Nếu quý anh chị thích đọc văn chương miền nam thì đây là quyển sách mới nhất của tác giả Văn Nguyên Dưỡng mới gửi đến tôi.
Cám ơn tác giả đã cho vinh dự đọc quyển sách này trước khi ra sách.
Tôi sẽ post vào đây từng chương và từng phần nối tiếp nhau.
Caroline Thanh Hương
TRUYỆN DÀI TÌNH YÊU TRONG CHIẾN TRANH
VIỆT NAM
CHIẾN TRANH VÀ
TÌNH YÊU
Văn Nguyên Dưỡng
****
Một giai nhân trí thức công giáo, vừa
trên ba mươi tuổi, giáo sư Trung học, tha thiết yêu một học sinh tỉnh
lẻ mười tám, chất phác. Một cuộc tình lãng mạn, đậm
đà, say đắm. Hai kẻ yêu nhau biết sẽ không ai
trong xã hội đương thời chấp nhận tình yêu và hôn phối giữa những người
tình chênh lệch tuổi tác nầy, nên quyết định âm thầm kết hôn trước
Thiên Chúa trong Nhà Thờ Đức Bà ở Sài-Gòn. Người vợ đóng cửa...
dạy chồng thành người trí thức. Nhưng chiến tranh đẩy người thanh niên
nầy vào cuộc chiến đầy phẩn nộ. Tình yêu của người khuê phụ thục
nữ nầy là tình yêu chung thuỷ, biến cô thành một Pénélope của Việt
Nam, hay như người thiếu phụ Nam Xương. Hằng ngày, cô giáo buồn bã
nhìn những bóng nắng tan dần, hằng
đêm thao thức chờ ánh sáng bình minh, chỉ mong đợi một người, trong
năm mươi năm liền. Tấm tình chung thuỷ nầy hợp với đức tin tôn giáo,
hợp với đạo lý của dân tộc. Nhưng đẫm lệ...
Tác
giả chống chiến tranh, ca ngợi tình yêu và lòng dạ kiên trinh, vợ
hiền của các chiến sĩ Miền Nam Việt Nam trong cuộc biển dâu thế kỷ
vừa qua.
-----------oooOooo----------
CHƯƠNG I: CÔ GIÁO
SƯ THÁI HÂN
Mùa thu năm đó, không phải mùa Thu năm 1945, mà là mùa Thu năm 1948, Pháp đã trở lại Việt Nam. Ở
Sài-Gòn có Dinh Norodom là Phủ Toàn Quyền Pháp, còn có Phủ Thủ
tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Ở Miền Bắc, Việt Minh và Chính
phủ Kháng chiến của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bỏ Hà-Nội rút lên Mạn
Ngược Việt Bắc trường kỳ kháng
chiến từ cuối năm 1946. Việt Minh ở miền Nam
và miền Trung cũng rút vào bưng biền đánh du kích từ mùa Thu năm trước. Nhiễu nhương đã bắt
đầu từ nhiều năm qua, nay càng thê lương hơn. Nhưng người ta vẫn sống, và
tôi vẫn phải lên Sài-Gòn tiếp tục đi học... vì vừa đậu xong bằng
Tiểu học. Tôi đã bắt đầu đọc truyện Tàu, truyện trinh thám, đọc thơ,
đọc văn... Cậu mục đồng ở một làng quê nhỏ bé đã biết đôi chút mùi
vị chữ nghĩa.
Không biết từ lúc
nào tôi đọc và nhớ mấy câu thơ... “Từ độ vào Thu đến nay, sương Thu
lạnh, trăng Thu bạch, khói Thu xây thành, gió Thu đưa lá lìa cành, sông
Thu mang lá rời ngành biệt ly...”
Tôi biết, không phải
như vậy đâu. Miền Nam không có mùa Thu đẹp như Thi sĩ Tản Đà tả cảnh miền Bắc khi vào Thu. Thật ra, là một cậu bé sinh ra ở vùng đất mũi
Cà-Mau, từ nhỏ tôi không hề biết mùa Thu là mùa nào trong năm, nếu
không có mùa... Thu, năm 1945. Năm đó, học trò lớp nhì,
lớp nhất đều vào đội ngũ Thiếu Niên Tiền Phong, học hát các bài ca kháng
chiến như “muà Thu nầy ngày hăm ba ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến.”
