Tác giả của bài Tham luận "Lessons From the Vietnam War" từng là
một mục đồng ở một làng quê đất mũi, tận cùn của đất nước Việt Nam, khi
tản cư bị tàu bay của Pháp bắn trên Sông Trẹm, không chết; từng là một
trong hàng nghìn chiến sĩ tử thủ An Lộc, trận chiến lớn nhất chiến cuộc
VN, đội hàng vài ngàn quả đại bác hàng ngày, ba tháng liền, không chết;
từng là một tù binh trong các trại tập trung ác nghiệt của CSVN, từ
Suối Máu Miền Nam ra tận núi rừng Tây-Bắc Miền Bắc, dọc theo dòng Sông
Lô, triền núi Hoàng Liên Sơn, lao lực khổ sai, đói khổ từng ngày trong
mười ba năm liền, không chết. Rồi lưu vong ở xứ người một phần tư thế
kỷ, quá thừa thời gian để suy gẫm về kiếp sống của một đời người và sự
biến thiêng của một đất nước. Là con phù du bềnh bồng theo con nước
những dòng sông nhỏ trôi ra biển lớn, cách xa tổ quốc bằng một đại dương
mà sao lòng vẫn dạt dào thổn thức từ tấc lòng riêng đến mảnh tình chung
của giống nòi. Tưởng nhớ gì, thương tiếc gì...nữa đây khi thời gian
trong thoáng chốc của giấc mộng dài nhuộm mái tóc xuân xanh thành đầu
bạc tàn đông ?!.
Hình ảnh cậu bé mười tuổi học lớp ba
trường làng, mùa nghỉ hè tung tăn trên cánh đồng xanh, cánh đồng vàng,
thả diều bắt dế buổi sáng, tắm sông nghịch bùn buổi trưa để chiều đến
nghe tiếng lúa reo theo gió đùa cuốn thành những đợt sóng vàng óng ánh
dưới nắng ngã bóng hoàng hôn, hay nhìn từng đàn cò trắng giăng hàng chữ
V chấp chới bay về cuối chân trời xa... vẫn sống động trong trí nhớ như
tiếng chày giã gạo của trai gái trong làng trong những đêm trăng
thanh... Rồi một mùa Thu, cậu bé ngỡ ngàng khi bước chân lên quận lỵ
Cà-Mau, học lớp Nhì. Cậu vui vẻ với bạn bè mới nhưng luôn vương nỗi
buồn êm nào đó...vì ngày ngày không còn được nghe tiếng hò đối đáp trên
các cánh đồng mạ non của các anh chị nông dân, hay tiếng mưa đêm trên
các tào cau, đọt chuối rợp, quanh vườn ở nhà quê...vì hàng buổi sáng
chiều đến lớp học, nghe tiếng hát hào hùng vang dội của bạn học mới và
của
chính mình "Toàn dân...nghe chăng sơn hà nguy biến. Mưa rơi đăng đăng
lên đường chinh chiến..." và "Ôi Bặch Đằng Giang, sông hùng dũng, khua
nòi giống anh hùng, giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, Nam Bắc Trung..." Phải,
đất nước Việt Nam tự nghìn trước đến muôn sau, bất cứ thời điểm nào
thanh thiếu niên cũng có thể nghe tiếng kêu sơn hà nguy biến và luôn
luôn sẵn sàng xếp bút nghiên theo việc binh đao. Vì đất nước ta nằm sát cạnh với tên xăm lăng giặc Tàu phương Bắc khổng lồ.
Mùa Thu năm 1945 đó, hùng khí xông lên ngất trời. Thanh thiếu
niên, thiếu nữ được tổ chức thành đội ngũ "Thanh niên Tiền Phong" và
"Thiếu niên Tiền phong".
Cậu mục đồng vừa ra phố thị bị cuốn
hút ngay vào dòng người tuổi trẻ yêu nước, tập tành võ nghệ, luyện rèn
kiếm cung, hát hò vang dội, như sắp lên đường ra chiến địa tới nơi vậy.
"Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đường, kiếm nguồn tươi sáng... Ta
nguyền đồng lòng điểm to non sông... từ nay ra sức anh tài..." Rồi tiếp
theo là "Mùa Thu này ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy
biến..."
Mà thật, họ lên đường...rút
vô bưng biền thật. Mà chỉ có cán bộ trong ủy ban hành chánh kháng chiến
và mấy cậu, mấy anh du kích thôi, còn các thanh thiếu niên xung phong,
thì mười cậu hết tám cậu tản cư chạy...giặc theo gia đình, vì họ...ra
lệnh "tiêu thổ kháng chiến" mà, noi gương của Uỷ Ban Hành chánh Kháng
Chiến Nam bộ.
Ngày chinh thức họ rút vào bưng biền An Phú
Đông là ngày 23/9/1945. Vì vậy mới có câu hát trên. Còn ở thị trấn
Cà-Mau cư dân tản cư sau hơn... Không chạy tản cư thì
cũng
không có nhà mà ở, vì du kích đốt hết. Không chạy thì chỉ có nước chết.
Nhưng lạ một điều là cư dân thị trấn chẳng những tản cư chạy trốn giặc
Pháp mà cũng trốn du kích Việt Minh luôn vì có rất, rất nhiều người bị
gán cho danh từ "Việt gian". Mà là
"Việt gian" thì sẽ bị cho
đi "mò tôm", tức là bị trói chặt tay chân, buộc đá rồi ném xuống sông
cho chết ngộp từ từ, hay bị đâm loài ruột bằng tầm vông vạt nhọn, hoặc
chôn sống. Nhiễu nhương...bắt đầu và kéo dài đến ba mươi năm sau.
