Kính gửi quý anh chị một truyện ngặ́n của tác giả Nguyễn Liệu.
Qua truyện này, chúng ta có thể tìm lại được những hình ảnh cũ của từng khu vực của Sài Gòn trước năm 1975.
Caroline Thanh Hương
CON DAO CON CHÓ
Truyện Ngắn
Tưởng nhớ cố thiếu tá quốc gia TRẦN HAI và anh em NGH ĨA QUÂN MỘ ĐỨC
Nguyễn Liệu
“ Họa, Mô Phật, chú về bao giờ ?” chị Hai thả con dao xắt chuối ngay
giữa nhà, trố mắt nhìn tôi”. Tôi chưa biết trả lời sao. Chị nói liên tục
gần như không cần câu trả lời. “ Cháu tưởng chú về Tam Kỳ không trở lại
đây nữa, thấy chú đây cháu lại nhớ anh Hai” Chị dừng lại, nước mắt đầm
đìa , đưa vạc áo lên lau mước mắt, chị nói tiếp : “ Chú ơi, anh Hai chết
thê thảm lắm chú ơi”. Nói đến đây chị khóc thành tiếng. Tôi ngồi trên
cái đòn đối diện chị phía bên kia cây chuối, nhìn ra cửa chính phía
trước. Tôi cắn môi dưới để đè tiếng khóc. Ngày trước, nói ngày trước
nhưng cách đây đúng 34 ngày, ngày đổi đời. Căn phòng này là phòng khách,
giữa kê hai cái bàn dài ghép lại, hai bên ghế dựa, chen chúc với những
chiếc ghế đẩu mặt tròn. Cách một cái màn, sát vách là bàn thờ sơ sài, ít
khi thấy nhang khói. Gần như không sót một trưa chúa nhật nào không có
bữa nhậu ở phòng này. Khách nhậu không cứ gì lính trong trung đội của
chú Hai, có đủ thành phần, giáo viên công chức có, cả trưởng ty thanh
niên, thuế vụ, nhất là các vua gà đá, các tay cờ bạc nổi tiếng trong
vùng, đám sĩ quan trong chi khu, nhưng người lớn tuổi là tôi, tuy tửu
lượng tôi bị chê trách chế nhạo hoài. Đám dân nhậu này rất hào sảng, vui
vẻ, tất cả đều kính nể chú Hai.
Vóc người nhỏ thó nhưng rắn rỏi, cặp mắt to cân xứng với cặp lông mày
rậm rạp, nước da đen cháy nắng, làm lộ hai hàm răng trắng thật trắng, và
đều đặng. Chú ‘ chưởi thề’, luôn miệng. Ban đầu dân làng khó chịu,
nhưng riết rồi cũng quen, đến nổi nghe chú nói chuyện thấy vui vui.
Người ta kể hai chuyện giai thoại về chú. Đúng sáng mùng một Tết, các
trung đội trưởng chào cờ đầu năm ở quận đường, chào xong chúc tụng gia
đình vị thiếu tá đầu quận này. Chú bước vào phòng khách đông người lớn
tiếng bô bô “Đụ má cây mai đẹp quá thiếu tá, cả ngày 30, tôi rông cùng
núi ‘ đéo có cái con cặc gì hết’, toàn mai tứ quí đã tàn hết hoa”. Cả
phòng khách bấm bụng nín cười. Thiếu tá kéo cái ghế mời chú Hai ngồi sát
với vợ con nói chuyện vui vẻ. Chuyện thứ hai, chú lãnh lương trên đường
về nhà, ghé nhà người lính của chú sát vệ đường. Vào nhà thấy ba đứa
nhỏ sinh năm một, đứa lớn chừng 5 tuổi, tay ẵm em đang ngồi thổi lửa,
nhưng lửa không cháy, thằng nhỏ vừa thổi vừa khóc, tro bay dính đầy mặt
mấy em nó. Mẹ nó đang vội vã giã vài chén lúa để lấy gạo nấu cho các con
đang đói khóc lệ nhệ. Chịu không nổi trước cảnh thê thảm của người mẹ
và ba đứa bé, chú Hai miệng nói cà lăm, tay rút bóp túi sau : “ Chị..
chị ..chị….mua gạo nấu cho mấy thằng..thằng nhóc” chú để trọn cái bì thơ
đựng tiền lương tiền phụ cấp mới lấy từ quận ra, trên cái đòn ghế cạnh
bếp, rồi chú bước ra. Mẹ con gia đình người lính nhìn chú ngơ ngác,
không hiểu gì hết. Chuyện thứ ba, mỗi lần chú xuất quân, thiếu tá quận
trưởng gọi máy dặn kỹ phải giử sống địch, đưa về khai thác tin tức, tiểu
khu luôn luôn chỉ thị điểm này, nhưng chú Hai không bao giờ nghe lời.
Chú còn nói một câu rất hách, để đời : “Tui..tui..tui….không không quen
giữ..giữ.. tù binh”. Về chú, nhiều người phục, nhiều người ghét, nên
người ta thêm bớt nhiều chuyện có khi trái ngược nhau, chung qui người
ta nể, và ớn sợ chú.
Chị lau khô nưóc mắt trên mặt, giật mình nói : “Để cháu nấu nước chú
uống .” Tôi im lặng , khoát tay từ chối. Chị Hai lấy lại bình tỉnh, kể
tiếp :
“Lúc này dễ rồi chú, những ngày các ổng mới vào kinh khủng lắm, cháu
nghĩ anh Hai ảnh chết mà khỏe thân cho ảnh. Những ngày đầu cháu cũng
muốn làm một muỗng Mi- tốc cho xong, nhưng nhìn ba đứa con còn nhỏ quá,
không nỡ đấy chú. Chiều hôm đó, cháu là người chạy sau cùng, cứ chờ ảnh
về để ảnh ẵm bớt con cho cháu. Sau cùng cháu bỏ lại hết, chỉ đem theo
hai lon sữa quân tiếp vụ, cõng một đứa, bế đứa nhỏ nhất, dắt đứa lớn
nhất. Người ta chạy như kiến, cháu không thể theo người ta được, đành
men theo mép lề đường. Pháo kích ầm ầm, kệ nó, cháu cứ đi. Đứa con lớn
sợ quá nó khóc đòi cõng, cháu bực quá tát cho nó mấy tát, làm nó khóc
rống lên không chịu đi nữa. Mới hết cánh đồng chừng ba cây số, mệt quá,
khát nước quá, cháu chán nản, đành chịu chết, cháu quanh xuống đường
ruộng về nhà bà ngoại sắp nhỏ.
