Đó là thành phố Cần Thơ, một miền đất trù phú và người dân ở đây thật hiền lành.
Tôi xin lưu lại đây một bài được tiếp chuyển cho những người đã từng sinh sống tại thành phố này luôn nhớ về nó dù họ còn đó hay ở một nơi xa xứ.
Tôi có thêm vào đây một số hình ảnh sưu tầm, hy vọng sẽ là món quà nhỏ cho những ai đã sinh sống tại nơi này.
Caroline Thanh Hương
Đọc thêm
Nghe đọc truyện về miền Nam, sông Mékong và Cần Thơ với tác giả Nguyễn Vĩnh Long Hồ và Ngô Thế Vinh.
Đôi nét về xứ
sở và con người Cần Thơ
Do đồng
hương Cần Thơ
Nguyễn Công Danh
Nguyễn Trung Quân
Lê Hoàng Viện
Đồng cựu học sinh
Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ
soạn thảo
Nguyễn Công Danh
Nguyễn Trung Quân
Lê Hoàng Viện
Đồng cựu học sinh
Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ
soạn thảo
TRUYỀN THUYẾT VỀ HAI CHỮ CẦN THƠ
Bài viết “Đôi Nét Về XỨ SỞ và CON NGƯỜI CẦN THƠ” dùng để phổ biến trong buổi
thuyết trình tại hội trường của Viện Việt Học tại Orange County (Nam
California) vào chiều ngày Chúa Nhật 12 tháng 12 năm 2004 do GS Nguyễn Trung
Quân trình bày trong hai tiếng đồng hồ, đã lôi cuốn sự chú ý của hơn một trăm
thính giả đến nghe ông kể chuyện về quê hương mình. Buổi thuyết trình nầy do Việt
Việt Học tổ chức “trong chiều hướng tìm hiểu về Tư tưởng Địa lý: Khoa Địa lý
khu vực và Địa lý lịch sử của các địa phương, buổi thuyết trình với đề tài Vài
Nét Về Xứ Sở Và Con Người Cần Thơ” do Hội Thân Hữu Cần Thơ và Hội Cựu Học Sinh
Trường Trung Học Phan Thanh Giản và Đoàn Thị Điểm Cần Thơ thực hiện. Trong
tương lai Viện Việt Học dự trù sẽ tổ chức các buổi thuyết trình, triển lãm,
trình diễn văn nghệ về các khu vực và các tỉnh, các thành phố Việt Nam. Từ mỗi
nét riêng lẻ, đặc thù của trừng địa phương tổng hợp lại sẽ cho chúng ta cái
nhìn tổng thể về đất nước và con người Việt Nam. Với cái nhìn này sẽ là hành
trang cần thiết cho chúng ta, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam tại hải ngoại trên
con đường xây dựng một nền Việt Học tân tiến phù hợp với trào lưu của thế giới
(…) (trích Lời Giới Thiệu của Viện Việt Học trong tập tài liệu Đất Nước Và Con
Người Cần Thơ – Little Saigon, tháng 12/2004).
Do khuôn khổ và số trang Giai phẩm Xuân Ất Dậu 2005 của Hội Ái Hữu Cần Thơ tại
Houston Texas có giới hạn, các phụ lục đính kèm bài thuyết trình không thể in lại
đầy đủ (dù trong bài có ghi), và muốn bổ sung thêm cho tròn vẹn ý của bài, nên
chúng tôi xin được giới thiệu lại một đoạn viết về truyền thuyết của hai chữ CẦN
THƠ, trích trong phần đầu bài “Cần Thơ Quê Hương Tôi” (in trong tập bút ký Quê
Hương Xa Mãi Ngút Ngàn của Lê Cần Thơ do tác giả tự xuất bản năm 2000 tại Hoa Kỳ
- Phụ lục I) nghĩ rằng cần thiết. Đó là “Truyền thuyết về hai chữ Cần Thơ”như
sau:
“Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất màu mỡ phù sa, quanh năm nước ngọt tưới
mát ruộng đồng, vườn xanh oằn bông sai trái. Hai tiếng Cần Thơ đối với tôi sao
mà thiết tha, trìu mến, dịu dàng, đôn hậu... như tấm lòng người dân Cần Thơ, đã
cho tôi niềm tin khi mở mắt chào đời.
Có người hỏi tôi ý nghĩa hai tiếng Cần Thơ? Thật lúng túng khi phải tìm nguồn gốc
giải thích tên một vùng đất quê hương đã gắn liền với tôi như máu thịt, bởi tôi
chưa tìm được tài liệu nào chính xác cho sự xuất hiện của hai tiếng Cần Thơ...
ngoài giả thuyết sau đây mà thời còn đi học tôi có dịp nghe được.
Tương truyền rằng, khi Nguyễn Vương bị đại binh Tây Sơn truy nã,
Ngài và cụ Nguyễn Huỳnh Đức phải đi lánh nạn. Khi vào Rạch Giá được ít lâu thì
Ngài và cụ Nguyễn Huỳnh Đức giả dạng thường dân đi lần ra tỉnh “Càn Giang” (?),
nhưng không hiểu vì tam sao thất bản hay vì lẽ nào mà chữ “Càn” lần lần thành
ra chữ “Cần”.
Nguyễn Vương và cụ Nguyễn Huỳnh Đức có ý ra Càn Giang để đi xuống “Cù lao
Dung”(vùng Sóc Trăng) vì ngài có lò đúc tiền kẽm và vài người tôi trung ở đó.
Trong lúc đi theo đường sông từ Long Mỹ qua Càn Giang, Nguyễn Vương và cụ Nguyễn
Huỳnh Đức thường gặp các ghe thương hồ, ban đêm trăng tỏ, ghe thì đàn, ghe thì
hát, khiến Ngài ngậm ngùi tủi cho thân chìm nổi, nên làm vài bài thơ để giải sầu
trong lúc thuyền còn lênh đênh trên dòng nước Càn Giang. Rồi từ đó về sau, mỗi
khi đến tiết thu, mấy bực thi gia thường ngồi thuyền thưởng nguyệt vịnh thi
phú. Họ đặt “Càn Giang” lại là “Cầm Thi Giang” (ý nói sông để đàn ca vịnh phú).
Lần lần gọi trại chữ “Cầm” ra “Cần” và “Thi” ra “Thơ”. Từ đó “Cần Thơ” xuất hiện.
Trong Cần Thơ xưa và nay của Huỳnh Minh có ghi một truyền thuyết mà ông cho là
của các bô lão kể lại “nơi đây khi xưa có trồng rất nhiều loại rau cần và
rau thơm, mỗi khi chủ vườn cắt rau đem đi bán, rao cùng đường: ai mua rau cần
rau thơm không?
Rau Cần, rau Thơm xanh mướt
Mua mau kẻo hết, chậm bước không còn.
Thiên hạ xúm nhau mua hai loại rau nầy rất nhiều, lâu ngày chầy tháng, danh từ
rau Cần, rau Thơm được giới bình dân phổ biến thành câu ca dao:
Rau Cần lại với rau Thơm
Phải chăng đất ấy rau Thơm có nhiều.
Cũng có người lẩn thẩn gọi đại tên xứ đó là xứ Cần Thơ. Hai giả thuyết nầy,
không biết giả thuyết nào đúng? Hoặc giả một địa danh mà có đến hai sự kiện xảy
ra trùng hợp nhau. Hai tiếng Cần Thơ trở thành một địa danh thời bấy giờ”.
Có nhiều nhà sưu khảo đã khổ công truy tìm cho có hệ thống sự
xuất hiện của tên gọi nầy, tôi hiện không đủ tư liệu để liệt kê hết ra đây.
Nhưng với riêng tôi... những gì còn trong truyền thuyết bao giờ cũng có thi vị
của nó” (sđd, tr. 11-14).
Mời quý vị đi vào nội dung chánh bài thuyết tình hợp soạn:
I. XỨ SỞ CẦN
THƠ
A. LỊCH SỬ
HÌNH THÀNH
1. THỜI KHAI PHÁ
Tác giả Huỳnh Minh trong CẦN THƠ XƯA VÀ NAY (1) cho rằng “Mạc Cửu sau khi bình
định xong vùng Hà Tiên, năm 1714, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên và hòn Phú Quốc cho
chúa Nguyễn Phúc Chu. Đến năm Ất mão 1735 Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ nối
nghiệp, mở mang thêm vùng đất Hậu Giang. Năm Kỷ vị 1739, hoàn thành cuộc khai
thác miền Tây, Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện:
Long Xuyên (miền Cà Mau)
Kiên Giang (Rạch Giá)
Trấn Giang (miền Cần Thơ)
Trấn Di (miền Bắc Bạc Liêu)
Thế là năm Kỷ vị 1739, tỉnh Phong Dinh ngày nay vốn là phần đất nằm trong khu vực
huyện Trấn Giang xưa, do công Mạc Thiên Tứ khai hoang.
Bấy giờ Trấn Giang (Cần Thơ) còn là một vùng rừng tràm xen lẫn rừng đước, thú dữ
tràn đầy. Thế mà tiền nhân đã dày công phá rừng mở đất, dần dần biến thành nơi
văn vật, thật đáng cho các thế hệ sau hinh hương sùng bái tinh thần dũng cảm ấy,
đề cao công trình vô cùng gian nan khổ nhọc ấy” (CTXVN).
Như chúng ta đều biết đất nước ta thời Trịnh Nguyễn phân tranh lấy sông Gianh
làm ranh giới, từ Thuận Hoá trở ra Bắc gọi là Đàng Ngoài, từ Thuận Hoá trở vô
Nam gọi là Đàng Trong.. Chúa trị vì Đàng Trong lúc bấy giờ là Võ Vương Nguyễn
Phúc Khoát đã tiếp nhận phần đất mới khai phá do Mạc Thiên Tứ đem dâng chúa
Nguyễn sáp nhập vào dư đồ Việt Nam, cũng như trước kia Ông Mạc Cửu cũng đã dâng
đất Hà Tiên từ năm 1714. Năm Giáp tý 1744 Đàng Trong chia lãnh thổ thành 12
dinh, trong đó miền Nam có 3 dinh là: Trấn Biên dinh, Phan Trấn dinh và Long Hồ
dinh.
Thời tranh hùng giữa Chúa Nguyễn và Tây Sơn là một cuộc “nội chiến Đàng Trong”
diễn ra khốc liệt trong 26 năm liền (1777-1802), “khói lửa đã dập vùi xương máu
dân chúng miền Nam vô kể, điêu tàn thảm khốc nhất là dân chúng miền Tây. Nào
vùng Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ, Cà Mau lần lượt biến thành bãi chiến trường
kinh khủng. Nơi đâu có dấu vết Nguyễn Ánh thì ở đấy có cuộc xung sát với Tây
Sơn” (CTXVN). Cho đến khi chúa Nguyễn Ánh thống nhất non sông, lên ngôi đế tức
Gia Long, đất nước mới thấy lại cảnh thanh bình.
2. THỜI CẬN KIM
Dưới thời Gia Long, định lại dư đồ, đổi địa giới dinh
Long Hồ là dinh Hoằng Trấn, rồi đổi gọi là Vĩnh Trấn (Quí hợi 1803), năm Mậu
thìn 1808 lại đổi làm trấn Vĩnh Thanh dưới quyền cai trị của quan Trấn thủ, Hiệp
trấn và Tham hiệp. Vùng Cần Thơ bấy giờ thuộc trấn Vĩnh Thanh, phủ Định Viễn.
Năm Quí dậu 1813, cắt đất phân ranh lại, lập thêm huyện Vĩnh Định là vùng đất
phì nhiêu nhất. Cần Thơ lúc bấy giờ là Vĩnh Định, vẫn thuộc phủ Định Viễn, trấn
Vĩnh Thanh.
Dưới thời Minh Mạng, năm Nhâm thìn 1832 trấn Vĩnh Thanh đổi là trấn Vĩnh Long,
phân hạt gọi là tỉnh Vĩnh Long, đem hai huyện Tuân Nghĩa, Trà Vinh, nguyên thuộc
phủ Lạc Hoá (trước thuộc thành Gia Định) nay thuộc tỉnh Vĩnh Long; còn hai huyện
Vĩnh Định (tức Cần Thơ xưa), Vĩnh An và đạo Châu Đốc cải thuộc tỉnh An Giang,
và lập thêm huyện Vĩnh Trị thuộc phủ Định Viễn. Do vậy, Cần Thơ bấy giờ (huyện
Vĩnh Định) đã tách ra khỏi Vĩnh Long, mà thuộc về An Giang, và thuộc phủ Tân
Thành chớ không thuộc phủ Định Viễn như trước. Đến năm Kỷ hợi 1839, vùng đất Cần
Thơ lại mang tên huyện Phong Phú, thuộc phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang gồm 3 tổng
và 31 xã thôn.
Dưới thời Tự Đức và thời Pháp thuộc: trải qua các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đức, miền Nam nước Việt vẫn chia làm 6 tỉnh: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường (miền
Đông), Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (miền Tây), nên dân gian thường quen gọi là
Nam Kỳ Lục Tỉnh. Thời Pháp thuộc đã chia đất miền Nam làm 20 rồi 21 tỉnh, nhưng
dân vẫn quen gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh. Do Hoà ước Nhâm tuất (5 Juin 1862) miền
Nam bị đặt dưới quyền đô hộ của Pháp. Từ sau ngày 25 Juin 1867 (năm Đinh mão),
ba tỉnh miền Tây lọt vào tay Pháp.
Ngày 1 tháng giêng 1868, do Nghị định của Thống đốc Nam kỳ là Bonard, huyện
Phong Phú (Cần Thơ) sáp nhập với Bai sau (?) đặt hành một quận, dưới quyền cai
trị của một viên quan Pháp, Toà Bố (hành chánh) tại Sa Đéc. Ngày 30 tháng 4 năm
1872, thống đốc Nam kỳ lại ra nghị định, sáp nhập Phong Phú (Cần Thơ) với Bắc
Tràng là một vùng thuộc phủ Lạc Hoá tỉnh Vĩnh Long lập Toà Bố tại Trà Ôn. Rồi
do nghị định của Soái phủ Sài Gòn, ngày 23 Février 1876, vùng Phong Phú lập
thành tỉnh, mang tên Cần Thơ. Toà Bố (Hành Chánh) đặt tại tỉnh lỵ Cần Thơ, Trà
Ôn thì trở thành quận. Viên quan Pháp đầu tiên trấn nhậm tỉnh Cần Thơ là Đại úy
Nicolai, chức Tham biện hạng nhì.
Nhà cầm quyền Pháp chia ranh giới tỉnh Cần Thơ gồm 5 quận, 8 tổng và 72 xã: Quận
Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Trà Ôn và Cầu Kè. Về sau phân định lại, toàn tỉnh
vẫn 5 quận nhưng gồm 10 tổng, 94 làng. Cai trị một quận thì có vị Chủ quận (Quận
trưởng), đứng đầu tổng thì có vị Cai tổng, Phó tổng, Bang biện, Sung biện. Các
xã thì có ban hội tề gồn 12 vị hương chức: Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương
Trưởng, Hương Chánh, Hương Giáo, Hương Bộ, Hương Quản, Hương Thân, Hương Hào,
Hương Xã và Chánh Lục Bộ (cũng gọi là đội bộ, tức ủy viên hộ tịch sau nầy).
3. THỜI CỘNG HOÀ
Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh, Chánh Tham biện De Montaigut bỏ tỉnh
rút vào đồng quê cương quyết kháng Nhật. Từ tháng 8 biến cố thêm dồn dập bao
trùm Cần Thơ, cuộc xung đột giữa Việt Minh và Phật Giáo Hoà Hảo, nào cảnh xử bắn
ba ông Huỳnh Thạnh Mậu, Trần Văn Hoành và Việt Châu Nguyễn Xuân Thiếp tại vận động
trường Cần Thơ, không khí càng căng thẳng. Đến khi Anh – Pháp trở lại hoành
hành, chiếm đóng Cần Thơ bốn bề súng lại nổ vang rền. Đặc biệt trong ngày 12
tháng 11 khi Lê Bình bất thần đánh vào chợ và cầu Cái Răng, quân Pháp từ Cần
Thơ đem tàu chiến kéo vào, gieo hãi hùng suốt ngày đêm, khói lửa đỏ trời.
Suốt thời gian Quốc Trưởng Bảo Đại chấp chánh, Cần Thơ không có gì thay đổi
đáng kể cho đến khi có Hiệp định Genève đình chiến năm 1954 và năm sau có cuộc
“trưng cầu dân ý”, diễn ra truất phế Bảo Đại, ông Ngô Đình Diệm chấp chánh để lập
nên nền Đệ Nhất Cộng Hoà..
