Kính gửi quý anh chị những bài viết phân tích rất rõ về tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới được viết của tác giả Mường Giang bằng tiếng việt, dễ hiểu.
Từ chuyện thời sự ở những nước xa xôi, tưởng là không liên quan đến chúng ta, cho đến những bài viết cho ai muốn biết thêm về phương pháp đối ngoại của từng quốc gia, chúng ta có thể tìm thấy những bài viết này tại đây.
Cám ơn trang Web đã lưu giữ bài và tác giả Mường Giang.
Một phần Cổ thành Jerusalem với Mái vòm Đá của điện thờ Hồi
giáo trên Núi Đền, ngày 5 tháng 12, 2017 (Ảnh của VOA)
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã quyết định công nhận Jerusalem
là thủ đô của Israel. Ông là vị tổng thống đầu tiên của Mỹ dám “đụng vào vùng đất
Thánh” kể từ khi Israel được thành lập vào năm 1948. Tel Aviv hiện là thủ đô của
Do Thái, nơi Mỹ và nhiều nước khác đặt đại sứ quán.
TT Trump còn dự định dời tòa đại sứ Mỹ tới Jerusalem, nhưng
việc này có thể mất đến hai năm theo. Luật của Mỹ quy định tổng thống ký sắc lệnh
đặc miễn sau mỗi sáu tháng xác định tòa đại sứ vẫn đặt tại Tel Aviv. Theo các
quan chức chính quyền Mỹ, thì việc công nhận Jerusalem là thừa nhận "thực
tế lịch sử và hiện trạng" của Jerusalem.
Đát Thánh lâu nay vẫn là nguồn gốc của tranh cãi quyết liệt,
Người Israel và người Palestine đều tuyên bố Jerusalem thuộc về họ. Thành phố
này cũng là nơi Israel đặt chính quyền của mình. Israel tuyên bố toàn bộ
Jerusalem là thủ đô của họ trong khi người Palestine xem khu vực phía đông
thành phố, bị Israel chiếm đóng trong cuộc chiến tranh Trung Đông năm 1967, là
thủ đô của Palestine tương lai.
Xung đột tập trung vào Cổ thành Jerusalem, nơi có điện thờ
thiêng liêng thứ ba của Hồi giáo và địa điểm thiêng liêng nhất của Do thái
giáo. Thành phố này lâu nay đã là một vấn đề gây tranh chấp đối với người Do
Thái và người Hồi giáo khắp thế giới.Jerusalem cũng là nơi có Nhà thờ Mộ Thánh,
được xây dựng tại nơi mà nhiều Kitô hữu tin rằng Chúa Jesus bị đóng đinh và được
chôn cất. Các giáo phái Công giáo Armenia và Công giáo Roma và Chính thống giáo
Hy Lạp chia nhau quyền trông coi nhà thờ này, nơi xung đột thường xuyên về quyền
kiểm soát những khu vực khác nhau.
Quyết định trên của TT Trump đã làm đảo ngược chính sách đối
ngoại gần 70 năm qua của Mỹ (nhất là đảng dân chủ thời Obama) và các nhà phân
tích cảnh báo rằng nó có thể đe dọa những nỗ lực sống tạm hòa bình giữa người
Israel và người Palestine.
Nhưng biến chuyển lịch sử tại Trung Ðông, mà hầu hết đều do
Hoa Kỳ chủ động bởi thứ chiến lược hào nhoáng, được gọi là sự mưu tìm hòa bình,
để chấm dứt cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ, Do Thái và Khối Hồi Giáo Ả Rập, tiếp diễn
suốt 70 năm qua, gần như không một phút giây ngơi nghĩ. Vì vậy ngày 13-9-1993,
lại bắt tay lịch sử tại thủ đô Hòa Thịnh Ðốn, giữa Thủ Tướng Do Thái là Yitz
Rabin và Chủ Tịch Palestine Yasser Arafat, để ký kết hoà bình.
Tất cả các sự kiện đó, ngày nay đã trở thành những chuyện
làm vô duyên lố bịch nhất trong lịch sử thế giới cận đại. Tại Việt Nam, ngay
sau khi cái bắt tay của các phe nhóm còn nóng hổi, thì cọng sản Bắc Việt đã xua
quân xâm lăng rồi cưởng chiếm VNCH. Tại Triều Tiên, bắt tay để buộc Nam Hàn, Nhật
Bản, Liên Âu kể cả Hoa Kỳ.. nuôi béo cò, tạo thêm phương tiện cho gia đình Kim
Nhật Thành, Kim Jong Un dư tiền chế tạo nhiều loại vũ khí chiến lược, mà ghê gớm
nhất vẫn là bom nguyên tử, mà hậu quả ngày nay Hoa Kỳ lãnh đủ trưócsự đắc lợi
và nhạo bang của Tập Cận Bình và Putin.
.
Riêng Trung Ðông, tình trạng chém giết giữa hai phiá sau cái
bắt tay đó, càng ghê rợn và khủng khiếp gấp trăm lần khi chưa hòa hợp, vì đó là
cái cớ để cho bọn khủng bố Hamas, Hezbollah.. kiếm chuyện, tiếp diễn cuộc thánh
chiến mãi tới hôm nay, qua các màn tử vì đạo của người Palestine ôm bom tự sát
để chết chung với kẻ thù và Do Thái trả đủa lại bằng đạn pháo, xe tăng, tàn sát
dân chúng không nhân nhượng. Ðó là thành quả của các cựu Ngoại trưởng Mỹ, từ
Kissinger tới Colin Powell và Cố Tổng thống Palestine Yasser Arafat, khi cùng
ký thỏa thuận vào ngày 14-4-2002, để quyết định tấm bản đồ mới của Trung Ðông.
Tới nay cuộc chiến tại dải Gaza vẫn là một chuyện dài không
biết bao giờ mới kết cuộc . Hầu như cả thế giới đều tìm đủ mọi cách để chấm dứt
sự thù hận giữa Israël và Palestine vẫn vô ích. Máu lửa cứ tiếp diễn theo vòng
xoáy hận thù và đây cũng chính là sự thất bại to lớn của Hoa Kỳ, nhất là thời cầm
quyền của Tổng thống Obama, luôn theo đuổi chủ thuyết “ không can thiệp “ của cố
TT Nixon.. Liên Hiệp Quốc cũng nhận định : « Cuộc khủng hoảng Israël-Palestine
là thất bại lớn nhất của chính sách ngoại giao Obama. Gaza ».
Các lệnh ngừng bắn cứ tiếp tục được công bố ở Gaza nhưng cả
Palestine lẫn Israel đều vi phạm và tiếp tục các cuộc tấn công đối đầu. phe
Hamas thì pháo kích các loại hỏa tiễn vào Tel Aviv, còn Do Thái thì dùng bộ
binh lẫn không quân hành quân tiến sâu vào lãnh thổ Palestine, bất chấp lời kêu
gọi ngừng bắn của Hoa Kỳ và Liệp Hiệp Quốc.
trong cuộc xung đột tại Cận Đông, Bĩnh Nhưỡng đã lên tiếng
phủ nhận khi bị tố cáo cung cấp vũ khí cho Hamas và Herzbollah, qua một thông
cáo ngày 28/7/2014 của Bộ Ngoại giao Bắc Triều Tiên nhưng nhật báo Anh Daily
Telegraph đã căn cứ vào các nguồn tin phương tây xác quyết Hamas đã mua của Bắc
Triều Tiên hỏa tiển và các thiết bị truyền tin. Trước đó Mỹ cũng tuyên bố là
Bình Nhưỡng đã cung cấp các loại vũ khí tối tân cho phong trào Herzbollah ở
Liban.
