tt
Kính gửi quý anh chị một bài thơ của anh Trần Văn Lương với sáu thứ tiếngđưa chúng ta chìm vào câu chuyện bằng thơ.
Còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn mất quê hương, ở nơi đó có những người thân, người thươngvà nỗi chờ qua bao nhiêu năm tháng gần như tuyệt vọng.
Người lưu vong, nhất là cào cái tuổi gần đất xa trời thì người ta càng tuyệt vọng, chúng ta tìm thấy đầy đủ vào lời mở đầu của bài thơ mà anh Lương gửi đến chia sẻ với ai cùng cảnh ngộ.
"Đừng thương khóc chuyện qua đường,
Hãy thương khóc một quê hương không còn."
(thơ Trần Văn Lương)
ou
"Mais quand l'ennemi t'a rendu
Exilé dans ta patrie même,
Pleure et pleure donc, le cœur blême,
Pour ce pays à jamais perdu."
Kính gửi đến quý anh chị con cóc cuối tuần.
Dạo:
Đừng thương khóc chuyện qua đường,
Hãy thương khóc một quê hương không còn.
I. Cóc cuối tuần Phú Lang Sa:
Ne Pleure Pas
Ne pleure pas quand le soleil,
Sa lueur enfin tarie, se cache.
Car demain, fidèle à sa tâche,
Reviendra ce disque vermeil.
Quand la lune un soir disparaît,
Ne pleure pas sa sombre absence.
Car bientôt, avec grande aisance,
Reparaîtra son bel attrait.
Quand le vent d'automne survient,
Dénuant l'arbre de son feuillage,
Ne pleure pas, car ce pillage
Finira plus vite qu'il vient.
Et quand ces beaux oiseaux s'en vont
Pour rejoindre un autre rivage,
Sache que ce n'est qu'un voyage.
Ne pleure pas, ils reviendront.
Mais quand l'ennemi t'a rendu
Exilé dans ta patrie même,
Pleure et pleure donc, le cœur blême,
Pour ce pays à jamais perdu.
Trần Văn Lương
Cali, 7/2021
II. Phỏng dịch thơ Việt:
Đừng Than Khóc
Đừng than khóc khi mặt trời khuất dạng,
Cuốn mang theo những giọt nắng úa tàn,
Vì ngày mai, khi sương sớm dần tan,
Sẽ lại thấy ánh hồng lan khắp chốn.
Mảnh trăng đó cũng có ngày ẩn trốn,
Đừng âu sầu, đừng chộn rộn khóc than,
Chỉ vài hôm, trăng sẽ lại an nhàn
Trở về giữa lối ngàn sao lấp lánh.
Khi ngọn gió thu vút qua lành lạnh,
Vặt rừng cây trụi lá, nhánh khô phơi,
Đừng khóc than, cảnh xơ xác tả tơi
Sẽ biến mất nhanh như thời mới đến.
Khi những cánh chim giã từ từng chuyến,
Để tìm về một bến đỗ xa xôi,
Đây chỉ là chia cách tạm mà thôi,
Đừng than khóc, chúng rồi quay trở lại.
Nhưng khi bị lũ giặc thù vô loại,
Bắt lưu đày trên dải đất yêu thương,
Hãy vắt tim, dốc hết lệ đoạn trường,
Khóc cho một quê hương không còn nữa.
Trần Văn Lương
Cali, 7/2021
III. Phỏng dịch thơ Tây Ban Nha: (endecasílabos)
No Te Lamentes
No te lamentes cuando el sol se pone,
Después de disipar su luz divina,
Porque mañana, fiel a su rutina,
De nuevo el disco celeste se expone.
Cuando se esconde la luna chiquilla,
No lamentes su corta y oscura ausencia,
Porque pronto, con gran aplomo y gracia,
Reaparecerá esta maravilla.
Cuando el viento glacial de otoño viene,
Al bosque de sus hojas despojando,
No te lamentes. Como está cambiando
El clima, pronto el botín se detiene.
Y cuando emigran las aves hermosas
A alguna costa cálida y amigable,
Sepa que es solo un viaje inevitable.
No te lamentes, volverán con rosas.
Pues si tu tierra natal es vendida
Y el enemigo te ha en ella exiliado,
Ve a lamentar, el corazón quebrado,
Tu patria ahora por siempre perdida.
Trần Văn Lương
Cali, 7/2021
IV. Phỏng dịch thơ Anh văn: (iambic pentameter)
Don't Cry
Don't cry, when at day's end, you see the sun
Collect his fading rays and sink away,
Because, as soon as looms a fresh new day,
This red and blazing disc resumes his run.
When suddenly the moon cannot be seen,
Don't cry for her short-lived retreat from view,
Because in time she will appear anew,
Displaying her old grace and charming sheen.
When that cold autumn wind arrives and strips
The trees of their last leaves and keeps them bare,
Don't cry, because it's just a little flare
Which ends as quickly as the weather flips.
And when these migrant birds begin to turn
To find a distant warm and friendly shore,
Remember, it's a trip, no less no more.
Don't cry, when spring appears, they will return.
However, when right in your native land
The devils exile you through threats and fears,
Then squeeze your heart for all your bloody tears
To mourn this lost forever fatherland.
Trần Văn Lương
Cali, 7/2021
V. Phỏng dịch thơ Latin: (dactylic hexameter) (*)
Noli Flere
Quando sol sub horizonte denique recedit
Et solaris scintilla lenta omnino evanescit,
Noli flere, quia cras cum suo modu operandi,
Statim in caelum illa caelestis stella resurgit.
Quando luna per aliquot noctes abolescit,
Noli flere illam absentiam temporariam,
Quia actutum amplifice denuo resurget,
Cum elegantia vetera et fulgore venusto.