Cho đến ngày người tác giả này tìm hiểu rõ được cỗi nguồn và sự
thật của cuộc chiến tang thương đó thi đầu đã bạc phơ rồi. Mắt đã nhìn
biết bao nhiêu sự tàn phá, chết chóc, hợp tan. Lòng chưa tan ngọn lửa
đấu tranh muốn giành độc lập, tự do cho tổ quốc, nhưng hỡi ơi sức đã
cùn, lực đã kiệt rồi. Thôi, chỉ còn biết giữ chút tàn hơi viết lại nhưng
kinh nghiệm đã trải qua và những bài học đáng giá về chiến tranh VN cho
thế kệ mai sau, đọc mà suy gầm và hành xữ cho phải đạo làm người và
xứng danh là người Việt Nam bất khuất.
Ngày 23/9 sắp đến, là đúng bảy mươi năm kể từ 23/9/1945, hay bảy mươi
mùa Thu. Người ta đã khóc lá vàng đến đỏ mắt, đỏ mặt, đỏ trời rồi... Còn
bao nhiêu mùa
Thu nữa mới thấy lại lá vàng reo vui trên các sân trường của quê hương!..
Nhưng khi người lính đó đã ngã xuống rồi, thì không còn có lý do nào để ngăn chận người thân của người đó đi tìm xác người đã bỏ mạng xa quê hương mình.
Những giúp đỡ giữa người và người, cứ là chuyện phải làm, cần giúp đỡ và sau cùng là cho người nằm xuống còn nắm xương tàn để lại cho gia đình họ được đưa tiễn, chôn cất họ cho đàng hoàng.
Câu chuyện dưới đây, tôi đọc thấy trên net, tôi lưu lại đây để những đồng bào nào ở đâu đó, có biết tin gì thì hãy một lần giúp thân nhân những người đã ra đi này.
Caroline Thanh Hương
Xin kính cẩn nghiêng mình thắp nén tâm hương trước tấm bia không mộ của 626 người tùchính trị đã chết trong nhà tù Ba Sao,Nam Hà giai đoạn 1975-1988.
Và rất nhiều những người tù chính trị khác đã chết oan khiên trong ngục tù cộng sản.
Lời đầu.
Lẽ
ra, câu chuyện này phải được chúng ta kể cho nhau nghe một cách trọn
vẹn. Tiếc rằng, vì một số lý do ngoài ý muốn, “người trong cuộc” (1) đã
ngừng sự giúp đỡ tôi nên việc thu thập, tìm hiểu thông tin đã bị gián
đoạn.
Hơn nữa, xuất phát từ nhu cầu an toàn
cá nhân của nhân chứng, nỗi lo về sự can thiệp hầu phá vỡ sự bình yên,
tôn nghiêm của ngôi Chùa - nơi đặt tấm bia thờ 626 người tù chính trị
nên người viết đã phải rất cân nhắc khi chuyển tải thông tin đến bạn
đọc. Nhưng tôi tin, câu chuyện dù không được kể trọn vẹn như mong muốn
cũng sẽ khiến chúng ta thấy xót xa cho Thân phận quê hương. Một Thân
phận quê hương được phản chiếu từ Thân phận của những người con Việt bị
bức tử bằng cách này hay cách khác trong một giai đoạn khốc liệt, đau
thương nhất của lịch sử.
Tấm bia thờ tù nhân chính trị chết ở trại Ba Sao do người Giám thị lập, hiện đang được đặt tại một ngôi Chùa ở miền Bắc.
Phần 1: Chuyến tàu vét
Sau
khi cưỡng chiếm miền Nam, một trong những hành động đầu tiên mà chế độ
cộng sản thực hiện là trả thù những người từng phục vụ trong chế độ Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH). Hầu hết những cựu quân nhân cán chính, những viên
chức từng làm việc trong chính quyền VNCH, hoặc bị nghi ngờ thuộc thành
phần này đều bị đưa đi “cải tạo”, nhưng thực chất là chịu lưu đày tại
các nhà tù trên khắp cả nước. Một trong những nơi khét tiếng tàn bạo ở
miền Bắc, từng giam cầm hàng ngàn cựu quân nhân cán chính VNCH là nhà tù
Ba Sao, Nam Hà.
Con tàu cuối cùng chở tù
chính trị từ Nam ra Bắc có cái tên rất thơ mộng: Sông Hương. Rời Sài Gòn
ngày 18/4/1977, sau 2 ngày 3 đêm (2), tàu cập bến Hải Phòng, tiếp tục
hành trình lưu đày tù ngục của 1200 con người thuộc “bên thua cuộc”.
“Chúng
tôi, cứ hai người bị chung một chiếc còng. Vừa lên đất liền, hai bên
đường đã có người dân Miền Bắc đợi sẵn. Họ ném gạch đá vào chúng tôi.
Vừa ném, vừa chửi rủa, mạ lỵ rất thậm tệ. Nhiều người trong số chúng tôi
bị ném trúng, vỡ đầu, chảy máu và thương tích”.
Đấy
là lời kể của ông Nam, một trong những người tù bị đẩy ra Bắc trong
chuyến tàu Sông Hương. Khi cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, ông Nam đang
là thiếu úy quân đội VNCH. Chi tiết này cũng được Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
thuật lại trong cuốn hồi ký “Tôi phải sống”.