Rồi giặc giã nổi lên. Rồi bỏ
học, tản cư. Rồi hồi cư, đi học lại. Từ đó tôi mang nhiều kỷ niệm về
mùa Thu.
Thật ra Miền Nam chỉ
có hai mùa mưa, nắng.
Mùa thu của miền Nam,
đâu có sương thu lạnh trăng thu bạch, nhất là ở các tỉnh đồng bằng
Sông Cữu Long, mà là mùa mưa liên miên, tầm tã, lầy lội, ngập lụt ngày này qua ngày khác.
Cư dân ở các tỉnh
có sông ngòi nước ngọt không thích mưa cho lắm, nhưng ở xứ Cà-Mau nước
sông mặn chát, thì cư dân dường như thích trời mưa hơn là trời nắng. Nhà
nào khá giả mua lu, mua khạp, mái vú, xếp từng hàng quanh nhà, trong
vườn, trên sân, hay xây hồ xi-măn để hứng nước mưa, chứa cho gia đình
uống cả năm bảy tháng mùa nắng năm tới. Nhà nào nghèo hơn, phải
“đổi” nước ngọt ở các ghe lường chứa nước đi “đổi”, thay vì nói đi
“bán”. Đổi được một vài đôi thùng hai-mươi-lít nước ngọt để uống và
nấu ăn cũng được vài ba ngày.
Mùa nắng, nước sông
mặn đến đổi đêm tối trời, đám trẻ con ra bờ sông chơi, lấy miểng
sành ném cho chạy trợt trên mặt sông sẽ thấy một làn lửa nổi lên
chạy dài theo. Hoặc đứng cả đám trên cầu tàu... tè xuống nước cho
nổi các tia lửa giống như cả bầy đom đóm bay tung toé trên mặt nước,
hay giống như đốt pháo bông, rồi cười la vui vẻ. Những đêm tối trời
như vậy, mấy chị, mấy cô xuống mấy cái cầu tiêu công cộng trên ven
sông để đi vệ sinh, cũng không lạ với các đốm lửa tóe dưới mặt nước,
như pháo bông nổ. Thành ra ban đêm, khi rủ nhau đi... cầu, họ thường nói
với nhau là “mình đi đốt pháo bông đi”.
Tôi có cô bạn học
cạnh nhà, những đêm tối như vậy, đôi khi nhờ tôi... hộ tống cho cô xuống
cầu bờ sông đốt pháo bông vì cô sợ... ma. Đứng đàng xa cũng đủ thấy cả
bầy đom đóm bay túa trên mặt nước. Người tỉnh khác đến buôn bán
thương hồ trên các sông rạch quê tôi rồi cũng biết điều nầy. Vậy nên
có tiếng đồn rằng ở Cà-Mau con gái đái... ra lửa. Đây không hẳn là
lười khen chê. Mà nói theo nghĩa bóng thôi. Vì thật ra, mấy chị ở
thị trấn quê tôi, nhất là ở xã Thới Binh, nước da trắng ngọt, mặt
sáng, răng trắng nên nụ cười có duyên, có lẽ nhờ nước sông ngòi mặn
nên phần đông răng chắc, đẹp, lại ăn nói mền mỏng, dáng điệu gọn gàng,
nên trai xứ lạ đến, nhất là lính tráng, nếu gặp một trong các cô
thương yêu thì, sau đó dù có vác súng đi nơi nào khác, nhưng vẫn...
bỏ quên trái tim ở lại. Chết vẫn nhớ... em.
Mùa thu năm đó tôi
cũng rời xa quê nhà, nhưng may quá còn giữ được trái tim mình đỏ tươi
chưa bầm giập với cô nào, dù là cô hàng xóm bạn học thân nhất. Tôi
lên Sài-Gòn học, sẽ khá lâu mới về gặp lại cô. Chỉ thấy hơi buồn
buồn thôi.