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, do hai sắc lệnh ngày 22 tháng 10 -1956 và ngày 16
tháng 9 năm 1958, tỉnh Cần Thơ đổi tên là Phong Dinh.
Ranh giới được sửa đổi lại: cắt hai quận Trà Ôn và Cầu Kè sáp nhập tỉnh Vĩnh
Bình (Trà Vinh). Lập hai quận khác là Long Mỹ và Kế Sách. Chẳng lâu, lại cắt phần
đất Kế Sách trả cho tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng) rồi chia quận Long Mỹ làm hai quận
Đức Long và Long Mỹ. Nhưng cũng không lâu, lại tách hai quận Đức Long và Long Mỹ
sáp nhập tỉnh Chương Thiện. Rồi lập hai quận khác là Khắc Nhơn và Khắc Trung
(sau đó sửa lại là Thuận Nhơn và Thuận Trung). Năm 1966 lập quận Phong Điền và
đầu năm 1970 lập thêm quận Phong Thuận. Do đó thời nhị Cộng Hoà miền Nam, tỉnh
Phong Dinh có 1 thị xã và 7 quận.
Về mặt địa lý có thể tóm tắt: Tỉnh Phong Dinh ở về phía Tây Nam miền Nam nước
Việt. Tỉnh lỵ Cần Thơ cách thủ đô Sài Gòn 169km. Đông Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long
và Vĩnh Bình bằng khúc sông Hậu Giang chạy dài khoảng 50km. Đông Nam giáp tỉnh
Ba Xuyên (Sóc Trăng). Tây Bắc giáp tỉnh An Giang (Long Xuyên). Tây Nam giáp tỉnh
Chương Thiện. Với diện tích toàn tỉnh là 162.257 km2.
(1). Thị Xã CẦN THƠ có 2 quận và 8 phường:
(1). Quận NHỨT có 5 phường: An Lạc, An Cư, An Nghiệp, An Thới, An Hoà.
(2). Quận NHÌ có 3 phường: Hưng Phú, Hưng Lợi, Hưng Thạnh.
(2). Tỉnh PHONG DINH
(1). Quận CHÂU THÀNH có 9 xã: An Bình, Thường Thạnh, Thường Thạnh Đông, Tân Phú
Thạnh, Phú Thứ, Long Tuyền, Giai Xuân, Đông Phú, Thạnh An.
(2). Quận PHONG PHÚ có 9 xã: Thới Thạnh, Thới An, Thới Long, Phước Thới, Thới
An Đông, Tân Thới, Định Môn, Trường Thành, Bình An.
(3). Quận PHỤNG HIỆP có 6 xã: Phụng Hiệp, Long Thạnh, Đông Phước, Tân Phước
Hưng, Hiệp Hưng, Hoà Mỹ.
(4). Quận THUẬN NHƠN có 5 xã: Tân Hoà, Thạnh Hoà, Tân Bình, Chủ Thiện, Lễ Tâm.
(5). Quận THUẬN TRUNG có 4 xã: Thới Đông, Thới Lai, Thạnh Phú, Ngôn Thiện.
(6). Quận PHONG ĐIỀN có 5 xã: Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Mỹ Khánh, Cầu Nhiếm, Trường
Long.
(7). Quận PHONG THUẬN có 4 xã: An Lạc Thôn, Phong Nẫm, Xuân Hoà, Phú Hữu
4. CẦN THƠ SAU 30-4-1975
Sau năm 1975, tỉnh Phong Dinh sáp nhập với Chương Thiện và một phần Sóc Trăng lập
thành tỉnh Hậu Giang, sau đó lập trở lại tỉnh Sóc Trăng.
Thành phố Cần Thơ nằm giữa đồng bằng sông cửu Long có đầu mối giao thông quan
trọng. Từ Sài Gòn muốn đến các tỉnh cực Nam như Chương Thiện, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Cà mau đều phải qua Cần Thơ theo quốc lộ 1 (quốc lộ 4 trước năm 1975);
thêm vào đó có liên tỉnh lộ 27 nối liền Cần Thơ với An Giang (Long Xuyên, Châu
Đốc), thông đến Kiên Giang (Rạch Giá, Hà Tiên). Nằm trên ngã ba sông, chỗ hợp
lưu sông Hậu và sông Cần Thơ vừa rộng vừa sâu nên thuận lợi về giao thông đường
thủy từ nội địa lên Campuchia và ra biển Đông. Là đơn vị thuộc tỉnh Hậu Giang
(Phong Dinh cũ), nằm vắt ngang vĩ tuyến 10o Bắc, kinh tuyến 105o Đông. Phía Bắc
giáp tỉnh Vĩnh Long, Nam giáp quận Châu Thành (Cái Răng), Tây giáp quận Phong
Phú (Ô Môn). Diện tích toàn thành phố 141, 29km2 gồm cả vùng ven và nội ô, tổ
chức hành chánh hiện nay trong thành phố gồm 15 phường và 7 xã. Theo thống kê
năm 1985, dân số 274 ngàn người.(2) (QHXMNN)
Đầu năm 2004, tỉnh Hậu Giang lại tách tách thành hai đơn vị hành chánh, Tỉnh Hậu
Giang (mới) tỉnh lỵ đặt tại Vị Thanh và thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương
(Hà Nội) lấy thêm phần đất của huyện Thốt Nốt trước kia của An Giang sau nầy
thuộc Hậu Giang, phân chia địa phận lại như sau:
(1). Tỉnh HẬU GIANG: Phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang, phía Bắc giáp thành phố Cần
Thơ và tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Đông giáp tỉnh Sóc
Trăng.
Diện tích tự nhiên 160.722,49 ha; diện tích rừng: 3.604,62ha; diện tích đất trồng
lúa, màu: 86,516,32ha; diện tích đất trồng cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả:
23.940,17 ha; diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản: 121,48ha.
Dân số tổng cộng 772.239 người, trong đó, 379.069 nam, 393.170 nữ. Người Kinh
chiếm 96,44%. Người Hoa chiếm 1,14%. Người Khơme 2,38%. Các sắc dân khác chiếm
0.04%. Khu vực thành thị: 115.851 người; nông thôn: 656.388 người.
Đơn vị hành chánh: Có tổng số 5 huyện (Châu Thành A, Châu Thành, Phụng Hiệp, Vị
Thủy và Long Mỹ), 1 thị xã (Vị Thanh), trong đó có 7 thị trấn, 48 xã và 5 phường.
(3).
(2). Thành phố CẦN THƠ (trực thuộc trung ương), nằm ở trung tâm đồng bằng sông
Cửu Long, phía Tây sông Hậu, phía Bắc giáp An Giang, phía Nam giáp Hậu Giang,
phía Tây giáp Kiên Giang, phía đông giáp Vĩnh Long và Đồng Tháp.
Diện tích tự nhiên: 138.959,99 ha, trong đó quận Ninh Kiều 2.922,04ha; quận
Bình Thủy 6.877,69ha; quận Ô Môn 12.557,26ha; huyện Phong Điền 11.948,24ha; huyện
Cờ Đỏ 40.256,41ha; huyện Thốt Nốt 17.110,08ha; huyện Vĩnh Thạnh 41.034,84ha.
Dân số 1.121.141 người, trong đó có 550.334 nam, 570807 nữ. Người Kinh
1.082.703; người Hoa 19.018; người Khe-me 18.830. Các dân tộc khác 590 người.
Khu vực thành thị 559040 người; nông thôn 562.101 người.
Đơn vị hành chánh: Có tổng số 4 quận (Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn) và
4 huyện (Phong Điền, Cờ Đỏ, Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh), trong đó có 3 thị trấn, 30
phường và 34 xã. (4).
B. SINH HOẠT
NHÂN VĂN
1. TÔN GIÁO. Cũng như nhiều tỉnh thành cả nước, Cần Thơ với số dân đông như vậy
cũng có nhiều tôn giáo khác nhau, vì đây là phương diện tín ngưỡng của toàn
dân. Kinh nghiệm cho thấy hầu hết người Việt Nam có tinh thần sùng kính đạo
pháp, không phân biệt màu da chủng tộc, sẵn sàng chấp nhập mọi điều phải, mọi
chân lý. Có thể liệt kê ra đây các tôn giáo hiện diện trong Cần Thơ: Ngoài số
cư dân chỉ Thờ cúng Ông Bà tại gia với bàn thờ “Cửu Huyền Thất Tổ” mà trong dân
gian thường gọi là “Lương giáo”, các tôn giáo sau đây đã có nhiều tín đồ sinh
hoạt như: Phật giáo (gồm nhiều tông phái xin gọi chung là Đạo Phật), Thiên chúa
giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật Giáo Hoà Hảo, Tu Tại Gia, Phật Giáo Miên, Cổ Sơn
Môn, Đạo Bahai. Và cũng xin tóm lược qua một số nét về các tôn giáo có đông tín
đồ như:
(1). Đạo Phật: từ lâu nay toàn tỉnh Phong Dinh/Cần Thơ có nhiều ngôi chùa Phật.
Người Hoa Kiều thì có những ngôi chùa Ông, chùa Bà, chùa Ông Bổn. Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất đã lập nên chùa Kiến Quốc ở lộ 20, sau đó các vị trụ
trì chuyển về chùa Khánh Quang ở đường Nguyễn Huỳnh Đức (nay đổi tên đường Nam
Kỳ Khởi Nghĩa). Hội Phật Học thì có chùa Phật Học ở góc đường Hoà Bình - Nguyễn
Thái Học. Có chùa nữ Bảo An dành cho các ni cô, sư nữ và chùa cô hồn Bửu An
cũng tọa lạc trên đường Nguyễn Thái Học. Trên đường Hoà Bình có chùa Tịnh Độ Cư
Sĩ. Trong Rạch Côn có Chùa Cây Bàng, chùa Thới Long (gần dốc cầu đôi mới đối diện
trường Trí Đức), chùa Giác Linh (trong Vườn Thầy Cầu), Chùa Đàn Tiên, chùa nữ
Thiên Quang (phía bên kia bờ rạch Cái Khế đối diện chùa Đàn Tiên). Có chùa Nam
Nhã (gần dốc cầu Bình Thủy), chùa Hội Linh. Ở Cái Răng có chùa Hiệp Thiên Cung
nghe tương truyền rất linh thiêng do người Hoa sáng lập, hằng năm tổ chức cúng
kiến long trọng suốt 3 ngày đêm 12, 13 và 14 tháng 5 âm lịch, v.v… Phái du tăng
khất sĩ thành lập hai tịnh xá Ngọc Minh và Ngọc Liên… Còn rất nhiều chùa Phật
giáo thuộc các tông phái rải rác khắp các quận trong tỉnh không đủ tài liệu thống
kê. Tuy nhiên cho thấy, chùa là tụ điểm quy tụ sự tín ngưỡng và tôn thờ của người
dân đối với đạo Phật. Hàng năm các cuộc lễ cúng đình ở Cái Răng, Bình Thủy đều
quy tụ thật đông người tham dự.
(2). Đạo Công Giáo: Công giáo hay Thiên chúa giáo La Mã có ngôi nhà thờ Chánh
toà ở đường Nguyễn Công Trứ (gần Cầu Xéo), hằng năm mỗi lần tổ chức lễ Giáng
Sinh tất cả giáo dân từ khắp nơi đổ về rất đông; còn có một nhà thờ ở lộ 20 (đường
Kiến Quốc sau nầy đổi là Nguyễn Văn Cừ) và nhà thờ Vinh Sơn (dưới dốc cầu đôi mới
– trên đường Trần Hưng Đạo). Toà giám mục đặt tại một biệt thự trên đường Nguyễn
Trãi gần nhà đèn). Có Chủng viện Á Thánh Quý, nơi đào tạo các vị linh mục tương
lai. Chủng viện nầy là một trong nhiều cơ sở giáo dục lớn của Hội Thánh Công
Giáo ở miền Hậu Giang, nhằm đào tạo các thiếu niên để sau nầy có đủ tài đức làm
linh mục và hoạt động trong các đạo của những tỉnh Phong Dinh, Ba Xuyên, Chương
Thiện, Bạc Liêu và An Xuyên. Chủng viện Cái Răng mang tên là Á Thánh Quý.
Chữ Quý là tên của linh mục Đoàn Công Quý (1826-1859) người làng Búng, tỉnh Gia
Định. Linh mục Đoàn Công Quý đã can đảm hy sinh mạng sống để làm chứng
lòng trung tín của mình với Thiên Chúa. Ngài bị trảm quyết vì đức tin thời
vua Tự Đức (1859) tại Châu Đốc, được hội thánh công giáo tôn phong lên bậc Á
Thánh. Chủng viện Á Thánh Quý được thành lập từ năm 1956 ở Khánh Hưng Ba Xuyên,
nhưng vì đất đai chật hẹp, đã được di chuyển về Cái Răng (Cần Thơ) tháng 12 năm
1961.
(3). Đạo Tin Lành: Nhà thờ Tin Lành còn gọi là Nhà Giảng Tin Lành thì có ngôi
nhà thờ ở góc đường Phan Thanh Giản, sau đó trên đường Phan Thanh Giản cũng cất
lên một ngôi nhà thờ gần tới cuối đường và một ngôi nhà thờ ở đường Hoà Bình của
quân đội. Những ngày chủ nhật và ngày lễ đạo, dập dìu tín đồ trang nghiêm dự lễ.
Không khí đạo đức tràn lan, cảnh tượng dập dìu êm ả.
(4). Đạo Cao Đài cũng đã phát triển, các thánh thất và cao thương bửu toà tôn
quí được dựng lên để tín đồ đến nguyện cầu và hành lễ. Theo ông Huỳnh Minh
(CTXVN trang 213-215) ghi là “Đức giáo chủ đạo Cao Đài họ Ngô huý Văn Chiêu, đạo
hiệu Minh Chiêu, dòng dõi quan Thị Lang triều đình Huế, di cư vào Nam khoảng
năm 1864-1966, ngụ ở khu Hoà Hưng (ngoại ô Sài Gòn - Chợ Lớn). Thân phụ Ngài là
Ngô Văn Xuân, thân mẫu là Lâm Thị Quý. Ngài ra đời ngày 7 tháng giêng năm Mậu dần
(nhằm 28-2-1878) nơi quê Mẹ tại Bình Tây (Chợ Lớn) (…)..năm 21 tuổi đỗ bằng
Thành Chung, ra làm việc tại sở Tân Đảo Sài Gòn từ ngày 23-3-1899 đến
31-12-1902. Rồi đổi sang tùng sự tại dinh Thượng thư, sau đổi xuống toà Hành
Chánh Tân An. Năm 1917, Ngài đỗ Tri huyện, nhưng vẫn sống thanh bần, liêm
chính. Từ năm 1920 đến 1924 Ngài ngồi chức quận trưởng Phú Quốc (Hà Tiên). Rồi
đổi về Sài Gòn. Vị hôn phối của Ngài là Bùi Thị Thân, trước sau sinh hạ 9 người
con (…). Nặng lòng đạo đức, Ngài đươc Cao Đài tiên ông giáng cơ truyền đạo cho,
và khởi sự ăn chay trường, hành đạo từ mùng 1 Tết năm Tân dậu (février 1921),
thiết lập đàn cơ tại chùa Quan Âm nơi Dương Đông Phú Quốc (…). Ngài đổi về Sài
Gòn khoảng năm 1924 và đến cuối năm 1925 thì văng mạng Đức Cao Đài Tiên Ông bồ
tát Ma Ha Tát đem mối đạo truyền ra.(…). Đến ngày 13 tháng 3 năm Nhâm thân (nhằm
18 Avril 1932) lối 3 giờ chiều Ngài liễu đạo trên xe chở Ngài địa đưa về Sài
Gòn, khi chiếc đò Mỹ Thuận vừa ra khơi độ hai ba phút tại sông Tiền Giang. Thế
là đoàn xe phải quay về Cần Thơ để làm lễ an táng.(…). Đám táng Ngài vô cùng trọng
hậu. Bửu Pháp Ngài an vị nơi nghĩa địa Chiếu Minh (Cần Thơ)”. Tại Cần
Thơ có Thánh Thất Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ (Tây Ninh) tọa lạc tại đại lộ Hoà Bình
gần trường Thọ Nhơn và đất Thánh Tây. Trên đường đi Phong Điền có Thánh Thất
Cao Đài nằm bên phải đường xe (đối diện bên kia sông là khu vực chợ Vàm Xáng)
và còn các địa phương khác nữa cũng có Thánh Thất Cao Đài. Hình tượng thờ của đạo
Cao Đài là “nhãn quang” (con mắt).