Nhà bỏ cửa trống, không đèn lửa, không có ai trong nhà, mấy con chó
hay sủa cắn bậy cũng đâu mất. Bỏ mấy đứa nhỏ ngoài sân, cháu chạy vào
nhà, thì mới hay cha mẹ chị em cháu dọn sạch chạy từ hồi nào, chỉ còn bà
ngoại cháu nằm rên hì hì trong buồng trong. Bà thở phì phào nói “ Nó đi
hồi chiều, bà không chịu đi”…Cháu ở đó hai ngày ba đêm, không (đưa bàn
tay ra đếm) tối hăm ba, ngày hăm bốn, tối hăm bốn, đúng hai đêm hai
ngày. Thấy im lặng không có gì, cũng không còn nghe tiếng súng nữa, trực
nhớ tối hôm chạy, quên lửng mấy con heo, không tháo chuồng thả nó, cũng
không đổ nước cho nó uống cầm xác..cháu vội vã về. Ban đầu cháu định đi
một mình, rồi trở lại, nhưng sợ sắp nhỏ dại ra ao sau vườn, nên cháu
dẫn nó về, sau khi để tô cháo với cái muỗng trên đầu giường dặn bà cháu
khi đói chờm múc ăn, rồi cháu sẽ trở lại gấp. Nghe nói về, mấy nhóc con
mừng quá, nhất là thằng lớn reo lên, về gặp ba nó, sao ba nó mấy hôm nay
không về nhà. Cháu nạt nó “ Câm cái miệng chó mầy lại, con nít biết gì
mà nói” Thằng nhỏ bị la mếu máo chạy theo cháu.
Gần đến nhà, cháu thấy người ta láo nháo đông quá trước nhà cháu ngay
ngã ba lên đồn Truông Dốc. Anh Hai cháu ảnh làm đại nhà ở lề đường ngay
trước đường lên đồn, để ảnh chay lên chạy về cho gần. Chú biết ảnh mê
đồn, thương đồn, hơn thương mẹ con cháu mà. Lại gần, thì ra lính lẫn lộn
với dân, đang trói ba người đàn bà vào một đống, một người đang chắp
tay lạy lia lịa. Vừa thấy cháu, trong đám đông la lớn “ Con mẹ ác ôn đây
rồi, về đây đền tội.” Họ ùa đến cháu. hoảng hốt, không hiểu gì hết. Một
người trạc năm mươi, mặt gằm gằm, không nói, đưa tay chỉ cháu, lập tức
hai chú du kích dây đâu sẵn trong tay, trói chặt hai cánh tay cháu riết
mạnh về phiá sau. Cháu như người chết, không biết gì nữa. Ba đứa con
cháu nó khóc thét lên, ôm chầm hai ống quần cháu, đứa nhỏ đưa hai tay
nhón người đòi bế. Người mặt gằm gằm đưa tay chỉ ba đứa nhỏ, một người
lính bước tới, dừng lại, nghĩ gì.. rồi lại thôi. Cháu bớt hoảng hốt nhìn
lại, thì ba người đàn bà bị trói đang khóc, đang chắp tay lạy kia, là
thím Bảy Tình, bà Thiện mẹ thằng Chín Còi truyền tin, và vợ anh Năm
trung liên, chồng con họ là lính của anh Hai. Họ kéo ba người một xâu
đến gần cháu cột chung vào đầu mối dây, trói ké cháu. Biết chết đến nơi
rồi, cháu lại bớt bối rối, hơi tĩnh lại, nhìn ba đứa con khiếp đảm đang
quấn chặt hai chân cháu.
Tự nhiên đám đông tản ra, chừa chỗ cho ông chủ tịch xã bước vào. Trời
ơi, chú biết không, ông già Năm Xùi làm chủ tịch. Ông già này nghèo
lắm, chỉ có đứa con gái điên hay mặc quần áo rách tả tơi, đủ màu, ví trẻ
con chạy cùng xóm, bị nghĩa quân bắn chết trong giờ giới nghiêm năm nọ.
Ông làm giao thông xã, hay đi loa tin tức của làng. Anh Hai thường cho
ổng các lon tiếp liệu ‘thịt ba lát’ quá hạng, ăn không hết, với thuốc
Basto xanh quân tiếp vụ. Ông già này thường vào nhà cháu như người nhà,
gặp gì ăn nấy. Thế mà theo cách mạng hồi nào không ai biết, nay làm tới
chủ tịch xã. Thấy cháu ông ngó lơ chỗ khác. Ông có vẻ mệt mỏi, thiếu
ngủ. Ông nói nhỏ gì với người chỉ huy trong đám, rồi hai người kéo ra
ngoài xa nói chuyện. Một tia hi vọng lóe vào trong đầu cháu. Hai người
chầm chậm đi trở vào, hình như có cái gì hơi làm khó nghĩ cho họ. Nhìn
cặp mắt ông già thấy như có cái gì dấu kín sự thương hại lo lắng cho
cháu. Chút hi vọng của cháu trong nháy mắt tan biến hết. Cháu sợ. Thật
sự cháu sợ.
