Vừa
từ Quế Sơn về đến hậu cứ thì Lính mới biết chuyện gì đã xảy ra! Tình
hình Hoàng Sa đang căng thẳng. Hải quân của ta đang lâm trận cự địch. Lần
này, địch là bọn
giặc Tàu, những kẻ thù truyền kiếp! Cả hậu cứ xôn xao thấy rõ.
Trong khi ban chỉ huy Tiểu Đoàn họp với các đại đội trưởng, thì
Lính xớ rớ đó đây, tụm ba tụm bảy bàn tán, nghe ngóng tin tức trên đài
phát thanh, hoặc dán mắt trông ra bên ngoài hàng rào, còn bên ngoài thì
vợ con của họ lóng nhóng nhìn vào bên trong.
Trại gia binh chỉ cách
chừng 50 thước mà không về "nhà" được! Tuy vậy, vẫn có những nụ cười
tươi tắn, những câu bông đùa cố hữu của tuổi trẻ bất xá. "Một trăm em ơi! Chiều nay một trăm phần trăm!..."
Ai đó đã cao hứng gào vài câu quen thuộc này trong tiếng tíu tít của
mọi người. Một số khác thì thoải mái qua lại trong khuôn viên của sân
cờ, bình thản nhìn hoạt cảnh "mặt mừng mà tay chưa được bắt" của hậu
cứ. Không có lời than vãn, vì gia đình binh sĩ đã
quá quen với sinh
hoạt của Quân Đội, còn người quân nhân thì lúc nào và ở đâu, cũng chấp
nhận hoàn cảnh theo kiểu..."Lính mà em!"
Đến
xế chiều mới có lệnh xả trại! Vậy là đơn vị có cơ hội dưỡng quân thoải
mái trong tinh thần "vui xuân không quên nhiệm vụ". Vã lại, Tiểu Đoàn
37 BĐQ gồm đa số là cư dân Đà Nẵng và vùng phụ cận. Nếu như cần gom
quân khẩn cấp thì sẽ không khó khăn gì cả. Lính cứ thế mà hớn hở vọt ra
cổng. Các sĩ quan đại đội trưởng cũng đã có sẵn xe đậu trước văn phòng
của đại đội mình. Mấy quan bàn qua, mời lại một hồi, thì đa số nhận lời
của Đại Úy Vương để về nhà ông ở Hòa Mỹ. Nắng chiều đang đậm màu. Đã có
thoáng lạnh trong gió nhưng lòng người thì ấm áp lạ lùng! Buổi họp mặt
tại nhà ông Vương rất thân mật và ấm cúng. Coi như đây cũng là dịp tôi
làm quen với các đàn anh và với riêng gia đình ông Vương sau hơn một
tháng đáo nhậm đơn vị.
Sau
buổi tiệc tất niên thì Thiếu Úy Vũ Thành
Công và tôi trở về hậu cứ. Những người còn lại được ông đại đội trưởng
chịu chơi, có danh hiệu truyền tin là Vương Vũ, cho tài xế của mình chở
vào Đà Nẵng để họ vui chơi qua đêm. Anh Công và tôi chia tay ngay tại
cổng hậu cứ. Anh về
trại gia binh, còn tôi vào văn phòng đại đội trải ghế bố, chuẩn
bị cho đêm đầu tiên hưởng nhàn tại hậu cứ sau đúng một tháng lòng vòng
hành quân tại Điện Bàn, Duy Xuyên và Quế Sơn.
Quyển Giờ Thứ 25 vừa được móc ra khỏi ba lô thì có người đến kề bên hỏi:
- Chuẩn úy không ra Đà Nẵng sao?!
- Tối rồi! Có ra đó cũng không biết đi đâu. Còn anh, sao vẫn ở
đây?
Trung sĩ Diệp, tiểu đội trưởng khinh binh của Trung Đội 3 bước vào văn phòng, nhìn tôi cười:
- Nhà tôi ở ngoài Huế. Đường Trần Hưng Đạo. Xa quá!
Nhìn thấy quyển sách, Diệp nói tiếp:
- Nói thật chuẩn úy đừng giận.
Ông giống nhà giáo, thậm chí rất giống thầy tu hơn là lính!
