Còn Lại Gì Thu Sau Này.
Có phải thu nào lá cũng vàng, đỏ?
Có phải cành khô để nó ngô ngây?
Có phải trăng tàn cho trời đen tối?
Có phải lạnh về cho má hây hây?
Năm ngón tay tròn màu nắng vừa phai
Tay buông nắm đất cho lá ngần ngại.
Trái mùa thu, chú sóc chờ hạt dẻ
Con quạ đen, mắt biếc vét ruộng chiều.
Cố góp nhặt vài hạt thóc cô liêu.
Dòng suối chảy đưa nước về đâu nhỉ?
Kẻo kẹt, ván rên trên cây cầu khỉ
Cặp vịt xanh còn thả nước về xuôi.
Trời nhuốm lạnh, em bé quẳng cần câu
Hy vọng nhỏ tan dần theo chiều xuống.
Ánh nhợt nhạt soi bóng mặt gương vỡ
Một chiều thu nắng vàng, gió heo may.
Cõi đồng quê, héo hắt giữa ban ngày
Công xưởng lấp ruộng cày ngày sắp tới.
Thanh Hương
20 tháng 11 năm 2015
NHỚ LẠI LÚC THU VỀ
Tôi đến thăm Thu, sáng đầy sương sớm
Màn trời u ám, không một bóng che
Lặng yên, giữa quang cảnh vắng hoe
Không tiếng chim kêu, rừng hoang vắng vẻ
Còn đâu, những bài ca Hè đẹp đẽ
Với nắng vàng rực rỡ, vẽ nên thơ
Đuồi bóng râm, yên lặng ngủ trong mơ
Bình minh đến, từ tờ mờ chim hót
Những chú chim chuyền cành, đang nhẩy nhót
Vui nắng hè, nay trôi dạt về đâu
Đi xa rồi, uể oải đôi cánh nâu
Giữa mảnh trời u sầu, buồn xa xứ
Vài chú cú mắt tròn, đang ủ rũ
Ở lại tìm mồi cũ, dáng nhập nhoàng
Còn đâu vẻ hãnh kiêu, của một hè trong sáng
Mang đầy mình, lấp lánh lá dọc ngang
Sóc, hả hê cất dấu những hạt vàng
Đàn chim sẻ, vung cánh qua nắng ấm
Kiến càng, ngũ cốc chuyển mang, lấm tấm
Ong chăm làm, trữ mật ngọt, trầm ngâm
Nơi đây Thu cư ngụ, mối sầu thâm
Đang rải rác, âm thầm trùm, bao phủ
Cây xác xơ, đất trời ru giấc ngủ
Cảnh quạnh hiu, tiu nghỉu, trĩu cô đơn
Cô đơn, cô đơn nằm trên đá rêu, hờn . . .
__._,_.___
BÊN LIẾP TRẦU XANH
DTDB
Làm sao quên,
giặc về dân trôi nổi…
Nhà tản cư ở đậu
đất người ta!
Ngoài ao bèo
điên điển bông vàng ối
Người sầu lo!
Hoa làm dáng mặc hoa
Nhà mình thuở
đó: cấy, trồng, phơi, bó…
Lúa nếp gặt về
đập chứa đầy bồ
Những đêm nước
kém đặt lờ, kéo vó…
Chuối, mít, dừa…
lớp bán, lớp phơi khô
Má tháo vát nên
chân bùn, tay lấm…
Chẳng ngại nhọc
nhằn phụ giúp chồng con
Cá, vịt, heo,
gà… ủ rơm nuôi nấm
Dây trầu xanh
quấn quít gốc cau hòn
Nông thôn ơi!
Tươi vàng tơ nắng lụa
Tim nồng nàn tha
thiết thắm tình xuân
Người dân quê
hiền lành như bông lúa
Ba má vui, bên
con cháu quay quần…
Thời cuộc đổi
thay, quê hương nhuộm đỏ!
Nước loạn ly,
con tứ tán khắp nơi…
Nặng nghĩa ân,
ba không lìa thôn nhỏ
Dù đất đai bị
cắt bảy, chia mười…
Năm tháng dài,
nhớ cố hương chi lạ!
Mấy mươi năm,
con trở lại thăm quê
Bước chân lên
tàu nghe lòng rộn rã
Thời thanh xuân,
ngày đẹp cũ quay về
Con sẽ tâm sự
suốt đêm với má…
Kể ba nghe,
chuyện lạ xứ người ta…
Sau giặc chiếm,
làng thôn nghèo khổ quá!
Quê hương mình giờ thay đổi, lạ xa…
Mõi mắt dõi tìm
bóng hình yêu dấu!
Đâu hàng rào
bông bụp, khóm huỳnh anh?
Con sửng sờ, nát
lòng nào ai thấu!
Hai nấm mộ buồn
bên liếp trầu xanh!