Trời ơi ! chú biết không. Ông già đứng trước mấy người chúng cháu nói
lớn : “ Mọi người im lặng nghe tôi nói.” Chờ không có một tiếng ồn, chỉ
còn nghe tiếng ho ho của các ông bà già ngồi lâu dưới nắng chiều oi
bức. Ông lên giọng : “ Tôi mới vừa làm việc với đồng chí xã đội, nhất
trí đưa mấy gia đình có nợ máu với nhân dân lên đồn Truông Dốc gỡ mìn
của bọn ác ôn. Đây là một khoan hồng của chánh phủ Cách mạng, đạo đức
của Hồ chủ tịch vĩ đại, đánh kẻ chạy đi, không đánh người trở lại. Nếu
trong lúc công tác cách mạng này, người nào bị mìn chết hoặc bị thương,
thì được Đảng, nhà nước vinh thăng là liệt sĩ, là gia đình liệt sĩ, có
đầy đủ quyền lợi như những đồng chí liệt sĩ ngoài mặt trận.” Ông vừa dứt
lời, mọi người vỗ tay như pháo nổ. Người xã đội trưởng vẫn im lặng, mặt
gằm gằm. Hồn vía cháu lên mây. Mắt đổ đom đóm. Cây cối, nhà của, người
chen chúc quay tròn chung quanh cháu, không thấy gì nữa. Một người nắm
tay cháu kéo đi trước. Cháu đi như một khúc cây được người ta kéo đi,
không còn ý thức gì nữa. Lên cao dần, gió man mát, cháu nhận định được
cháu đi gỡ mìn, cháu đi chết. Chú ơi, tự nhiên cháu tỉnh hẳn. Không thấy
con đâu, cháu quanh người trở lại, đám đông dừng từ hồi nào, có lẽ con
cháu cũng đứng ở đó. Một thoáng nghĩ, con cháu được sống không bị chết
chung với cháu.Cháu mừng hẳn. Nhưng cháu lại sợ, quá sợ, biết còn chừng
vài bước nữa là vĩnh biệt con cháu, là cháu chết. Người run toàn thân.
Mấy người bị trói đi theo cháu mặt xanh xám xịt như xác chết, run quá,
như cái dây trói bị rung dựt. Thì ra ông xã đội và một du kích dắt chúng
cháu lên gần cổng đồn cách chừng trăm thước. Họ dừng lại, chúng cháu
dừng lại.
Đường lên đồn quen thuộc, vì nhiều lần cháu đem cơm cho chồng cháu
trong những ngày giới nghiêm, những ngày Tết, chồng cháu túc trực đêm
ngày tại đồn dù có lệnh đình chiến đôi bên. Cháu tin chắc chồng cháu đã
chạy thoát, và sau này sẽ tìm cách gặp lại các con cháu và nuôi dưỡng
dạy bảo chúng nó. Nghĩ đến đó, cháu hơi yên tâm. Tự nhiên trong người
lạnh quá cháu run lập cập. Cháu xác định cháu còn giây lác trên cõi đời
này. Chú ơi, cháu khóc, cháu tiếc quá, chưa sống bao nhiêu, bây giờ phải
chết trong khi chưa tới số phải chết. Chết trong lúc khỏe mạnh, trong
lúc thèm sống, trong lúc đang thương yêu chồng con dạt dào. Cháu nghĩ
đến cha mẹ cháu, đến bà ngoại mà cháu đã bỏ bà nằm chết trong tẻ lạnh,
đơn côi.
Tiếng nói chắc nịch chậm rãi của ông xã đội làm cháu trở lại thực
tại. Ông đưa tận tay cháu một cái kiềm loại kiềm bấm kẽm gai và bảo :
“Chị đi thẳng vào đồn. Đến cổng đồn cẩn thận bọn chúng gài mìn và lựu
đạn. Khi cắt khóa vào cổng chị phải quan sát kỹ, sơ hở là chết. Tôi biết
bọn ác ôn này gài mìn giỏi lắm, ác lắm. Nếu thấy cái dây gì nghi ngờ
chị nhẹ nhàng cắt đứt. Khi chị vào được trong sân đồn, chị khuyên chồng
chị đầu hàng nhân dân, đầu hàng cách mạng, sẽ được khoan hồng như tất cả
bọn nguy quân ngụy quyền khác. Chị hiểu chưa, nhớ chưa. Nếu chồng chị
ngoan cố, chúng tôi, nhân dân không tha thứ, và quân đội nhân dân sẽ
tiêu diệt.” Cháu hơi hoàn hồn vì biết không phải gỡ mìn cả bãi mìn, mà
chỉ gỡ mìn ở cổng đồn, và chính là làm bia đi trước để chồng cháu tử thủ
đồn khỏi bắn ra, hoặc cháu làm bia đở đạn cho quân cách mạng đang bao
vây chung quanh đồn. Tuy hiểu vậy, cháu vẫn run sợ. Nói xong dặn lại lần
nữa, rồi ông xã đội cùng người lính du kích mở dây trói chúng cháu, bỏ
chúng cháu, đi trở lại. Thì ra chồng cháu không chạy trốn, quyết ở lại
tử thủ. Chắc chắn chồng cháu sẽ nghe cháu để bắt đầu làm lại cuộc đời,
có chồng có vợ, có cha có con, sống an phận như những bà con xóm làng ở
nông thôn.
Bổng tiếng loa bốn phía réo lên xé tan không khí im lặng rùng rợn,
chết chóc. Tiếng loa kêu gọi chồng cháu đầu hàng, để được khoan hồng.
Tiếng loa báo cho những người tử thủ trong đồn biết, bốn người đàn bà
sắp vào đồn là vợ của trung đội trưởng ngụy quân, và vợ đám ngụy quân
còn ngoan cố ở trong đồn. Nếu không bỏ súng đầu hàng, thì quân đội nhân
dân không tha thứ, và sẽ san bằng, biến thành mồ chôn đám ngụy quân
ngoan cố, và vợ con gia đình có nợ máu. Loa gọi lung tung, làm cháu
hoảng hốt lo lắng, đừng bày những nghĩa quân trong đồn nhất là chồng
cháu nổi nóng nổ súng thì hết cứu chữa. Cháu hồi họp quá. Đang bước từng
bước chậm để kéo dài những phút chót của cuộc đời, cháu lại vội vã đi
nhanh hơn, nhưng mấy người sau cháu như họ đã chết hồi nào chỉ còn các
xác không hồn lê theo cháu. Thật tội nghiệp cho họ, chú ơi, cháu muốn
bảo họ nằm xuống ở lại, một mình cháu hi sinh vào cũng đủ, nhưng hình
như họ không hiểu gì hết, và họ vẫn theo cháu đi.