(5). Đạo Phật Giáo Hoà Hảo. Vị khai sáng đạo Phật Giáo Hoà Hảo là đức giáo chủ
Huỳnh Phú Sổ tại làng Hoà Hảo (nay là huyện Phú Tân tỉnh Long Xuyên). Khoảng
năm Canh thìn 1940 Ngài từng có mặt ở Xà No, thuộc xã Nhơn Nghĩa (Cần Thơ). Một
thời gian sau, Ngài lìa Xà No trên chiếc đò máy chạy ngang qua thị trấn Cái
Răng, đồng bào Cái Răng lúc bấy giờ cũng nô nức tập trung dài theo bờ sông và
tràn xuống cầu tàu mà chực đón Ngài, quang cảnh vô cùng cảm động. “Là một tông
phái Phật giáo cải cách vì đạo không lập chùa, không thờ hình tượng vị Phật nào
và cũng không có tu sĩ xuất gia. Tại mỗi tư gia bổn đạo, trên bàn thờ chỉ có thờ
một tấm trần điều màu dà (màu vỏ măng cụt) với một bình bông trang và 3 chung
nước mát, ngoài ra không có hình tượng nào cả. Đa số bổn đạo là nông dân chất
phác, trường chay tu hiền và thường tụng đọc các bài sấm giảng do Đức Thầy truyền
dạy, hay niệm 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” chớ không đọc các kinh Phật giống như
kinh của Phật Tử thường đọc tụng tại gia hay trong các chùa ”.. Ở Cần Thơ trước
kia có một văn phòng đại diện PGHH tọa lạc tại nhà lầu đường Phan Đình Phùng
(ngang hãng nước đá BGI, về sau là Thư Viện Hoa Kỳ). Trên đường Lý Thái Tổ (qua
khỏi quân y viện Phan Thanh Giản) có trụ sở của giáo hội PGHH, là địa điểm sửa
xe Đông Nam trước kia. Trước năm 1975, tín đồ PGHH quy tụ đông ở bên kia Xóm
Chài nên đối diện với Bến Ninh Kiều có lập một Đọc Giảng Đường, thường có loa
truyền thanh phát đi Sấm Giảng cho tín đồ cùng nghe và học. Hầu như tất cả làng
mạc của Cần Thơ đều có Đọc Giảng Đường. Nhiều nhứt là các tỉnh Long Xuyên –
Châu Đốc.
(6). Đạo Ba-Hai cũng có trụ sở nằm trên đường Hoà Bình Cần Thơ.
(7). Lương giáo hay đạo thờ cúng Ông bà, đây là số đông cư dân theo, bởi
họ có lập bàn thờ trong nhà để thờ cửu huyền thất tổ, ông bà cha mẹ qua đời, hằng
đêm thắp nhang vái lạy. Mỗi ngày rằm, mồng một, ngày cúng cơm, kỵ giỗ đều có
nhang đèn cúng vái. Dù không hẳn là tôn giáo nào, nhưng cũng biểu hiện chữ tâm
và đạo đức con người đối với tổ tiên và cội nguồn dân tộc.
2. GIÁO DỤC
Vì là một tỉnh từng nổi danh về văn hoá, nhờ ảnh hưởng của các cụ Cử Trị, Thủ
khoa Nghĩa, Cai tổng Chiểu, lại thêm những cuộc khời nghĩa của Võ Đình Sâm
(Đinh Sâm) từ năm 1868 hãy còn vang động âm ỉ trong lòng người dân Cần Thơ, nên
không khí trong tỉnh sôi động hơn. Hơn nữa, học phong, sĩ khí trong tỉnh Cần
Thơ đã khiến thực dân Pháp cực kỳ chú ý, quan tâm. Để lấy lòng dân chúng và
cũng để cho Cần Thơ xứng đáng là nơi trung tâm văn hoá của miền Tây, từ năm
1917, Cần Thơ khởi công xây dựng trường trung học College de Cần Thơ, sau này
nghị định hợp thức hoá số 188N./GD đặt lại tên trường là Phan Thanh Giản nằm tại
tỉnh lỵ Cần Thơ, tức thành phố Cần Thơ ngày nay. Trước năm 1945, hai trường
Trung học Tư thục Bassac và Nam Hưng được thành lập với một ban giảng huấn hùng
hậu, nổi tiếng khắp nơi. Thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà có thêm trường Trung học
Thủ Khoa Huân, Ánh Sáng, Hậu Giang, Võ Văn, Tân Văn, Bồ Đề, trường Nông Lâm Súc
ở đầu lộ 20, trường Sư Phạm sau năm 1975. Thập niên 70 có thêm trường An Thôn
Trang (sau nầy là trường Bùi Hữu Nghĩa) ở phường An Thới đồi diện với đường vô
mộ cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa. Ở Đầu Sấu có trường trung học cấp III Cái Răng
(nay đổi tên là Nguyễn Việt Hồng). Năm học 1966-1967 đã mở Viện đại học Cần Thơ
với nhiều phân khoa (xin đọc thêm Phụ lục I diễn tiến thành lập trường đại học
nầy). Trước năm 1975, Cần Thơ còn có các trường do người Hoa lập để dạy chương
trình chữ Hoa: Thọ Nhơn, Sùng Chính, Khải Trí. Có trường tu thục dạy chương
trình Pháp Tabert, trường Providence trên đường đi Cái Răng. Ở ngành giáo dục bậc
Tiểu học các vị thường được nhắc nhở kính trọng nhất là Cụ Thanh tra Học chánh
Huỳnh Văn Dậu và các vị Trưởng ty Tiểu học Lương Vinh Hiển, Hồ văn Chiếu.
Trải qua bao nhiêu biến cố, sau ngày 30-4-75 có rất nhiều thay đổi trong lãnh vực
giáo dục, nhưng sự phát triển cũng có thể tạm ghi nhận:
Nhiều trường học trải rộng các địa bàn phường, xã trên toàn tỉnh và thành phố.
Nhiều trường cấp III được dựng nên tại các quận, huyện để giải quyết nhu
cầu dạy và học. Ở Cần Thơ có các trường Phan Thanh Giản (nay đổi tên Châu Văn
Liêm – dạy cấp III), trường Bùi Hữu Nghĩa (là trường An Thôn Trang, địa bàn phường
An Thới), Trường cấp III Đầu Sấu Cái Răng (nay mang tên Nguyễn Việt Hồng), trường
Phan Văn Trị ở Phong Điền, trường cấp III ở xã Giai Xuân (Ông Vựa), trường cấp
III Hưng Phú (Xóm Chài) v.v… Hầu như mỗi quận, huyện đều có trường cấp III.
Thành phố Cần Thơ có các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp như:
Đại học Cần Thơ, Đại học tại chức, Cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng kinh tế đối ngoại,
Trung học Y tế, Trung học Kinh tế - Kỹ thuật v… Và, có một viện Nghiên Cứu Lúa
Đồng Bằng Sông Cửu Long (4b).
Tỉnh Hậu Giang (mới) theo thống kê có 15 trường phổ thông trung học (tức trường
cấp III).
3. XÃ HỘI
Trước năm 1975, Cần Thơ có Phòng xã hội tỉnh, có lập quán cơm xã hội để giúp số
đông đồng bào lao động, công nhân vất vả và quân nhân đỡ tốn kém. Quán cơm đặt
tại góc đường Phan Đình Phùng và Nguyễn An Ninh (gần rạp hát Minh Châu). Phòng
xã hội tỉnh cũng đảm trách cơ sở Ký nhi viện. Cô nhi viện cũng được sự
giúp đỡ tận tình của ủy ban xã hội tỉnh. Dòng Chúa Quan Phòng đảm trách nuôi dạy
hằng trăm cô nhi. Bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa, sau đổi lại là Trung Tâm Y Tế Toàn
Khoa là bệnh viện lớn nhất tỉnh nằm ở đường Nguyễn An Ninh và đầu đường Hoà
Bình. Quân y viện Phan Thanh Giản nằm trên đường Lý Thái Tổ (nay là đường 30-4,
nối dài Nguyễn An Ninh vô hướng Tham Tướng đi Cái Răng). Trong hệ thống Hồng Thập
Tự Việt Nam tại Sài Gòn do BS Phạm Văn Hạt làm chủ tịch, Hội Hồng Thập Tự Phong
Dinh do BS Đặng Văn Phòng làm chủ tịch, BS Lê Văn Thuấn làm Tổng Thư Ký hoạt động
rất hữu hiệu, đã đào tạo nhiều khoá Nữ Y Tá Hồng Thập Tự (chương trình học 2
năm gồm năm đầu lý thuyết, năm sau thực tập tại quân y viện Phan Thanh Giản Cần
Thơ). Các quận của tỉnh đều có Chi bộ Hồng Thập Tự. Bên cạnh các khoá đào
tạo Y Tá nầy, còn có tổ chức Thanh Niên Hồng Thập Tự để lo các công tác xã hội…
Theo thống kê ghi nhận mới đây, Thành phố Cần Thơ có Bệnh viện Đa Khoa, Viện
Quân Y 121 (tức quân y viện Phan Thanh Giản cũ), Bệnh viện Nhi đồng, bệnh viện
30-4, bệnh viện Da liễu, bệnh viện Y học dân tộc. Ngoài ra, một bệnh viện đa
khoa mới có qui mô 700 giường đang được xây dựng.
Tỉnh Hậu Giang (mới) có 6 bệnh viện với 490 giường bệnh, 9 phòng khám khu vực,
2 nhà bảo sanh và 52 trạm y tế xã phường.
4. VĂN HOÁ
Sinh hoạt văn hoá lúc giao thời nổi bật của Cần Thơ là sinh hoạt của Tào đàn bà
Đồ ở Bình Thủy Long Tuyền từ năm 1833 do Bà Nguyễn Thị Nguyệt sáng lập, các nhà
thơ tên tuổi như cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, Cử nhân Phan Văn Trị, Tuần phủ Huỳnh
Mẫn Đạt cáo quan về hưu ở Hà Tiên, cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu ở Ba Tri, cụ Cử Thạnh,
Phan Hiển Đạo ở Định Tường có nhiều dịp tới sinh hoạt trong Tạo Đàn Bà Đồ.
Ông Trần Đắt Nghĩa sau khi nghỉ làm nhà in, nhà báo An Hà, ông trở neê nhà
doanh nghiệp, lập hãng xe đò, hãng rượu ngọt. Đến năm 1930 ông ra làm bầu gánh,
nêu cao bảng hiệu “Trần Đắt” đại ban. Chính hai nghệ sĩ Trương Phụng Hảo (Phùng
Há) và Nguyễn Thành Châu (Naă Châu) đã bắt đầu n8ôi danh khi đứng trên sân khấu
đại ban Trần Đắt.
Hội Khuyến Học Cần Thơ trong những năm thập niên 1940 đã có nhiều sinh hoạt
đáng kể: Tổ chức buổi diễn thuyết, đầu tiên ông Nguyễn Văn Kính, bút hiệu Bảo Mỹ,
diễn thuyết về thi sĩ Tản Đà. Mở giải thưởng văn chương với tác phẩm đoạt giải
nhứt năm 1943 là tác phẩm Đồng Quê của Phi Vân (Lâm Thế Nhơn). Hội thơ Tây Đô
quy tụ đông đảo các giới trí thức thuộc mọi thành phần trong xã hội như GS Nguyễn
Văn Kiết (Tây Đô Cát Sĩ), Tố Phang (tức Thuần Phong Ngô Văn Phác), Trực Thần tức
Tam Đức Nguyễn Trung Ngôn, Trường Sơn Chí Ung Ngọc Ky, Tùng Đức Mã Sanh Long,
Việt Quang Tạ Minh Quang v.v… Nữ sĩ Ái Lan cũng từng là hội viên rất nhiệt
thành. Hoạ sĩ Văn Mười cùng anh em văn nhghệ sĩ Tây Thành làm đẽp cho tỉnh nhà
chẳng ít. Khách văn chương vẫn thường lui tới luận bàn thế sự, xướng họa thi
văn nơi Tao đàn Dương Chi, một khách thinh văn nghệ (salon littéraire) của Ông
Dương Chi Dương Du Cam. Thi văn đoàn của các bạn trẻ Tây Đô cũng dõi bước theo
đàn anh khá nhiều. Những cây bút đáng kể của “Chim Việt” có Trần Quang Nghĩa,
Thùy Nhiên, Hồ Hải v.v… Chim Việt còn cố gắng cho ra được một tờ tuần báo Hoa
Niên hình thức trình bày thanh nhã khả ái, nội dung hay, vui, bổ ích. Rồi thì lần
lượt về sau còn có thêm những thi văn đoàn mà bạn trẻ trong đoàn từng có thơ
văn đăng tải trên các báo thủ đô như: Hồn Xưa, Nước Mắt, Bút Non, Sương Khói
Lam, Hương Trầm, Chân Thành Phố, Phương, Hoa Sắc Tím, Ái Hữu, chi nhánh Dòng
Sông Hậu vv… Gần đây hơn, những mầm non văn nghệ của Tây Đô gom về bốn thi văn
đoàn đang trên đà phát triển: Về Nguồn, Thảo Nhi, Vùng Đất Sống, Mầu Tuổi Ngọc.
Thi văn đoàn Về Nguồn do cây bút trẻ Lê Trúc Khanh (Lê Phước Nghiệp) chăm sóc
cùng với hai bạn trẻ Huyền Vân Thanh (Lê Hoàng Viện), Kiều Diễm Phượng (Lê Thị
Ngọc Nữ) đầy triển vọng, thi văn đủ loại, từng đăng bài trên các báo hằng ngày,
tuần san, tạp chí vv…(trích CTXVN - Huỳnh Minh). Từ thập niên 1960 có nhóm Hưng
Cổ Văn Đoàn với các cụ Hà Thủy Nguyễn Sanh Kim, Nguyễn Tài Năng ở Bình Thủy.
Riêng từ năm 1968, Văn Đoàn Về Nguồn còn thực hiện một chương trình Tiếng Thơ
hàng tuần trên đài phát thanh Cần Thơ thu hút đông đảo thính giả hâm mộ.
Ngoài hoạt động của nhà in miền Tây (Imprimerie de l’Ouest) với hai tờ báo Le
courier de l’Ouest và An Hà Báo vào thời thuộc Pháp, sau nầy Cần Thơ có thêm
nhà in Châu Ngọc (đường Nguyễn Huỳnh Đức, nhà in Nam Quan (đường Lê Thánh Tôn),
nhà in Tri Tân (đường Pasteur), nhà in Trần Đắt (đường Nguyễn Thái Học), nhà in
Đại Chúng (đường Phan Bội Châu). Nhà in Cần Thơ Ấn Quán ở đường
Nguyễn Công Trứ (đối diện cổng chánh Nhà thờ Chánh Toà) hoạt động đến đầu thập
niên 1970 đổi tên Caritas (có in các tuyển tập thơ Về Nguồn và tạp chí Miền Tây
Thăng Hoa số 3 về sau) cho đến ngày 30-4-75. Nhà in và nhà sách Tri Tân của BS
Lê Văn Khoa trên đường Pasteur trưng bày khá nhiều sách văn học và cũng in hai
số đầu của Miền Tây Thăng Hoa. Có nhật báo và nhà in nhật báo Miền Tây những
năm 1966, 1967…(đường Thủ Khoa Huân), có báo Đuốc Miền Tây (đường Minh Mạng),
có tạp chí Văn Nghệ Miền Tây (do Ngũ Lang chủ trương biên tập, Huyền Vân Thanh
làm Tổng thư ký), có tạp chí Khơi Dòng (do Lê Trúc Khanh và Văn Đoàn Về Nguồn
thực hiện), tạp chí Miền Tây Thăng Hoa (do nhà sưu khảo văn học Nguyễn Bá Thế
chủ trương, Huyền Vân Thanh phụ trách kỹ thuật thực hiện), có tạp chí Tiếng Động
do Lan Sơn Đài chủ trương. Năm 1966 trường Phan Thanh Giản cũng có xuất bản
nguyệt san Triều Sống Xanh do GS Nguyễn Văn Hường làm chủ nhiệm, GS Lê Văn Quới
làm chủ bút, HS Trần Quốc Mậu làm Tổng thư ký, HS Lê Hoàng Viện làm thư ký toà
soạn và HS Phan Thị Thanh Tâm làm Quản lý, ra được 3 số thì phải đình bản vì
không đủ tiền in.