Tôi gật
đầu:
- Anh cũng không phải là người đầu tiên nói về tôi như vậy!
- Thêm dáng nghệ sĩ nữa! Nếu có cây đàn ghi ta thì...
Nghe nói tới cây đàn thì tôi ngắt lời Diệp:
- Tôi có ý tìm,
nhưng không biết hỏi
ai.
- Nếu chuẩn úy muốn chơi
đàn thì để tôi đi mượn cho cho ông.
Nói
xong, anh ta vọt ngay ra ngoài. Tôi nhìn bâng quơ ra sân cờ lúc này
đang chìm trong bóng tối.Từ câu lạc bộ vọng ra tiếng cười đùa của những
tay cá độ bi da. Thỉnh thoảng có vài tràng cười giòn dã từ các "sam" vọng lại.
Mấy đứa "con bà phước" chắc đang đưa cay hay "múa quạt" ăn tiền
không chừng. Tôi vừa đọc qua vài trang sách thì trung sĩ Diệp quay trở
lại với cây ghi ta trên tay, theo sau anh là vài quân nhân tôi chưa
quen biết.
Diệp giới thiệu tôi với họ, nhưng chưa hết
câu thì đã có người xua
tay:
- Tụi này biết rồi! Hôm ổng trình diện tiểu đoàn ở Phong Thử là đã có biệt danh "Chim Sâu...Nhỏ"!
Sau
câu nói là một tràng cười rôm rả. Rồi họ lần lượt xưng tên và cho biết
là đang gom nhau tại nhà Trung Sĩ Chế Việt trong trại gia binh để vừa
nhậu, vừa hát hò với nhau. Không
có sự bỡ ngỡ vốn thường gặp phải trong
những lần đầu người ta đến với nhau. Không có chuyện phân biệt quan với
lính. Chúng tôi đều là những người trẻ cùng sở thích văn nghệ. Gặp nhau
là ồn ào hẳn
lên và không lâu sau đó thì văn phòng đại đội trở thành một
sân khấu văn nghệ bỏ túi với đủ loại nhạc trên đời. Cho tới khi người
thượng sĩ thường vụ tiểu đoàn vào tìm những anh em trực gác trong số
"khán giả" ham vui, thì màn hát hò tùy hứng mới chịu kết thúc. Trung sĩ
Diệp và các bạn mới quen kéo nhau xuống nhà Chế Việt, còn tôi trở
về "Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh" để dỗ giấc qua đêm.
Chúa Nhựt 20-01-1974 ( 28 tháng chạp năm Giáp Dần )
Phố
vào xuân rộn ràng với muôn màu, muôn vẻ, mặc dù Đà Nẵng và khắp nơi trên
toàn
quốc đều bàng hoàng để
rồi phẫn nộ, khi nghe tin Hoàng Sa đã bị Trung Cộng chiếm đóng. Đài phát
thanh liên tục đưa tin về trận hải chiến. Ngay tại ngã ba Huế đã có mít
tinh lên án hành động xâm lăng của giặc Tàu. Nhưng chiến
tranh cũng phải tạm nhường chỗ cho nàng Xuân đang dần đến. Thành phố
đang khởi sắc để chào mừng xuân mới nên không khí trở nên nhộn nhịp, rộn ràng
trong mọi sinh hoạt.
Thêm một ngày xả trại và nhằm lúc mới
lãnh lương nên Lính tha hồ bát phố. Giữa làn sóng người đang dồn dập bước, có tôi thả
chân tư lự qua các ngã đường.
Người tấp nập qua lại mua sắm. Xe
cộ chen chúc nhau nhả khói mù mịt. Cảnh hoạt náo của ngày vào xuân
thì nơi nào cũng vậy. Vẫn là những bài nhạc không thể thiếu, được phát
thanh liên tục và xen kẽ là những nhạc phẩm mang sắc thái đấu tranh, như
để nhắc mọi người về phần đất của quê hương vừa rơi vào tay giặc. Một ngày
thật bình yên với hạnh phúc đủ ấm lòng, khi tôi thả chân qua những con đường
đã từng ghi dấu giày của mấy chục " chuẩn úy sữa " chỉ mới một tháng
trước đó.