Từ
Hải Phòng, số tù nhân này bị tách ra để chia rải rác cho các trại giam
khác. Bài viết này xin chỉ đề cập tới những người tù ở Ba Sao, Nam Hà.
Không
riêng gì những người tù Ba Sao, hầu như tất cả những người từng phục vụ
trong chính quyền VNCH đều bị bắt sau biến cố 30/4/1975. Một số bị đưa
ra Bắc ngay thời kỳ đầu. Nhiều người khác bị giam cầm ở miền Nam sau vài
năm mới bị chuyển ra Bắc, rồi lại trở ngược vào Nam để tiếp tục cuộc
đời lao tù cho đến ngày chết, hoặc trở về khi sức cùng lực cạn.
Nhà
tù Ba Sao lại “rộng cửa” đón thêm vài trăm người từ chuyến tàu vét Sông
Hương, nơi đang đọa đày hơn 600 tù VNCH đã bị chuyển đến từ những
chuyến tàu trước đó.
Tôi có dịp hỏi chuyện
linh mục Nguyễn Hữu Lễ (ngài hiện đang sống tại New Zealand) và một nhân
chứng khác (sống tại Sài Gòn), thì nhà tù Ba Sao thời bấy giờ chia làm 4
khu giam giữ.
Khu A: Giam cầm các thành
phần thuộc viên chức chính phủ, dân biểu, nghị sĩ, sĩ quan cao cấp như
thượng nghị sĩ Huỳnh Văn Cao, bộ trưởng Đàm Sỹ Hiến, Bộ trưởng Trần Ngọc
Oành, tướng Lê Minh Đảo, ông Văn Thành Cao, tướng Nhu, tướng Trần Văn
Chơn, ông Nguyễn Văn Lộc…, hay lãnh tụ Quốc dân đảng là ông Vũ Hồng
Khanh.
Khu B: Giam những quân nhân cán
chính, những người bị buộc tội “phản động” như linh mục Nguyễn Hữu Lễ,
linh mục Nguyễn Bình Tỉnh...
Khu C: Giam tù hình sự miền Bắc.
Khu
Mễ: Giam cầm những người bệnh tật, đau yếu. Trong khu Mễ lại có một khu
“Kiên giam”. Khu “Kiên giam” dành cho các tù nhân bị kỷ luật với điều
kiện giam giữ vô cùng khắc nghiệt. Đã có rất nhiều tù nhân chết trong
khi bị “kiên giam”.
“Chúng tôi bị
chuyển từ nhà tù miền Nam tới nhà tù Ba Sao miền Bắc trong chuyến tàu
Sông Hương vào tháng 4/1977. Lúc ấy nhóm của tôi có 350 người ra đi từ
trại Giaray tỉnh Xuân Lộc. Ở Ba Sao được 9 tháng, tôi bị chuyển lên trại
Quyết Tiến còn gọi là “Cổng Trời”thuộc tỉnh Hà Giang, nằm sát ranh giới
Trung Quốc. Một năm sau đó tôi về trại Thanh Cẩm , tỉnh Thanh Hoá .Mười
năm sau, tức tháng 1/1987, tất cả tù chính trị miền Nam còn sót lại rải
rác trong các trại miền Bắc được dồn hết về trại Ba Sao, Nam Hà, trong
đó có tôi. Nhưng đội của tôi trước khi tôi rời Ba Sao ra đi nay đã chết
quá phân nửa.
Tết năm đó có một đợt tha tù, được tổ chức rất ồn ào. Đến tháng 5/1987, tất cả số tù nhân từ miền Nam còn sót lại, được chuyển hết về Nam để ở tù tiếp. Chỉ còn “sót lại” 3 người ởmiền
Bắc, đó là linh mục Nguyễn Bình Tỉnh, anh Nguyễn Đức Khuân và tôi. Hầu
hết họ đã chết . Chết vì tuyệt vọng, đói rét, suy kiệt, tiêu chảy, kiết
lỵ và nhiều bệnh khác”.
Tác giả Bút ký “Tôi Phải Sống” bùi ngùi kể lại.
Tôi rùng mình tự hỏi, có bao nhiêu tù nhân chính trị đã chết trong suốt thời kỳ từ 1975 trở về sau?
Bao nhiêu ở nhà tù Ba Sao? Bao nhiêu ở Cổng Trời, Thanh Hóa, Phú Yên, Xuân Lộc, Xuyên Mộc, Hàm Tân, Bố Lá...?
Bao
nhiêu người đã bị bách hại bởi chính người đồng bào ruột thịt mang tên
“cộng sản”, và chết lặng câm ở khắp các nhà tù từ Bắc-Trung-Nam trên dải
đất đau thương này?
Không ai biết chính xác, nhưng số người phải bỏ xác ở khắp các nhà tù hẳn không phải là con số ít.
Một
ngày nào đó, chế độ cộng sản sẽ phải trả lời những câu hỏi này trước
quốc dân đồng bào. Cũng như trả lại sự thật lịch sử cho Dân tộc này.
(Còn tiếp)
Chú thích:
(1):
Người trong cuộc: Những người đã giúp đỡ tôi có được thông tin để viết
bài viết này. Tên các nhân vật trong bài đã được thay đổi.
(2) Hai ngày ba đêm: Dựa vào lời kể của nhân chứng và qua hồi ký “Tôi phải sống” của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ.
“Có một tấm bia thờ những người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam
Hà. Nghe nói tấm bia được đặt trong một ngôi chùa ở Miền Bắc. Ngoài tấm
bia ra còn có một ngôi Am thờ (3) những người tù này
được dựng ngay khu đất thuộc trại giam. Người làm tấm bia này là một cựu
Giám thị nhà tù Ba Sao. Em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé!”.