Đến cổng một thước tây, cháu đứng lại quan sát. Cháu nín thở trừng
mắt quan sát rất cẩn thận, không thấy một cái gì khả nghi, không một sợi
dây, không một dấu đất mới lấp . Hai cánh cửa làm bằng kẽm gai buộc
chặc bằng cái xích sắt, khóa bằng một cái khóa lớn bên trong. Ban đầu
định cắt ống khóa, nhưng không dám chờm vào trong, cháu lại định bấm kẽm
gai, chun vào, nhưng cũng thấy trở ngại, nó sẽ rung cánh cửa và biết
đâu nó động nó nổ thì xong đời. Miệng vừa nói ‘ nằm xuống!’ như một
lệnh, tay cháu chận đầu ba người theo cháu nằm xuống để cháu cắt kẽm
gai. Ba người nằm rặp mặt úp sát đất. Chú ơi, cháu vừa đưa cái kiềm vào
sợi kẽm gai ngoài cùng, tay run quá, cháu bấm không được. Cái kiềm tuột
tay rớt xuống đất, cháu nhắm mắt, nằm xuống, hứng tiếng nổ, nhưng không
thấy gì hết, cháu ngóc đầu lên, trời ơi ,chú ơi, cháu thấy cái cửa nhỏ
một bên vừa đủ một người đi qua bỏ trống, không khép cánh, hình như có
ai ra vào quên đóng cửa nhỏ bên hông. Cháu mừng quá, không lượm cái
kiềm, cháu chạy đại qua cái cửa bỏ ngỏ này vào trong, an toàn.
Cháu lại dừng lại, sợ bên trong bắn ra. Dừng lại la lớn : “ Anh Hai,
em đây, em Huyền đây, đừng bắn, em đây, em Huyền đây.. la lớn, hét lớn,
không thấy động tỉnh gì hết. Cháu vừa vào vừa la lớn mắt đăm đăm lên
chòi gát cao, nơi đặt trung liên, không thấy bóng dáng gì hết. Tất cả im
lặng một cách rợn người. Lá cờ vàng ba sọc vẫn phất phới trên chót
đỉnh. Nhìn xuống bồn cột cờ, trời ơi, từ xa cháu đã nhận dạng anh Hai
đang nằm. Như điên như dại, cháu chạy ùa tới la lớn anh Hai anh Hai !
Chú ơi !, thì ra anh Hai chết từ hồi nào, chú ơi ! đầu vẫn đội nón lưởi
trai ngã quẹo qua một bên, cả thân người nằm cong queo trên bục cấp bồn
chân trụ cờ. Khẩu súng lục rớt sát bên ngực, máu từ ngực chảy ra đã đông
cứng màu thẩm đen. Cháu ngã người lên xác anh Hai bất tỉnh . Mấy bà
chạy sau cháu đở cháu dậy, nói cho cháu biết anh Hai đã chết rồi. Cháu
hoàn hồn, bảo mấy bà chạy ra ngoài tin cho mấy người ngoài đồn biết
trong đồn không còn ai chỉ có xác chết anh Hai. Họ đi ra lâu lắm, không
thấy động tỉnh gì. Thì ra anh Hai tự tử bắn vào tim toát một lổ lớn
xuyên qua lưng máu chảy nhuợm đỏ xẩm vạt áo trước, súng rớt bên cạnh,
kiến bu đầy người mà cháu không biết. Mắt anh như không khép kín lại
được, da anh xám như chì. Cháu rút cái ví ở túi quần sau , một cái dao
xếp trong túi quần dưới ống chân. Lính bên ngoài thận trọng tiến vào,
súng lăm lăm lục soát quanh đồn, một số bao vây xác chết anh Hai. Một
người lính dựt cái ví và con dao trong tay cháu, rồi bỏ con dao lại, lấy
cái ví, nói với cháu để điều tra.”… Kể đến đây chị như kiệt sức, không
còn nói được nữa, úp mặt vào hai bàn tay khóc nức nở.
Tôi an ủi chị. Hai chân tê cứng, tôi gắng đứng dậy vào bàn thờ thắp
cây nhang. Không thấy ảnh anh Hai tôi hỏi nho nhỏ : “ Không có ảnh trên
bàn thờ” Chị nín khóc : “ Không có, mấy ngày vắng nhà, họ dọn sạch,
không còn cái chén ăn cơm, không còn cái gáo múc nước. Hôm chạy cháu bỏ
lại hết, chỉ lo ba đứa nhỏ thôi, khi về còn cái nhà trống. Thấy cái dao
con chó đặt trên cái dĩa trên bàn thờ, tôi nhè nhẹ cầm lên, nước mắt tôi
tuôn chảy, tôi khóc. Chị liền nói : “ Chú là người thân nhất, người
chết sống với chồng cháu, nên chú giữ lấy con dao, kỷ niệm duy nhất của
anh Hai. Ở đây nhà có ba đứa nhỏ cháu sợ nó lấy chơi bậy bạ rồi bỏ
mất,hoặc nguy hại cho nó. Chú giữ giùm cho cháu đi. Chú là người đáng
giữ kỷ niệm của anh Hai. Tôi cẩn thận bọc con dao trong túi quần, rồi
lặng lẽ ra về. Chiều xuống, yên lặng, nặng nề như thường lệ, không có gì
đổi thay.
Từng bước chầm chậm, thẫn thờ theo con đường mòn về nhà cũ. Một vài
người ngoài đồng về trễ dáng đi nặng nề mệt mỏi. Tôi men theo đường
ruộng đi tắt về nhà tôi ở cách xa con lộ chìm khuất trong hàng tre xanh
đen của buổi chiều mặt trời vừa tắt. Bước vào sân nhà tôi không ngạc
nhiên vì chị Huyền vợ anh Hai cho biết gia đình tôi đã về Tam Kỳ, quê
ngoại. Tôi lặng lẽ vòng cửa sau vào nhà. Trong nhà chỉ còn cái bàn thờ
cha tôi, một ít đồ lặt vặt dưới bếp. Cái vò nước uống, đầy nước. Cái gáo
dừa úp trên miệng vò.Tôi ực ực một hơi mấy gáo nước mát lạnh. Bụng no
cứng. Tỉnh táo hẳn.