Thì cũng chỉ lòng vòng tìm thăm bạn xưa của thời trọ học
trên Đà Lạt để ôn lại những ngày vui trên ghế giảng đường, cùng những
vụn vặt của thời sinh viên nhiều mơ mộng. Sau đó là thơ thẩn, la cà
trên phố tết
để dán
mắt vào những cành mai đang hé nụ tại các nẻo đường có chợ hoa, nhâm
nhi cà phê lộ thiên trước ty Thông Tin, rồi tạt vào quán sách Lan Dung
ngay gần đó để vừa lục lạo sách mới, vừa nhớ lại lúc cùng các "quai
chảo" lòng vòng phố phường Đà Nẵng hồi cuối năm vừa qua.
Tôi
rời tiệm sách lúc nắng chiều nghiêng dài trên phố và trời cũng đang bắt
đầu
se lạnh. Đi đến xi nê Hùng Vương thì bên kia đường Nguyễn Thái Học có
hai người đưa tay vẫy gọi. Thì ra là Hạ Sĩ I Kỉnh và Trung Sĩ Xê, hai
người tôi mới quen hôm qua. Cả hai đều ở Đại Đội chỉ huy của tiểu đoàn
và là nòng cốt của ban văn nghệ.
- Gặp chuẩn úy thật đúng lúc.
Trung
Sĩ Xê mở lời khi tôi đến kề bên. Sau đó chúng tôi cùng hướng về bến xe
Lam ở Chợ Cồn, vừa đi vừa nói chuyện. Họ cho biết là chiều mai tiểu đoàn
làm lễ khao quân có văn nghệ mừng xuân để khoản đãi phái đoàn giáo chức
và học sinh của trường Nữ Trung Học. Đây là đơn vị kết nghĩa của Tiểu
Đoàn 37 BĐQ. Họ sẽ nhân dịp này trao quà xuân cho toàn đơn vị.
- Thiếu
tá Gio muốn làm cho xôm tụ nên đã cho Trung Úy Đệ ra đây hỏi mượn ampli
và nhạc cụ. Mọi thứ sẽ sẵn sàng vào sáng ngày mai.
Trung Sĩ Xê vừa nói xong, thì Kỉnh tiếp lời ngay:
- Chỉ có một ngày để
chuẩn bị nên tụi em cũng đang lo dợt không kịp. Mình cần có một chương
trình dài ít nhất là 45 phút. Anh Việt đang gom người. Mình sẽ dợt tại
nhà ảnh ngay khi tụi em về tới nơi.
Chuẩn úy giúp một tay nghe!
Trên
chuyến xe Lam từ chợ Cồn về tới Hòa Khánh là một màn tóm tắt về tình
hình văn nghệ của tiểu đoàn 37 BĐQ trong thời gian qua và
những gương mặt Lính
hát cho Lính nghe còn lại trong đơn vị. Khi chúng tôi về đến trại gia
binh thì đã có năm người ngồi sẵn trong nhà Trung sĩ Chế Việt. Họ đang
tập hát bài Ly Rượu Mừng, một trong những bài không thể thiếu trong các
chương trình văn nghệ mừng xuân. Qua lời giới thiệu thì tôi được biết có một
lao công đào binh gốc công tử vùng Sài Gòn- Gia Định tên Hồ Huy Đăng.
Tay này chơi ghi ta và chạy ngón solo rất ngọt. Ngoài ra còn có một "cảm tình viên" đặc
biệt, cũng là một lao công đào binh. Anh này vốn là một tay ăn chơi
hão hạng, cựu học sinh trường Jean Jacques Rousseau, cùng thời với Thanh
Doãn, Elvis Phương. Anh tên là Nguyễn Văn Cường, đã từng giựt giải nhảy
Bebop tại các vũ trường Sài Gòn mấy năm trước. Chỉ vì ham chơi, tác
phong lè phè, thường xuyên bỏ
trực gác, và nghe nói cũng vì cả gan vớt đẹp "em bé" của một sĩ quan cấp tá nào
đó nên Tony Cường bị kỷ luật rồi bị "đì" ra tận Vùng I Chiến Thuật.