Một
người anh, cũng là cựu tù chính trị hiện sinh sống tại Pháp đã nhắn tôi
như thế. Tôi chưa bao giờ trải qua cảm xúc đặc biệt và đầy ám ảnh như
lần này. Chuyện thật khó tin: Một trùm cai tù dựng một tấm bia và Am thờ
những người tù thuộc bên kia chiến tuyến.
Câu dặn dò “em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé” làm tôi xót xa. Hình như tôi sắp làm một công việc rất khó khăn và cũng rất thiêng liêng. Hai chữ “các anh”
không còn là cách xưng hô nữa mà là tiếng gọi gần gũi, thân thương của
những người chung khát vọng. Chứ theo tuổi tác, họ là bậc cha chú của
tôi- đứa nhóc Bắc kỳ sinh sau biến cố 1975.
Tấm bia thờ tù nhân chính trị chết ở trại Ba Sao do người Giám thị lập, hiện đang được đặt tại một ngôi Chùa ở miền Bắc.
Mãn án tù nhà (4), tôi lên đường.
Địa
chỉ ngôi Chùa không chính xác nên tôi phải đi tìm hơn hai ngày mới đến
nơi. Đó là một ngôi Chùa nhỏ, nằm khiêm tốn bên một con phố khá đông
đúc. Sư trụ trì đi vắng, tôi lang thang cho hết thời gian rồi trở lại
vào buổi chiều.
- Thưa thầy, con được người
quen giới thiệu đến đây. Nghe nói nhà Chùa có đặt một tấm bia thờ những
người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam Hà?
Nghe tôi nhắc đến tấm bia, nét mặt thầy tái đi, không giấu được vẻ bối rối.
- Bác Thanh giới thiệu con đến đây.
Nhận ra người quen, sư thầy trở nên cởi mở hẳn.
Sư
thầy kể rằng vài năm trước, cô Thu Hương (một Phật tử) đưa viên cựu
Giám thị đến gặp sư thầy. Viên Giám thị trao cho sư thầy một danh sách
gồm 626 người tù đã chết trong trại Ba Sao từ năm 1975 đến 1988. Vị này
ngỏ ý muốn làm một tấm bia đặt trong nhà Chùa để thờ cúng các hương
linh. Đây không phải ngôi Chùa đầu tiên họ gõ cửa. Những ngôi Chùa trước
đều từ chối vì sợ. Các vị sư trụ trì không muốn giữ một danh sách toàn
“sĩ quan ngụy” và công khai đặt tấm bia thờ người tù ngay trong Chùa.
- Có cách nào liên lạc với hai người ấy không thưa thầy?
-
Khó lắm. Người Giám thị sau khi làm xong tấm bia thì không trở lại đây
nữa. Chỉ có cô Thu Hương thời gian đầu vẫn hay tới Chùa tụng kinh và
thắp hương cho 626 vị ấy. Nhưng kể từ khi đứa con trai 15 tuổi của Thu
Hương bị tai nạn giao thông chết hai năm trước, cô ấy không tiếp xúc với
ai nữa.
- Thầy có nghe nói đến ngôi Am thờ 626 vị này không?
Tôi hỏi, không giấu nổi vẻ hồi hộp khi chờ câu trả lời.
- Đúng là có cái Am thờ. Nhưng tôi chưa tới thăm bao giờ. Nghe nói nằm trong vùng đất của trại giam thì phải.
- Vậy ai có thể đưa con tới đó?
-
Chỉ có người Giám thị và cô Thu Hương thôi. Nhưng Thu Hương thì như tôi
vừa nói đấy, cô ấy buồn chán, tuyệt vọng từ ngày mất con nên không còn
thiết chuyện gì. Còn người Giám thị thì từ đó không thấy trở lại nữa. Số
điện thoại cũng đổi rồi.
Tôi bắt đầu nhìn thấy sự mịt mù phía trước.
Người
giữ sổ sách đi vắng. Sư thầy hẹn tôi dịp khác trở lại, sẽ cho tôi xem
danh sách 626 người tù. Thầy dẫn tôi xuống nhà linh, nơi đặt tấm bia.
Tôi
cảm thấy rợn rợn khi bước chân vào Nhà linh, nơi đặt di ảnh của những
người quá cố. Có mấy người đội khăn tang đang ngồi tụng kinh cho người
thân mới qua đời.
Tìm mãi không thấy tấm
bia đâu. Tôi bắt đầu lo. Sư thầy quả quyết rằng tấm bia đặt ở phòng này
nhưng lâu ngày không nhìn lại nên ngài không nhớ chính xác vị trí nào.
- Ôi đây rồi! Sư thầy reo lên.
Tôi sững người lại. Vừa nhìn thấy tấm bia, nước mắt tôi ứa ra.
Tôi không xác định được cảm xúc của mình lúc đó. Vui vì đã “tìm thấy các anh”, như lời người anh đồng tù nhắn nhủ, hay buồn vì tôi lại chứng kiến thêm một nỗi đau đớn của quê hương?
Tôi
lập cập lục tìm trong túi xách chiếc máy ảnh. Tôi hay bị lúng túng mỗi
khi cảm xúc bị “quá độ”. Sư thầy dặn chỉ chụp tấm bia thôi, đừng để
những di ảnh xung quanh lọt vào ống kính. Cảm giác tủi thân và xót xa
khiến tôi không nói nổi tiếng “vâng” một cách rõ ràng.