Hiện cả thế giới như đang cận kề trên bờ vực thẳm của chiến
tranh hủy diệt vì bạo lực, khủng bố, bom nguyên tử, qua thách thức của Iran và
Bắc Hàn, mà phía sau lưng có Liên bang Nga cùng Trung Cộng xúi giục, cũng chỉ
vì sự tranh chấp biển đảo, năng lượng và ảnh hưởng chính trị trong vùng.
Trong lúc Hoa Kỳ đang lúng túng vì thù trong, giặc ngoài bủa
vây tứ phía, thì các tổ chức Hồi Giáo cực đoan Hamas, Hezbollah.. được Syria và
Iran yểm trợ, lại châm ngòi một cuộc chiến mới khắp vùng Tiểu Á-Tế Á, khiến cho
Do Thái vì sự sinh tồn, không còn con đường nào khác hơn, đã phải tấn công trực
tiếp vào sào huyệt của hai tổ chức khủng bố trên tại lãnh thổ Palestine và Miền
Nam nước Lebanon. Cuộc chiến bắt đầu từ 26-6-2006 tới nay vẫn đang khốc liệt, hứa
hẹn một thế chiến mới nếu Hoa Kỳ chính thức nhập cuộc, giúp Do Thái chống lại
Syria và Iran.
Trong quá khứ, Ngoại trưởng Condoleezza Rice đã phải hủy bỏ
chuyến công du Ðông Nam Á, tức tốc tới Trung Ðông để mưu tìm một sự dàn xếp và
trên hết là hóa giải sự bất đồng của Mỹ và Liên Âu, về cuộc chiến trên, trong
đó có Pháp luôn thời cơ hưởng lợi. Còn Ðức tới nay vẫn đâu có quên thù hận cũ với
Irael, do Tổ chức ‘ Những Người Bảo Thủ (NHBT) ‘ của Kháng chiến quân Do
Thái,được thành lập từ năm 1941,đã thi hành sứ mệnh cuối cùng, sau khi Thế chiến
2 chấm dứt. Ðó là việc KCQ Do Thái, đã đầu độc bằng thạch tín, giết 8000 tù nhân
Ðức Quốc Xã, trong trại giam Stalag 13 ở Nuremburg, vào tháng 6-1946, để trả
thù mối huyết hải thâm cừu, của hằng triệu đồng bào Do Thái vô tội, bị Hitler
sát hại trong thời gian qua. Nội vụ được tờ New York Times ngày 23-4-1946 tường
thuật rất sơ sài, qua một bản tin ít hàng vài trăm chữ và sau đó chôn vùi theo
sự sụp đổ của nước Ðức. Mãi tới năm 1998, vụ đầu độc tù nhân Ðức,được đánh giá
là lớn nhất trong chiến tranh hóa học, mới được tiết lộ qua tác phẩm America’s
Achilles ‘ Heel , do nhiều tác giả chung viết..
Ngày 19-12-2008 bất thần du kích quân Hamas đang làm chủ
vùng đất Gaza phía nam Do Thái, đã bắn hỏa tiển vào lảnh thổ nước này gây
thương vong cho nhiều người, mở màn cho một cuộc chiến tranh mới tại đây. Và
Irael đã trả đủa một cách bạo tàn bằng bom đạn oanh tạc kể cả các cuộc tấn công
của bộ binh bất chấp sự can thiệp của LHQ. Chiến cuộc càng leo thang khi phiến
quân Hezbollah tại miền Nam Lebanon thừa dịp nã đạn pháo vào vùng bắc Do Thái,
làm cho nước này chỉ chịu ngưng bắn 3 giờ vào ngày 8-1-2009 mà thôi.
Nhiều người hy vọng Hoa Kỳ sẽ giải quyết được cuộc chiến
tranh trên. Nhưng kết thúc bằng phương cách nào qua lời tuyên bố của cả hai tổng
thống Bush, Obama kể cả ngoại trưởng Rice, bà Clinton, John Kerry... đều hàm chứa
sự mơ hồ không ai hiểu nổi. Có lẽ vậy, nên mặt trận Trung Ðông khó yên tỉnh sớm,
trước khi Do Thái đạt được mục đích cuối cùng, như năm 1982, là đánh đuổi toàn
bộ khùng bố Hamas và Hezbollah, ra khỏi Lebanon và dãi Gaza.
Hơn nửa Do Thái không phải là VN, Ðài Loan, Phi Luật Tân,
Nam Hàn.. những quốc gia ít nhiều lệ thuộc vào quân viện và chiếc dù bảo vệ của
Hoa Kỳ, nên người Mỹ đâu có đủ quyền bắt Irael nghe theo lệnh. Trong lúc đó
chính Tổng Thống Bush (con) lẫn Obama, bộn bề trăm mối lo toan, thì sức đâu lo
chuyện thiên hạ .. Cho nên điều mà Mỹ làm được lúc này, đối với Do Thái, đó là
răn đe, ve vuốt cơn giận, để cho họ đừng đi quá trớn khi xài Bom nguyên Tử,
tiêu diệt Syria và Iran, quốc gia có trử lượng dầu khí thứ 2 trên thế giới, tạo
thêm cuộc khủng hoảng kinh tế (Á Căn Đ2inh, Nga, Trung Cộng, Liên Âu,,), hiện tại
đã làm điêu đứng nhân loại, mà tai hại cũng đâu có thua gì sự chết người bằng
bom đạn.
1-BảY MƯƠI NĂM ÐỐI ÐẦU GIỮA HOA KỲ-DO THÁI VÀ CÁC NƯỚC HỒ
I GIÁO Ả RẬP TẠI TRUNG ÐÔNG :
Cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ-Do Thái và các nước Hồi Giáo Ả Rập
( kể cả Ai Cập, Iran và Bắc Phi), có bề dầy lịch sử hơn 70 năm, mà hậu quả ngày
nay là cuộc chiến tranh tại Trung Ðông, hầu như là không bao giờ có thể chấm dứt,
trừ phi một trong hai kẻ tử thù bị tiêu diệt.