Để phục vụ “món ăn tinh thần” cho mọi người, Cần Thơ đã có các nhà sách hoạt động
lâu năm và mang lại nhiều uy tín như Văn Nhiều, Tinh Hoa, Khải Minh, Thế Giới,
Hồng Phước, Hồng Phát. Nhà sách Tự Lực mới mở những năm đầu thập niên 1970 trên
đường Lý Thái Tổ gần cầu Tham Tướng được nhiều bạn đọc đến mua nhờ có giới thiệu
nhiều sách tham khảo xưa cũ giá trị.
Sau ngày 30-4-1975, ngành in và phát hành sách báo đều do nhà nước “quản
lý”. Tại Cần Thơ có xí nghiệp in Hậu Giang toạ lạc trên đường Nguyễn Công Trứ
(đối diện với trại cây Vinh Long), về sau chuyển đến đường Mạc Tử Sanh (đổi là
đường 30-4) đối diện với Đài Phát Thanh Cần Thơ, hoạt động đến ngày nay. Nhà in
Hậu Giang, nhà xuất bản Tổng hợp Hậu Giang đều trực thuộc sự quản lý và kiểm
soát của Sở Văn Hoá Thông Tin. Nhà in của nhật báo Miền Tây (số 5 đường
Thủ Khoa Huân) sau nầy được sử dụng làm Nhà in cho báo Hậu Giang. Khi tỉnh Hậu
Giang tách thành hai tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng thì ban đầu nhà in báo Hậu
Giang đã “chia” cho Báo của tỉnh Sóc Trăng một thời gian mới di chuyển về địa
phận tỉnh Sóc Trăng.
C. CẦN
THƠ TRÊN ĐÀ PHÁT TRIỂN
1. Giao thông
Là một tỉnh/thành phố nằm trên địa bàn thuận lợi về mặt giao thông cả đường thủy,
đường bộ, kể cả đường hàng không nên được khắp nơi từng ví Cần Thơ là “thủ phủ
miền Tây” với tên gọi Tây Đô. Trong tình trạng phát triển ngày nay được biết:.
Về đường bộ, Cần Thơ có các đường liên tỉnh như quốc lộ 91 từ Cần Thơ đi An
Giang, quốc lộ 80 từ Cần Thơ đi Kiên Giang. Đặc biệt nằm trên tuyến quốc lộ 1A,
thành phố Cần Thơ có điều kiện giao thông thuận tiện với các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long (4)
Về đường thủy, TP Cần Thơ nằm bên bờ sông Hậu, một bộ phận của sông Mekong chảy
qua 6 quốc gia, đặc biệt là phần trung và hạ lưu chảy qua Lào, Thái Lan và
Campuchia. Các tàu trọng tải lớn (trên 1.000 tấn) có thể đi các nước và đến
thành phố Cần Thơ dễ dàng. Ngoài ra, tuyến Cần Thơ – Xà No – Cái Tư, là cầu nối
quan trọng giữa Sài Gòn, tỉnh Hậu Giang và Cà Mau (4). Hệ thống sông rạch Hậu
Giang - Cần Thơ đan như màn lưới, có thể liệt kê ra đây những tên kinh rạch
như: kinh Thị Đội, kinh Ô Môn, kinh Saintenoy, kinh Lacote, kinh Xà No, rạch Bằng
Tăng, rạch Cái Đôi, rạch Cái Sâu, rạch Bùng Binh, rạch Bến bạ, rạch Cái Cui, rạch
Mái Giầm, rạch Cái Khế, rạch Cái Dầu, rạch Bình Thủy, rạch Trà Nóc, rạch Ô Môn,
rạch Cần Thơ… Chính trên sông rạch nầy, sinh hoạt dân gian đã có một thời cực
thịnh với những ghe thương hồ, những điệu hò câu hát trữ tình
làm cho đời sống cư dân nơi đây càng thêm đáng yêu đáng quý.
Rồi những khu vực ngã ba, ngã tư sông hình thành các chợ nổi thật phồn thịnh
như chợ nổi Cái Răng, chợ nổi Phong Điền, chợ nổi Phụng Hiệp…
Về đường hàng không, thành phố Cần Thơ có sân bay Trà Nóc đang được nâng cấp và
mở rộng để trở thành sân bay quốc tế. (4).
Về Cảng, thành phố Cần Thơ có 3 bến Cảng phục vụ cho việc xếp nhận hàng hoá dễ
dàng: Cảng Cần Thơ diện tích 60 ngàn mét vuông có thể tiếp nhận tàu biển 10
ngàn tấn. Cảng Cần Thơ hiện nay là cảng lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long; cảng
Trà Nóc có diện tích 16ha, cảng có 3 kho chứa lớn với dung lượng 40 ngàn tấn.
Khối lượng hàng hoá thông qua cảng có thể đạt đến 200 ngàn tấn/năm. Cảng Cái
Cui đang trong giai đọan xây dựng với quy mô thiết kế phục vụ cho tàu từ 10
ngàn đến 20 ngàn tấn, khối lượng hàng hoá thông qua cảng là 4,2 triệu tấn/năm. (4).
Theo tài liệu cập nhật mới nhất lộ trình vào thành phố Cần Thơ: đường
bộ, phía Bắc từ Sài Gòn theo quốc lộ 1A qua các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh
Long 169km sẽ vào thành phố Cần Thơ. Phía Tây, từ cửa khẩu Xà Xía vào Hà Tiên,
qua Rạch Giá là tới Cần Tho hoặc qua cửa khẩu Tịnh Biên đến Châu Đốc, Long
Xuyên sẽ vào địa phận thành phố Cần Thơ. Đường thủy tuyến Cần Thơ – Xà No – Cái
Tư là hệ thống thủy nội quan trọng nối liền TP Cần Thơ và Sài Gòn, tỉnh Hậu
Giang, Cà Mau và các tỉnh khác. Trước đây có tàu cao tốc đi từ Sài Gòn đến TP Cần
Thơ và ngược lại. Đường hàng không: Cần Thơ có sân bay quốc tế Trà Nóc lớn nhứt
khu vực. Hiện nay có các chuyến bay khứ hồi Cần Thơ – Hà Nội, và khứ hồi Cần
Thơ – Phú Quốc. Từ 01 tháng 11-2011 sân bay quốc tế Cần Thơ chính thức khánh
thành. Thành phố Cần Thơ có cảng quốc tế Cái Cui khá lớn đón nhân tàu 20.000 tấn
và cảng Cần Thơ đón tàu 10.000 tấn. Cần Thơ hiện là cửa ngõ của cả vùng hạ lưu
sông Mekong và là đầu mối quan trọng về giao thông - vận tải nội vùng và lien2
vận quốc tế. (4a)
Mặt khác, dù danh lam thắng cảnh Cần Thơ không nhiều so với các địa phương trên
cả nước, nhưng vẫn có vài nơi đã nổi bật lên nét đẹp mà du khách từ xa đến, khi
rời đi không thể nào quên. Như Bến Ninh Kiều Cần Thơ, Bến Nhị Kiều (bây giờ có
công viên thoáng mát chạy dọc bờ rạch Cái Khế từ cầu Cái Khế đến cầu đôi mới),
Vườn Thầy Cầu, Ngôi Nhà Cổ Bình Thủy, hay những khu vườn Sinh Thái mới xuất hiện
trong những năm qua thu hút đông đảo khách nước ngoài mỗi khi đến Cần Thơ.
2. Kinh tế - thương mại
(1). Trước 30-4-1975, sinh hoạt kinh tế toàn tỉnh Phong Dinh ghi nhận:
Nông nghiệp có trên 200 ngàn mẫu tây đất cấy cày, trong đó ruộng sạ chiếm 130
ngàn mẫu tây thuộc địa phận quận Thuận Trung và Phong Phú; ruộng cấy chiếm 87
ngàn mẫu tây thuộc các quận Châu Thành, Phụng Hiệp, Phong Điền, Thuận Nhơn,
Phong Thuận,một phần thuận Trung và Phong Phú.
Ngư nghiệp: Cần Thơ có mặt thuận lợi là ở ngay triền sông Cửu Long, không xa biển
lắm nên có đủ loại cá nước ngọt và cá nước mặn. Thủy sản dồi dào. Giới ngư phủ
trong tỉnh hành nghề khá đông, đặc biệt cư dân vùng Phụng Hiệp, đồng bào miền bắc
di cư năm 1954 sống chuyên nghề chài lưới đơng đảo.
Mục súc: Ty mục súc Phong Dinh thường phối hợp với Ty Nông Tín giúp đỡ đồng bào
đắc lực trong việc chăn nuôi trâu, bò, heo, gà, vịt. Trại chăn nuôi bò sữa đáng
kể nhất những năm giữa thập niên 1960-70 là trại của ông Lữ Đức gần phi trường
Bình Thủy. Theo thống kê, tình trạng chăn nuôi gà vịt xuất tỉnh là nguồn lợi
khá lớn.
Các ngành công kỹ nghệ: Toàn tỉnh đang có đến 51 nhà máy xay lúa. Có công ty mễ
cốc Hậu Giang đặt ở cầu đúc Cái Răng sản xuất hàng năm trung bình 27 ngàn tấn gạo.
Công ty Denis Frères (do người Pháp đầu tư đặt ở rạch Bình Thủy, xã Long Tuyền.
Kỹ nghệ chế biến thực phẩm cũng phát triển nhanh: toàn tỉnh có 4 lò đường, mười
bốn lò bánh mì, bảy lò sản xuất tàu vị yểu, tương chao. Có 14 xưởng sản xuất nước
mắm, lớn nhứt là công ty Đông Hương. Có 3 hãng nước đá và các thgứ rượu ngọt.
Toàn tỉnh có 12 trại xưa xẻ gỗ, hằng năm xẻ khoảng 8 ngàn thước khồi gỗ. Có 7
lò sản xuất gạch. Có 33 xưởhng tiện, 2 xưởng dêt, 2 lò sản xuất sà bông…
(2). Sau ngày 30.4.1975 đến ngày nay: Thống kê ghi nhận mới nhất, tỉnh “Hậu
Giang (mới) có khu công nghiệp Vị Thanh, diện tích 150ha được quy hoạch xây dựng
bên quốc lộ 61, kênh Xáng Hậu và sông Cái Tư - Rạch Nhút thuộc địa bàn huyện
Châu Thành và thị xã Vị Thanh. Đây là khu công nghiệp nằm trên vùng tập trung
nguyên liệu cung cấp cho ngành chế biến lương thực, thực phẩm như: khóm, mía, đậu,
mè, các loại rau củ, gạo chất lượng cao… thúc đẩy vùng nầy sớm phát triển theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn” (3).
Trong khi đó, thành phố Cần Thơ phát triển khu công nghiệp và chế biến, gồm 2
khu công nghiệp tập trung và 2 trung tâm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
như sau:
“1/. Khu công nghiệp Trà Nóc: diện tích 300ha, bao gồm khu Công nghiệp Trà Nóc
I (135ha), Trà Nóc II (165ha), nằm cách sân bay Trà Nóc 2km, cách cảng Cần Thơ
3 km được cung cấp đầy đủ ccá dịch vụ về ngân hàng, bưu chính viễn thông và nguồn
nhân lực dồi dào từ thành phố Cần Thơ phục vụ cho sản xuất công nghiễp…
“2/. Khu công nghiệp Hưng Phú: diện tích 975ha, nằm bên bở sông Hậu, phíc nam
thành phố cần Thơ, là khu coqng nghiệp tổng hợp nhiều ngành nghề như: chế tạo
cơ khí, lắp ráp thiết bị điện, điện tử, chế biến nông sản, thủy sản…
“3. Trung tâm Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp Thốt Nốt: có diện tích xây dựng
giai đoạn I là 22,5ha, đang tiếp tục quy hoạch giai đoạn II là 31,5ha. Dù đang
trong giai đoạn đầu tư đang ký thuê đất. Trong tương lai, đây sẽ là khu công
nghiệp năng động đứng thứ ba của thành phố Cần Thơ, sau khu công nghiệp Trà Nóc
và Hưng Phú.
“4. Trung tâm Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp Cái Sơn – Hàng Bàng: Có tổng
diện tích 38,2ha, cơ sở hạ tầng đang trong giai đoạn hoàn chỉnh, hiện đã có
trên 15/23 nhà đầu tư đang hoạt động…” (4).
Hệ thống điện, nước, viễn thông cũng phát triển song song để phục vụ các mục
tiêu phát triển. “Thành phố Cần Thơ có nhà máy nhiệt điện Trà Nóc có công suất
200MW, đã hoà vào lưới điện quốc gia. Hiện tại đang xây dựng nhà máy nhiệt điện
Ô Môn có công suất giai đoạn đầu 600 MW, sau đó sẽ được nâng cấp lên 1.200MW.
Hai nhà máy cấp nước sạch có công suất 70.000m3/ngày đêm và dự kiến xây dựng
thêm một số nhà máy để có thể cung cấp nước sạch 200.000m3/ngày đêm. Hệ thống
Bưu chính, viễn thông của thành phố Cần Thơ hiện đại, gồm một bưu điện trung
tâm, 4 bưu điện quận huyện, đủ điều kiện cung cấp thông tin liên lạc giữa Cần
Thơ với các nước trên thế giới.”(4).
II. CON NGƯỜI
CẦN THƠ
Dọc theo chiều dài lịch sử khai hoang và mở đất, Cần Thơ in đậm dấu chân
tiền nhân, đã có nhiều huyền thoại, giai thoại tô thêm cho thi vị cuộc sống của
nhiều thế hệ cư dân. Qua truyền khẩu, ông Huỳnh Minh đã sưu tầm được nhiều chuyện
và đã kể trong quyển sách của ông xuất bản năm 1966 đã nêu bên trên. Chẳng hạn
bài oai linh ông Điều Bác Nguyễn Văn Tồn làm chấn động đất Trấn Giang; Chuyện lạ
trong cơn cụ Thủ Khoa Nghĩa từ trần và Thần Chủ thờ Cụ; Một cái chết hi hữu: nuốt
vàng tự tử; Cặp sóng thần nơi rạch Cái Nai; chuyện ông Thầy Nguyễn Văn
Trung thả nón qua sông - một đạo sĩ vang danh ở Cần Thơ có nhiều phép thuật nhiệm
mầu, mà mộ của ông hiện còn tại Cái Da, Giang san Sáu Thanh vang bóng một thời
oanh liệt của vua xe đò Cần Thơ, Nữ thiện xạ Cao Thị Hạnh đất Tây Thành được
báo chí thủ đô nói đến, v.v…(CTXVN).
Cần Thơ còn có những di tích lịch sử rất đáng tôn tạo và giữ
gìn như Mộ cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa nằm tại đất Trùm Neo, trong vườn ông đốc
phủ Dương Thân Hỷ; Mộ lãnh binh Võ Duy Tập, là một công thần dày công khuông
phò hai triều Gia Long và Minh Mạng, chôn cách trụ sở xã Long Tuyền độ 200 mét;
Lăng ông Thống chế Điều Bác Nguyễn Văn Tồn; mộ cụ Cử nhân Phan Văn Trị ở giữa
vườn cam Phong Điền, mộ ông chà Hoàng - một người có công khuông phò chúa Nguyễn
Ánh khi bôn tẩu vào Nam. Còn có các đình thần Tân An, đình thần Bình Thủy, chùa
Nam Nhã ở Bình Thủy nơi có thờ bài vị cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa v.v…
Và, làm sao quên được bài viết “Bình Thủy Long Tuyền một vùng địa linh nhân kiệt”
gồm hai phần: địa danh Bình Thủy – Long Tuyền và đình thần Bình Thủy trong tập
bút ký QHXMNN (xin đọc phụ luc VII), hay bài viết, về ngôi nhà cổ ở Bình Thủy
(phụ lục IX), về Cầu Tham Tướng Cần Thơ, đình thần Tân An, Chùa Nam Nhã, Vườn
Thầy Cầu (phụ lục X) v.v..…
Đến đây, nhóm biên soạn mời quý bạn đọc dừng lại để cùng đọc qua đôi nét các bậc
tiền hiền đã tô đậm nét đẹp của miền đất Cần Thơ như để tưởng niệm và tỏ lòng
tri ân. Chắc chắn những nhân vật được kể dưới đây sẽ còn thiếu sót rất nhiều, bởi
điều kiện sưu tầm và tra cứu trong một thời gian ngắn không sao đầy đủ và chính
xác được, hy vọng sẽ còn có dịp đón nhận thêm những ý kiến, những tài liệu bổ
sung quý báu từ quý bậc thức giả cao thâm, quý vị làm công tác bảo tồn di sản
văn hoá dân tộc, quý bạn đọc xa gần tha thiết với quê hương đất nước… giúp đỡ
và cung cấp thêm tài liệu, nhóm biên soạn sẽ điều chỉnh bổ sung tài liệu nầy.