Trước
khi về, tôi gửi một ít tiền để sư thầy giúp việc nhang khói cho “các
anh”. Tôi cầm theo nải chuối, mấy quả cam thầy vừa cho, chậm rãi cuốc bộ
trên con phố. Tôi không khóc, nhưng cổ họng nghèn nghẹn và bước chân
nặng nề.
Một tuần sau tôi trở lại Chùa. Sư thầy đi vắng. Vừa nghe tiếng tôi trong điện thoại, sư thầy nhận ra ngay:
-
Chị Nghiên hả? Tiếc quá! Thầy đã hỏi người trông coi sổ sách của nhà
Chùa rồi. Nhưng chị ấy nói là danh sách đã được hóa (4) đi từ hôm Rằm
tháng bảy.
Tôi chết đứng người. Cố gắng lắm tôi mới thốt lên được một câu nghe như không phải giọng của mình.
- Sao lại đốt hả thầy, sao thế được?
- Thì nhà Chùa nghĩ là không cần dùng đến danh sách ấy nữa nên tiện dịp lễ Vu Lan thì hóa luôn cùng với áo mũ, vàng mã chị ạ.
- Thầy ơi! Thầy làm ơn kiểm tra lại giúp con với. Cái danh sách ấy... 626 người tù... thầy ơi, thầy làm ơn!
Tôi cố gắng trấn tĩnh để van lơn.
- Thầy không thể làm gì hơn chị Nghiên ạ. Chúng tôi sẽ hương khói đầy đủ cho các vị ấy.
Nói xong, sư thầy cúp máy.
Một
cảm giác còn tệ hơn sự tuyệt vọng. Tôi ôm mặt ngồi thụp xuống giữa
đường. Một đứa bé từ đâu chạy lại, trân trân nhìn tôi. Hình như bộ dạng
tôi làm đứa bé sợ. Nó co chân chạy, không ngoái lại nhìn.
Bấy
giờ tôi nhận thấy, có một thứ cảm xúc rất giống với nỗi buồn, rất giống
với niềm tuyệt vọng. Nhưng không hoàn toàn như thế. Thứ cảm xúc thật
khó gọi tên.
Tôi về nhà, lầm lỳ đến vài hôm.
Không thể dễ dàng bỏ cuộc được, tôi quyết định đi Nam Hà để tìm đến ngôi Am thờ. Người anh đồng tù buồn rầu bảo:
- Không có cô Thu Hương hay vị Giám thị dẫn đường, em không tìm được đâu.
Lần này thì tôi thật sự tuyệt vọng. Tấm bia, danh sách và Am thờ, tôi chỉ hoàn thành một phần ba công việc.
Tôi nghĩ đến người Giám thị.
Không
biết vì lý do gì viên Giám thị lại làm một việc cấm kỵ và mạo hiểm như
thế. Hơn ai hết, người này phải ý thức được mức độ nguy hiểm của việc
mình làm, nhất là nếu thông tin bị lộ ra ngoài. Chắc chắn phải có một lý
do sâu xa và rất đặc biệt để người này làm thế. Vì lợi nhuận ư? Không
ai dại dột vì chút giá trị vật chất mà đánh đổi cuộc sống bình yên của
mình. Vả lại, bản thân nghề cai tù đã là một cơ hội để làm giàu một cách
rất an toàn.
Người anh đồng
tù và bác Thanh lý giải rằng, niềm tin tâm linh đã thúc đẩy người Giám
thị và cô Thu Hương làm như thế. Có thể người Giám thị sợ bị vong hồn
của những người tù tìm đến hỏi tội chăng? Lý giải này không hẳn là vô
lý. Tôi đã từng nghe và được biết những chuyện tương tự như thế khi còn
trong nhà tù Thanh Hóa. Đã là cai tù, không ít thì nhiều, không chủ ý
thì cũng bắt buộc phải dính vào tội ác. Song dù với lý do gì, thì hy
vọng cũng có phần trăm nào đó của sự ăn năn, của chút lương tâm bị hối
thúc.
Tôi vốn không mê tín, không tin
chuyện dị đoan nhưng tin rằng luôn có một thế giới tâm linh đang nhìn
ngó thế giới con người. Ước gì một ngày nào đó, duyên cớ run rủi để
chúng ta được biết trọn vẹn câu chuyện về 626 người tù chính trị Ba Sao,
Nam Hà. Chúng ta cần được biết về số phận của những người từng bị cộng
sản bách hại để hiểu về một giai đoạn lịch sử đã tạo nên thân phận đau
thương của dân tộc này.
Tấm bia thờ 626 tù cải tạo miền Nam chết ở Ba Sao, Hà Nam.
Photo by Pham Thanh Nghiên
00:00/00:00
Ba Sao, nhà tù lớn ở Nam Hà, miền Bắc Việt Nam, nơi sau 30 tháng
Tư 1975 nhiều sĩ quan và công chức miền Nam, mà chế độ mới gọi là tù cải
tạo, đã qua đời trong những ngày tháng kham khổ nhọc nhằn nơi đây.
Một cựu tù chính trị Việt Nam hiện sống tại Pháp, đã nhắn với cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên: Có một tấm bia thờ những người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam Hà.
Nghe nói tấm bia được đặt trong một ngôi chùa ở miền Bắc. Ngoài tấm bia
ra còn có một am thờ những người tù này, được dựng ngay khu đất thuộc trại giam. Người làm tấm bia này là một cựu giám thị nhà tù Ba Sao. Em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé.