Như
vậy là nhóm văn nghệ đã đủ tay cho một ban nhạc bốn người. Số còn lại, kể
cả tôi, sẽ lo phần hát hò. Chương trình do Trung Sĩ Chế Việt đề nghị sẽ
gồm có hai bài hợp ca để mở đầu và kết thúc. Phần giữa sẽ là hai
bài đơn ca và một bài tam ca hoặc song ca. Mọi người không ai nói gì.
Chế Việt lịch sự quay qua tôi:
- Chuẩn úy coi như đã là trưởng nhóm. Xin
cho ý kiến.
Tôi
nhìn quanh phòng rồi dán mắt vào hai cây đàn thùng và một dàn trống cũ
kỹ, tả tơi, với mặt caisse claire và trống "tum" được bọc bằng nylon
cắt từ poncho mà thấy tội nghiệp cho những người lính mê văn nghệ. Chưa
biết phải nói gì thì Thông "cạo" người thợ hớt tóc của toàn đơn vị
đã lên tiếng trước.
- Tui đề nghị Ly Rượu Mừng để dành cho phần kết thúc. Còn mình nên bắt đầu bằng một bài hùng ca mới xôm tụ! Anh em nghĩ sao?
- Ý kiến hay!
Tôi tiếp lời Thông rồi nói thêm:
- Hay là mở đầu bằng Hội Nghị Diên
Hồng đi.
- Tôi đồng ý! Chế Việt reo lên. Thằng Xê có giọng hay nhứt. Mày solo nghe!
-
Không được đâu! Tui không thuộc bài. Chuẩn úy hát bài này mới phải.
Nhưng phải có nhiều người phụ họa mới được. Chẳng hạn như các bô lão,
đàn bà con nít, rồi lính mình, lính tàu...mệt lắm đó!
- Đúng đó! Hát thì dễ rồi. Nhạc cảnh mới khó tìm người theo ý tôi muốn.
- Không thể bỏ cơ
hội này được. Chỉ cần chuẩn úy chỉ vẽ thì mình làm được thôi! Lính mà em!
Sau
một hồi bàn bạc và với sự quyết tâm của đa số, anh em quyết định mở đầu
phần văn nghệ bằng Hội Nghị Diên Hồng với nhân sự bao gồm vợ chồng bác
Sáu thợ may ngoài Phú Lộc và vợ chồng ông thượng sĩ trưởng Trại Gia Binh
trong vai bô lão, còn dân chúng- kể cả nhi đồng và trẻ em - thì gom các vợ
con của lính. Trang phục cho họ thì..
-
Dễ thôi! Chế Việt nói ngay. Có gì mặc nấy. Đàn bà thì quần lãnh, áo bà
ba càng cũ càng tốt. Đàn ông thì "bi da ma" ống cao ống thấp, áo thun vắt
vai hay bỏ ngoài
quần. Con nít thì...sao cũng
được!
- Nhưng còn
binh lính đôi bên và vũ khí thì sao? Hồ Huy Đăng buột miệng hỏi.
Tôi đáp ngay:
-
Lính mình lúc thua trận thì ở trần, quần võ phục. Trong màn đánh đuổi
quân địch thì mặc nguyên bộ võ phục. Lính tàu thì cũng mặc quần võ nhưng
mang áo thun có vẽ chữ- chữ gì cũng được- từ đầu tới cuối. Vấn đề là
làm sao có chừng ba, bốn cặp biết vài miếng võ nghệ và tìm võ phục ở đâu
ra mà thôi.
- Chuyện này tôi lo được!
Một người nãy giờ im lặng chợt
lên tiếng. Chế Việt quay sang tôi:
-
Thằng này có một chấm "tay cong queo" đó chuẩn úy. Nó tên Thanh, biệt
danh là Thanh "nổ" vì nó bắn M60 một tay như để vậy đó!
- Người và võ phục thì tui lo được, nhưng phải có vũ khí. Mã tấu kiếm đâu ra?!
-
Chỉ cần kiếm gỗ và côn thôi. Tàu xài kiếm, phe ta dùng tre và tay
không. Tôi nghĩ là võ sinh của anh dư sức đánh những đòn tự vệ phải
không?