Ngồi trên chiếc đòn ghế dựa lưng vào vách ở nhà bếp tôi cảm thấy dễ
chịu qua một ngày uể oải. Cấn cấn ở túi quần tôi móc lấy con dao của anh
Hai. Tôi bổng cười lên tiếng, nước mắt tôi lại tuông ra, “Được, Được !, xứng đáng là anh Hai, xứng đáng là anh Hai, người hùng Truông Dốc, người hùng nghĩa quân, ngưòi hùng quốc gia.”
Có lần anh Hai tâm sự với tôi anh quí con dao này hơn bất cứ thứ gì
trên cõi đời này. Anh bảo nó đã cứu mạng anh biết bao nhiêu lần trên
cuộc sống bụi, hư hõng của anh lúc còn nhỏ, lúc ở cầu Muối, ở cầu Ông
Lãnh Sài gòn. Anh bảo anh gốc người Núi Sập,Châu Đốc. Năm anh mười tuổi.
Trong một đêm tối trời, nửa đêm, người ta ào ào vào nhà cha mẹ anh giết
sạch cả nhà. Cha mẹ anh bị chặt đầu trước sân. Con em kế anh bị đâm lòi
ruột vứt xuống ruộng trước nhà. Anh may mắn tối đó ở nhà ông Bác bên
cạnh nghe cải lương khuya quá, ở lại ngủ, không về, nên còn sống sót.
Ông bác không muốn anh ở quê nhà thù oán, nên đưa anh lên Sài gòn ở mướn
giúp việc nhà cho người bạn ở kho Năm, Khánh hội. Anh nhớ cha, nhớ mẹ,
nhớ em, khóc suốt ngày, không chịu làm việc. Bà chủ la rầy không có kết
quả, nổi giận bà đánh cho mấy tát tai. Tức quá, anh hết khóc, ăn cắp cái
đồng hồ đeo tay của bà chủ và con dao xếp lưỡi, hiệu con chó, cán mở ra
xếp vào, có cả cái lò xo xoắn mở nút chai. Bỏ nhà ra đi, nhập bọn con
nít ăn xin ở chợ cầu ông Lãnh. Anh cho biết anh ốm gầy, đen thui, nhưng
rất khỏe. Bọn ăn mày lớn tuổi hơn, nạt nộ ăn hiếp anh, không ngần ngại
anh đâm cho một lưởi dao thấu bụng. Rút dao, lau máu, dấu trong quần
chạy trốn lên chợ cầu Kho, an toàn. Ở đây anh nhập bọn chú sáu Lỳ đi ăn
xin ăn cắp, chiều về đóng “ tiền xế” cho chú. Hơn một tháng anh bực bội
quá tiền kiếm cả ngày không đủ cúng lên cho Sáu Lỳ. Vô cớ, đang vui vẻ
trước sáu Lỳ cùng đồng bọn, anh rút dao nhanh như chớp, đâm túi bụi vào
bụng tay trùm anh chị này. Tướng dềnh dàng to lớn sáu Lỳ không kịp la
lên một tiếng, ngã quị như cây chuối bị đốn, máu chảy đầy chợ. Bọn ăn
mày cút mất dạng. Khi cảnh sát đến thì Sáu Lỳ còn là cái xác không hồn.
Người trong chợ vui mừng đỡ được cái nạn cướp bóc, cảnh sát nhẹ người
khỏi cần điều tra. Nhưng anh Hai lại trốn về lại cầu ông Lãnh. Bọn du
côn cầu ông Lãnh lại tôn anh làm đại ca, lúc ấy anh mới có mười lăm
tuổi. Anh cho tôi biết sở dĩ có nhiều thằng gan lì khỏe hơn anh nhưng
vẫn bị anh đâm, vì thấy một tên bụi đời nào có vẻ nghênh nghênh trước
mặt anh là anh đâm liền không cần nguyên cớ. Anh nói “Đụ đụ mẹ nó nghinh
nghinh là …là..tui..tui cho một nhác dao ngay, rồi chạy, cảnh sát…đéo
..đéo.. làm cái cái con cặc gì”. Anh còn cho biết mỗi lần đâm được tên
nào, rồi bỏ tẩu, khi bình tỉnh lại, anh liền khắc một vạch sâu vào cán
dao con chó này. Anh đưa tôi xem cán dao của anh khắc ngang dọc đếm
không xuể. Đó là thành tích giang hồ của anh, sau khi gia đình bị thảm
sát.
Năm 17 tuổi, anh tình nguyện đi lính biệt động quân. Anh kể cho tôi
nghe đêm anh từ giả bạn bè, có cả bạn gái giang hồ, tại chợ Cầu Muối
đường Nguyễn thái Học Sài gòn. Anh gọi là “đêm Tắm rượu”, thật là hào
hùng, như những vị anh hùng trong Thủy Hử. Anh rất khoái trá khi kể cho
bạn bè nghe những chuyện trên và nhất là cái đêm tắm rượu mà anh nghĩ
rằng không bao giờ có thể có lại.
Khi anh kể cho tôi nghe những trận đánh của anh khi anh ở biệt động
quân và anh chỉ những vết sẹo trong người anh, tôi mới thấy rằng những
thành tích chiến trận của tôi mà lâu nay tôi và bạn bè tôi tự hào, không
thấm vào đâu. Anh nói với tôi, và tôi cũng chứng kiến nhiều trận có tôi
tham dự khi tôi về làm trung phó của anh. Rất ngạo mạn anh bảo : “
Thằng Hai này, suốt đời binh nghiệp, ra trận chưa bao giờ và sẽ không
bao giờ nằm.” Quả như vậy nên nhiều người bảo anh có bùa ngải, tôi không
tin. Vì điểm can trường liều lĩnh chưa ai có, nên cấp trên rất cưng
chiều anh, nhất là các vị quận trưởng luôn o bế và gần như dành cho anh
một qui lệ riêng.