Quando ventus autumni advenit derepente,
Et tota folia floresque in silva relegat,
Noli flere. Cum ver denique cambire coepit
Caelum, natura iterum vultum novum habebit.
Et quando aves, ut hoc frigus durum eludant,
Incipiunt migrare ad nova litora calda,
Noli flere. Hoc iter est solum temporarium.
Cum florescunt veris plantae, hilare revenient.
Sed si ab inimicis occupata est tua terra
Et in ea ipsa infeliciter factus es exul,
Cordis sanguinem in lacrimas convertere debes
Ut lamenteris amissum aeternum patriae hujus.
Trần Văn Lương
Cali, 7/2021
(*) Ghi chú:
Phân nhịp (scan) ra các pieds (dactyl: D, spondee: S)
như sau:
Quāndō| sōl sŭb hŏ|rīzōn|tē dē|nīquĕ rĕ|cēdit SDSSDS
Ēt
sŏlă|rīs scīn|tīllā| lēnta‿ōm|nīno‿ĕvă|nē
Nōlī|
flērĕ, quĭ|ā crās| cūm sŭŏ| mōdu‿ŏpĕ|rā
Stātim‿īn|
cǣlum‿īl|lā cǣ|lēstīs |
Quāndō| lūnā| pēr ălĭ|quōt nōc|tēs ăbŏ|lēscit SSDSDS
Nōlī| flēre‿īl|lam‿ābsēn|tīām|
Quīā|⁔āctū|tum‿āmplĭfĭ|
Cum‿ēlē|gāntī|ā vĕtĕ|ra
Quāndō| vēntūs| āutūm|ni‿ādvē|nīt dĕrĕ|pēnte, SSSSDS
Ēt
tō|tā fŏlĭ|ā flō|rēsque
Nōlī| flērē|. Cūm vēr| dēnĭquĕ| cāmbĭrĕ| cœ̄pit SSSDDS
Cǣlūm|, nātū|rā⁔ĭtĕ|rūm vūl|tū
Ēt quān|dō⁔ăvĕs|, ūt hōc| frīgūs| dūrŭm⁔ĕ|lūdant, SDSSDS
Īncĭpĭ|ūnt mī|grārē|⁔ā
Nōlī| flēre.‿Hŏc ĭ|tēr
ēst| sōlūm| tēmpŏră|rīum.
Cūm flō|rēscūnt| vērīs| plāntae,‿hĭlă|rē rĕvĕ|nīent. SSSDDS
Sēd sī|⁔āb ĭnĭ|mīcīs| ōccŭpă|tāst tŭă| tērra SDSDDS
Ēt ĭn ĕa|‿īpsa‿īn|fēlī|cītēr|
Cōrdīs| sānguĭnĕm|⁔īn lăcrĭ|mā
Ūt lā|mēntĕrĭs| āmīs|sum‿ǣtēr|nūm pătrĭ|ae‿hūjus. SDSSDS
VI. Phỏng dịch thơ Hán:
莫 哭
若 見 太 陽 藏,
勸 君 莫 哭 喪,
明 天 它 復 返,
炯 炯 散 紅 光.
夜 長 月 沒 來,
莫 哭 莫 悲 哀,
不 久 銀 輪 出,
悠 悠 逛 九 陔.
秋 風 忽 不 平,
草 木 又 凋 零,
莫 哭 春 輝 至,
萋 萋 葉 再 生.
羣 鳥 漸 離 開,
避 寒 在 遠 涯.
莫 憂 愁 莫 哭,
時 到 眾 歸 來.
敵 已 抹 邊 疆,
流 亡 劫 難 長.
君 須 含 血 淚,
百 歲 泣 家 鄕.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Mạc Khốc
Nhược kiến thái dương tàng,
Khuyến quân mạc khốc tang,
Minh thiên tha phục phản,
Quýnh quýnh tán hồng quang.
Dạ trường, nguyệt một lai,
Mạc khốc, mạc bi ai,
Bất cửu, ngân luân xuất,
Du du cuống cửu cai.
Thu phong hốt bất bình,
Thảo mộc hựu điêu linh,
Mạc khốc, xuân huy chí,
Thê thê diệp tái sinh.
Quần điểu tiệm ly khai,
Tỵ hàn tại viễn nhai.
Mạc ưu sầu, mạc khốc,
Thời đáo, chúng quy lai.
Địch dĩ mạt biên cương,
Lưu vong kiếp nạn trường.
Quân tu hàm huyết lệ,
Bách tuế khấp gia hương.
Trần Văn Lương
Cali, 7/2021
Nghĩa:
Nếu thấy mặt trời ẩn,
Khuyên người đừng khóc hay ai điếu,
Ngày mai mặt trời trở lại,
Ánh sáng hồng tỏa ra rực rỡ.
Đêm dài, mặt trăng không đến,
Xin đừng khóc, đừng buồn khổ,
Chẳng bao lâu thì bánh xe màu bạc sẽ xuất hiện,
Thong dong dạo khắp chín tầng trời.
Gió thu chợt nổi giận,
Cỏ cây héo úa tàn tạ,
Xin đừng khóc, khi nắng xuân đến,
Lá cây sống lại tốt tươi.
Bầy chim dần dần bỏ đi,
Trốn lạnh nơi bến bờ xa.
Đừng lo buồn, đừng khóc,
Ngày giờ tới, đám đông sẽ quay lại.
(Nhưng khi) kẻ thù xóa hết biên cương,
Kiếp nạn lưu vong dài.
(Thì) xin người hãy ngậm lệ máu,
Trăm năm thương khóc quê nhà.