Mới đây một nhóm nhà nghiên cứu, gồm Mỹ, Âu Châu và Irael,
căn cứ vào các đặc tính của ngành di truyền học, qua nhóm nhiểm sắc thể Y (từ
cha truyền sang con), của 1370 người, sống tại 29 nước, gồm Do Thái, Bắc Phi và
Châu Âu. Kết quả cho thấy người Do Thái sống ở nước ngoài, Palestine, Syria và
Lebanon, đều có chung đặc điểm di truyền học. Vì vậy các nhà khoa học, đã tuyên
bố công trình nghiên cứu này, trên tạp chí Proedings of the National Academy of
Sciences ngày 9-5-2000, xác quyết các dân tộc trên, có chung một tổ tiên. Nhưng
nếu điều đó là đúng, thì cũng đâu có ăn nhằm gì với thực tại con người. Ấn Ðộ,
Pakistan,Tích Lan, Bangadesh đều là người Ấn 100% nhưng họ vì tôn giáo, mà đâm
giết nhua còn hơn kẻ thù. Còn nửa, VN từ nam tới bắc, 100% cháu Lạc con Hồng,
nhưng Hồ Chí Minh và đảng Việt Cộng, đâu có bao giờ coi chúng ta là đồng bào
đâu ? nên đời nay khó mà xin xõ tình huyết nhục là vậy đó.
Tiểu Á là cái nôi văn minh của ba châu Phi, Âu và Á, khởi đầu
từ năm 1947-1948 sau khi Thế Chiến 2 chấm dứt, được LHQ bỏ phiếu chia miền
Palestne, thành hai quốc gia Do Thái và Palestine, để giải quyết số phận của mấy
triệu người Irael vô tổ quốc. Sự kiện trên làm cho hơn 300.000 người Palestine
phải bỏ quê hương, để sang tị nạn chính trị tại các nước Hồi Giáo Ả Rập quanh
vùng. Năm 1956, Do Thái tấn công Ai Cập và chiếm kênh đào Suez nhưng sau đó rút
về nước, qua áp lực của LHQ. Năm 1966, Hoa Kỳ chính thức bán các loại phi cơ
chiến đấu cho Do Thái, bất chấp lệnh cấm vận của Hội đồng Bảo An đang còn hiệu
lực.
Chiến cuộc Trung Ðông lại bùng nổ dữ dội vào năm 1967, được
gọi là cuộc chiến 6 ngày, giữa Do Thái và các nước Ả Rập láng giềng. Trong trận
này, Do Thái đã chiếm toàn bộ thánh địa Jerusalem của Palestine, bán đảo Sinai
và dãi Gara của Ai Cập, vùng tây ngạn sông Jordan của Jordanie và cao nguyên
Golan của Syria. Dù LHQ ra nghị quyết 242, bắt Do Thái trả lại đất cho các nước
nhưng Irael bất tuân lệnh. Ðã vậy còn tiến hành các cuộc di dân tới những vùng
mới chiếm đó, để lập các khu trù mật kinh tế mới, hầu giải quyết sự khan hiếm
thực phẩm và nạn nhân mản. Ðồng thời biến những khu vực trên như những tiền đồn,
ấp chiên lược, bảo vệ thành phố, thủ đô.
Năm 1968, khủng bố Palestine thực hiện vụ không tặc đầu tiên
trên thế giới, khi bắt giữ con tin trong chuyến bay của hảng hàng không ELAL
(Irael), từ Rome tới Tel Avis. Năm 1972, 8 cảm tử quân trong Tổ chức ‘ Tháng 9
Ðen ‘, đột nhập vào Làng Thế Vận Munich của Tây Ðức, sát hại 11 vận động viên
Do Thái. Năm 1973, liên quân Ai Cập-Syria lại tấn công Do Thái, để chiếm lại
Sinai và Golan nhưng bị thất bại.
Dịp này, Mỹ đã cắt xén quân viện của VNCH theo đề nghị của
Kissinger, để viện trợ khẩn cấp cho Do Thái hơn 2,2 tỷ đô la. Năm 1974, LHQ ra
nghị quyết cho phép thành lập nước Palestine. Năm 1976, Ðại sứ Mỹ tại Lebanon
là Francis Meloy bị ám sát tại thủ đô Beirut. nên Mỹ đóng cửa Toà đại sứ nước
này.
Năm 1978, Ai Cập và Do Thái ký hiệp định hòa bình tại trại
David, Tổng thống Ai Cập là Anwar Sadat cùng Thủ tướng Do Thái Manachem Begin,
nhận được giải Nobel hòa bình. Năm 1981, Do Thái tấn công Lò phản ứng nguyên tử
của Iraq cùng lúc Tổng thống Ai Cập Sadat bị ám sát. Năm 1982, Do Thái tấn công
Lebanon, đánh đuổi Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) ra khỏi nước này, lập một
vùng trái độn, dọc theo biên giới 2 nước và vào sâu lảnh thổ Lebanon hơn 40 km,
để thiết lập các trại tị nạn Sabra và Shatila, ngoại ô thủ đô Beirut. Năm 1983,
doanh trại của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong đạo quân gìn giữ hòa bình tại
Beirut bị đặt bom, làm 241 quân nhân tử vong.
Năm 1987 cuộc chiến giữa Do Thái và Palestine, bùng phát tại
vùng tây ngạn sông Jordan và trên dãi Gaza. Năm 1994, Jordan và Do Thái ký hiệp
ước hòa bình. Dịp này Yasser Arafat, Yitzhak Rabin và Simon Peres, lại được giải
Nobel hòa bình. Năm 2000, cuộc thương lượng hòa bình Trung Ðông tại trại David
thất bại, mở đầu cho cuộc chiến mới khi Sharon lên làm Thủ Tướng Do Thái.
So về diện tích và dân số (8,020 dặm vuông hay 20.772km2 với
4,5 dân), Do Thái chỉ là một chấm nhỏ giữa các quốc gia Trung Ðông như Ai Cập,Thổ
nhỉ Kỳ và Ả Rập hoàn toàn theo hồi giáo, lúc nào cũng muốn tiêu diệt nước này.
Nhưng từ ngày lập quốc năm 1948 cho tới nay,ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư chưa
trực tiếp đụng độ, còn các nước Hồi giáo khác, kể cả Iraq và Ai Cập,thì Do Thái
luôn luôn làm bá chủ trong vùng, nhất là hiện nay trong tay có vũ khí nguyên tử
và cả tàu ngầm trang bị đầu đạn hạt nhân, đưọc điều khiển từ xa, mà tờ Times
Sunday số ra ngày 18-6-2000 đã công bố.
Hiện nay, Do Thái là nước thứ ba trên thế giơí đứng sau Mỹ-Nga
có vũ khí này. Sự kiện càng làm các nước Ả Rập trong vùng Vịnh thi đua tìm kiếm
vũ khí mới, khiến cho tình hình thêm nát bấy tại Trung Ðông, càng thêm thê thảm
hơn khi Mỹ-Anh lật đổ Sadam Hussein, làm chủ các mõ dầu tại Iraq, khiến cho
Trung Cộng và Nga bị ra rìa, nên hai nước này không ngớt xúi giục Iran và Các Tổ
Chức Hồi Giáo cực đoan làm loạn. Màn hỏa mù tranh dành đất đai giữa hai dân tộc
Irael và Palestine, chỉ là lớp sơn hào nhoáng cho có chính nghĩa, hầu che đây mặt
thật sự tranh chấp kinh khiếp của các cường quốc, về các mõ dầu không lồ tại
Trung Ðông, Bắc Phi, Trung Á và Biển Caspiene.