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
ĐT: (530) 822 5622
Kính chuyển
Nguyễn Nhơn
DÒNG
SÔNG TUỔI THƠ
Tuổi
thơ ai cũng có một dòng sông
Tuổi thơ tôi có dòng
sông Thủ
Thủ Dầu Một, Bình Dương
Dòng sông Thủ
với cây cầu tàu sụp
Nửa nổi, nửa chìm
Với tuổi
thơ là niềm vui thú, tắm sông
Tuổi mộng mơ, ngắm
chiều tà hiu quạnh
Tuổi yêu đương, nơi chốn hẹn
hò
Khi cuộc tình dang dở
Nhìn dòng nước trôi
trôi
Như cuộc tình dang dở trôi
Cho tới ngày ra đi
biệt xứ
Cuộc đời chìm nổi
Như cây cầu tàu
sụp
Nửa chìm, nửa nổi, quê tôi
BÌNH
DƯƠNG MỘT NGÀY
Trở
lại chuyện BÌNH DƯƠNG một ngày. Cái công viên tàn tạ
ngày nay. Một thời yêu dấu của tuổi thơ. Chiều xuống
Bà Nội dắt tay cháu. Ra VƯỜN BÔNG dạo mát. Hột đậu
rang của ông Tàu nhai nhóc nhách. Xâu mía ghim ngọt lịm
que tre trắng ngần. Rồi đến thời thanh thiếu. Tối tối
mặc quần dài thay quần cụt. Đầu xức brillantine. Ta lã
lướt dạo chơi. Mắt lấm lét ngó các cô bạn nhỏ. Vườn
bông lúc nầy thành CÔNG VIÊN của ta.
Cái CẦU TÀU
nửa nổi nửa chìm. Tuổi mười lăm mười sáu. Lấy cớ
ngồi câu cá. Lặng ngấm buổi chiều tà. Ánh nắng vàng
rơi rụng bên kia sông. Để thấy lòng bâng khuâng hiu
quạnh. Rồi đến tuổi yên đương. Những đêm khuya thanh
vắng. Cô đơn nhìn dòng nước trôi trôi. Nước mắt buồn
rơi rơi. Khi cuộc tình dang dở.
DÒNG SÔNG THỦ lặng
lờ trôi. Chứng kiến bao thăng trầm. như chiếc cầu đổ
quê tôi. Đâu biết có một ngày. Có một đàn con nhỏ.
Gạt nước mắt ra đi. Không bao giờ trở lại.
Bình
Dương, Bình Dương của ai? Của tuổi thơ vui thú. Tuổi
thanh xuân phiêu bồng.
Bình Dương, Bình Dương của
ai? Những cuộc tình mật ngọt. Những cuộc tình vỡ
tan.
Bình Dương, Bình Dương của ai? Xứ THỦ, QUÊ
HƯƠNG tôi …
BÈO
GIẠT HOA TRÔI
Bèo
nhỏ ở trong ao
Bèo
lớn trôi trên sông
Lục
bình, hoa tím đẹp
Giữa
trời trăng, mây nước trôi
Trôi
mãi chẳng biết về đâu?
Như
phận gái bến nước mười hai
Trong
nhờ, đục chịu!
Lục
bình dòng sông Thủ
Lúc
vận nước ngã nghiêng
Trôi
giạt ra biển Đông
Vượt
Thái Bình dương
Giạt
vào dòng sông Mỹ
Chọn
nơi đây làm quê hương
Khi
lục bình nhớ dòng sông Thủ
Đọc
câu Kinh Phật vỗ về:
“ Tam
thiên, Đại thiên, Thế giới
Đâu
không phải là NHÀ?”
Lục
bình xứ Thủ
Nguyễn
Nhơn
TIẾNG HÁT NỬA VỜI - TRẦN TRỊNH
Nhạc sĩ Trần Trịnh viết rất nhiều nhạc và một số viết chung với người khác dùng dưới tên Trịnh Lâm Ngân
Hai
bài hát nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Trần Trịnh là Lệ Đá (lời Hà Huyền
Chi) và Tiếng Hát Nửa Vời và theo như Lê Ngọc Phượng, người viết rất
nhiều bài có giá trị về nhạc Việt, 2 bài này đã đưa ông tên tuổi ông lên
"một đẳng cấp khác"
Lệ Đá đã có bài Ngó Lui Mấy Chặng Đường Lệ Đá khá nhiều chi tiết do thi sĩ Hà Huyền Chi viết
Tiếng
Hát Nửa Vời, tôi có đọc và rất đồng ý với nhạc sĩ Thanh Trang đã viết
trong bài Về bài “Tiếng Hát Nửa Vời” của Trần Trịnh, là bài hát có giai
điệu đẹp đặc biệt. Thanh Trang cũng hợp ý với lời bài hát "mộc mạc" tiêu
biểu các câu như là “Thành ra lắm khi mình
nghĩ không nên hẹn hò..” (tuy ông không có thích nhóm chữ “Ora e
sempre” vì thấy "không mấy thuận tai.")