Tuần lễ cuối cùng, trung đội tôi đào ngũ hết 5 người. Bọn nó trốn
cùng với gia đình di tản trước. Anh nổi điên bảo tôi đi kiếm bọn nó về
cho anh bắn treo xác lên cột cờ để cảnh cáo bọn hèn nhác trốn không dám
chiến đấu. Anh gầm thét như con hổ đói, làm chúng tôi sợ sợ anh làm ẩu.
Tôi luôn an ủi xoa dịu anh, nhưng gần như không hiệu quả. Một hôm thằng
Hưng, hỗn danh là “ Năm trung liên” nhớn nháo vừa bước vào đồn nói đài
Hoa Kỳ mới nói quân đội quốc gia rút lui, Quảng trị bỏ ngỏ, và người ta
tiên đoán tổng thống Nguyễn văn Thiệu, đại tướng Trần thiện Khiêm chuẩn
bị chở vàng đi trốn ra nước ngoài. Vừa nghe thằng Hưng nói tôi liền chận
nó lại, bảo đừng vào trong và câm miệng đừng phát ngôn bừa bãi, nhưng
trễ quá rồi, anh Hai nhào tới đánh túi bụi thằng Hưng, rút súng lục định
bắn tôi nhào tới ôm chặt anh Hai, tôi vật với anh một hồi, anh em đuổi
thằng Năm trung liên ra ngoài và xúm nhau năn nĩ anh Hai bảo nó nói bậy
không có việc đó. Anh Hai nói phun nước bọt cà lăm cà lặp : “
Tui…tui..bắn bể óc thằng chó ..chó..chó nào nói xấu quân..quân…đội đội
đội, thằng chó chó nào nói xấu tổng thống.. thống..” Tôi đi dặn từng
người một, không được nói tin tức, dù nghe trong ra di- ô trước chú Hai.
Nếu không theo lời tôi, bị chú bắn chết rán chịu. Chú đã từng bắn chết
nhiều người rồi, mới tình nghi là địch, chú bắn ngay, không cần xem lại.
Từ hôm đó , bọn chúng không đứa nào dám lảng vảng trước mặt chú Hai,
như con cọp điên.
Ngày 23, ngày định mệnh, ngày cuối cùng, trên đồn Truông Dốc còn có
tôi và chú Hai. Tôi nghe thầm thầm trong radio, đài BBC, đài VOA, tôi
biết chắc tình thế quá nguy ngập. Quảng trị thất thủ. Huế thất thủ. Đà
nẳng di tản. Nhất là lời tường thuật về sự tháo chạy của quân đoàn II,
Pleiku, còn hơn sự tháo chạy của quân Đức quốc xã mặt trận Tây Âu, khi
Hitler đã tự tử. Tôi định khuyên chú Hai nên rút lui để tránh sự tàn sát
của địch, nhưng không thể mở miệng vì trước cặp mắt đỏ như máu của chú
và tay lăm le khẩu súng Col 12. Tôi sợ, thật sự tôi nể sợ chú, như nể sợ
một vị anh hùng ở phút thác loạn. Mấy lần định nói, nhưng lại thôi, vì
tôi nghĩ một băng 6 viên đạn Col đỏ chói sẽ xé nát đầu tôi, trước khi
đồn thất thủ.
Bổng chú kêu tên tôi, rồi chú ra bồn trụ cờ, ngồi ở bậc trên cùng.
Tôi theo chú . Chú bảo, lần này chú nói rất chậm không cà lăm. Lần đầu
tiên tôi nghe chú nói không cà lăm cà lặp. “ Chia tay chú, chú về đi, ra
cổng khép kỹ, gài cho tôi mấy quả lựu đạn. Nhớ nhé, nhớ gài lựu đạn,
chào chú”. Tôi quá bất ngờ, sửng sốt như bị thôi miên, tôi không nói
được một tiếng nào ở giờ phút khủng khiếp ấy. Như cái máy, tôi ra cổng
trước, khoá kỹ. Tôi dừng một lát. Trăng mờ mờ trong mây. Dưới xa, dưới
lộ xa đoàn người di tản khi chiều còn tiếp tục. Tôi bất tuân lệnh . Tôi
không gài lựu đạn, nghĩ rằng, biết đâu để cửa an toàn cho chú chạy khi
cần trong đêm nay. Có lẽ rối trí tôi quên khép cánh cửa nhỏ bên hông, vì
tôi không trở lại nữa.
Tiếng máy bay trực thăng bay rất thấp. Trên trời, lệnh của đại tá
tỉnh trưởng nghe rõ mồn một, “ Tôi, đại tá tỉnh trưởng ra lệnh cho các
quận trưởng, các trưởng đơn vị quân đội, tự động di tản cùng với đồng
bào, không chờ lệnh thượng cấp nữa.” Có lẽ lúc đó là giờ phút bi thảm
tuyệt vọng nhất của vị anh hùng Trần Hai, kết thúc cuộc đời ngang dọc
sau khi nghe lệnh từ không gian tỏa xuống.
Nguyễn Liệu
Bài của Nguyễn Liệu về “cái bằng tiến sĩ”
Năm 1976, chấm dứt chiến tranh, bác sĩ Tôn thất Tùng, một bác sĩ
giỏi, học tại Pháp, kẹt trong kháng chiến, rồi phải phục vụ cho Việt
cộng, đã mạnh dạn viết bài báo đề nghị bác sĩ Việt cộng được đào tạo
trong chiến tranh, phải thi và học lại. Nếu không học lại hoặc học mà
thi không đậu, thì không cho hành nghề vì không đủ tiêu chuẩn của một
bác sĩ.
Tôn thất Tùng, một đảng viên cộng sản, cũng phải đợi
gần 80 tuổi mới liều mạng nói một sự thật mà đã cắn răng chịu đựng gần
hết cuộc đời… Bởi vì chính ông đã chứng kiến
đã đào tạo những
đảng viên trung kiên, dốt nát trong 6 tháng trở thành bác sĩ y khoa,
đáng lẽ phải đào tạo từ 6 năm đến 15 năm sau khi tốt nghiệp trung học.
Tại sao không gọi y tá mà phải gọi bác sĩ. Đó là đặc điểm của ….