Cô bạn học nầy cũng
trạc tuổi tôi, mười bốn hay mười lăm gì đó, học giỏi nhất lớp và hình
như có cảm tình với tôi nên thường cho tôi mượn bài vỡ cô làm xong,
nhất là các bài giải toán, để... tôi cóp, rồi nộp cho thầy. Tôi rất
dốt toán, vật lý và hoá học. Vậy mà tôi cũng thi đậu mùa hè năm
đó. Cô học trò xinh xinh, có duyên, má lúm
đồng tiền, tóc chảy xuống vai, trao cho tôi một tập vỡ để viết bài
lưu niệm. Vì tôi đi học xa. Còn cô sẽ ở lại, học lớp Tiếp Liên, là
lớp của những cô cậu đã đậu bằng Tiểu học, nhưng hoàn cảnh gia đình
không cho phép học tiếp Trung học, hoặc không thi đậu có học bổ̉ng
vào các Trường Trung học công lập Cần-Thơ, Mỹ-Tho hay Pétrus-Ký ở
Sài-Gòn.
Ba tôi thì muốn cho
tôi học Trường Dòng La-San Taberd ở Sài-Gòn. Trước ngày lên đường, tôi
bí quá, không biết viết cái gì, bèn phết luôn mấy câu thơ trên của
cụ Tản Đà mà tôi nhớ lõm bõm vào quyển lưu niệm của cô bạn học. Bề
nào cũng là... biệt ly mà. Thơ lại đẹp, buồn, gợi cảm. Tôi còn nhớ
loáng thoáng thêm mấy câu nữa, “nhạn về, én lại bay đi, đêm thì vượn
hót ngày thì ve ngâm, cánh sen tàn tạ trong đầm, nặng mang giọt lệ âm
thầm khóc hoa...” Tôi đọc đi đọc lại, cố sửa sao cho đúng, nhưng vẫn
còn phân vân, không biết đúng hay sai, thôi cứ chép thêm mấy câu nầy
vào quyển lưu niệm, rồi... ký tên. Cũng may, vừa xong thì, nàng tới.
Nàng là bàng lân, nhà ở chỉ cách một khu vườn cây nhỏ, quen biết
thân mật với các chị tôi, qua lại nói năng cười giỡn là chuyện
thường.
-Anh Út, sáng sớm
ngày mai Anh đi, phải không? Ráng lên Sài-Gòn học cho giỏi nghen! Mai mốt về em thưởng...
-Thôi đi, ngộ học
dốt, nị biết quá mà, làm sao học giỏi được. Còn chọc quê người ta
nữa!
Tôi vẫn xưng hô với
Mỹ bằng các đại danh từ Chệt, ngộ, nị, vì không biết xưng hô bằng
tiếng Việt như thế nào cho phải. Gọi bạn, xưng tôi thì cũng được,
nhưng có vẽ không thân. Còn anh, em thì hổng được rồi. Đâu biết ai lớn
hơn ai. Cô đứng ngang đầu với tôi, lại vừa trổ mã con gái dậy thì,
trông đẹp và lớn xộn, lại học giỏi, nên tôi hơi... nể kể từ hai năm
học chung lớp. Hay đúng ra kể từ khi gia đình tôi hồi cư về thị trấn
Cà-Mau, ở gần nhà Mỹ cho đến hôm đó.
-Không phải mà, em
nói thật đó!
-Hổng
tin, chắc nị cho ngộ ăn trái cây vườn nhà nị gảy răng luôn phải hông?
-Hổng phải, thưởng
cái khác mà...
-Cái gì vậy?
-Không nói, bí mật.
Hỏi Chị Hai đi... Nói xong Mỹ dường như bẽn lẽn, dợm thối lui.
-Khoan đã, lấy quyển
lưu niệm rồi hãy đi.
-Vậy hả, em quên!