Tôi chỉ muốn bàn thêm về một chữ Trần Trịnh dùng viết lời trong bài
Đó là chữ "mình"
Ngoài
đời thỉnh thoảng nói chuyện với nhau khi đã (hay muốn) thân một cách
gần gũi nhau có người dùng "mình". "Mình", khi nói chuyện, có khi là
ngôi thứ nhất và có khi cũng là ngôi thứ hai. Trong Tiếng Hát Nửa Vời,
Trần Trịnh dùng cho cả 2 ngôi.
Chữ "mình" của ông dùng để
viết lời đã làm cho người nghe có cảm giác ông đang thủ thỉ tâm sự một
cách đơn giản "mộc mạc" và có lẽ chưa có người viết nhạc nào làm được
Mời nghe:
PAD
Phạm Anh Dũng
Tiếng Hát Nửa Vời
(nhạc và lời Trần Trịnh)
Biết đến ngày nào mình còn lê bước lang thang nhìn lá rơi trên hè chiều
Đã mấy chiều rồi, buồn nào không cánh bay cao,
Giọt nắng rưng rưng cả trời
Buồn vương thoáng qua,
Buồn như tiếng ca lạc lõng ru say vào hồn
Mình ta với ta một bóng ưu tư nặng đầy
Thành ra con đường hun hút chân mây
Biết đến ngày nào mình còn gom lá ươm hoa
Để ép trang thư hẹn hò
Những lúc giận hờn, ngoảnh mặt không nói,
Thương sao tà áo đoan trang, lệ nhòa
Tình yêu đó ư,
Nhìn nhau phút giây và trót trao nhau nụ cười,
Đường gieo nắng hoa, tinh ngỡ say sưa trọn đời
Nào ngờ nay là thương nhớ không nguôi
Đã bao lần, mình bảo sao không nói đi,
Biết bao lần chỉ cười mà không nói chi
Phố vắng rồi, ngại bước đi thêm
Đưa nhau về để lại đàng sau trời tím
Bỗng một ngày mình dìu nhau đi rất xa
Gió tung vàng để vòng tay thêm thiết tha
Tiếng hát nào chợt vút lên cao
O-RA E SEM-PRE!
Ân tình là trời mê ....
Tiếng hát nửa vời
Người vội quay gót đi nhanh
Mình đứng im nghe ngậm ngùi,
Mãi mãi nghìn đời
Mình còn thương nhớ nhau không
Thì cũng xa nhau thật rồi.
Ngày vui chóng qua,
Thành ra lắm khi mình nghĩ không nên hẹn hò
Người đi quá xa còn nỡ mang theo nụ cười
Để lại khung trời hoang vắng đơn côi
oooo
Octobre 2015.
Musique : Vinh-Thien Quach.
Voyage en Images et en Musique :
L'áo
dài est une robe traditionnelle vietnamienne. Cette robe est notamment
l'uniforme des élèves et des étudiantes, des hôtesses de l'air, etc. Il
est porté par la quasi-totalité des femmes lors des cérémonies
officielles, des conférences ou encore des mariages. Dans le sud du Viêt
Nam, ce mot se prononce « ao yaï » et dans le nord « ao zaï ».
Les
premières versions de l'áo dài remonteraient aux années 1700. À
l'époque, le Viêt Nam était divisé en deux, la dynastie Trinh au nord,
où les robes étaient copiées sur les costumes impériaux chinois, et
celle des Nguyễn au sud. En 1744, Nguyễn Phúc Khoat décida de la forme
du costume national afin de marquer son affirmation vis-à-vis de son
voisin du nord. Il existait alors une version pour homme et une version
pour femme. Le port du pantalon était obligatoire tant pour les hommes
que pour les femmes. La version homme n'est désormais utilisée que dans
de très rares occasions comme lors du mariage (mais pas pendant toute la
cérémonie) ou des funérailles.
Ce costume
survécut jusqu'en 1930 quand un créateur de mode de Hanoï, Cát Tường, le
modifia en le simplifiant : il rallongea le bas, le rapprochant des
courbes du corps, réduisit le nombre de pans de cinq à deux, mit des
boutons de fermeture sur le côté et fit varier la forme de col. Ce
modèle provoqua un scandale, étant jugé par les conservateurs comme trop
indécent. Il obtint néanmoins un tel succès qu'il devint bientôt la
norme.
Au nord, au lendemain de l'indépendance en
1954, le costume fut bientôt banni, car inapproprié au travail et trop
coûteux. Au sud, en revanche, sa popularité augmenta, principalement
sous l'influence de la Première dame du pays, Madame Ngô Dinh Nhu, qui
le portait dans toutes les occasions, arborant même des modèles
décolletés. Elle fut bientôt imitée par la bourgeoisie. L'áo dài devint
également l'uniforme obligatoire des lycéennes.
Depuis
les années 1990, il connaît une résurgence, grâce notamment aux
stylistes Minh Hanh et Sy Hoang. Le port du vêtement traditionnel est
maintenant encouragé. Il est souvent arboré lors des fêtes, comme celle
du Têt, ainsi que par le personnel œuvrant dans le secteur touristique.
Il demeure toujours l'uniforme obligatoire des lycéennes et des
étudiantes.
Còn Lại Gì Thu Sau Này, thơ Thanh Hương
--