Theo tin tức từ Anh, hiện Do Thái có từ 100-200 đầu đạn
nguyên tử, bốn tàu ngầm trang bị vũ khí hạt nhân và người Do Thái đã nói thẳng
không chút e ấp, vũ khí này để chọi với Ba Tư, cũng như bất cứ nước nào tấn
công vào lãnh thổ mình, bằng chứng là năm 1973, khi bị Ai Cập và Syria tấn
công, Thủ Tướng Do Thái đã ra lệnh lắp đầu đạn tầm gần và chỉ còn chút xíu nửa
là khai hỏa,nếu bộ binh bị thất trận.
2-CÁC TỔ CHỨC VÕ TRANG PALESTINE :
Năm 1982, khi Sharon còn là Bộ trưởng Quốc Phòng của Do
Thái, đã nhận biết được vai trò vô cùng quan trọng của nhân vật lãnh đạo tổ chức
PLO đó là Arafat, nên khi trở thành Thủ tướng, đã tìm đủ mọi cách để giết cho
được kẻ đối đầu. Bởi vậy không lấy làm lạ, khi tờ Le Firago ngày 4-4-2002, đăng
tin Thủ tướng Do Thái Sharon, yêu cầu Tổng thống Arafar ra đi và không được
quay về Palestine. Ðề nghị này, chính Ngoại trưởng Mỹ lúc đó là Colin Powell
cũng cho là vô lý.
Ðó cũng là lý do, để Liên Âu và Hoa Kỳ tuyên bố, chỉ có
Yasser Arafat mới có đủ tư cách, đại diện cho người Palestine qua các cuộc đối
thoại, để tìm kiếm hòa bình cho dân tộc mình. Ngày 28-9-1995, tại Hội Nghị OLso
2 ở Na Uy, các phe phái đã cùng ký một tạm ước, trong đó có điều 4, phụ lục 1,
cho phép Palestine, được thành lập một lực lượng cảnh sát, do Arafat tổng chỉ
huy, giữ an ninh trật tự vùng tự trị của người Palestine.
+ Các Tổ Chức Vũ Trang của PLO :
Ngoài tổ chức cảnh sát được công khai hoạt động, người
Palestine còn có nhiều Tổ Chức Vũ Trang khác rất bí mật, cho nên không ai rỏ
quân số cũng như địa bàn nhưng tất cả đều có mục tiêu chính là chống lại người
Do Thái. Hiện nay qua báo chí, có:
- FATAH : Tên viết tắt của tổ chức Harakat al tabrir al
watani al filistini . Ðây là một tổ chức vũ trang của người Palestine có thực lực
rất mạnh và kỷ luật., chính thức hoạt động từ ngày 1-1-1965. Ngưng hoạt động từ
1994 ố 9/2000 khi Do Thái và Palestine ký kết hiệp ước hòa bình. tại Olso.
Nhưng rồi cuộc chiến tại Infitada bùng nổ sau tháng 9-2000, tổ chức Fatah hợp
tác với tổ chức Chabiba, chống lại Do Thái. Hiện quân du kích Fatah làm chủ
vùng Tây Ngạn (West Bank) sau khi thất cử .
- TANZIM : Là một bộ phận võ trang của Fatah, thành lập từ
năm 1983, hoạt động riêng rẽ theo Tổ, với các thành viên tuổi từ 18-35. Tanzim
hiện có nhiều ngàn người tham dự, trà trộn vào các trại tị nạn Palestine, để
xách động biểu tình, chống lại Do Thái khắp mọi nơi.
- AL Aqsa : Cũng là một bộ phận của tổ chức Fatah, thành lập
từ năm 2002 với những thành viên dám tử vì đạo. Không như tổ chức Hamas và
Jihah Hồi giáo cực đoan, lực lượng Al-Aqsa chuyên sử dụng phụ nử mang bom tự
sát. Lãnh tụ của nhóm này là Nasser Awais luôn luôn di chuyển trốn lánh màn lưới
truy sát của cơ quan tình báo Do Thái.
+ Các Tổ Chức Vũ Trang của Hồi Giáo :
Hiện có tổ chức Hamas và Jihah chuyên tổ chức đánh bom tự
sát. Hamas giờ đang nắm chính quyền Palestine, đuợc thành lập từ tháng 12-1987
do giáo sĩ Ahmas Ismail Yassine cầm đầu. Bắt chước theo mô hình các tổ chức Hồi
giáo cực đoan tại Ai Cập, Hamas luôn chủ trương dùng mọi hình thức bạo động, gọi
là thánh chiến để chống lại Do Thái tại các khu vực định cư ở Tây Ngạn Jordan,
dãi Gaza và ngay trong lãnh thổ của Irael.
Chính tổ chức này đã làm suy yếu quyền lực của Tổng thống
Arafat, cuối cùng cướp được chính quyền qua hình thức bầu cử khi Arafat qua đời
tại Pháp. Tổ chức này nhiều lần bị quân đội Do Thái tiêu diệt nhưng sau đó phát
triển lại rất nhanh, nhờ sự tài trợ của Hồi giáo. Ðây là lực lượng đối chọi với
PLO, qua giải phap hòa bình do Arafat chủ xướng, cũng như thừa nhận quốc gia Do
Thái.
Bộ phận võ trang của Hams là Ezzeddin el-Qassem, hoạt động độc
lập với cơ quan lãnh đạo trung ương, gồm các thành phần quá khích, chuyên mang
bom trong mình để tự sát, tại các đô thị và khu vực định cư của Do Thái. Hamas
được nuôi dưởng bằng sự tài trợ của Iran, từ tiền bạc tới vũ khí, chuyên chở bằng
đường biển tới Gaza. Với tổ chức khủng bố Al-Qaeda của Bin Laden, tổ chức
Qassem tuyên bố không quan hệ, tuy cả hai cùng quan điểm thánh chiến .
Còn tổ chức Jihah Hồi giáo được thành lập năm 1980 tại Gaza,
sau khi Khomeni làm chủ Ba Tư. Tổ chức này tuy ít người hơn Hamas nhưng rất thiện
chiến và có liên hệ với tổ chức Hồi giáo cực đoan Hezbollah ở Lebanon. Hiện
Jihah Palestine do Ramadan Chalah chỉ huy, có một tổ chức khủng bố bí mật là Qassem.
Tuy cùng là dân Palestine nhưng ngày nay đã có sự phân hóa
trầm trọng giữa ba tổ chức vũ trang PLO, Hamas và Jihad. Sách lược muốn tóm thu
Hội đồng tự tri Palestin, tổ chức Fatah và Tanzim của Hamas , thật sự đả thất bại.
Chẳng những thế, Hamas còn bị Tây Phương gần như cắt đứt mọi viện trợ khi nắm
được chính quyền Palestine. Ðây chính là một trong những lý do dẫn đến cuộc chiến
tranh đang diễn ra giữa Do Thái-Palestin và tổ chức Hồi giáo cực đoan Hezbollah
ở miền Nam Lebanon.