Dốt nhất, nghèo nhất, ít suy nghĩ nhất, ngu nhất, là những yếu tố căn bản của đảng viên trung kiên cộng sản.
Mac và Engels quan niệm, con người ngu nhất, nghèo nhất là con người
trung thành nhất. Giai cấp bần cố nông, công nhân thấp nhất, là giai cấp
tiên phong của đảng cộng sản, ngoài ra là những giai cấp phản động,
muốn dùng chúng phải cải tạo chúng theo giai cấp tiên phong.
Từ ngày có đảng cộng sản Việt Nam, người có học bị xem là kẻ thiếu
trung thành, kẻ phản bội, cho nên lãnh tụ Mao trạch Đông quá mặc cảm dốt
nát đã nói thẳng thừng “
Trí thức không bằng cục phân”.
Câu nói đó trở thành một nguyên lý cho đám cán bộ lãnh đạo cộng sản.
Câu nói của Mao trạch Đông đó làm cho người lãnh đạo cộng sản tự tin
rằng mình có giá trị, có bản lĩnh, có đạo đức cách mạng vô sản, vì mình
không phải là trí thức, tức mình hơn cục phân. Nhiều lần tôi đã nói, nếu
Hồ chí Minh là một trí thức như cụ Phan châu Trinh, như Nguyễn thế
Truyền,… thì không bao giờ được làm bí thư của đảng cộng sản Đông dương.
Thiếu bằng cấp, dốt nát, là một lợi khí tốt để cho Hồ chí Minh bước lên
nấc thang lãnh đạo đảng cộng sản.
Tôi, người viết bài này, đã chứng kiến trước mặt, cái cảnh thê thảm
của người lỡ có bằng cấp, muốn được đảng tin không biết làm sao xóa bỏ
cái lỡ hiểu biết của mình. Cố nhiên họ một mặt không dám đọc sách, nhất
là sách ngoại ngữ, vì giai cấp bần cố nông, bọn ăn mày ăn xin ngoài chợ,
không làm chuyện đó. Hình thức thì có phần dễ, họ ăn mặc rách rưới, để
thân thể cho dơ dáy, ngồi cạnh họ phải có mùi hôi của dân lao động chân
chấm tay bùn. Ngôn ngữ rất khó, họ sợ hai chữ lãng mạn của lớp tiểu tư
sản. Ví dụ họ không dám nói “ trăng đẹp, hoa hồng đẹp, Tây Thi đẹp …” mà
thường nói cho nhiều người nghe “ đống rơm của bác đẹp quá, các luống
cày đẹp quá, hố ủ phân tuyệt đẹp. Bác (Hồ chí Minh )cầm cây cuốc đẹp
quá, chú Đồng nhỗ cỏ đẹp quá…chị nuôi bản lĩnh quá, đẹp quá, chị du kích
đứng gác đẹp quá v.v…Bởi vậy Chế Lan Viên mới viết “ Một lỗ hầm chông
đẹp hơn vạn đoá hoa hồng”, Tế Hanh viết “ Năm nay anh trồng cây bưởi góc
nhà”. Tôi chắc chắn trên 100% những người có học, không cần nhiều, cỡ
lớp đệ tứ niên ngày xưa trở lên, nếu kẹt trong chế độ cộng sản từ 1945
đến 1975 đều ít nhiều phải đóng kịch như thế ( Các thầy Hoàng Tuỵ, Lê
trí Viễn, Nguyễn thiện Tụng, Phan Thao ( con cụ Phan Khôi) Trần tế
Hanh……đã qua thời kỳ cố lột xác như thế. Nếu không lột xác thì không
được vào đảng)
Sau năm 1975, hết chiến tranh, cộng sản về thành,
nhất là thành phố Sài gòn. Đám cán bộ trung cấp và cao cấp từ Bắc vào,
từ núi xuống, từ bưng biền ra, chới với trước nép sống có văn hóa của
người dân miền Nam, chế độ cũ.
Sự ngớ ngẩn dốt nát lố bịch của đám cán bộ đó đã làm cho dân chúng miền Nam khinh khi, và đã có nhiều chuyện tiếu lâm ngày nay vẫn còn truyền.
Từ chỗ học tập làm cho giống lớp bần cố nông để vào đảng, nay cũng
những cán bộ đó học tập làm cho giống lớp tiểu tư sản, lớp có tiền, lớp
trí thức…
Bắt chước cách ăn mặc của lớp tiểu tư sản thì dễ, chỉ cần trước hết,
liệng ném cái nón cối, bỏ hẳn đôi dép đế xe hơi gọi là đôi dép bác Hồ
(đế xe hơi làm đôi dép nguyên là của cu li kéo xe, người đổ thùng cầu
tiêu,… họ quá nghèo, không có tiền mua đôi giày, nên lượm đế xe hơi bỏ
làm giầy, và những người này là trung kiên của đảng cộng sản, là cán bộ
lãnh đạo đảng cộng sản sau đó. Cụ Hồ bắt chước họ, cho giống họ, nên
dùng đôi dép đó chứ Hồ chí Minh không sáng chế ra đôi dép đó, thế mà gọi
là dép bác Hồ bác cũng nhận bừa, không cần đính chính, đó cũng là tính
chất của…).
Họ, cán bộ cộng sản, xa lánh ngay lớp bần cố nông nghèo đói…
Ngày trước cán bộ cộng sản nếu kể lai lịch cha mẹ ông bà có người đói,
người làm mướn, người ăn xin ăn mày, thậm chí có người chết đói, thì họ
rất hãnh diện vì họ thuộc thành phần tốt nhất, vô sản nhất, lành mạnh
nhất, trung kiên nhất. Ngày đó nếu cán bộ nào có cha mẹ, bà con, ông bà,
là người khoa bảng, làm quan, thì xem như kẻ phản bội.
Bởi vậy dù cố gắng tới mức nào, Phạm Tuyên con quan thượng thư Phạm
Quỳnh, Bùi Tín con cụ thượng thư Bùi bằng Đoàn, Hoàng Tụy con cháu tướng
Hoàng Diệu , nhiều lắm là làm nhạc sĩ , làm báo, làm giáo sư khoa học,
không bao giờ được vào hàng ngũ cán trung kiên của đảng.