- Dễ ợt! Ngày mai mình nhờ trung úy Đệ nói với xưởng mộc làm cho vài cây
kiếm, còn tre thì ra làng chài Phú Lộc xin vài nhánh. Thiếu cha gì, chuẩn úy!
Thứ Hai 21-01-1974 ( 29 tháng chạp năm Giáp Dần )
Cả
đêm thiếu ngủ, hầu như thức trắng vẫn không làm anh em thấm mệt. Mọi
người như lấy nguồn sinh lực từ ngoại cảnh vốn đã mang không khí Tết từ
mấy hôm nay. Ngay sau khi nhận lệnh tu bổ doanh trại, căng dù, dựng bạt,
sắp xếp vị trí để đặt bàn ghế tại sân cờ là nơi đãi tiệc khao quân
và dựng ngay một sân khấu dã chiến, thì cả
tiểu đoàn bắt tay vào việc một
cách triệt để.
Riêng nhóm văn nghệ và những ai phụ giúp đều được miễn
tạp dịch để chú tâm vào việc tập dợt. Nhạc cụ được trung úy Đệ cho xe
chở về rất sớm. Mọi người ai nấy đều hớn hở ra mặt, nhứt là Hồ Huy Đăng
vì anh chàng có cơ hội biểu diễn ngón đàn solo của mình . Nhưng khi nhìn
bộ sậu của nhóm lo cho màn nhạc cảnh thì tôi đâm ra...hồi hộp cho màn
trình diễn mà mình đảm trách. Bài hát và nhạc đệm cho Hội Nghị Diên Hồng
tuy đã ổn nhưng người phụ diễn thì chỉ có vợ con trung sĩ Chế Việt còn
nhóm võ thuật của Thanh " nổ " thì vẫn chưa thấy tăm hơi.
Nguyên
ngày tôi ăn uống không biết ngon, cứ hồi hộp lo lắng cho buổi văn nghệ
nói chung và Hội Nghị Diên Hồng nói riêng. Mặc dù Thanh " nổ " giữ đúng
lời hứa và mấy tay võ sinh đấm đá rất ngọt và mớ vũ khí trông cũng "
ngon lành " lắm, nhưng tôi vẫn không yên lòng vì màn bô lão và nhân dân-
kể cả nhi đồng do vợ chồng Chế Việt " mượn " của các gia đình trong
trại gia binh- sao mà luộm thuộm quá chừng. Biết tôi thấp thỏm từng hồi,
Hồ Huy Đăng và Chế Việt thay nhau cổ võ không ngừng.
- Ông cứ lo hát cho ngon lành là được rồi. Phần còn lại chỉ là
chuyện nhỏ thôi.
Chế
Việt dóc tổ! Tôi nhủ thầm như vậy, vì sẽ không ai chú tâm nghe hát khi
có cảnh phụ diễn bao giờ. Tính chất kích động của võ thuật và kịch tính
của nhạc cảnh luôn là yếu tố lôi cuốn khán giả. Ban nhạc, bài hát và
người trình bày sẽ trở thành thứ yếu trong toàn cảnh diễn. Thành công
hay thất bại sẽ dựa vào sự diễn tả của những nhân vật góp phần minh họa.
Thôi kệ! Tới đâu hay tới đó. Tôi tự an ủi mình là biết đâu tổ đải không
chừng. Có lo quá cũng vậy thôi.
Rồi
cũng tới lúc phải ra mắt mọi người bằng một chương trình văn nghệ mà
tôi gọi là "Chúng Tôi hát cho Chúng Ta Nghe" với thành phần tham dự
đều là quân nhân cơ hữu và người thân của họ. Ngay sau màn chào kính và
câu giới thiệu là lính tráng vỗ tay, huýt sáo rân trời làm tôi hưng phấn
hẳn lên. Sau đó tiếng chiêng trống gõ liên hồi, át cả sự chộn rộn, ồn
ào của khán giả nhà binh, nhờ đặt micro ngay chiếc loa để ampli tăng cường âm lượng
tối đa.