Những bậc tiền hiền đề cập ở đây là những người đã quá vãng, có thể sinh quán ở
đất Cần Thơ, cũng có thể là người từ phương xa đến nhưng đã có công sức trực tiếp
hay gián tiếp mở mang, xây dựng, góp phần làm nên lịch sử của vùng địa linh
nhân kiệt Cần Thơ cho mãi đến bây giờ. Bởi vì, “trong dòng lịch sử của dân tộc,
bao giờ cũng có những bậc đại anh hùng vang danh không những trong đất nước của
họ mà còn trên khắp thế giới, tuy nhiên cũng có những vị anh hùng không tên tuổi,
những vị anh hùng vô danh ít người biết đến, nhưng chính những người vô danh đó
lại đóng góp một phần không nhỏ cho tương lai của đất nước của họ” (5), nghĩ rằng
với riêng tại xứ sở Cần Thơ, những vị anh hùng vô danh đó không phải là ít mà
trong bài viết nầy chưa đề cập đến. Xin thành tâm khấn nguyện và tạ ơn đến tất
cả những bậc tiền hiền “chưa nêu tên tuổi” đó.
1. MẠC THIÊN TỨ, người đã kiến lập vùng đất Trấn Giang từ năm 1793. Ông còn được
gọi là Mạc Thiên Tích, vốn tên thật là Mạc Tông, tự Sĩ Lân, là con trai trưởng
của Đại tướng Mạc Cửu. Khi ông cầm đầu phái đoàn sang Xiêm cầu viện nhưng vua
Xiêm ngờ vực ông lập cơ mưu sang Xiêm dọ thám tình hình để thừa dịp chiếm đọat.
Nỗi buồn lo cho chúa Nguyễn Ánh đang cơn nguy khốn, nỗi hận gặp cảnh không may,
ông đã nuốt vàng tự tử. Phái đoàn của ông gồm có Tôn Thất Xuân, hai người con của
ông là Mạc Tử Hoàng và Mạc Tử Thượng và 50 tên quân đều chết theo ông, đó là
năm Canh tý 1780. Ông còn để lại đời một bộ “Minh bột di ngư” gồm các tập:
Hà Tiên vịnh
vật thi tuyển
Châu thị
trinh liệt tặng ngôn
Thi truyện tặng
Lưu tiết phụ
Thi thảo
cách ngôn vị tập.
2. MẠC TỬ SANH, người đã tử trận tại vàm rạch đổ ra sông Cần Thơ trong trận chống
với Tây Sơn, mà nơi rạch đó sau nầy dân gian gọi là rạch Tham Tướng Cần Thơ.
Ông là con của Quốc lão Đô đốc Quận công Mạc Thiên Tứ.
3. VÕ DUY TẬP là một chánh lãnh binh, người xã Long Tuyền, huyện Phong Phú, con
ông Võ Nguyên, xuất thân nông dân. Suốt mười mấy năm tận lực cùng chúa Nguyễn,
đến ngày thống nhất non sông, chung hưởng thái bình, ông nghiễm nhiên là vị tướng
lãnh công cao trọng vọng, làm rạng vẻ miền Tây một thuở. Tuổi về già ông còn cầm
binh đánh dẹp giặc Miên ở Sóc Trăng, và bỏ mình tại Bưng Trop, linh cữu đưa về
an táng nơi cố quán xã Long Tuyền.
4. NGUYỄN VĂN TỒN, người Việt gốc Miên, trung thành với vua Gia Long, lưu danh
hiển hách nơi Trà Ôn (Cần Thơ xưa). Chúa Nguyễn Ánh thấy Ông có công và trung
thành mới cho lấy họ Nguyễn là họ của vua, mang tên Việt Nam là Nguyễn Văn Tồn
(do Nguyễn Ánh đặt cho Ông).
5. BÙI HỮU NGHĨA (1807-1872), Cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, nhà thơ, hiệu Nghi
Chi, Liễu Lâm chủ nhân, sinh năm Đinh mão 1807 tại làng Long Tuyền, trước thuộc
Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh (Vĩnh Long), sau thuộc tỉnh Cần Thơ (nay là Long Tuyền
- Cần Thơ). Thân phụ cụ là Bùi Hữu Vị, xuất thân nghề chài lưới. Thuở trẻ cụ
lên Biên Hoà ngụ nơi nhà ông Hộ trưởng Nguyễn Văn Lý, học với cụ đồ Nguyễn Hàm,
tức Đồ Hoành. Để rồi nhân duyên gặp gỡ tại Biên Hoà, cụ được ông Lý gả con gái
là Nguyễn Thị Diệu tức Tồn. Đang ăn học ở Biên Hoà, gặp phải cuộc dấy binh chống
triều đình của nhóm Lê Văn Khôi, mãi hết cơn loạn lạc, Bùi Hữu Nghĩa thi đỗ Giải
nguyên (Thủ khoa) trường thi Gia Định lúc 28 tuổi, đó là năm Ất vị (mùi) 1835.
Sơ bổ Tri phủ Phước Long tỉnh Biên Hoà, nhưng vì tính khí bị cấp trên ghét mà
trù dập, giáng cấp rồi thuyên bổ Tri huyện Trà Vang (tức Trà Vinh, Vĩnh Long),
nay thuộc tỉnh Trà Vinh.
Cũng vì tính cương trực, cụ lại đương đầu với đám cường hào ác bá tại
Trà Vinh, bị quan trên tham nhũng cáo gian, tìm cách hãm hại trong vụ Láng Thé
năm Mậu thân 1848. Bà Tồn lên Biên Hoà gởi con là Bùi Hữu Tú (sinh năm Bính ngọ
1846) cho bên ngoại nuôi, rồi trở xuống Mỹ Tho quá giang ghe bầu ra tận kinh đô
Huế kêu oan cho chồng. Nhờ vậy cụ mới thoát cảnh lao tù, nhưng phải sung quân
đóng đồn ở Vĩnh Thông (Châu Đốc) năm 1849. Bà Tồn lâm bệnh, nằm ở quê nhà tại Biên
Hoà rồi qua đời năm Canh tuất 1850. Năm sau 1851, cụ Bùi Hữu Nghĩa mới được cho
về Biên Hoà thăm con, rồi làm thơ, câu đối và văn tế vợ, có đoạn:
“Con sáu tuổi thơ ngây một bóng, em nao đành nhắm mắt qui tiên;
Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ xấp lưng cỡi hạc”.
Đóng quân ở Tịnh Biên (Vĩnh Thông) ít lâu, cụ xin giải ngũ về quê
quán Long Tuyền sống đời ẩn dật, sinh nhai bằng nghề thuốc và dạy học, ôm ấp
chí cao khiết. Tài đức của cụ được các giới sĩ phu, toàn dân trọng vọng, mến
yêu.
Năm Nhâm thân 1872, ngày 21 tháng giêng âm lịch, cụ Thủ khoa Bùi Hữu
Nghĩa mất, thọ 65 tuổi. Mộ cụ tọa lạc tại đất Trùm Neo, trong vườn Đốc phủ
Dương Thân Hỷ, thuộc Phường An Thới, thành phố Cần Thơ. Tại chùa Nam Nhã (gần dốc
cầu Bình Thủy) hiện nay còn thờ vợ chồng cụ Thủ khoa.
Ngôi sao Bùi Hữu Nghĩa chói rạng trên vòm trời văn học xóm Bà Đồ (Bình Thủy - Cần
Thơ), cuốn hút các văn tinh Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Đỗ Minh Tâm, Mai Đằng
Phương... cùng hướng về góc trời Long Tuyền phát quang rực rỡ. Các học trò của
cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa và Cử nhân Phan Văn Trị như Nguyễn Phước Dương bút hiệu
Tử Hiển, Nguyễn Giác Nguyên bút hiệu Long Khê, Lê Quang Chiểu, Trần Ngọc Lầu,
Nguyễn Hữu Đức, Phạm Bá Đại v.v... là những nhân tố đóng góp phần toả sáng văn
học miền Sông Hậu.
Ngoài các bài thơ, văn tế, cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa còn để lại bản
tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, một áng cổ văn có giá trị được người đời truyền tụng.
6. NGUYỄN THỊ TỒN, là vợ cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa, con ông Hộ trưởng Nguyễn
Văn Lý ở làng Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, tỉnh Biên Hoà. Bà từ Vĩnh Long ra
tận đế đô kêu hoan cho chồng, được đức Từ Dũ Thái Hậu (thân mẫu vua Tự Đức)
khen ngợi phong tặng tấm biển 4 chữ “Liệt phụ khả phong” và tặng cho cái võng,
trên có 4 cái gang. Cứu chồng khỏi chết, nhưng vẫn phải chịu đau lòng cách biệt
chồng lúc sung quân, Bà về thẳng quê nhà ở Biên Hoà. Chẳng mấy tháng bà vương bệnh
qua đời..
7. PHAN VĂN TRỊ (1830-1908), Phan Văn Trị là một nhà thơ yêu nước, quê làng
Hưng Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Bến Tre (nay thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến
Tre). Cụ sinh năm Canh dần 1830. Năm Kỷ dậu 1849 cụ thi đỗ Cử nhân, nhưng thấy
thời cuộc rối ren không ra làm quan, sống đạm bạc ở làng Bình Cách (Tân An).
Khi giặc Pháp chiếm Gia Định, cụ cùng các sĩ phu yêu nước đã xướng phong trào
“tị địa”, lui về đồng bằng sông Cửu Long, tích cực cổ động dân chúng ủng hộ các
nhóm kháng chiến. Thời gian ở Vĩnh Long, cụ lui tới hợp tác với cụ Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Thông, Hồ Huân Nghiệp... và
các cụ thường gặp nhau bàn chuyện thơ văn ở lầu Văn Xương Các.
Đến lúc giặc Pháp chiếm miền Tây, cụ Cử Trị dời về cư ngụ ở làng Nhơn Ái, Phong
Điền - Cần Thơ, ở ẩn dạy học, và thú tiêu khiển của cụ là ngồi xuồng thả câu
trên sông nước đồng quê hiền hoà thơ mộng. Thời gian nầy, cụ giao du với Huỳnh
Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa, cảm hoá cai tổng Lê Quang Chiểu (vốn là học trò của cụ)
bỏ quan, giữ tiết tháo trong thời mất nước.
Năm Canh tuất 1910 cụ mất, thọ 80 tuổi. Phần mộ trên đất Cai tổng
Chiểu tại Phong Điền. Thơ văn cụ Cử nhân Phan Văn Trị còn lưu truyền rất nhiều,
đầy tính chiến đấu, thanh cao, có khí tiết. Lòng yêu nước chan chứa trong bài
Thất thủ Gia Định và bài Thất thủ Vĩnh Long. Sôi nổi nhất là những bài thơ họa
với Tôn Thọ Tường nhằm lên án bọn người cam tâm làm tay sai cho ngoại xâm.
Cụ có công đầu và nổi tiếng trong cuộc bút chiến chống Tôn Thọ Tường
(1825-1877), người bạn thơ của cụ trước đây trong nhóm Bạch Mai Thi Xã, người
huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định đã ra làm tay sai cho giặc Pháp.
Bị dư luận lên án gắt, Tôn Thọ Tường làm bài thơ Từ Thứ Quy Tào để ngụy biện
cho hành động phản dân hại nước của y. Phan Văn Trị công kích luận điệu của Tôn
Thọ Tường bằng bài Hát Bội. Cuộc bút chiến dưới hình thức hoạ thơ nổ ra. Tôn Thọ
Tường làm 10 bài thơ liên hoàn tự thuật, tán dương sức mạnh vật chất của thực
dân, cho rằng lực lượng kháng chiến non kém không thể chống nổi và thực tế những
người kháng chiến đã lâm vào cảnh bi thảm. Họa, Phan Văn Trị mắng Tôn Thọ Tường
là “đứa ngu”, “thằng hoang”, là kẻ “đáy giếng trông trời trơ mắt ếch”, là “đứa
dại trót đời già cũng dại”. Cụ đã thách thức:
Đừng mượn
hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt
đá há lung lay
Tôn Thọ Tường lại làm bài Tôn Phu Nhân Quy Thục, hòng lấy đạo “tam tòng” của lễ
giáo phong kiến phương Bắc, lấy chính thống của nhà Hán làm cái mộc che đậy những
việc làm vô đạo. Trong cuộc hoạ thơ chống Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị đã lôi cuốn
được đông đảo sĩ phu Nam kỳ vào cuộc bút chiến: Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt...
và đã gây được hậu thuẫn mạnh mẽ của dư luận chúng yêu nước khắp mọi miền.
(Theo Lê Chí Dũng)
Ngày nay, theo hương lộ 4 (còn gọi là tuyến lộ vòng cung), qua những địa
danh quen thuộc “Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền...” cách thành phố Cần
Thơ khoảng 17 cây số, du khách có thể được hướng dẫn đi thăm mộ cụ Cử nhân Phan
Văn Trị, sẽ thấy được tình cảm yêu thương của miền quê sông nước với chợ nhóm
trên sông, với những vườn cam Phong Điền trĩu oằn trái ngọt; sẽ cảm thông với tấm
lòng của nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị trước khi gởi nắm xương tàn nơi đây, và
cũng đã có một thời gian dài trong chiến tranh, ngôi mộ bị hoang phế thảm buồn.
8. ĐINH SÂM, lãnh tụ kháng chiến vùng Ba Láng – Trà Niềng. Dân chúng kính mộ
Đinh Sâm, phần đông theo Đinh Sâm kháng chiến, chạm trán với quân Pháp nhiều trận
dữ dội. Quân Pháp càng đàn áp mạnh hơn. Cuối cùng sức yếu thế cô, Đinh Sâm và
đám nghĩa quân trung kiên đền xong nợ nước trong một trận tử chiến oanh liệt.
Truy tìm nhân vật Đinh Sâm, theo Bác sĩ Lê Văn Ngôn trong bài “Tây Đô lịch sử”
đăng ở tập Kỷ yếu Hội Khuyến Học Cần Thơ năm 1943: “Có lẽ là cựu lãnh binh ở
Châu Đốc tên Ngô Sâm, ngày 3-9-1857 phá đồn Sa Đéc rồi lui về Cần Thơ, chạy lên
Châu Đốc, kế bị b6ăt tại kinh Rạch Giá vào lúc cuối tháng giêng 1861”. Còn sách
“Monographie de Cantho” chép: Đinh Sâm là Võ Đình Sâm, mà người giết Cai tổng
Vĩnh là Thống chế Bút. Không biết Thống chế Bút là thuộc hạ của Ngô Sâm hay Võ
Đình Sâm?”.
Theo tài liệu của Lê Hữu Uy trong “Làng Nhơn Ái Hai Trăm Năm Khai Khẩn” (6) viết:
“Năm 1868 trước gót giày xâm lăng của giặc, khắp nơi dân chúng hừng hực khí thế
chống ngoại xâm. Ông Đinh Sâm một nông dân ở rạch Trà Niềng làng Nhơn Ái là một
người hào sảng, giỏi võ, đứng lên qui tụ dân làng chống giặc. Dân chúng ủng hộ
rất đống co trốn 200 nghĩa quân từ Ba Láng chạy dài vô tới Cầu Nhiếm Ba Se là địa
bàn hoạt động của ông (...). Ông Đinh Sâm có lần nđịnh đánh Toà Tham Biện (dinh
Tỉnh Trưởng) ở Cần Thơ nhưng kế hoạch không thành. Sau những trận chống trả sự
càn qué của giặc, thế cô sức yếu về yếu kém vũ khí nên nghĩa quân thất bại.
Ông bị bắt và bị giết. Một số nghĩa qunâ rút về vùng Thất Sơn. Cuộc khởi nghĩa
của ông Đinh Sâm tuy không thành nhưng dân làng Nhơn Ái cũng làm cho giặc một
phen phải kinh hồn. Được hung tin anh hùng Đinh Sâm đền nợ nước có hai câu đối:
“Võ kiếm
xung thiêng, Ba Láng giang đầu lưu huyếtn hận.