Chính lời nhắn tha thiết “đi tìm các anh ấy nhé” đã thôi thúc cô Phạm
Thanh Nghiên lên đường, tìm kiếm, nhìn thấy rồi trở về với cảm xúc thể
hiện qua bài Ba Sao Chi Mộ: Thực ra thì tôi có thông tin này từ mùa hè năm ngoái khi tôi chưa
hết án quản chế. Nhưng vì tôi cần tìm hiểu thêm và sau đó hết án tù nhà,
đi lại dễ dàng hơn là tôi đi để tìm hiểu sự thực về thông tin mà người
anh đồng tù đã cung cấp cho tôi. Và thực ra bước đường tìm kiếm cũng không quá là vất vả, tôi cũng
đi một vài ngày. Đến bây giờ phải cám ơn Chúa cám ơn Phật vì có lẽ tôi
là người may mắn để mà tìm đến địa chỉ ngôi chùa không chính xác. Tôi
phải xin lỗi là những thông tin cụ thể hơn thì tôi không thể chia sẻ
được vì lý do tế nhị cũng như an toàn an ninh cho những người cung cấp
tin cho tôi. Điều này tôi cũng đã viết trong phần một của bài Ba Sao Chi
Mộ, ngay cả tên của các nhân vật họ cũng yêu cầu tôi phải thay đổi. Họ
sợ đến mức độ như thế nhưng trong sự sợ hãi đó thì họ cũng cứ cho mình
thông tin, đấy là điều tôi cho rằng rất là đáng quí. Một điều nữa là ngay như giới tính của viên giám thị cũng như tên
chùa và tấm bia thì tôi cũng nói một cách chung chung thôi. Ngay cả điều
này cũng để cho thấy mức độ tế nhị, thậm chí là nghiêm trọng, mà một
vài người đánh giá rằng đây là chuyện bí mật. Nhưng những thông tin mà
tôi đưa ra trong bài Ba Sao Chi Mộ là có thật.
Và cũng thật khó để có thể diễn tả hết tâm trạng, cô Phạm Thanh
Nghiên kể tiếp, khi được chỉ cho thấy một tấm bia khiêm nhường tại một
góc khuất trong căn phòng linh của nhà chùa:
Họ sợ đến mức độ như thế nhưng trong sự sợ hãi đó thì họ cũng cứ cho mình thông tin, đấy là điều tôi cho rằng rất là đáng quí.
- Phạm Thanh Nghiên
Khi bước chân vào nhà linh tôi cũng không tránh được cái cảm giác
hơi rờn rợn hơi sợ hãi một chút. Ban đầu thì rất khó tìm vì không có
hình ảnh. Trong hình dung của tôi chắc tấm bia rất lớn, tôi cứ tìm kiếm
tấm bia như trong trí tưởng tượng của mình thôi, nhưng khi vị sư tìm
thấy và chỉ cho tôi, khi tôi ngước mắt lên nhìn thì lập tức hai hàng
nước mắt của tôi ứa ra. Một tấm bia không có tên, chỉ có giòng chữ 626
người đã tử vong tại Ba Sao giai đoạn 1975-1988. Phải nói một cảm giác
như mình vừa tìm thấy một điều gì rất là thiêng liêng. Như tôi nói trong
bài viết, đó là những người tôi khẳng định tất cả đều là quân nhân cán
chính từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa chứ không dính dáng gì
đến những người cộng sản hay những người dân thường cả. Tôi cảm tưởng như có một mối giao cảm, một mối dây liên hệ nào đó
mang tính tâm linh giữa tôi, một con nhóc sinh sau năm ’75, với những
người đã bảo vệ một chế độ mình đã từng hiểu lầm rằng đó là một chế độ
xấu xa, chế độ gọi là ngụy. Tôi cảm nhận được sự thiêng liêng và sự ấm
áp, nói thật tôi chưa bao giờ trải qua cái cảm giác như thế nên diễn tả
bằng lời cũng rất là khó. Lòng tốt vẫn còn...
Bằng những ngón tay run rẩy lập cập vì xúc động, cô Phạm Thanh Nghiên
đã chụp được hình ảnh tấm bia rồi cất giữ nó như một bảo vật. Với cô,
chuyện càng khó tin hơn nữa khi biết một trùm cai tù, tức quản giáo hoặc
giám thị trại giam Ba Sao, Nam Hà, đã dựng tấm bia và một am thờ những
người của bên kia chiến tuyến.
Những bình tro cốt của 14 tù cải tạo mang từ Ba Sao về một nhà thờ ở Sài Gòn. Hình do VAF cung cấp.Những bình tro cốt của 14 tù cải tạo mang từ Ba Sao về một nhà thờ ở Sài Gòn. Hình do VAF cung cấp.
Theo lời vị trụ trì thuật lại với cô Phạm Thanh Nghiên, cách đây vài
năm có một Phật tử đưa một cựu giám thị trại tù Ba Sao đến chùa. Người
giám thị này trao cho sư một danh sách gồm 626 người tù đã chết trong
trại Ba Sao từ 1975 cho đến 1988, ngỏ ý muốn làm một tấm bia đặt trong
chùa để 626 vong linh này được hương khói tử tế.
Đây không phải ngôi chùa đầu tiên mà họ đến gõ cửa xin đặt bia. Trước
đó, các chùa trước đều tìm cách thoái thác vì sợ. Nỗi sợ của những
người tu hành là nếu giữ một danh sách toàn “sĩ quan ngụy” và công khai
đặt tấm bia thì e chùa sẽ bị lắm phiền phức.
