhà đầu tư.
Tháng 4 năm
nay, BBC Lab UK công bố một kết quả nghiên cứu rộng rãi, theo đó, ở Anh
hiện nay có bảy lớp xã hội, trong đó cao nhất là lớp tinh hoa ưu tú và
chót hết là lớp vô sản có cuộc sống tạm bợ. Liên tưởng đến xứ mình, có
thể thấy sự phân hóa xã hội qua thu nhập là tất yếu trong một nền kinh
tế nông nghiệp “cổ truyền” với phương pháp và diện tích canh tác cùng
một nền sản xuất gia công của hậu bán thế kỷ trước cộng sinh cùng một
vài lĩnh vực dịch vụ đương thời mà tập trung chủ yếu ở một số công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Một vài lĩnh vực dịch vụ bung ra quá cỡ và “sống
khỏe” (bằng những dịch vụ thiếu cân nhắc rủi ro, nên nay gãy đổ, tỷ như
lĩnh vực ngân hàng, địa ốc và môi giới địa ốc)…., cùng một số lạm dụng
trong một số tập đoàn quốc doanh lại càng làm cho sự phân hóa xã hội sâu
sắc thêm.
Vấn đề đặt ra là làm sao tái cân bằng lực lượng lao
động. Muốn thế phải xác định lại “xã hội công nghiệp” mà ta muốn tiến
đến vào năm 2020 là như thế nào, gồm những lĩnh vực gì và ngành giáo dục
đào tạo có thể được tham vấn gì trong đề án đó? Kinh nghiệm thất bại
của năm lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn đã qua không chỉ trong thất bát mà
trong cả việc cung ứng nhân lực cho các ngành công nghiệp đó đòi hỏi
phải quan tâm hơn nữa đến lực lượng lao động cần thiết phải có. Bằng
không, nếu cứ mãi ở chế độ gia công, e rằng sẽ có lúc không có cả hợp
đồng gia công và cứ mãi ở giai đoạn mà kinh tế học gọi là “cất cánh kinh
tế”.
Một báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới có tên “Phát
triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao động cho một nền kinh tế thị
trường hiện đại ở Việt Nam” cho thấy người sử dụng lao động hiện nay
đang tìm kiếm không chỉ là các kỹ năng nhận thức cơ bản, mà họ ngày càng
quan tâm đến các kỹ năng như tư duy phê phán, làm việc nhóm và giao
tiếp. Người sử dụng lao động nói rằng sinh viên Việt Nam tốt nghiệp ra
trường thường bị thiếu các kỹ năng này.
Chìa khóa của các vấn đề
đó phần nào nằm trong tay Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mong là sang năm mới
này không còn “ba chung” tuyển sinh nữa, nên có lẽ sẽ dành tài lực, trí
lực mà tư duy thêm một chút cho bài toán nhân lực này. (Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn số xuân)