Văn tinh lạc
địa, Trà Niềng thôn lý đoái sầu nhan”.
Tạm dịch:
“Võ kiếm loà
trời, Ba Láng vàm kia còn máu hận
Văn tinh rơi
đất, Trà nIềng thôn ấy đượm màu sầu”.
9. NGUYỄN THẦN HIẾN (Hội Đồng HIẾN) (1857-1914): Ông tên thật Nguyễn Như Khuê,
lớn lên đổi là Nguyễn Thần Hiến tự Phát Đình, hiệu Chương Chu, người làng Mỹ Đức,
tỉnh Hà Tiên. Con cụ Kinh lịch Nguyễn Như Nguơn và bà thứ thất Huỳnh Thị Chu tự
Thoại Liên. Ông nổi tiếng thông minh, cường ký, được xưng tặng là “Tiểu Táu
tài” hoặc “Trương Tòng tái thế”. Ông chánh thức hoạt động cách mạng kể từ tháng
giêng năm Giáp thìn1904, sau khi hội kiến lần thứ nhứt với cụ Phan Bội Châu tại
Sa Đéc. Ông tán thành phong trào Đông Du và từng sáng lập “Khuyến Du Học Hội” để
vận động sinh viên du học tại Nhật. Khoảng năm 1908 bị Pháp truy nã, ông xuất
ngoại qua đường biển bằng thuyền nhỏ đến Campuchia rồi sang Thái Lan, sau đó
sang Trung Hoa. Năm 1913 ông hội kiến với đức Kỳ ngoại hầu Cường Để báo rõ tình
hình trong nước và yêu cầu ngài về nước. Bởi thế đức Cường Để đã có lúc lén về
nước, xuống miền Hậu Giang họp bí mật với các đồng chí tại Long Xuyên, tất cả đều
do Nguyễn Thần Hiến xếp đặt. Ngày 16 tháng 3 năm 1913, cảnh sát Anh kéo đến xét
nhà ông Huỳnh Hưng bắt gặp 13 quả lựu đạn, một ít giấy tờ và bắt giữ 4 người
trong nhà lúc đó có Huỳnh Hưng, Nguyễn Quang Diêu và Đinh Hữu Thuật. Vì nhà
đương cuộc Pháp tại Việt Nam vận động với chánh phủ hoàng gia Anh, nên cảnh sát
Anh ra tay đàn áp bắt giam các nhà cách mạng Việt Nam đưa về Hà Nội, trong đó
có Nguyễn Thần Hiến. Ông bị giam tại khám Hà Nội để chờ đưa ra Côn Đảo. Ông tuyệt
thực phản đối quyết quyên sinh. Ông nhắm mắt từ trần vào ngày mùng 1 Tết nguyên
đán Giáp dần (26 Janvier 1914) hưởng dương 58 tuổi. (7).
10. LÊ QUANG CHIỂU (Cai tổng CHIỂU) (1852-1924),
một người không màng danh lợi, can đảm từ quan để cùng chia đau khổ với đồng
bào trong cảnh bị trị. Ông người làng Nhơn Ái (Phong Điền), quận Châu Thành tỉnh
Cần Thơ, sinh năm1852. Vì gia thế ông tương đối có uy tín trong vùng nên ông được
cử làm Cai tổng tổng Định Bảo. Từ chối không được, ông nhận chức mà lương tâm cắn
rứt. Sau cùng ông nghĩ ra một diệu kế “cứ nhận chức, nhưng có điều gì giúp đỡ
cho dân chúng nhờ thì giúp, không thì thôi, tuyệt đối không làm khổ cho dân như
những hạng cường hào ác bá”. Thế nhưng ông càng đắm chìm trong dòng suy tư, dần
dần chán chường công danh, nhất là không tốt đẹp gì dưới danh nghĩa phục vụ ngoại
bang, ông đã quyết định cởi phăng dây ben tam tài (tượng trưng chức vụ Cai tổng)
và trao trả mộc ký (con dấu) lại chánh phủ bảo hộ, lui về vườn cũ cỏ hoa, sống
đời ẩn dật.
11. BS. Thủ tướng LÊ VĂN HOẠCH (1886-1978). Là con của ông Lê Quang Diên, một địa
chủ giàu có ở Phong Điền. Ông là Bác sĩ, tốt nghiệp cao đẳng y khoa ngành nhãn
khoa tại Hà Nội, từng làm Trưởng Ty Cảnh sát tỉnh cần Thơ năm 1945, Thủ Tướng
trong Chánh phủ Nam kỳ tự trị từ ngày 6 tháng 12 năm 1947 đến 29 tháng 7 năm
1948, và năm 1964 làm Quốc Vụ Khanh thời đệ nhị cộng hoà. Ông cũng là Bảo Sanh
Quan, chức sắc cao cấp trong đạo Cao Đài. Ông là ông Cả cuối cùng của làng Nhơn
Ái tỉnh Cần Thơ, vì từ năm 1945 làng không còn ông Cả nữa. Năm 1945 ông làm Trưởng
ty Cảnh sát tỉnh Cần Thơ. Bác sĩ Lê Văn Hoạch không phải chỉ giỏi về Nhãn Khoa
mà còn giỏi về môn Giải phẫu nữa. Tác giả Phương Huy trong bài “Những Nhà Giàu
Tiếng Tăm Ở Cần Thơ Xưa” viết “Bác sĩ Hoạch là một trong những nhà giàu đã tiên
phong sắm xe hơi ở Phong Điền và về sau sắm cả máy bay tư nhân”. (13)
12. NGUYỄN TRỌNG QUYỀN (1876 – 1953) Sinh tại thôn Thạnh Hoà, xã Trung Nhứt, quận
Thốt Nốt An Giang, nay thuộc quận Thốt Nốt – thành phố Cần Thơ, bút danh Mộc
Quán (do hai chữ Hán: Mộc – Quán ghép lại thành chuư Quyền). Tuổi trẻ ông học ở
Thốt Nốt, Cần Thơ rồi gia nhập làng báo, cộng tác cùng các cây bút nổi tiếng thời
bấy giờ như Trầnn Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh, Nguyễn Chánh Sắt... tr2n các
báo Nông Cổ mín đàm, Lục Tỉnh tân văn. Từ năm 1920 khi nghệ thuật sân khấu cải
lương phát triển ông trở thành nhà soạn tuồng sáng giá của các gánh hát đương
thời, cũng là một trong những hậu tổ khai sanh nền cải lương Việt Nam. Ngoài
các bài báo, truyện thơ và sách biên khảo Phu Thê nghị luận, trong 50m năm sáng
tác, ông đẻ lại cho đời 85 vở tuồng cải lương nổi tiếng như Phụng Nghi Đình, Giọt
lệ chung tình, Tình duyên phấn lạt... Những năm trước thế chiến ở miền Nam, ông
là một trong hai soạn giả c8i lương (người thứ hai là Trương Duy Toản) có nhiều
tác phẩm nhất và cũng được đa số khán giả mến một. Ông mất năm Quý tỵ 1953, thọ
77 tiổi (8). (8)
13. TRƯƠNG DUY TOẢN (1885 – 1957). Nhà văn, tự là Mạnh Tư,
bút hiệu Đông Hồ, queo huye, Vĩnh Long. Thuở nhỏ học ở Sài Gòn. Năm 1905 làm
Kinh Lịch tại văn phòng Toà Khâm Sứ Nam Vang. Năm 1907 đổi về Sài Gòn. Tại đây
ông tha gia các tổ chức yêu nước, có chân trong hội Minh Tân của Trần Chánh Chiếu.
Sau đó sang Nhật, có một thời gian làm thông ngôb cho Phan B0ôi Châu, Cường Để ở
Nhật và Pháp. Nam 1908, sau khi chánh phủ Pháp trục xuất du học sinh Việt Nam
ra khỏi Nhật Bản, ông cùng Cường Để lên đường sang Châu Âu với Đỗ văn Y, Lâm Tỷ,
Hoàng Vnă Nghị. Năm 1914 ông trở về Thượng Hải, Singapore rồi lại sang Pháp. Tại
Paris ông liêc lạ với nhà yêu nước Phan Châu Trinh rồi bị Pháp bắt giam vào nhà
tù La Santé. Sau đó chánh phủ Pháp xét thấy không có gì liên quan tới Đức nên
được trả tự do. Nhưng hai Ông Toản và Ông Y bị trục xuất và dẫn độ về Sài Gòn,
bị giam một thời gian. Ông Toản bị đưa về quản thúc tại làng Nhơn Ái Cần Thơ, Ở
đây ông tiếp tục kết giao với những người có tinh thần yêu nước chống Pháp và
suốt thời gian ngụ tại làng Nhơn Ái, ông chú tâm phát triển phong trào đờn
ca ra bộ, tiền thân của ngành ca kịch cải lương miền nam, soạn tuồng cải lương
và cũng là thầy tuồng (đạo diễn) nổi tiếng cùng thời với Nguyễn Trọng Quyền nên
được xem là ông tổ của ngành cài lương. Năm 1924-1933 ông làm chủ báo Trung Lập,
Sài Thành nhựt báo. Năm 1955 ông còn viết hồi ký về Phong trào cách mạng trong
Nam liên tiếp trên tuần báo Tiến Thủ với bút hiệu Đông Hồ và tiểu thuyết Phan
Yên Ngoại Sử (Tiết phụ gian truân). Ông mất năm 1957 tại Sài Gòn, thọ 72 tuổi.
(8)
14. NGUYỄN BẢO TOÀN, tên thật là Nguyễn Hoàn Bích, quê quán làng Long Kiến, quận
Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên. Ông theo học bậc trung học tại trường Collège de Cần
Thơ khoảng thập niên 1930, cùng thời với học giả, nhà văn Hồ Hữu Tường. Ông là
người yêu nước, cả một đời làm cách mạng, đã từng bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo.
Ngày 21 tháng 9/1946, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng,
và Huỳnh Giáo Chủ đã cử ông Nguyễn Bảo Toàn làm Tổng Bí Thư đảng mà đa số trên
một triệu đoàn viên đều là tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo, mặc dù Ông Nguyễn Bảo Toàn
là tín đồ Thiên Chúa giáo. Ông là người có công đầu trong việc truất phế Bảo Đại
và đưa ông Ngô Đình Diệm lên ngôi vị Tổng Thống đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà. Sau
cuộc đảo chánh 11-11-1960 của nhóm quân nhân thất bại phải đào thoát sang Nam
Vang tỵ nạn, ông đã trốn thoát rồi bị lên án tử hình khiếm diện, nhưng đến
tháng 11 năm 1962 thì ông bị công an của Đại tá Nguyễn Văn Y bắt được và đã bị
thủ tiêu vào cuối năm 1962 tại Tổng Nha Cảnh Sát và Công An, xác ông bị cột vào
trụ xi măng thả xuống sông Nhà Bè. Tất cả những người có trách nhiệm trong vụ bắt
giam và thủ tiêu ông đều bị đưa ra toà: các can phạm từ tổng giám đốc, phó tổng
giám độc, giám đốc, chánh sở của Tổng Nha Cảnh Sát và công an đều bị phat tù.
(5a)
15. Học giả HỒ HỮU TƯỜNG (1910-1980): Sanh quán tại làng Thường Thạnh, quận Cái
Răng, tỉnh Cần Thơ. Ông là chính trị gia, nhà văn, nhà báo, là một nhân vật kỳ
lạ, sống 70 năm trong thế kỷ XX, trải nhiều vòng tù tội dưới tất cả các chính
quyền: thực dân, quốc gia và cộng sản. Hồ Hữu Tường xuất thân trong một gia
đình nghèo, cha mẹ phải đi làm tá điền cho người cậu là điền chủ, hội đồng. Ông
viết văn rất sớm, ngay khi bước chân vào trường College de Can Tho những năm đầu
mới thành lập, đã thấy lòng sôi sục khi đọc những bài tường thuật hàng ngày
trên báo Đông Pháp Thời Báo, nên đã đưa đến việc ông và các bạn trẻ thực hiện một
tuần báo viết tay, trong đó có Ung Văn Kiêm, Trần Thiêm Tới (bút hiệu
Trúc Hà) và Hồ Hữu Tường ký tên Pierre Vutren. Trải qua suốt chặng đường hoạt động
chính trị nhưng biết lợi khí của văn hoá, ông luôn luôn tuyên bố: “Tôi là kẻ dụng
văn, chớ không phải nhà văn”. Từ năm 1931 đến 1939, ông làm lý thuyết gia cho
nhóm đệ Tứ ở Việt Nam. Tháng 11/1932 ông bị Pháp bắt lần đầu. Ngày 1/5/1933 ra
toà bị xử án treo 3 năm. Đầu tháng 6/1939 ông bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác. Ngày
29 tháng 9/1939 bị nhà cầm quyền Pháp bắt, cuối 1940 bị đày đi Côn Đảo cùng với
Nguyễn An Ninh, Pham Văn Hùm, Tạ Thu Thâu. Năm 1945 Nhật đảo chánh Tây, Hồ Hữu
Tường được thả và ra Hà Nội để sang Tàu nhưng bị kẹt. Năm 1946 ông được mời
tham dự hội nghị Đà Lạt với tư cách cố vấn trong phái đoàn Việt Nam nhưng ông
không phát biểu gì. Kế đó ông giúp Bộ Giáo Dục Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thiết
lập chương trình soạn và in sách giáo khoa bằng tiếng Việt cho bậc Trung học.
Năm 1947 bị Phát bắt trong lúc tản cư về Kẻ Sặt (Hải Dương). Rồi ông lại về Sài
Gòn viết văn, làm báo. Mùa xuân 1948 sang pháp vì lý do chính trị. Năm 1953 về
nước. Năm 1954 với tư cách ký giả, ông sang dự Hội nghị Genève, hết sức vận động
cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng thất bại. Tháng 3/1955 vì có liên lạc với
các nhóm trong mặt trận thống nhất (Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên) chống lại Ngô
Đình Diệm, ông bị bắt ở Rừng Sát. Năm 1957 ra toà và bị kết án tử hình, nhưng
nhờ những trí thức ở Pháp trong đó có Albert Camus viết thư can thiệp nên án lệnh
được đình chỉ và bị đưa ra Côn Đảo. Sau khi chánh quyền Ngô Đình Diệm đổ, Hồ Hữu
Tường được trả tự do ngày 31/01/1964. Ra tù, kiệt lực, phải nửa năm sau mới viết
lại được. Năm 1965 cộng tác với báo Hoà Đồng để phát huy nền văn minh tổng hợp:
kỹ sư, chính ủy và tu sĩ. Làm Phó Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh. Năm 1967
được bầu làm dân biểu trong Hạ Viện VNCH. Ông luôn mặc bộ đồ bà ba màu dà mỗi
khi đi họp Quốc Hội. Sau tháng 4/1975 bị đi học tập cải tạo, khi được trả tự do
về đến nhà ở Gia Định thì mất, ngày 26 tháng 6 năm 1980. Về sáng tác, Hồ Hữu Tường
để lại trong kho tàng văn chương rất nhiều tác phẩm qua các thể loại: Chính trị,
Kinh tế, Triết học, Văn học sử, Văn Phạm, Dịch, Truyện, Tiểu luận, Truyện ngắn,
Tạp văn, Tự truyện và Hồi ký… (9)
16. Nhạc sĩ LƯU HỮU PHƯỚC, quê ở Ô Môn, theo học trường College de Cần Thơ
(Phan Thanh Giản) và trường Petrus Ký (Sài Gòn).. Ông là tác giả của nhiều bài
hát nổi tiếng thời học sinh, sinh viên và trong giai đoạn toàn dân kháng chiến
chống Pháp như Tiếng Gọi Sinh Viên, Thiếu Sinh Hành Khúc, Khúc Khải Hoàn, Lên
Đàng… Sau năm 1954 Ông tập kết ra Bắc và phục vụ trong chế độ CSVN cho đến khi
qua đời. Bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được viết lời 2 và đã trở thành bản Quốc Ca
của Việt Nam Cộng Hoà cho mãi đến sau nầy. Được biết, ông cũng là tác giả ký
tên Huỳnh Minh Siêng sáng tác bản nhạc được chánh phủ cách mạng lâm thời cộng
hoà miền Nam Việt Nam dùng làm quốc ca (trước năm 1975). Ngày nay chánh quyền
trong nước đã đặt tên ông cho một công viên tọa lạc đầu đường Tự Đức (nay là Lý
Tự Trọng) trên khu “đất thánh Tây” ngày trước, đối diện Bệnh viện Đa Khoa (Thủ
Khoa Nghĩa), công viên văn hóa LƯU HỮU PHƯỚC.