Được hỏi có cách nào liên lạc với người Phật tử và viên cựu giám thị
trại giam Ba Sao, vị sư trả lời là rất khó vì sau khi làm xong tấm bia
thì người quản giáo không bao giờ trở lại chùa, ngay cả người đưa viên
giám thị đến cũng vắng bóng.
Về cái am thờ 626 người đã chết, vị sư cho cô Phạm Thanh Nghiên biết
có nghe nói là nằm trong một khu đất thuộc trại giam Ba Sao nhưng chưa
bao giờ đến thăm.
Chỉ người giám thị hoặc người Phật tử mới biết chỗ mà đưa tới, khẳng
định của sư khiến cô Phạm Thanh Nghiên hiểu ra sự mịt mù của vấn đề. Cô
vẫn gắng xin được xem qua danh sách 626 người tù đã chết nhưng sư nói
rằng người trông coi sổ sách đi vắng nên hẹn cô hôm khác trở lại: Lần khác tôi đến chùa thì sư đi vắng, tôi gọi điện thì thầy nhận
ra giọng tôi ngay, thầy thông báo rằng rất tiếc vì chùa đã hóa đã đốt đi
trong dịp rằm tháng Bảy lễ Vu Lan vì nghĩ rằng để cũng chẳng làm gì cả.
Vị sư báo tin xong thì vội vàng gác máy, để lại một Thanh Nghiên với cảm giác hụt hẫng cùng cực:
Tôi nghĩ rằng dù như thế nào thì vẫn có
phần trăm nào đó của sự hướng thiện trong con người của người cai tù
này. Mặc dù cái xã hội cái ác được lên ngôi thì cái thiện vẫn cứ nẩy
mầm.
- Phạm Thanh Nghiên
Tôi thấy mọi sự trước mắt mình như tối sầm lại bởi vì tôi đã rất
là mong chờ đến ngày hẹn để đến lấy danh sách. Chưa bao giờ tôi có cảm
giác thất vọng kinh khủng khi đã không hoàn thành cái mục tiêu, cái
nhiệm vụ mà mình đặt ra cho chính mình. Đối với họ thì để chẳng làm gì
cả nhưng đối với chúng ta thì nó là vô giá. Tôi tin chắc một điều nó sẽ
là một bằng chứng lịch sử sau này về những đau thương mà người dân Việt
Nam nói chung cũng như những cựu quân nhân cán chính Việt Nam Cộng Hòa
nói riêng bị bách hại. Nói thật là trong phút chốc đó tôi cảm thấy mọi
sự trước mắt mình như sụp đổ. Khi tôi trấn tĩnh lại thì tôi không tin, tôi không tin rằng cái
danh sách ấy đã bị đốt đi. Thời gian tới tôi sẽ vẫn cố gắng để có được
cái danh sách đó trong khả năng có thể. Nếu như họ cứ khăng khăng thì
tôi không làm cách nào được nhưng tôi vẫn cứ hy vọng.
Con số 626 tù cải tạo miền Nam chết vì bệnh tật, đau khổ và đói khát
trong trại tập trung Ba Sao ở Nam Hà trên thực tế có thể cao hơn. Cựu
quân nhân miền Nam Nguyễn Đạc Thành, năm 1979 từ trại 9 Yên Bái trên
biên giới phía Bắc được chuyển xuống trại tù Nam Hà, gọi là Ba Sao: Trại Ba Sao chia ra nhiều khu, khu A dành cho cấp tướng, cấp bộ
trưởng hay tổng trưởng. Khu B dành cho sĩ quan cấp tá, khu C dành cho tù
hình sự. Trại Ba Sao gọi là khó khăn nhất, hắc ám nhất của công an. Nói tới
Ba Sao là người miền Bắc đã rất là sợ. Con số 626 có thể còn hơn nữa
chứ không ít hơn đâu bởi vì việc quản lý ăn uống rất khó khăn, không
được nấu nướng hay là gì cả cho nên anh em kiệt sức rất nhiều, binh hoạn
chết chóc đương nhiên xảy ra. Trại này rất lớn, còn có 3 cái nghĩa địa
nữa và con số tù chết có lẽ là hơn số 626 đó rất nhiều. Họ được chôn ở đâu?
Tuy nhiên, vẫn lời ông Nguyễn Đạc Thành, phần đông tù cải tạo không
chết trong trại Nam Hà mà chết tại trại Mễ. Trại Mễ nằm trên một khu vực
có tên là Cánh Đồng Mễ, chạy từ Nam Định ra Phủ Lý, nơi những tù bị
bịnh từ Ba Sao được chuyển ra mà nếu chết thì được chôn tại đây.