Mỹ cầm quyển lưu niệm
lật ngay trang tôi vừa viết mấy câu thơ, đọc rồi la nho nhỏ:
-Anh Út, sao chép
lại bài thơ “Cảm Thu, Tiễn Thu” của cụ Tản Đà cho em chi vậy? Bài
nầy lúc trước em thấy hay quá nên chép lại trong một tập san rồi
tặng cho anh xem mà, anh quên rồi sao? Anh chép trả lại cho em trong quyển lưu niệm nầy làm chi, em thuộc lòng nguyên bài rồi mà, còn dài hơn nữa!
Tôi nghe xong, như bị
mắc nghẹn, hai tai nóng bừng. Nhưng cũng nói bừa...
-Ờ, thì... nhớ rồi.
Chớ hổng phải vì hay quá nên ngộ học thuộc lòng mấy đoạn đó sao? Thì
mai ngộ đi xa rồi. Thì... sông thu đưa lá rời ngành... biệt ly mà.
Hổng phải sao, người đi để kẻ ở lại mà, không phải biệt ly sao? Vậy
mà nị còn trách ngộ. Thì thôi, đưa lại đây, để mua quyển lưu niệm
khác mắc đền cho. Tôi thấy mắt Mỹ đỏ, sắp chảy nước mắt, nhưng nghe
câu chót, Mỹ hoảng hốt nói:
-Hổng phải, em có
trách anh đâu, em không biết hết ý của anh mà, em xin lỗi. Cho em giữ
quyển lưu niệm nầy nghen, nghen anh...
Nói xong, Mỹ dông
tuốt ra cổng rào. Tôi nhìn theo, còn thấy Mỹ ôm chặt quyển lưu
niệm trước ngực chạy về nhà, vừa lau nước mắt, vừa cười mĩm.
Vậy đó. Ôi cảnh
chưa... biệt ly sao mà... lạ thế! Mỹ đầy chân tình. Còn tôi?
Đúng là tôi làm bộ làm mặt lạ với Mỹ. Sau này, nghĩ lại, tôi thấy
hối hận về chuyện này. Rõ ràng là Mỹ yêu tôi, với tình yêu con gái
tuổi học trò. Vậy mà tôi thờ ơ với Mỹ.
Tôi thường nghe người
lớn nói con gái ở tuổi mười bốn, mười lăm dậy thì, thường lớn khôn
hơn con trai ở lứa tuổi đó. Mỹ là cô gái thông minh, giỏi giang, chẳng
những giỏi trong lớp học mà còn giỏi việc nhà. Ngày thứ bảy, chúa
nhật thường ra phố giúp mẹ buôn bán. Mỹ có người anh cả ra bưng biền
kháng chiến, một em gái học cùng lớp với cô, và một em trai nhỏ. Ba
cô bệnh, yếu, vì trước bị mật thám Tây bắt, tra tấn thành tàn phế,
nên cô phải giúp mẹ cáng đáng chuyện gia đình kể cả chuyện buôn bán
ở tiệm vàng gia đình khá lớn trong thị trấn. Đó là lý do mà Mỹ
không thể theo học tiếp cao hơn.
Sáng sớm hôm sau, trời mưa to, nặng hột. Con đường từ nhà tôi ra bến xe lầy
lội. Giữa lòng đường, nước mưa cuốn mất bùn bẩn trôi đi tự lúc nào,
chỉ thấy mưa rơi trắng, nước trong veo tràn mặt đường chảy xuôi. Ngược
lại, trên lề đường không tráng nhựa, đất vàng nhầy nhụa. Chị em tôi vẫn
phải lội mưa ra bến xe để lên Sài-Gòn. Hai chị em chỉ đội chung một
áo mưa. Chị Hai tôi mang guốc sơn, quần lãnh đen, áo bà ba lãnh đen,
cái xách da đen có quai đeo trên vai, một tay túm hai ống quần, một tay
bận che áo mưa cho tôi. Còn tôi, mặc quần tây dài màu trắng, săn ống
quần cao tới gối, áo se-mi trắng tay ngắn, bỏ vạt vào lưng quần,
thắc dây lưng da. Hai tay đều bận. Tay phải xách chiếc va-li nhỏ đựng
mấy bộ quần áo mới và đôi giày ba-ta mới. Tay trái ôm cái nón cối
màu trắng của học trò, mới được Chị Hai mua cho mấy hôm trước. Lại
còn phải cầm thêm đôi dép da có quay, cũng mới toanh. Chị Hai nói:
-Chị em mình đi trên
mặt lộ đi, nếu đi trên lề lấm lem hết.