+ Hezbollah : Ðược thế giới xếp vào nhóm khủng bố Hồi giáo cực
đoan. Thật sự như nhóm khủng bố Hamas, đây là đứa con hoang của Phái Hồi giáo
cuồng tín Ba Tư Shiite, được Khomeni cho thành lập tại Lebanon từ năm 1982 và sống
còn bằng sự nuôi dưởng trực tiếp từ Ba Tư và Syria, với trợ cấp hiện kim hằng
năm hơn trăm triệu đô la Mỹ. Tuy hình thức chỉ là Dân Quân Du Kích Hồi giáo
nhưng Herbollah được Iran, Syria kể cả Trung Cộng và Liên bang Nga trang bị
toàn cac loại vũ khí tối tân, trong đó nguy hiểm nhất là các loại hỏa tiển tầm
ngắn lẩn tầm dài ( từ 45 ố 200 km ) như Fajr-3, Fajr-5, Zelzal-2.. Tóm lại , khủng
hoảng Trung Ðông ngày nay đều do hai tổ chức Hamas và Hezbollah châm ngòi, qua
đạo diễn Syria và Ba Tư dàn dựng.
3-CHIẾN LƯỢC HÒA BÌNH TRUNG ÐÔNG CỦA HOA KỲ :
Từ năm 1978 tới nay, đã có không biết bao nhiêu người chết
vì hòa bình Trung Ðông, trong đó có Tổng Thống Ai Cập Sadate và Thủ tướng Do
Thái Rabin. Lịch sử đã không lập lại một nền hòa bình thật sự mà Do Thái và Ai
Cập đã đạt được năm 1982, qua những cuộc đi đêm, đàm phán, bắt tay giữa hai dân
tộc thù nghịch đang cùng đối mặt trên vùng đất Palestine. Máu lại bắt đầu đổ
vào năm 2000, sau cuộc thương lương 14 ngày tại trại David thất bại. Cuộc thăm
viếng của tân Thủ tướng Do Thái Sharon tại Ðồi Ðền ở Jerusalem, châm ngòi cho một
trận chiến mới, tiếp diển suốt 60 năm qua, kinh hoàng trong cảnh Palestine nổ
bom cùng chết và thương tâm nhìn tăng pháo Do Thái tan sát không nhân nhưọng.
+ Tại thủ đô Olso, Na Uy năm 1993 :
Sau bao nhiêu lần đi đêm, cuối cùng Chủ tịch tổ chức giải
phóng Palestine (PLO) Yasser Arafat và Thủ Tướng Do Thái Itzhak Rabin cũng đã
thỏa thuận với nhau về một tiến trình hòa bình . Hiệp định trên được gọi là
Olso, đưọc hai phía kỳ kết vào ngày 13-9-1993 tại Toà Bạch Ốc (Hoa Kỳ), với sự
ký kết giữa hai phía, qua đó Do Thái phải rút khỏi Gaza và thành phố Jéricho
ngày 13-12-1993, chuyển giao quyền hành chánh cho nhà nước Palestine để nước
này lập quốc hội ngày 13-7-1994.
+ Tại Le Caire năm 1994 :
Ngày 4-5-1994, Palestine và Do Thái lại ký hiệp định Le
Caire, ấn định thời hạn cuối Do Thái phải rút hết quân ra khỏi Palestine là năm
1999, ngoài ra còn có các vấn đề người tị nạn, biên giới nhưng nhức nhối nhất vẫn
là chủ quyền tại Jerusalem, mà hai phía đều dành.
+ Olso II năm 1995 :
Năm 1995, Do Thái và Palestine lại ký hiệp định Olso II tại
Ai Cập và phê chuẩn ở Hoa Kỳ, chung qui cũng chẳng có gì mới mẻ so với các hiệp
ước cũ . Sự kiện càng rắc rối thêm khi Benyamin Netanyahu, người từng chỉ trích
hiệp ước hòa bình Olso lại đắc cử Thủ Tướng Do Thái.
Rồi tiếp theo, hai phía lại ký thêm các hiệp ước Hébron
1997, Wye river 1998, Chaarm el-Cheikh 1999.. cuối cùng bị khựng lại vì các điểm
bất đồng không thể khai thông được, đó là vấn đề người tị nạn Palestine, hiện
có chừng 3,5 triệu người đang sống trong các trại tị nạn khắp Trung Ðông, hoặc
phải đưọc trở về nguyên quán hay nhận tiền bồi thường thay thế. Thứ đến là việc
thành lập quốc gia Palestine và sau cùng là khu định cư người Do Thái trong đất
Palectine và chủ quyền tại Thánh địa Jerusalem.
Ngày 5-7-2000, Hoa Kỳ đích thân tổ chức một hội nghị thượng
đỉnh giữa Thủ tướng Do Thái là Ehoud Barak và Chủ tịch Palestine Arafat tại trại
David, nơi nghĩ mát của Tổng thống Mỹ tại Maryland. Hội nghị kéo dài 14 ngày
trong bí mật, có sự tham dự của Tổng Thống Mỹ là Bill Clinton và Ngoại Trưởng
Albrigh, nhưng mọi cố gắng dàn xếp vẫn không kết quả, do trên hai phía không ký
kết một hiệp ước nào.
Sau đó ngày 25-7-2000, Hoa Kỳ đã chính thức thông báo về cuộc
họp thượng đỉnh giữa Hoa Kỳ-Do Thái-Palestine, gôm 5 điểm trong đó quan trọng
nhất là nhắc Do Thái và Palestin phải tuân hành theo các nghị quyết 242 và 338
của LHQ cũng như hai nước trên muốn có hòa bình vĩnh cửu, phải có sự đồng thuận
của Hoa Kỳ..
Từ đó đến nay, chiến tranh lại tiếp diễn dử dội , khiến cho
ngày nào cũng có người chết, đa số là thường dân vô tội của cả hai phía, mà thảm
nhất vào ngày 22-6-2002, ba trẻ em Palestine và mười mấy học sinh Do Thái chết
trong đan thù, vì bắn nhau và bom tự sát.
Theo tin của nhà báo Akiva Eldar, thì Arafat vừa tuyên bố với
Do Thái là chịu chấp nhận chủ quyền khu Jewish ở cổ thành Jerusalem và bức tường
phía tây, đồng thời rút lại đòi hỏi hồi hương 4 triệu người Palestine tị nạn
nhưng vẫn duy trì việc hồi cư gần 300.000 Palestine tại Liban. Tất cả đều là kế
hoạch của Clinton năm 2000 nhưng có trể không ? vì tin mới nhất cho biết, Hoa Kỳ
nhất quyết đổi ngựa giữa đường, bất chấp sự phản đối của Ai Cập, Liên Âu,Nga và
nhiều nước Hồi giáo .
Bắt tay nhau để cam kết xoá bỏ hận thù giữa hai dân tộc và
hòa bình toàn vùng, hai ông Arafat và Rabin, người bị ám sát chết, kẻ đang sắp
làm con vật tế thần, dù bị thất bại nhưng muôn đời Họ vẫn là anh hùng và ít
nhát hai người cũng đã thật tình tôn trọng tư cách lẫn nhau. Còn Lê đức Thọ và
Kissinger cũng bắt tay nhưng chỉ để biểu lộ sự chiến thắng vì cả hai đã gạt đưọc
hết mọi người. Một cái bắt tay làm hại cả một dân tộc, tiếng xấu biết lấy gì
trang trải cho sạch đây ?