17. Nhà sưu khảo văn học NGUYỄN BÁ THẾ (19-11-1925 – 02-3 1996): Ông sinh ngày
19 tháng 11 năm 1925 tại làng Thường Thạnh (Cái Răng), Cần Thơ. Căn nhà nơi ông
sinh ra nằm trên bờ sông Cần Thơ, một nhánh của dòng Hậu Giang hiền hoà, quanh
năm mang phù sa nước ngọt tưới mát vườn cây xanh trái, đồng ruộng bao la. Câu
hát dân gian “Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền…” có lẽ đã in sâu trong
tiềm thức ông từ thuở nằm nôi nên ông sớm đi vào con đường sáng tác văn học từ
thời rất trẻ”…Làm thơ, viết văn, viết báo, viết sưu khảo ông ký nhiều bút hiệu.
“Tên thật của tôi là Nguyễn Bá Thế, ký tên Thế Nguyên, tức là tên Thế với họ
Nguyễn bỏ bớt dấu ngã. Nam Xuân Thọ là một cửa hiệu của thân phụ tôi, cũng là
nhà thơ, nhà soạn kịch, tên thật Nguyễn Bá Thọ, bút hiệu Nam Sơn. Năm 1945 ông
thân tôi mất. Do tấm lòng hiếu thuận, tôi mang danh Nam Xuân Thọ để biểu
dương tinh thần thân phụ tôi sống mãi với đời. Còn bút hiệu Nhất Tâm, vì tên
tôi là Thế, về mặt chữ Hán, chữ Thế có nét ngang, tượng trưng cho chữ Nhất, còn
chữ Thế tượng trưng cho chữ Tâm, vì vậy Nhất Tâm tức chử Thế chiết ra. Lại nữa,
tôi dùng phương châm với câu “Nhất sanh háo đức Tâm như thạch”, và “Thường bả
Nhất Tâm thành chánh đạo” (10).
Tủ sách Những Mảnh Gương của nhà xuất bản Tân Việt Sài Gòn đã in tác phẩm của
ông dùng làm sách tham khảo trong chương trình bậc trung học như: Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Huỳnh Mẫn Đạt, Võ Trường
Toản, Nguyễn Văn Vĩnh, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Sương Nguyệt Anh, Phan
Thanh Giản… Ban Tu Thu Tân Việt cũng in các tác phẩm giá trị của Ông (nhưng
không đề tên tác giả mà dùng Ban Tu Thư) như: Tam Quốc Bình Giải, Kim Cổ Kỳ
Quan, Thủy Hử. Truyện dịch Tế Điên Hoà Thượng xuất bản tại Cần Thơ cuối thập
niên 1940. Nhà xuất bản Nguồn Sống năm 1949 cũng đã in nhiều tiểu thuyết của
Ông: Tình Và Nghĩa Vụ, Lá Cờ Hồng Thập, Cô Ký (Hiền), Lột Vỏ. Các tiểu thuyết
in feuilleton trên các báo như: Nghị Lực, Son Sắt Một Lòng, Cô Giáo Ánh, Một Chữ
Đồng, Oán Tình, Gió Nghĩa Trăng Tình, Chim Việt Cành Nam, Chim Việt Về Nam. Sau
năm 1975, tác phẩm Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử của ông biên soạn giao cho ông Nguyễn
Quyết Thắng lo in và xuất bản, được đứng tên chung và tái bản nhiều lần với số
lượng in rất lớn, có đưa vô nhiều nhân vật đương đại là của Ông Nguyễn Quyết Thắng
bổ sung chớ không phải của Ông. Ông còn có những bộ bản thảo hoàn tất như:
Trung Quốc Nhân Vật Lịch Sử với hơn mười ngàn nhân vật từ cổ xưa đến cận đại,
in ta phải hàng vạn trang sách; các bộ Gương Chí Sĩ, Gương Nghĩa Liệt, Gương Nữ
Lưu, Cao Hiền Xử Sĩ, Giọt Lệ Chung Tình … là những bản thảo đã chép sạch và
hoàn chỉnh nhưng chưa có điều kiện in, thì Ông đã không còn nữa. Ông mất lúc 11
giờ 10 phút sáng ngày 2 tháng 3 năm 1996 (nhằm ngày 13 tháng Giêng Bính tý) trước
sự tiếc thương của gia đình và trong lòng mọi văn thi hữu quen biết Ông suốt
hơn nửa thế kỷ qua.
18. BS NGUYỄN VĂN NGỌC (1906-2003): Sanh ngày 3 tháng 10 năm 1906 tại Thủ Dầu Một,
sau này là tỉnh Bình Dương Việt Nam. Ông học tại quê nhà. Sau khi đậu
Certificat, ông được trúng tuyển vào École Normale, tức trường Sư Phạm ở Sài
Gòn. Tốt nghiệp Sư phạm được bổ nhiệm về dạy ở tỉnh Châu Đốc, nhưng vì quá
thích ngành y khoa nên chưa kịp nhận lớp dạy, ông đã trở về quê xin mẹ tiếp tục
thi vào trường Chasseloup Laubat để lấy bằng Tú Tài và sau đó thi tuyển vào đại
học Y khoa Hà Nội. Tốt nghiệp Y khoa hạng 3 toàn quốc năm 1932, ông đã chọn về
bệnh viện Chợ Rẫy Sài Gòn, khoa tai, mũi, họng. Năm 1934 ông tạo được thành
tích lớn là chận đứng được bệnh dịch hạch tại làng Mỹ Luông tỉnh Long Xuyên. Với
thành tích nầy, ông được trao tặng Y Tế Bội Tinh. Năm 1937 ông chuyển về bệnh
viện tỉnh lỵ Cần Thơ và phục vụ luôn ở đó cho đến khi hưu trí vào năm 1962 ở bệnh
viện công, nhưng ông vẫn giữ phòng mạch tư liên tục cho đến năm 1975. Với gần
40 năm phục vụ trong ngành Y Tế, BS Nguyễn Văn Ngọc đã có công trong việc thành
lập Trung tâm truyền huyết Cần Thơ và cũng đi tiên phong trên toàn quốc trong
việc sáng lập Trung tâm huyấn luyện y tá theo tiêu chuẩn quốc tế. Sau đó là việc
thành lập Bệnh xá và Bảo sanh viện tại khu trù mật Vị Thanh. Với công trình nầy,
ông được cấp huy chương Chương Mỹ Bội Tinh. Có một điều ít ai ngờ là một bác sĩ
dân sự như ông lại được tặng Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao bạc, vì tích cực
giúp dân chúng nạn lụt miền Tây Việt Nam. (11).
BS Nguyễn Văn Ngọc từng giữ chức vụ Trưởng Ty Y Tế tỉnh Phong Dinh, Giám đốc bệnh
viện Thủ Khoa Nghĩa Cần Thơ, và đã qua đời lúc 4 giờ sáng ngày 25 tháng 7 năm
2003 tại Westminster, California, hưởng đại thọ 97 tuổi.
19. Nhà văn LÊ XUYÊN (1927-2004). Tên thật Lê Bình Tăng, sinh ngày 01 tháng 11
năm 1927, gốc gác người quận Trà Ôn tỉnh Cần Thơ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long, có
lúc là Trà Vinh). Ông từ trần hồi 21 giờ 20 ngày 2 tháng 3 năm 2004, tức ngày
12 tháng 2 năm Giáp thân tại tư gia 523/238/146 Nguyễn Tri Phương, quận 10, TP
Sài Gòn. Ông đã theo học trường College de Cần Thơ rồi Phan Thanh Giản suốt 4
năm (1941-1945) và đã đeo đuổi nghiệp làm báo trong những năm thập niên 1960,
1970 cho đến ngày 30-4-75. Ông mất đi để lại cho đời những tác phẩm sau đây:
Chú Tư Cầu (1965), Rặng Trâm Bầu, Vợ Thầy Hương (1965), Đêm Không Cùng (1966),
Kinh Cầu Muống (1968), Vùng Bão Lửa (1969), Nguyệt Đồng Xoài (1970). Viết về Lê
Xuyên, tác giả Châu Lê cho rằng “Một nhà văn tên tuổi trong làng văn làng báo
mà từ sau ngày rời “trại cải tạo tập trung” trở về sống nghèo khổ, đi bỏ bánh kẹo,
ngồi bán thuốc lá lẻ... cho mãi đến khi nhắm măt xuôi tay đã không được tiếp tục
cầm viết, khnôg được làm kiếp con tằm nhả tơ trả nợ cuộc đời như nghiệp dĩ
vương mang là một cực hình cay đắng vô cùng; cũng cho thấy khí tiết vô cùng khi
biết ngòi bút của mình không thể hiện được tâm nguyện mà mình mơ ước. Anh mất
đi đã Là trút bỏ được bao điều hệ lụy đó...”. (12)
20. Bác sĩ HUỲNH HỮU CỬU (1932-1999): Sinh ngày 10 tháng 5 năm 1932 tại Cần
Thơ, từng là học sinh các trường College de Can Tho tức Trung học Phan Thanh Giản,
Le Myre de Villers tức Trung học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho và Chasseloup Laubat
Saigon. Ông đặu Tú Tài Toàn phần Pháp năm 1952 và vào trường Đại học Y khoa năm
nầy. Tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa năm 1960. Bác sĩ Huỳnh Hữu Cửu từng phục vụ tại
Quân Y Viện Qui Nhơn (1960-1966) và Tổng Y Viện Cộng Hoà (1965-1975). Tu nghiệp
về Nhãn khoa tại nHawaì năm 1962 trước khi Ông du họcvề Nhãn khoa tại bệnh viện
Walter Rêd Washington DC từ nam1 1969 đến năm 1972 và lấy Boar Nhãn khoa tại
đây. Từ tháng 4-1975 đến năm 1995 Ông hành nghề Bác sĩ Nhãn khoa tại New
Orleans Louisiana rồi Orange County California Hoa Kỳ.
Bản chất Ông hiền hoà, yêu thương gia đình, bạn bè và quê hương. Trước năm
1975, Ông từng hợp t6ac với Tạp chí Nhãn Khoa và Tạp sna Quân Y khi còn ở trong
nước. Năm 1986, Ông xuất bản SÔNG MỸ SÔNG VIỆT và năm 1995 SÔNG MỸ SÔNG VIỆT
TOÀN TẬP. Kể từ 1988 Ông hay viết những đề tài về đạo Phật, có ước vọng xuất bản
một tác phẩm về Đạo Phật và Tổ sư Thiền nhưng chưa thực hiện được. Ông mất ngày
7 tháng 12 năm 1999 tại California Hoa Kỳ để lại bao nhiêu thương tiếc cho gia
đình, bằng hữu và đồng hương.
21. Cựu Thủ tướng NGUYỄN BÁ CẨN (1930-2009): Sinh ngày 09 tháng 9 năm 1930 tại
Phú Hữu tỉnh Cần Thơ. Vào trường College de Cantho năm 1042. Cựu sinh viên Đốc
sự 1 Học viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn. Cựu Dân Biểu - Chủ tịch Hạ Nghị Viện.
Cự Thủ tướng Chánh phủ VNCH. Đã đột ngột từ trần hưởng thọ 79 tuổi Ông Võ Duy
Thưởng – Chánh văn phòng cựu Thủ tướng Nguyễn Bá cẩn đã chuyển đi điện văn đề
ngày 20-5-2009 mở đầu như sau: “Thưa quí vị, Văn phòng Cựu Thủ tuớng VNCH Nguyễn
bá cẩn đau bồn thông báo cùng toàn thể quí đòng hương Việt Nam và các đoàn thể
trong và ngoài nước, cựu Thủ tướng VNCH Nguyễn bá Cẩn sau gần một năm lao tâm,
lao lực để chuẩn bị hồ sơ đệ nạp về thềm lục địa đúng thời hạn qui định với
Liên Hiệp Quốc, đã bất ngờ đôt quị và từ trần lúc 4 giờ 30 sáng ngày 20 tháng 5
năm 2009 tại Regional Medical Cen ter, thành phố San Jose, tiểu bang
California, Hoa Kỳ (....)”. Sau năm 1975 tại Hoa Kỳ, Cựu Thủ tướng Nguyễn bá cẩn
đã cố gắng học thêm về điện toán và đã là một Senior System Analyst của hãng
Cheveron Texaco Corp. Ngoài việc làm sinh sống và hoạt động chính trị trong vai
trò Cựu Thủ tướng VNCH, còn là cựu học sinh trường College de Can Tho – Phan
Thanh Giản, từ năm 1999 niên trưởng Nguyễn Bá cẩn đã sinh hoạt thường xuyên
trong gia đình PTG & ĐTĐ Cần Thơ Bắc Cali, từng nhắc nhở “nhường nhịn anh
chị em cùng trường thì không có gì là xấu hổ cả. Giúp đỡ hội PTGĐTĐ là việc làm
cần thiết mà còn là nhiệm vụ của chúng ta”. Chính niên trưởng Nguyễn bá Cẩn đề
nhị nhạc sĩ Anh Việt Trần văn Trọng (cựu Đại Tá QL.VNCH) sáng tác ca khúc về
trường, mới có hai bản nhạc Lưu Danh Trường Phan và Nữ Sinh Trường Đoàn sử dụng
trong những lần họp mặt sinh hoạt của thầy trò trường Phan, trường Đoàn khắp
nơi trên thế giới.
22. LÊ VĂN KHOA (1933-.......). Sinh ra đời vào ngày 10 tháng 6 năm 1933 trong
một gia đình đạo đức thanh bạch ở Cần Thơ, mẹ mất sớm nhưng cha là một mục sư đầy
lòng bác ái tận tụy với thiên chức của mình. Người ta nhìn Lê Văn Khoa qua chân
dung nghệ sĩ đa diện và phong phú: Một nhà giáo dục. Một nhiếp ảnh gia. Một tác
giả viết sách. Một nhà xuất bản có uy tín. Một người soạn hoà âm. Một người sáng
tác nhạc có lời và không lời. Những bộ môn nghệ thuật kể trên lại có sự
tương hợp và hài hoà để tác phẩm của ông bao giờ cũng có những nét sáng tạo biểu
tỏ từ tâm hồn phóng khoáng và rộng lớn của một người luôn đi tìm cái tuyệt đối
dù rằng hành trình ấy sẽ trải qua nhiều thách thức khó khăn. Là một nhà giáo,
GS Lê Văn Khoa thực hiện chương trình Thế Giới của Trẻ Em trên đài truyền hình
Việt Nam băng tần số 9 cho đến ngày 30-4-1975 với mục đích để cho trẻ em vừa
vui vừa học với những kiến thức bổ túc cho chương trình học ở nhà trường, những
bài hát thiếu nhi, một sở trường của nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã làm cho các em
thích thú và say mê suốt hơn 10 năm trình chiếu. Là một người soạn hoà
âm, sáng tác nhạc có lời và không lời, có lần ông đã tâm sự “Hồi còn trẻ tôi đã
tâm niệm sẽ tiếp tay với với người đi trước để phong phú hoá nhạc Việt. Phong
phú hoá bằng cách nào? Không phải bằng những ca khúc phổ thông nữa nhưng mà đưa
nó đi xa hơn để có thể hoà vào với dòng nhạc của thế giới”. Là một nhiếp ảnh
gia, bắt đầu là một chương trình về nghệ thuật nhiếp ảnh trên đài truyền hình
mà ông xuất hiện cùng với các nhiếp ảnh gia nổi tiếng như Nguyễn Mạnh Đan, Nguyễn
Cao Đàm, Trần Cao Lĩnh. Ông thấy hứng thú khi cầm máy để qua ống kính thu lại
những hình ảnh của thiên nhiên để cảnh vật chuyên chở được tình ý của con người.
Là một trong những người sáng lập ra Hội Ảnh Nghệ Thuật Việt Nam tại Sài Gòn và
đến bây giờ ở hải ngoại hội ấy vẫn còn hoạt động đã có nhiều ngàn hội viên khắp
các tiểu bang Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiếp ảnh gia Lê Văn Khoa
là người Việt Nam đầu tiên có ảnh được trưng bày tại Quốc Hội Hoa Kỳ và từng là
giáo sư dạy môn Nhiếp ảnh tại nhiều trường đại học Hoa Kỳ. Ông cũng là người Việt
Nam duy nhất cùng với các hoạ sĩ Henry Coe, George Founds, James Plum và Robert
Tolley được Baltimore Museum of Arts (Maryland) tuyển chọn để tài trợ một cuộc
triển lãm lưu động lấy tên là “From The Easter Shore” kéo dài từ 1977 đến 1979.