Danh sách 126 người chết tại trại tập trung Ba Sao. Hình do VAF cung cấpDanh sách 126 người chết tại trại tập trung Ba Sao. Hình do VAF cung cấp
Năm 2007, sau khi đã định cư tại Hoa Kỳ, ông Nguyễn Đạc Thành sáng
lập VAF Sáng Hội Việt Mỹ, vận động chính giới Hoa Kỳ cũng như giới chức
Việt Nam để xin về bốc mộ đồng đội chết trong những trại tập trung như
Làng Đá, Ba Sao và những nơi khác. Tôi đã đến Cánh Đồng Mễ và đã thấy cảnh hoang tàn ở đó rồi. Người
ta cắt một phần của cánh đồng nghĩa địa này bán cho một công ty hóa
chất. Năm 2009, con của ông trung tá Cao Kim Chẩn chết tại Nam Hà, em
Cao Kim Minh, đã ra ngoài Nam Hà để bốc mộ cha. Số mộ của ba em là 49,
em gởi cho tôi cái danh sách 126 tù cải tạo tại Cánh Đồng Mễ này. Sau đó
tôi lập tức ra Nam Hà, đi tìm cái nghĩa địa trên Cánh Đồng Mễ này. Song song đó thì tôi được quen biết với con của đại tá cảnh sát
Tôn Thất Dẫn. Chị Trinh con của đại tá Dẫn đã đi ra ngoài trại Nam Hà để
xin bốc mộ cha, trại đã chỉ ra cái nghĩa địa ở Cán Đồng Mễ. Cô ấy ra ngoài nghĩa địa thì mới thấy chính quyền địa phương đã
cắt một phần nghĩa địa để bán cho công ty hóa chất. Tại đây cô hỏi thì
ban giám đốc công ty hóa chất cho biết họ đã bốc tất cả những ngôi mộ
trong phần đất của họ, mỗi một hài cốt bỏ vào trong một cái hũ sành.
Cần biết vì có cả mộ thường dân trong nghĩa địa của Cánh Đồng Mễ nên
những cái tiểu sành đựng hài cốt tù cải tạo được đánh dấu riêng và được
chôn trong một ngôi mộ chung.
Từ Sài Gòn, chia sẻ với Thanh Trúc về việc liên quan, con gái cố đại
tá cảnh sát Tôn Thất Dẫn cho biết trong hai mươi mấy cái tiểu sành chị
tìm thấy trên Cánh Đồng Mễ và đưa qua xét nghiệm thì 14 cái được xác
nhận là hài cốt tù cải tạo, trong đó một cái là hài cốt thân phụ của
chị.
Chị Trinh đã xin phép đưa tất cả 14 hũ hài cốt này về Nam, an vị trong một nhà thờ ở Sài Gòn.
Đó là những chi tiết về quân dân cán chính miền Nam đã nằm xuống tại
trại tù Ba Sao ở miền Bắc sau năm 1975. Không ai rõ con số 126 người xấu
số ở Ba Sao mà VAF Sáng Hội Việt Mỹ thu thập được có nằm trong danh
sách 626 người tù tử vong Ba sao mà cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh
Nghiên mong muốn tìm ra hay không.
Tại sao một giám thị Ba Sao lại tìm đến một ngôi chùa để lập bia thờ
626 vong hồn tù cải tạo chết trong trại, cựu tù nhân lương tâm Phạm
Thanh Nghiên nói rằng điểm duy nhất cô có thể lý giải là: Không có lý do gì để người giám thị làm như vậy cả, chưa kể tính
chất nhạy cảm và nguy hiểm nữa. Lý giải bằng tâm linh thì tôi cho rằng
có thể có một biến cố nào khiến vị cai tù này làm được cái việc như thế.
Tôi nghĩ rằng dù như thế nào thì vẫn có phần trăm nào đó của sự hướng
thiện trong con người của người cai tù này. Mặc dù cái xã hội cái ác
được lên ngôi thì cái thiện vẫn cứ nẩy mầm.
Trả lời câu hỏi tương tự, cựu tù chính trị Nguyễn Đạc Thành, giám đốc
VAF Sáng Hội Việt Mỹ, từng về Việt Nam bốc mộ và cải táng hơn 500 bộ
hài cốt tù cải tạo miền Nam từ Nam ra Bắc, nêu thí dụ hiếm hoi về một
cán bộ mà ông dấu tên, một người có lòng mà ông và bạn đồng tù không thể
quên khi còn ở trại 9 Yên Bái:
Tôi cảm nhận được sự thiêng liêng và sự ấm
áp, nói thật tôi chưa bao giờ trải qua cái cảm giác như thế nên diễn
tả bằng lời cũng rất là khó.
- Phạm Thanh Nghiên
Trong thời gian ở tù thì rất nhiều quản giáo và nhiều vệ binh rất
tàn ác nhưng cũng có một vài vị có lương tâm. Tôi nói thí dụ một cán bộ ở
trại 9 đã khóc khi thấy chúng tôi bị giam cầm một cách khắc nghiệt như
thế này. Ông đã lén cho chúng tôi đào trộm sắn để ăn để có thể hồi sức
lại. Cái thứ hai nữa là khi mà ông chuyển chúng tôi về trại giam Nam Hà
thì ông quay mặt vào tường ông khóc. Tôi nói cái này chắc chắn anh em
trong trại 9 không ai phản đối hết, ông đã thương và che chở chúng tôi,
chúng tôi đã phục hồi lại được ở trại 9 để về Nam Hà ở tù tiếp. Theo tôi nghĩ người quản giáo đó đã làm một việc rất nguy hiểm,
nếu bị phát giác họ sẽ bị mất việc. Đó là tình cảm của riêng họ đối với
anh em tù cải tạo mà thôi, tôi nghĩ là có chứ không phải không có.
Đích xác bao nhiêu người tù cải tạo miền Nam đã bỏ mạng trong trại Ba
Sao ở Nam Hà nói riêng là bài toán chưa có đáp số. Chỉ biết thầm lặng
cảm ơn những tấm lòng nhân ái từ người quản giáo nào đó ở Ba Sao, của vị
sư thầy nào đó ở một ngôi chùa nhỏ ngoài Bắc mà có ngày cựu tù nhân
lương tâm Phạm Thanh Nghiên sẽ đưa quí vị cũng như Thanh Trúc đến như đã
hứa.
Xin hãy cùng Thanh Trúc cầu xin mọi điều bình an đến cho những người có trái tim nhân hậu.