+ Chiến Dịch Hoàng Hôn Hay Cuộc Rút Quân Khỏi Lebanon ngày
23-5-2000 Của Do Thái :
Sáng ngày 23-5-2000 , Thủ tướng Do Thái Ehoud Barak chính thức
tuyên bố đơn phương rút quân đội Do Thái ra khỉi Nam Lebanon, sau 22 năm chiếm
đóng vùng trái độn giữa biên giới hai nước. Cuộc rút quân đã trở nên hổn loạn,
khi có hơn 2500 người, gồm binh lính của quân đội Nam Lebanon (SLA) cùng gia
đình, chạy sang Irael xin tị nạn.
Tại Lebanon, từ năm 1976 có hơn 2500 quân sĩ thuộc quân đội
Lebanon, đã ly khai chính phủ trung ương và theo quân Do Thái từ năm 1984. Lực
lượng trên được gọi là SLA, gồm nhiều thành phần hổn tạp, trong đó có 1500 quân
Hồi giáo Chiite, quân theo Thiên Chúa giáo, quân thuộc Bộ tộc Druze và quân Hồi
giáo Sunnite.
Tháng 3-2000, được tin quân Do Thái sắp rút, tinh thần của đạo
quân SLA xuống thấp và đã rút khỏi hai cứ điểm quan trọng. Nhiều binh sĩ, trong
số này có cả Tiểu đoàn trưởng Emile Nasser ra đầu hàng chính phủ Lebanon. Trong
lúc đó, quân đội SLA hy vọng, chính phủ Do Thái sẽ bảo trợ cho họ,khi đã rút hết
về nước.
Ðể chuẩn bị, Bộ Tổng Tham Mưu Do Thái đã soạn thảo hai kế hoạch
lui quân mang tên ‘ Chân trời mới ‘ , trường hợp đạt được thỏa thuận với Syria
và chiến dịch ‘ Hoàng Hôn ‘ khi Do Thái đơn phương triệt thoái. Trong thời gian
chờ đợi, quân Do Thái được lệnh cố thủ nên lực lượng SLA trở thành mục tiêu tấn
công của quân Hezbollan. Cùng lúc LHQ ra lệnh cho Do Thái, khi triệt thoái, phải
thu hồi lại tất cả xe tăng, đại pháo .. đã cấp cho SLA sử dụng, vì sợ có cuộc
đ5ng độ giữa SLA và quân Mũ Xanh của LHQ (UNFIL) tới thay thế quân Do Thái, trấn
đóng vùng trái độn.
Ngày 21-5-2000, dù Do Thái lên tiếng sẽ rút quân theo đúng hạn
định 7-7-2000 nhưng Lực lượng SLA tại miền Nam Lebanon thực sự đã tan rã. Mặc
cho thủ lãnh của Hezbollah là giáo sĩ Hassan Nasrallah kêu gọi đầu hàng với cam
kết không trả thù, nhưng phần lớn lực lượng SLA cùng gia đình, bằng đủ mọi
phương tiện chạy vào lãnh thổ Do Thánh lánh nạn.
Trước sự rả ngũ nhanh chóng của SLA, quân Do Thái bắt buộc
phải triệt thoái gấp về nước, bỏ mặc cho số phận của một phần lực lượng SLA, gồm
cánh quân Thiên Chúa Giáo và Bộ Tộc Druze, đang cố cầm cự với quân Hezbollah,
suốt đêm 22-5-2000.
Tới sáng ngày 24-5-2000, coi như kết thúc chiến dịch ‘ Hoàng
Hôn’, khi ra lệnh đóng cửa ải 93, thông thương giữa hai nước. trong lúc đó hàng
ngàn dân Lebanon và quân SLA, vẫn vượt biên sang tị nạn tại Do Thái. Tóm lại kế
hoạch của Thủ tướng Do Thái Ehoud Barak là khi quân Irael rút, thì quân UNFIL ở
Lebanon, sẽ tới tiếp thu vùng trái độn nhưng cuối cùng bị thất bại và vùng này
đã lọt vào tay quân Hezbollah, nên quân LHQ chỉ còn có nhiệm vụ, giúp người tị
nạn tại biên giới hai nước mà thôi.
Theo Nghị quyết 425 của LHQ năm 1978, đã có 4505 quân, thuộc
lực lượng giữ gìn hòa bình (UNFIL) tới Lebanon. Ðạo quân mũ xanh này thuộc 9 nước,
gồm Ba Lan (630 người), Ghana(570), Ấn Ðộ (560), Nepal (550), Ái Nhĩ Lan (530),
Fidji (530), Phần Lan (450), Pháp (250) và Ý Ðại Lợi (45).
Nhiệm vụ của quân LHQ tại Lebanon, chỉ đơn thuần là gở mìn
và làm công tác nhân đạo. nên không can thiệp vào cuộc chiến ở đây. Trong nhiều
năm qua, quân LHQ có mặt trong khu vực nhưng chẳng làm được tích sự gì, ngoài
việc tiêu phí hằng tỷ đô la tiền của thế giới đóng góp. Bởi vậy không trách các
nước coi tổ chức này, giá trị và thực chất không đáng được tín nhiệm.
Về lý do quân Do Thái tấn công Lebanon, bắt nguồn từ vụ toán
đặc công Palestine, có trụ sở tại Nam Lebanon, vào ngày 14-3-1978 tới thủ đô
Tel Avis khủng bố, nên 25.000 quân Do Thái đã vượt biên chiếm miền nam nước
này, qua chiến dịch mang tên Latini.. Ngày 19-3-1978 LHQ ban hành NQ 425 kêu gọi
Do Thái, rút về lằn ranh quốc tế chỉ định, đồng thời thành lập lực lượng UNFIL
tới giữ hòa bình tại Lebanon.
Ngày 6-6-1982, Do Thái lại mở chiến dịch hành quân, mang tên
Hòa Bình, tại Galilée, tấn công lực lược PLO của Palestine tại Beirut. Tháng
6-1985 quân Do Thái chiếm một vùng trái độn rộng 850 km2 của Lebanon. Từ tháng
7-1993 về sau, quân Do Thái mở nhiều chiến dịch, nhằm tiêu diệt lực lượng du
kích Hồi giáo Hezbollah tại Nam Lebanon, tới khi Ehoud Barak đắc cử Thủ tướng
Do Thái ngày 17-5-1999, đã hứa hẹn sẽ triệt thoái quân đội về nước vào tháng
5-2000, dù Syria và Lebanon có đồng ý hay không.
4- BẢN ÐỒ MỚI TẠI TRUNG ÐÔNG VÀ CUỘC CHIẾN HIỆN TẠI :
Qua nhiều lần thương thuyết bàn cải, trong lúc chiến tranh vẫn
tiếp diễn không ngừng tại Trung Ðông. Cuối cùng ngày 14-4-2002, ngoại trưởng Mỹ
là Colin Powell và Tổng thống Palestin Yasser Arafat, chịu ngồi vào bàn hội nghị,
để thương lượng, phân định chủ quyền của hai nước đang tranh chấp trên vùng đất
Palestine.