Vậy là chị em tôi
bước xuống đi giữa đường. Vừa qua trước nhà của Mỹ, đã thấy Mỹ chân
trần vừa chạy ra, tay cầm cây dù đàn ông, lớn, giương lên, vừa nói:
-Chị Hai, để em che cho Anh Út, chị đội
áo mưa đi, không thôi ướt hết bây giờ.
Và, không đợi trả
lời, Mỹ chen vào giữa, che dù cho tôi. Chị Hai đội lại áo mưa, vừa
nói
vừa cười, có vẻ hài lòng:
-Cái con nhỏ nầy,
làm tài khôn không hà!
Đáp lại là một nụ
cười trong mưa ướt át của Mỹ.
Vậy là Mỹ cùng
tôi... sánh vai lội nước. Chị Hai đi một mình. Tôi sượng trân, nín khe, chịu cảnh... “đường
trường xa, muôn vó câu bay chập chùng...” Làm bộ ngó lơ, mà lòng vẫn
vơ nghĩ về Mỹ. Phía bờ sông, nước sông chảy cuồn cuộn, mưa bay trắng
xóa mờ ảo không nhìn thấy bờ sông bên kia. Tôi bỗng chợt nghĩ ra một
câu hát nháy, và để phá tan sự im lặng không biết do đâu mà có, tôi
hát lớn...“trời mưa to, nên nước mưa bay chập chờn...”
Chị Hai và Mỹ bật
cười to. Chị Hai nói bông
đùa:
-Tức cảnh sinh tình
rồi há. Hát nữa đi Út, cho em Mỹ nghe... mà nhớ, nha. Mỹ chen vào:
-Thôi chị Hai ơi, ảnh
hát một hồi chữ nghĩa của người ta lộn tùng phèo hết. Ảnh hổng
hát, em... cũng nhớ mà!
Chị em tôi quên cơn
mưa, vì nó cũng vừa dứt hột, và đã đến bến xe đò. Bến xe cũng đã
đông người. Mua vé xong, hai chị em lên xe ngồi. Mỹ đứng lẻ loi. Chị
Hai ngồi băng ghế ngoài, ngó xuống, nói với Mỹ:
-Chị cám ơn Em, thôi về đi kẻo trời mưa
lớn nữa bây giờ.
Tôi cũng nhìn xuống
gặp đôi mắt ướt sũng của Mỹ, không biết vì nước mưa hay vì nước
mắt... Rồi mưa lại đổ hột lớn nữa. Xe bắt đầu rời bến. Hai chị em
vẫy chào Mỹ. Mỹ chỉ ngó theo với dáng buồn bã. Lúc đó tôi mới
nhìn thấy cô mặc bộ bà ba đen, làm nổi làn da mặt trắng nõn. Rồi
bóng Mỹ đẹp, buồn, cũng khuất dần dưới cơn mưa trắng xóa mịt mờ...
**
Xe Thiên Tân là hảng
xe mới nhất có xe máy nổ dầu, còn nhiều hảng khác chở hành khách
cũng chạy đường Cà-Mau lên Sài-Gòn, có hảng còn có xe chạy máy nổ
bằng than đá, như hảng Đại Trung.