Hiệu quả của tiếng động sân khấu thật ngoài ý muốn, vì khi tôi
xướng câu " Toàn dân nghe chăng... " rồi chiêng trống lại giục giã ba
hồi tiếp liên, thì khán giả im lặng gần như hoàn
toàn. Cứ thế mà trống chiêng đổ dồn theo từng câu lĩnh xướng cho tới
khi vào Tempo ở đoạn " Kìa vừng hồng...." mới rộ lên những tiếng vỗ tay,
huýt sáo, xen lẫn tiếng cười giòn giã khi từ trong nhà ăn của tiểu đoàn, một đoàn
bô lão, phụ nữ và nhi đồng trong y phục lem luốc, tả tơi, lê từng bước thất thểu lên sân khấu.
Trong
khi đó thì dưới sân đất, ngay trước sân khấu là ba cặp võ sinh biểu diễn
màn "phe ta lui quân, phe địch truy đuổi" và một lúc sau thì đổi lại
là "địch chạy có cờ, ta rượt theo mệt nghỉ". Không
cần nhìn xuống khán giả, chỉ cần nghe Lính khoái trá la hét tưng bừng,
rồi khi thấy quan khách vỗ tay rôm rả là tôi biết Hội Nghị Diên Hồng đã
chinh phục được khán giả "gà nhà". Có điều' mấy chàng võ sinh
chắc là "phê" quá nên chặt qua, chém
lại rất tận tình đến mức, sau khi quân Việt rượt giặc Tàu vào tận trong
nhà ăn, thì bên trong tiếng chửi thề vang lên lồng lộng khiến Chế Việt
và Thanh "nổ" phải chạy vào can gián, còn tôi thì ráng nói thật lớn vào
micro để át tiếng cãi cọ từ đằng sau sân khấu vang vọng ra ngoài.
Chương
trình văn nghệ mừng xuân nói chung là thành công ngoài dự tính. Phần
lớn là nhờ nhạc cảnh có vẻ lạ mắt, nhờ chọn những bài hát quen thuộc và
nổi tiếng như Đồn Vắng Chiều Xuân, Xuân Này Con Không Về mà Kỉnh và
Xê đã trình bày thật điêu luyện và truyền cảm. Lần đầu tiên quân nhân
tiểu đoàn 37 BĐQ có dịp
nhìn bạn mình chơi nhạc sống hẳn hòi, nên ngay lúc giới thiệu thành phần
ban văn nghệ, mà nhứt là ban nhạc, thì không khí đã bắt đầu sôi nổi hẳn
lên để rồi sau đó là những tiếng la hét, vỗ tay tưng bừng của Lính mỗi
khi nhìn thấy bạn đồng đội của mình bước ra sân khấu. Đầu xuôi, đuôi
lọt. Chúng tôi đúng là được "tổ đãi" nên mọi chuyện đều suôn sẻ.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Gio
hài lòng ra mặt. Ông đến ngay sân
khấu bắt tay, khen chúng tôi "Làm được lắm!".
Trước khi cùng phái
đoàn trường Nữ Trung Học Hồng Đức vào câu lạc bộ để dùng cơm chiều, vị tiểu đoàn trưởng kéo tôi
ra riêng một góc rồi thân mật nói:
- Cả tháng nay tôi có nghe nói về chú. Bây giờ mới biết khả năng. Thôi,
ráng đi nghe!
Như
vậy, coi như tôi đã chính thức ra mắt đơn vị không phải nơi mặt trận mà
là tại hậu
phương, không bằng súng đạn, mà bằng một màn trình diễn văn nghệ dã
chiến, với thời gian chuẩn bị và tập dợt không đến hai ngày. Tôi hiểu
chữ
"ráng" của thiếu tá Gio. Tôi biết mình còn phải chứng minh bản lãnh -
không phải chỉ với đơn vị trưởng mà còn với đại đội và nhứt là trung đội
của mình-
để được chấp nhận là một người Lính..."thứ thiệt"! Nhưng tôi cũng biết
là sau đêm văn nghệ này, tôi đã để lại một dấu ấn dễ thương và thân
tình nào đó trong lòng quân nhân các cấp của đơn vị. "Chim Sâu ...Nhỏ"
đã cất cao giọng hát mừng xuân, một mùa xuân đã thành kỷ niệm ngàn đời
không
phai.
HUY VĂN