Yếu tố tiên quyết đầu tiên mà Hoa Kỳ cần có là sự ngưng bắn,
để tạo nguồn tin cho cả hai phía. Một điều mà ai cũng cho rằng Hoa Kỳ không làm
được dù Arafat có hứa hẹn, vì suốt 19 tháng qua, cơn lốc Intifada (Nổi dậy) với
màn đánh bom tự sát bên phía Palestine, được phe cực hửu Do Thái (qua Thủ tướng
Ariel Sharon) đáp ứng không nhân nhượng, rồi còn được phụ họa thêm bởi các tổ
chức Hồi giáo cực đoan Hamas, Jihad Hồi giáo Ba Tư..). Tất cả là những hạt
nhân, đã làm tiêu tan hết chiến lược hòa bình Trung Ðông , mà LHQ, Liên Âu và
Hoa Kỳ, bỏ công sức và tiền bạc xây dựng từ trước tới năm 2000.
Theo đề nghị của Arab Seoui, được tất cả các nước trong Liên
minh Ả Rập, đồng ý chọn giải pháp : Ðó là Do Thái phải rút khỏi các vị trí đã
chiếm đóng trong cuộc chiến 1967. Ðổi lại Do Thái sẽ được toàn khối Ả Rập công
nhận như một quốc gia hiện hửu trong vùng.. Ðiều này cũng được áp dụng cho quốc
gia Palestine.
Ðể đạt được thành quả trên, các nước liên hệ phải giải quyết
cho xong bốn trở ngại :
1- Biên giới nước Palestine ra sao.
2- Giải quyết thế nào về những khu vực định cư của người Do
Thái, lập trên lãnh thổ của Palestine.
3- Jerusalem có bị phân chia để làm thủ đô của Palestine.
4- Số phận của người tị nạn Palestine ở Trung Ðông.
Thật ra bốn vấn đề này đã đưọc đề cập tại Hội nghi Olso,
nhưng bị phá vở sau khi Thủ tướng Do Thái Yitzhak Rabin bị ám sát. Ngày
28-9-1995 , Palestine và Do Thái đã ký tại Tòa Bạch Ốc, tạm ước Olso-2, dầy 400
trang, xác nhận quốc gia Palectine tự trị, tại các thành phố Bethlehem, Jenin,
Nablus, Qalqilva, Ramallah , Tulkarm, một phần Hebron và 450 ngôi làng. Trong
khi Do Thái có quyền giám sát những khu định cư của ngườu dân nước mình sống
trong các khu vực trên thuộc Palestine.
Năm 1998, TT Palestine là Yasser Arafat và Thủ tướng Do Thái
Benjamin Netanyahu, lại họp thượng đỉnh 9 ngày tại Wye Mills (Maryland), có TT
Bill Clinton tham dự. Hai bên đã đạt được thỏa thuận về kế hoạch chung trong việc
chống khủng bố. Quan trọng nhất là là lời hứa của Irael sẽ rút quân thêm 13,1%
lảnh thổ tại Tây Ngạn, mở cho Palestine một sân bay tại Gaza. Tiếp theo vào
ngày 13-9-1999, Thủ tướng Do Thái Ehud Barak (Ðắc cử tháng 5-1999), lại ký thêm
với Arafat, bản giao ước bổ sung những thỏa thuận Wye : Ðó là việc hai phía
cùng đồng ý chọn ngày 13-9-2000, là thời hạn cuối cùng, để ký một Hiệp ước Hòa
bình chung cuộc.
Ðể bổ túc những gì còn lại chưa được giải quyết ổn thòa của
hai phía, TT Mỹ Bill Clinton đã đề nghị một bản đồ mới cho hai nước Do Thái và
Palestine : Ðó là Palestine sẽ lấy lại từ 94-96% lảnh thổ của mình tại Tây Ngạn,
phần đất phía đông Jerusalem ( ngoại trừ các quận có người Irael) và các quận của
người Ả Rập. Về việc hồi cư người tị nạn Palestine tại các nước lân cận, sẽ thi
hành theo các nghị quyết của LHQ có từ trước. Theo đó, họ có quyền hồi hương
nhưng về Palestine chứ không phải đất cũ đã thuộc Do Thái.
Nhưng Jerusalem mới chính là trở ngại lớn nhất . Năm 1967 Do
Thái chiếm phía đông thánh địa này và thiết lập ranh giới hành chánh từ ấy đến
nay. Theo thỏa ước Taba, hai phía đã đồng ý coi Jerusalem là thủ đô chung,: Phần
thuộc Do Thái được gọi là Yerushalaim. Còn phía lảnh thổ thuộc Palestine là thủ
đô Al-Quds. Tại thánh địa, Do Thái sở hữu Bức Tường Than Khóc . Khu Núi Ðền
linh thiêng, theo đề nghị của TT Clinton, phần trên đồi thuộc Palestine, phía
dưới của Do Thái.
Cuối cùng vì lý do nhân đạo, Do Thái chịu nhận 25.000 người
Palestine có thân nhân đang sống tại Do Thái. Tóm lại, tất cả những cố gắng
trong và ngoài nước suốt mấy chục năm qua, cho thấy sự khủng hoảng tại Tiểu Á
giữa hai dân tộc Do Thái và Palestine, mang nhiều hy vọng được giải quyết. Tiếc
thay tất cả đã bị Ba Tư và Syria nhúng tay phá vở, mà hậu quả ngày nay là nổi
đau đớn cùng tận vì bom đạn của ba dân tộc Irael-Palestine và Lebanon, không biết
tới bao giờ mới chấm dứt.
5- PHẢN ỨNG CỦA THẾ GIỚI VỀ CUỘC CHIẾN DO THÁI-HAMAS VÀ
HEZBOLLAH
Ngay khi chiến tranh bộc phát vào ngày 25-6-2006 giữa quân đội
Do Thái và Lực lượng Hồi giáo quá khích Hamas đang nắm chủ quyền Palestine tại
Gaza. Tiếp theo ngày 12-7-2006 là cuộc chiến giữa Irael và Hezbollah. Vì không
còn có thể nhường nhịn được, trước hành động quân sự khiêu khích, cũng như sự
nhục mạ và hăm dọa công khai của Ba Tư trên diễn đàn quốc tế. Bởi vậy Do Thái
đã phản ứng, qua hai cuộc tấn công cùng lúc, nhằm vào lực lượng Hamas trong lảnh
thổ Palestine và dân quân du kích Hezbollah,có sào huyệt tại miền nam Lebanon,
sau tháng 5-2000, khi quân đội Ly khai Lebanon (SLA) và Do Thái, triệt thoái.
Cuộc đụng độ giửa ba phía suốt mười mấy ngày qua, nhât là mặt
trận phía Nam Lebanon rât ác liệt và kinh khiếp , vì Do Thái đã xử dụng cả Hải
Lục Không Quân và Hàng Không Mẫu Hạm để tấn công, quyết tâm tiêu diệt cho được
Hai Nhóm Khủng Bố tàn bạo nhất tại Trung Ðông hiện nay, trước thái độ căm hờn tức
tối của Ba Tư, Syria.. nhưng cả hai không dám trực tiếp can thiệp, vì Do Thái
đã thề là sẽ sử dụng kho Bom Nguyên Tử của mình, để tiêu diệt Ba Tư cũng như bất
cứ kẻ nào làm hại đến đất nước mình.