Xe mới, xe cũ, chạy trước, chạy sau từ
bến xe Cà-Mau đều phải dừng lại nối đuôi nhau ở Cua Trưởng Toà, cách
Cà-Mau trên một cây số. Họ chờ lính bạt-ti-dăn và xe thiết giáp nhẹ,
bánh cao-su, của quân đội trấn đóng Pháp mở đường xong mới được tiếp
tục chạy lên Quận Giá-Rai rồi lên tỉnh lỵ Bạc-Liêu. Có ngày lính mở
đường suôn sẻ vì Quốc Lộ 4, trên đoạn giữa Cà-Mau lên
Bạc-Liêu này, không bị du kích đào đường, đấp mô gày mìn, hay phục
kích bắn sẻ. May mắn là buổi hành trình đầu tiên của tôi lên
Sài-Gòn hôm đó không bị trở ngại hay nguy hiểm, vì đoàn xe đã bắt
đầu chạy, như Chị Hai nói:
-“May quá Út ơi, lính
mở đường xong rồi, yên nên họ mới cho xe đò chạy. Lúc trước, có lần
chị đi Bạc-Liêu, phải chờ đến trưa vì du kích giật mìn, phục kích ở
gần Hộ-Phòng, lính mở đường bị chết mấy người. Xong rồi phải phá
mô, lấp đường lại, xe mới qua được. Giặc giã, khổ lắm. Mỗi lần đi xa
là mỗi lần sợ...”
Chiếc xe Thiên Tân mà
chị em tôi đi, mới tinh nên máy nổ rất êm. Tuy vậy, cũng không chạy
nhanh hơn các xe khác. Vì đoạn đường tráng nhựa từ Quận Cà-Mau lên Bạc-Liêu từ mùa Thu năm 1945 trở
đi, gần như bị bỏ hoang, không ai tu bổ. Mặt đường loang lổ, chỗ còn
nhựa đường, chỗ không, sỏi đá lòi lên lởm chởm, nứt nẻ. Thêm nạn bị
du kích Việt Minh đào nhiều đoạn dài cả năm bảy thước. Lính Tây bắt
dân sống ở thôn xóm dọc đường đấp lại, đất đá lẫn lộn. Có chỗ xe
phải thận trọng lắm mới qua được. Nhưng hành khách phải xuống xe lội
bộ, để xe nhẹ bớt sức nặng.
Mỗi lần hai chị em
theo hành khách khác lội bộ như vậy chị Hai lại lầm bầm, “lạy Chúa tôi... qua được rồi!”
Chị mới gần ba mươi,
từ trước chiến tranh cũng đã học Trường Nhà Trắng Sài-Gòn, lúc ba
còn làm việc trong quân đội Pháp. Năm bảy năm trước khi Nhật đảo
chánh, ba nghỉ việc về Thới Bình, chị ở lại Sai-Gòn tiếp tục học,
thi đậu tú tài toàn phần Pháp, rồi đi dạy học mấy năm. Nhưng từ khi
Nhật đảo chính Pháp, ba má tôi dời lên thị trấn Cà-Mau ở, chị từ
Sài-Gòn cũng về đó. Vì sợ quân Đồng Minh đánh nhau với quân Nhật ở
Biển Đông. Họ có thể dội bom thành phố Sài-Gòn.
Không bao lâu Việt
Minh cướp chính quyền. Rồi tuyên bố độc lập, lập chính phủ ở
Hà-Nội. Việt Minh ở Cà-Mau lập Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Huyện.
Pháp mang quân trở lại Việt Nam, đánh gần xuống Sóc-Trăng. Ba đi Tây
Ninh, quê của má, mua gỗ, còn kẹt chưa về kịp. Má và Chị Hai đưa gia
đình tản cư trở về xã Thới Bình. Rồi hồi cư, má bệnh, Chị ở nhà
thay má trông nom các em và quán xuyến chuyện gia đình. Nên chưa chồng
mà như đã trở thành một bà mẹ non, lúc nào cũng lạy Chúa tôi, mỗi
khi có chuyện làm Chị lo sợ. Nhất là lo sợ không bảo vệ hay lo lắng
được cho các em. Sợ các em ăn không no. Sợ các em dầm mưa giải nắng, nhức
đầu, xổ mũi. Sợ đủ thứ.