Là một tác giả viết sách, một nhà xuất bản có uy tín. Lê Văn Khoa chủ biên môt
loạt sách về giáo dục và dịch thuật của nhà xuất bản Thời Triệu ấn hành. Ông
còn dịch thuật và phóng tác một số danh phẩm ngoại quốc nổi tiếng trong mục
đích giới thiệu và phổ biến như một phương cách mở rộng những chân trời văn học
có thể còn xa lạ với đọc giả Việt Nam thời đó. Biên khảo về âm nhạc, nhiếp ảnh,
dịch thuật, viết truyện ngắn với bút pháp lãng mạn tài hoa mà Nguyễn Mạnh Trinh
đã nhận định “Một cái nhìn phóng khoáng vượt qua biên giới qua cây cầu nghệ thuật.
một con người rất lãng mạn của văn chương có khác với con người lý luận của
biên khảo. Tôi thú vị khi tìm ra được một hân dung nghệ thuật Lê Văn Khoa
khác”. Và khi viết về cuốn sách xuất bản nhân 80 tuổi, ông viết “Lê
Văn Khoa. Một Người Việt Nam. Một tác phẩm mà tôi nghĩ những ai còn quan tâm đến
văn hoá của dân tộc Việt Nam phải đọc. Ở đó, có những bài viết của chính ông,
viết là để chia sẻ những kiến thức và những kỷ niệm. Những thành tích lẫy lừng
qua cách cống hiến ở những bộ môn giáo dục, truyền hình, âm nhạc, nhiếp ảnh
không phải chỉ có danh tiếng ở trong nước, ở Việt Nam hải ngoại mà còn cả ở
trên bình diện thế giới...(...). Thêm vào đó, hơn 60 tác giả đã viết về một
chân dung lẫy lừng của nghệ thuật Việt Nam vói những nhận định trung thực và những
lời khen tặng làm độc giả cảm nhận và hiểu biết nhiều hơn về một chân dung nghệ
thuật mà sự sáng tạo cũng như biểu hiện trí tuệ khiến chúng ta khâm phục”. (14)..
Cần Thơ vẫn còn có nhiều nhân vật tiếng tăm góp phần làm nên độ dầy lịch sử của
vùng đất địa linh nhân kiệt, nhưng do điều kiện và hoàn cảnh không cho phép,
nên nhóm biên soạn không thể liệt kê ở đây được. Nếu có được đủ chi tiết cần
thiết, chúng tôi sẽ bổ sung phần nầy.
Tuy nhiên, theo tác giả Phan Thông Hảo (xem chú thích 15) kể ở
phần “công tư chức và thân hào nhân sĩ địa phương”, chúng tôi xin lược trích giới
thiệu thêm để chúng ta có thể hình dung được CON NGƯỜI CẦN THƠ: về hành chánh,
có Ông Huyện Nở, ông Phán Thiện, ông Phan Trung Hàm, ông Lưu Văn Rùm, ông Ký Lục,
Ông Cai tổng Nguyễn Văn Quyền, ông Cai tổng Nguyễn Kế Thế; về y tế, ngoài Bác
sĩ Nguyễn Văn Ngọc đã kể, còn BS Diêu, BS Hành, BS Nguyễn Như Giu, BS Phòng, BS
Kinh, BS Leuret, BS Thuấn, BS Lê Văn Trương, BS Lê Văn Khoa, DS Khương Bình Tịnh,
DS Bùi Văn Sách, DS Mã Thi Chu. Bên Đông Y có phòng thuốc nam miễn phí kế bên
chùa Tịnh Độ Cư Sĩ. Hai vị lương y hành nghề tại nhà thầy Bảy Châu (gần rạp Huỳnh
Lạc), thầy Khải Trí.. Một số nhân sĩ có tên tuổi một thời mà bây giờ nói ra những
người lớn tuổi còn nhớ như ông bác vật Chà (điện lực), bác vật Thảo, Kỹ sư Báu,
bác vật Hoà, ông Phán Ngà, BS Thú y Trần Văn Hiển, Bác vật Xướng v.v… Đặc biệt,
Đông Y Học Viện của thầy Nguyễn Văn Xứng (đường Minh Mạng) - thân phụ của Hoạ
sĩ Nguyẽn Đồng - hoạt động rất hữu hiệu…
III. TẠM KẾT
Chúng tôi, ba người đồng hương Cần Thơ cũng là ba đồng môn trường Phan Thanh Giản
Cần Thơ dù sinh ra tại ba nơi khác nhau, nhưng đều là làng quê nghèo xa thành
phố: một trong rạch Bà Vèn thuộc xã Thường Thạnh Đông (Cái Răng), một trong rạch
Mái Giầm thuộc xã Phú Hữu, một ở tận Trường Long (Phong Điền), nhưng có duyên
may là dù thời điểm khác nhau nhưng cùng được thi đậu vào học trường trung học
Phan Thanh Giản, một trường lớn nhứt của tỉnh. Khi rời trường và sau đó bước ra
xã hội cũng đã có duyên may sống với Cần Thơ nhiều năm, mãi đến khi miền Nam sụp
đổ. Có thể nói Cần Thơ - miền quê hương đã đậm sâu dấu ấn trong từng sớ thịt
mình. Chúng tôi thương mến Cần Thơ, nhớ nhiều về Cần Thơ và… khi định cư ở Hoa
Kỳ nầy, chúng tôi lại có duyên may gặp nhau qua sinh hoạt đại gia đình trường
Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần Thơ suốt nhiều năm qua, kể từ đầu năm
1996 đến nay. Chúng tôi luôn luôn trăn trở, suy tư với lòng nhớ thương quê
hương xứ sở của một kẻ lưu lạc phương xa. Những điều chúng tôi nghĩ ra, nhớ lại
viết ra, hoặc tham khảo tài liệu viết ra… nhưng chưa thể xem là hoàn hảo, cần
phải có sự góp ý, điều chỉnh, sửa chữa bổ sung. Nói như vậy cũng mong tất cả
quý vị cảm thông và chia sẻ niềm vui nỗi buồn của bài hợp soạn nầy nếu phát hiện
có điều gì chưa đúng, chưa thoả đáng.
Trân trọng kính tặng tất cả quý vị đã quan tâm theo dõi phần trình bày của
chúng tôi và chịu khó lắng nghe, đọc thêm những bài viết trong các phụ lục, về
những hình ảnh minh hoạ của GS Lê Văn Khoa về Cần Thơ - Đất nước – Con người;
kính tặng tất cả đồng hương Cần Thơ, đồng môn hai trường Phan Thanh Giản &
Đoàn Thị Điểm thương kính nhất của chúng tôi.
Xin kính
chào quý vị
NGUYỄN CÔNG
DANH
NGUYỄN TRUNG
QUÂN
LÊ HOÀNG VIỆN
(đồng biên
soạn)
THAM KHẢO:
Để biên soạn tài liệu này, chúng tôi đã tham khảo hoặc lược trích một số đoạn,
câu chữ trong các sách và bài viết liệt kê dưới đây. Chân thành xin phép và cảm
ơn tác giả:
(1). CẦN THƠ XƯA VÀ NAY (viết tắt CTXVN), Huỳnh Minh, NXB Cánh Bằng SG 1966.
(2) QUÊ HƯƠNG XA MÃI NGÚT NGÀN (viết tắt QHXMNN), Lê Cần Thơ, tác giả tự xb tại
Hoa Kỳ 2000.
(3) trích tư liệu BÁO ĐIỆN TỬ CẦN THƠ (Số liệu kinh tế xã hội thành phố Cần
Thơ & tỉnh Hậu Giang – UBND tỉnh Cần
Thơ).
(4) trích tư liệu BÁO ĐIỆN TỬ CẦN THƠ (tham khảo từ số liệu kinh tế xã hội
thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Địa chí Cần Thơ. Niên giám tỉnh Cần Thơ
năm 2001-2002. Niên giám thống kê tỉnh Cần Thơ năm 2002.
(4a, 4b, 4c) trích sách hướng dẫn du lịch THAM QUAN CẦN THƠ QUA TRANH (Sở Văn
Hoá Thể Thao và Du Lịch TP. Cần Thơ xb theo QĐ xb số 880bqđ-Tre ngày
14-12-2010).
(5), (5a).Nhân vật Nguyễn Bảo Toàn của Trần Đông Phong (mời đọc bài nầy ngay trong
số giai phẩm Xuân Cần Thơ 2005)
(6). Lê Hữu Uy – Làng Nhơn Ái Hai Trăm Năm Khai Khẩn” – Bút Tre Magazine,
Phoenix AZ xuất bản tháng 11-2002 và tái bản tháng 9-2004)
(7). Tạp chí MIỀN TÂY THĂNG HOA - tuyển tập sinh hoạt văn học nghệ thuật - số 2
- giấy phép số 258/74 PTUDV/KSALP/TP ngày 18 tháng 01-1974, nhà in Tri Tân Cần
Thơ. Bài “Nguyễn Thần Hiến quyên sinh trong khám Hà Nội đúng vào ngày mùng 1 Tết
Giáp dần 1914” của Nguyễn Bá Thế.
(8) Tham khảo TỰ ĐIỂN NHÂN VẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM của Nguyễn Quyết Tháng - Nguyễn
Bá Thế (nxb Văn Hoá tái bản lần thứ tư 1997).
(9) Tạp chí THẾ KỶ 21, số 170 tháng 6/2003, số đặc biệt về Hồ Hữu Tường.
(10) NHỮNG BẠN VĂN NGHỆ NGANG QUA ĐỜI TÔI, tập tâm bút của Lê Cần Thơ, Bản Thảo
Lưu Lại xb 2010, trích bài “Nhà sưu khảo văn học NGUYỄN BÁ THẾ, con người suốt
đời lo gìn vàng giữ ngọc”.
(11) Tham khảo bài BÁC SĨ NGUYỄN VĂN NGỌC (mục Nhơn Vật Cần Thơ) của GS
Nguyễn Trung Quân, in trong đặc san số 8 Trung Học Phan Thanh Giản & Đoàn
Thị Điểm Cần Thơ, kỷ niệm đại hội lần thứ VII năm 2003 tại Seattle Washington
Hoa Kỳ.
(12). Tham khảo bài “Vĩnh biệt đồng môn LÊ XUYÊN” của Châu Lê, in trên đặc san
2004 cựu học sinh PTG & ĐTĐ Cần Thơ tại Úc Châu, phát hành tại Perth WA và trên
trang web: www.ptgdtd.com.
(13). Tham khảo bài “Những Nhà Giàu Tiếng Tăm Ở Cần Thơ Xưa” của Phương Huy (Cần
Thơ) in trong Giai Phẩm Xuân Nhâm Thìn 2012 chủ đề “Cần Thơ Đất Nước Con Ngưòi
do hội ái hữu và đồng Hương Cần Thơ tại Houston Texas Hoa Kỳ xuất bản.
(14). Theo tạp ghi văn nghệ “Lê Văn Khoa. Một Người Việt Nam” của Nguyện Mạnh
Trinh – in trong tuần báo Việt Tide phát hành ngày thứ sáu, số ra ngày 22 tháng
11 năm 2013
(15). Theo tác giả Charles PHAN THÔNG – PHAN THÔNG HẢO trong bài Cần Thơ
xưa & Collège Phan Thanh Giản thân yêu của tôi” in trong đặc san số 9 phát
hành tại đại hội PTG & ĐTĐ Cần Thơ lần thứ VIII, tháng 9 năm 2004 tại
Phoenix Arizona.
TÓM TẮT VỀ
CÁC SOẠN GIẢ
1.
NGUYỄN CÔNG
DANH, sanh năm 1946 tại làng Thường Thạnh Đông, quận Cái Răng, tỉnh Phong Dinh.
Học Tiểu học Bà Vèn (1954-1959), trung học Phan Thanh Giản (1959-1965), đại học
Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm Sàigòn, ban Anh văn (1965-1970). Dạy học tại Trung
học Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc, Cao Đẳng Sư Phạm Long xuyên. Viết văn, làm thơ ký
bút hiệu Nguyễn Cát Đông, Trần Bang Thạch.... Định cư tại Houston, Texas từ năm
1980 đến nay.
2.
NGUYỄN TRUNG
QUÂN, sanh ngày 3 tháng 10 năm 1937 tại làng Phú Hữu, tổng Định An, quận
Châu Thành, tỉnh Cần Thơ. Tòng học tại trường Sơ cấp và Tiểu học Phú Hữu và tỉnh
lỵ Cần Thơ. Cựu học sinh các trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ và Petrus
Trương Vĩnh Ký Sài Gòn. Cựu sinh viên Ban Việt Hán, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm
Sài Gòn năm 1962. Cựu Giáo sư, Giám học, Hiệu trưởng Trung học Phan Thanh
Giản từ năm 1962 đến 1970. Giảng viên Đại học Sư Phạm Cần Thơ. Cựu chuyên viên
về trường Trung học Tổng hợp tại Bộ Văn Hoá từ 1970 đến 1971.
Cựu Hiệu trưởng
Trường Trung học Tổng hợp Nguyễn An Ninh Sài Gòn 1971 đến tháng 5/1975.
Nguyên hội
viên Trưởng Ban Thanh Thiếu Niên Hội Đồng Văn Hoá Giáo Dục VNCH.
Thuyền nhân
cuối năm 1978, định cư tại Orange Ounty, California, Hoa Kỳ từ tháng 7-1979,
làm việc tại Sở Xã HộI Quận Cam từ năm 1980 cho đến khi về hưu cuối năm
2002.
Cộng tác các
Giải Khuyến Học, các Trung Tâm Việt Ngữ, các khoá Tu Nghiệp Sư Phạm từ đầu thập
niên 1980 đến nay.
3.
LÊ HOÀNG VIỆN,
sanh năm 1948 tại Trường Long, quận Ô Môn, tỉnh Phong Dinh. Học tiểu học tại
trường làng, nam tiểu học Sa Đéc và trường tiểu học Phong Điền; trung học Phan
Thanh Giản (1960-1968). Tổng động viên vào trường Bộ binh Thủ Đức khóa 5/68. Phục
vụ tại địa bàn thuộc tiểu khu Phong Dinh từ tháng 1/1969 đến 30-4-1975. Đi cải
tạo và được cho về cuối năm 1980. Định cư tại Houston TX Hoa Kỳ theo diện HO từ
tháng 6/1993 đến nay.
Làm thơ, viết
văn ký nhiều bút hiệu khác nhau: Lê Cần Thơ, Huyền Vân Thanh, Viễn Duy, Song
Lê, Hoàng Lê, Châu Lê, Người Đồng Bằng, Uyên Thảo, Thương Phượng v.v… Chủ bút tạp
chí Văn Hoá Việt Nam xuất bản tại Houston từ mùa Hè 1998.
Đã in: Quê
Hương Xa Mãi Ngút Ngàn (bút ký - 2000), Vùng Xanh Kỷ Niệm (thơ in chung với Kiều
Diễm Phượng - Về Nguồn 1971), Bên Bờ Sông Hậu (thơ in chung nhiều tác giả), Áo
Cưới Màu Da Trời (tập truyện nhiều tác giả), Câu Chuyện Không Cần Đoạn Kết (tập
truyện 8 tác giả), Văn Hoá Sông Nước Cần Thơ (nhiều tác giả 2009), Phan Thanh
Giản – Đoàn Thị Điểm, Trường Xưa Trong Trí Nhớ (bút ký nhiều người viết, tập I
– 2002). Những Chặng Đường Thơ (thơ - bản thảo lưu lại 2007), Trôi Ngang Phận
Mình (tập truyện- bản thảo lưu lại 2009), Những Bạn Văn Nghệ Ngang Qua Đời Tôi (tâm
bút- bản thảo lưu lại 2010), Những Trang Viết Tản Mạn Quanh Đời Tôi (bút ký - bản
thảo lưu lại 2012). Nối Sợi Dây Dài & Cát Bụi Thoảng Qua (truyện ký &
truyện vừạ - bản thảo lưu lại 2012.,
Chưa in: Đường
Nét Quê Hương (thơ), Hơi Thở Đồng Bằng (thơ), Khi Mẹ Dắt Qua Cầu (truyện viết
cho thiếu nhi), Những Chùm Hoa Duyên Dáng (truyện viết cho thiếu nhi), Hương
Yêu (truyện dài phóng tác)