Hậu quả của cuộc chiến này, trước nhất là sự tan nát đổ vở tại
Lebanon và Palestine, cùng với một vài thành phố phía Bắc của Do Thái. Ðã có
hơn vài trăm người bị thương vong, đa số là thường dân vô tội. Thủ đô Beirut của
Lebanon đắm chìm trong biển lửa, người người từ dân địa phương tới ngoại kiều,
đều tìm đường di tản để tránh chết chóc. Trong lúc đó, quân Do Thái tiến vào đất
Lebanon như chốn không người, với quyết tâm đuổi tận giết tuyệt Hezballlah và
không dấu ý định sẽ truy sát tận Syria, nếu nhóm khủng bố này trốn vào đây.
Riêng trùm nhóm khủng bố Hezbollah là Sayyed Nasrallah may mắn chạy thoát, lúc
biệt thự bị bom san bằng.
Ở phương Nam, quân Do Thái tàn phá không chừa thứ gì, đồng
thời phong tỏa hết mọi ngõ ngách.. khiến cho người dân vô tội Palestine mới vừa
vui được chút chút, thì nay trắng tay và toi mạng. Trước tình trạng thê thảm
này, LHQ, Liên Âu và Liên Minh Ả Rập cũng bó tay bất lực, vì ai cũng biết,
chính Hamas và Hezbollah đã dồn Do Thái vào chân tường, nên họ phải hứng hậu quả
là cái chắc. Ở Trung Ðông, suốt 60 năm qua, cứ mỗi lần có khủng hoảng giữa Do
Thái và Ả Rập, đều có màn cúp dầu để áp lực Mỹ đừng can thiệp và nhúng tay .
Nhưng lần nào cũng vậy, Hoa Kỳ cứ xông vào vì biết, Ả Rập chỉ sống bằng dầu,
nên cúp được bao lâu. Rốt cục đâu lại vào đó.
Còn một yếu tố khác mà Do Thái và Hoa Kỳ nắm được để hành động,
đó là ở Trung Ðông, bất cứ nước Hồi Giáo nào cũng đều ghét Ba Tư, cho nên kỳ
này thấy Do Thái thay họ, tiêu diệt những đứa con hoang Hamas và Hezbollah của
Iran,, ai cũng hả dạ, dù ngoài mặt, vẫn to tiếng phản đối.hành động quân sự quá
thô bạo của DoThái, làm thiệt hại đến sinh mạng và tài sản của dân chúng địa
phương trong vùng chiến cuộc.
Lúc chiến tranh đang tiếp diễn ác liệt, cũng là thời điểm họp
thượng đỉnh của G-8 gồm các nước Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Ý, Ðức, Canada và Nga. Chỉ
có Tổng thống Pháp là Chirac to tiếng tố cáo hành động quân sự của Do Thái nhưng
đã bị TT Bush và Thủ tướng Canada là Stephen Harper bác bỏ, đồng thời ra mặt ủng
hộ hành động của Do Thái là chính đáng, tự vệ, mà bất cứ ai khi bị dồn vào chân
tường, đều phải làm vậy.
Ðặc biệt là sự phân tích của ký giả Kevin Perain, trên tờ
Newsweek ra ngày 14-7-2006, cũng xác nhận hành động của Do Thái lần này là tự vệ,
vì không còn lực chọn nào khác. Tờ báo đã thẳng thắng chỉ đích danh Ba Tư-Syria
là thủ phạm, đã xuí giục hai nhóm khủng bố Hamas và Hezbollah gây chiến, chứ
không phải Do Thái, Palestin hay Lebanon.
Do Thái đã ban lệnh Tổng Ðộng Viên và cũng chẳng dấu diếm ý
đồ tiêu diệt Hezbollah, đồng thời thiết lập lại Khu Ðộn giữa biên giới hai nước
Do Thái-Lebanon, như họ đã từng thực hiện từ năm 1982-2000 mới triệt thoái.
Hòa bình Trung Ðông chỉ là sự tạm bợ, chẳng những vì dầu mà
còn sự hận thù tôn giáo và chủng tộc, giữa các sắc dân Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Ả Rập,
Do Thái và Kurd. Nên chiến tranh cứ đến là điều tự nhiên, cho dù không có quốc
gia Do Thái hiện hữu, thì vẫn có ngàn muôn lý do khác để mà gây chiến. Bởi vậy
việc Ngoại trưởng Condoleezza Rice tới Trung Ðông, chẳng qua cũng chỉ để thương
lượng các phe Do Thái, Palestine và Lebanon, về một giải pháp thuận lợi , trong
việc cứu trợ các nạn nhân chiến tranh , đang cần giúp đở.
Riêng Do Thái, thì Tổng Thống Mỹ W.G.Bush khi còn tại chức
cũng đã thẳng thừng tuyên bố ‘ Giai đoạn này chưa phải là lúc để quân đội Do
Thái dừng lại, vì mục tiêu chiến lược là phải tiêu diệt tận gốc hai lực lượng
khủng bố Hồi giáo cực đoan, đã bị LHQ đặt ra ngoài vòng pháp luật : Ðó là Hamas
và Hezbollah. Ðây cũng là nguyện vọng chung của Hoa Kỳ , người dân Palestine và
nhất là Chính phủ Lebanon, từ bao lâu nay khốn khổ vì sự đàn áp của Hezbollah
có Syria và Ba Tư chống lưng tiếp trợ. Dù muốn hay không mọi người đều phải đợi
Do Thái kết thúc mục tiêu của họ, chừng đó LHQ, Hoa Kỳ hay Liên Âu.. may ra còn
có tiếng nói để hạ màn.
Nhưng Trung Ðông lại lửa khói ngút trời từ giữa tháng
12-2008 tới nay (tháng 8-2014) vẫn không im tiếng súng vì cả hai phía Do Thái
và Hamas đều quyết dùng quân sự để đạt chiến thắng chính trị, mặc cho sinh mạng
của người dân trong vùng. Hoa Kỳ từ trước tới nay là trọng tài nhưng lần này
cũng chỉ đứng xa để ngó vào như bao khán giả khác nhất là trong thời gian sắp đổi
ngựa của Obama tại Tòa bạch Ốc. Và dù Obama có cố gắng lấy điểm cho chính mình
(thêm một giải Nobel hòa bình) hay cho đảng Dân Chủ trong các giai đoạn sắp tới,
thì vấn đề Palestin-Do Thái cũng thế thôi vì đây là một vỡ kịch trường thiên
không bao giờ có phần kết luận
Và nguời dân ở đây càng thê thãm hơn khi người Mỹ giải kết ‘
việc bảo hộ các mõ dầu tại Trung Đông “ khi mức sản xuất tại nội địa Hoa Kỳ đủ
cung ứng nhu cầu trong nước cũng như xuất cảng tới các nước Đồng Minh, trong một
tương lai rất gần.
Cho nên TT Trump có hay không xác nhận thì từ khuya
Jerusalem đã là đất của Do Thái. Việc TT Trump “công nhận” đất thánh là thủ đô
của Irael mang một ý nghĩa khác hơn là vì giữ lời hứa lúcra tranh cử như báo
chí dòng chính (DC) đã viết.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 12-2017
MƯỜNG GIANG