Chị Hai là chị cả,
hai người anh thứ Ba và thứ Tư của tôi chết khi còn nhỏ, tôi không
biết mặt. Anh Năm đã bỏ vợ, làm việc ở Quận Giá-Rai. Anh Sáu theo
kháng chiến từ năm 1945, còn ở trong bưng biền,
không có tin tức gì. Chị Bảy, mười tám hay mười chín, vừa đậu bằng
Thành Chung ở Cần-Thơ về cả năm nay chưa làm việc gì. Ba bảo chị xin
dạy Tiểu học, nhưng cả năm qua má trở bệnh nặng hơn, nên chị Bảy vẫn
còn ở nhà, giúp chị Hai. Từ dạo hồi cư về, ba mở trại cưa, thường
đi Tây Ninh, quê của mẹ tôi để chọn đặt mua gỗ súc cho trại cưa. Thời
gian từ cuối năm 1946, dân chúng bắt đầu hồi cư, nhà cửa trong thị
trấn bị du kích huyện đốt gần hết để tiêu thổ kháng chiến, nên khi
trở về, nhiều gia đình phải cất lại nhà cửa. Cây, ván, cột gỗ, lá
dừa nước, đinh ốc, xi-măn, gạch, ngói còn khan hiếm lắm.
Tôi mãi nhớ chuyện
cũ nên xe đã lên đến thị xã Bạc-Liêu mới hay là trời đã trưa. Mưa hình
như cũng chạy dài theo xe từ Cà-Mau lên Bạc-Liêu,
nên hành khách người nào người nấy lấm lem vì mấy lần lội bộ ở
mấy chỗ đường bị đấp mô, lại đói bụng. Tài xế hình như biết rất
rành điều này nên cho biết sẽ ngừng lại bến xe tỉnh lỵ trong một
giờ để bà-con rửa mặt, rửa chân tay, cơm nước, cho khoẻ rồi sẽ đi
tiếp.
Khi vào một tiệm ăn,
rửa mặt, tay chân xong, ngồi vào bàn ăn ở một góc, Chị Hai coi tấm
thực đơn để gọi thức ăn. Tôi nhìn chị. Và lần đầu tiên tôi mới nhận
thấy chị vừa đẹp lại vừa có vẻ học thức với đôi mắt trong sáng
lướt nhanh trên thực đơn. Tóc bới hơi cao, búi tóc đẹp vắt một cây
trâm đồi-mồi, như kiểu của cô Thiều, sinh viên ở Hà-Nội về, vợ của
Bác sĩ Nguyễn Tú Vinh. Tôi buột miệng hỏi:
-Chị Hai à! Chị đẹp
như Cô Thiều. Sao đẹp vậy mà chị... không có chồng?
-Chúa ơi! Em hỏi
chuyện gì lạ vậy cà! Không
có là không có, làm sao ai biết mà hỏi. Có ai thương đâu mà có
chồng... Chị Thiều nhờ đi ra Hà-Nội học cô-mụ chung trường Y khoa với
Bác sĩ Vinh, nên họ... thương nhau trước rồi khi ra trường, về quê, mới
làm đám cưới. Còn cứ ở nhà tối ngày như chị, có biết ai đâu? Ba má lại khó nữa. Bây giờ... già rồi.
-Thiệt hả chị, đẹp
vậy mà không có ai thương sao! Mà hồi chị còn trẻ, dạy
ở Sài-Gòn, cũng vậy sao?
-Thì
hồi đó cũng có quen biết ai đâu. Khi ra trường đi dạy thì ba má đã
về Cà-Mau. Ở trọ nhà của Thái Hân, bạn học cùng lớp, dạy chung
cùng trường. Cũng đâu có đi đâu mà quen biết ai. Mỗi sáng anh Hai của
Thái Hân, làm kỹ sư ở Sở Trường Tiền, chở hai chị em đến trường
bằng xe Traction nhà của ảnh. Bỏ Hân và chị ở đó. Trưa dạy xong, ở
lại trường, ăn trưa, nghỉ trưa rồi dạy nữa. Chiều, ảnh đi làm về ghé
rước hai chị về nhà. Nhiều lắm thứ bảy, chúa nhật hai chị em đi
ciné, mua sách, dạo phố mua sắm chút ít gì đó. Rồi về nhà. Hết chuyện.