Từ ngày họ bắt chước người tiểu tư sản người trí thức thì họ cố tập
cho ra lớp người này. Về ăn mặc, nói năng, kiểu cách ăn chơi, tiêu tiền,
lễ nghi v…v.. dù sao cũng dễ bắt chước nhất là bắt chước sự ăn chơi sa
đọa thì rất dễ. Nhưng bắt chước có trình độ hiểu biết thì thật là khó,
gần như vô vọng.
Để khắc phụ sự khó khăn đó, đảng chủ trương cho học tại chức, học
không cần đến trường, học không cần đọc sách, học không cần làm bài, và
một năm có thể ghi danh vài ba lớp. Phải cần 12 năm để học hết trung
học, đảng cho học hai năm hết trung học. Bằng cử nhân bằng tiến sĩ cũng
vậy cũng học tại chức.
Phe chiến thắng mà bị dân chúng chê dốt, đó là điều đau khổ nhất của Việt cộng.
Đó là lý do bằng tiến sĩ mọc lên như nấm. Thêm vào đó, phong trào thi
đua tham nhũng phát triển mạnh. ‘Ngành ngành tham nhũng, người người
tham nhũng’, thì bằng cấp không cần ghi danh chờ thời gian nữa, mà có
ngay, nếu có số tiền qui định.
Cán bộ cộng sản, nhà cửa có rồi, xe cộ có rồi, tỳ thiếp có rồi, bỏ
nón cối, bỏ áo lãnh tụ, bỏ đôi dép Bác Hồ, ăn mặc kiểu tân tiến, kiểu
Mỹ, tiệc tùng, uống rượu, cà phê, uống trà, nhảy đầm, theo kiểu bọn quí
phái phong kiến ngày xưa….Nhưng còn thiếu trình độ học vấn để nông dân,
dân lao động không khinh bỉ “dốt mà làm sang” nên phải có mảnh bằng. Đã
mua thì chịu tốn mua thứ cao nhất tốt nhất, và do đó
bằng tiến sĩ đảng bán đắt như tôm tươi.
Một đề nghị thực tế..
Tôi hoàn toàn đồng ý với đảng cộng sản ồ ạt sản xuất bằng cấp để đánh tan thành kiến
“cộng sản là bần cố nông”.
Trước năm 1954, dân chúng ở Quảng ngãi có ý khinh thường đám cán bộ
đảng thường nói “ bọn bcn, tức bọn bần cố nông”. Không riêng gì ở Việt
nam ở Cuba, Bắc Hàn ngày nay tiến sĩ bác sĩ đầy đường đầy sá, không làm
gì cho hết. Bởi vì học rút ngắn thời gian, hạ thấp chương trình, và ưu
tiên cho đảng viên không có thì giờ đi học và không biết chữ, hoặc biết
sơ sơ, nhưng cần có bằng tiến sĩ.
Để khỏi gây tác hại cho dân chúng, tôi đề nghị, đảng không nên khuyến
khích đảng viên cán bộ đảng nhận bằng tiến sĩ về y học, khoa học. Vì
hai loại này có thể đưa đến chỗ giết người vì không thực học.
Tôi còn nhớ rất rõ năm 1984, ra khỏi tù tôi về Saigon. Con tôi bị sốt
tôi nghi là sốt xuất huyết tôi đem vào bịnh viện nhi đồng. Theo lời
khuyên chân thành và khẩn cấp của dân chúng, tôi thức trắng đêm bên
giường bịnh, để canh chừng bác sĩ. Lúc đó bịnh viện Sài gòn có hai loại
bác sĩ, một loại của chế độ cũ còn lại, một loại tập kết mới về, loại
bác sĩ Tùng đã cảnh báo cho dân chúng biết. Tôi canh chừng nếu bác sĩ
tập kết về khám bịnh hoặc chích thuốc cho con tôi, thì lập tức tôi cản
không cho, và tôi cũng canh chừng nếu đứa nhỏ không sống được tôi phải
bảo vệ xác chết của nó cho được toàn vẹn, đó là lời khuyên của đồng bào
miền Nam.
Cấp bằng tiến sĩ không gây tác hại cho dân chúng,
nên chọn những loại như văn chương nghệ thuật, phong tục, v..v… càng
viễn vông càng mơ hồ càng tốt. Tôi rất phục <mime-attachment.gif>
TÔ HUY RỨA, TIẾN SĨ DỐT NHẤT Ở VIỆT NAMbiết
thân phận mình nên không chọn tiến sĩ y khoa hay tiến sĩ cầu cống, cũng
không chọn tiến sĩ kinh tế, tiến sĩ luật, tiến sĩ giáo dục … vì những
thứ này dễ lòi đuôi chuột khi đụng đến thực tế. Ông chọn tiến sĩ “ xây
dựng đảng”, không làm hại người nào.
Đảng nên xem bằng tiến sĩ như phẩm hàm cửu phẩm bát phẩm ngày xưa
triều đình cho các viên chức đúng tiêu chuẩn. Những chức này không làm
hại người nào, chỉ để gọi danh xưng mà thôi. Người ta thường gọi tiến sĩ
về ngành gì ví dụ ông Nguyễn văn A tiến sĩ kinh tế, ông Nguyễn văn B
tiến sĩ toán học v..v….
Những tiến sĩ này vô hại nên phát cho đảng viên:
· Tiến sĩ văn chương thơ Bác,
· Tiến sĩ ca dao kháng chiến,
· Tiến sĩ mưa phùn gió Bấc,
· Tiến sĩ cá thài bai,
· Tiến sĩ buổi chiều vàng,
· Tiến sĩ đồng lúa chín…..
Tôi ví dụ như vậy để các ông tiến sĩ không làm cho dân chúng lo lắng.
Bởi vậy khi tôi nghe đảng ra quyết tâm phấn đấu trong 10 năm nữa sẽ đào
tạo 20 ngàn tiến sĩ, tôi tin tưởng việc này đảng làm được và làm hơn có
thể đưa lên gấp 10 tức 200 ngàn tiến sĩ.
Nguyễn Liệu