Nếu có gặp ai ở ngoài phố để ý, thì họ cũng nhìn Thái Hân, vì nó
đẹp, đâu có nhìn chị. Thôi bỏ chuyện đó đi, ăn cho xong còn đi nữa, chị
gọi bánh tầm xíu mại Bạc-Liêu cho chị em mình. Ngon lắm. Ăn đi, cho
kịp với người ta.
-Thái Hân là ai vậy
chị? Phải cô giáo Ba không? Em lên nhà chỉ ở, đi học hả chị?
-Phải rồi. Cô gíáo
Ba đó. Em lên ở đó đi học. Lên gặp thì gọi bằng chị Ba nghen.
-Dạ... Ờ, mà còn ba
má và anh hai cô giáo còn khoẻ không chị?
-Tội nghiệp, hai bác
và anh hai mất trước tản cư. Anh Hai cũng lái chiếc xe Traction đó,
chở hai bác đi Đà-Lạt có chuyện gì không biết. Bận về, trời mưa,
đường trơn trợt, qua cua thắng không ăn, xe tông xuống đèo, chết hết...
Lạy Chúa tôi. Chị khóc hết nước mắt. Thôi, ăn đi, đừng hỏi nữa.
Tôi bỗng thấy chị
rơm rớm nước mắt. Tôi hiểu được một phần nào về Chị Hai tôi.
Chị em tôi lại cùng
hành khách lên xe. Xe rời bến, lại ra Quốc Lộ 4. Đoạn đường từ Bạc-Liêu lên Sóc-Trăng, lên thị xã Cần Thơ, còn khá tốt, xe chạy
nhanh hơn. Đến bến bắc Cần-Thơ, mọi người phải xuống xe đi bộ qua phà.
Xe đậu xếp hàng dài, chờ hàng giờ, mới đến phiên xuống được phà để
chở qua sông, thường gọi là Sông Bassac hay là Sông Hậu. Hành khách mua
trái cây, xoài, ổi, vú sữa, mận, đủ thứ, trước các dãy nhà lá lụp
xụp ở hai bên lề đường trước khi xuống bến bắc. Mỗi căn của dãy nhà
là một quán ăn, cũng bán đủ thứ thức ăn bình dân miền Tây. Ai thấy
đói ghé vào ăn uống. Ai muốn mua trái cây, mặc sức mà chọn. Chị em
tôi xuống bắc qua sông trước, chiếc xe Thiên Tân còn xếp hàng đợi ở
bên nầy sông. Mưa vẫn rơi nặng hột. Đợi cho đến bao giờ mới dứt cơn
mưa. Thôi qua phà trước cho xong.
Trên phà, đầy xe,
đầy người. Tôi nhìn dòng sông rộng lớn, nước đục ngầu chảy cuồn cuộn.
Bèo, lục bình trôi nhấp nhô dưới cơn mưa lớn phủ mờ trên sóng. Bỗng
tôi nhớ lại buổi sáng sớm khi ra bến xe, nhìn mưa rơi trắng xóa trên
sông Cà-Mau. Tôi nhớ Mỹ và nhớ lại câu nói của cô... “bí mật, hỏi Chị
Hai đi”! Chị Hai tôi đang đứng sát bên, tay cầm chiếc áo
mưa che cho cả hai chị em. Tôi hỏi:
-Chị Hai, Mỹ và chị
có gì bí mật về em phải không?
-Bí mật gì cà, ai
nói với em vậy?
-Mỹ chớ ai. Hôm qua
cổ nói, em đi học giỏi về cổ thưởng. Em hỏi thưởng gì, Mỹ nói...
bí mật, hỏi chị Hai đi! Bí mật gì hả chị Hai?
Chị Hai tôi bật cười:
-Bí mật gì đâu...
Nó thương em rồi đó. Ba, má có bàn với chị là con nhỏ đó đẹp nết,
đẹp người, giỏi giang và để lòng thương em, nên khi em học xong hết tú
tài phần hai, gia đình sẽ đi hỏi cưới nó về cho em trước. Rồi em
muốn bay nhảy làm gì đó thì làm. Nó phải làm dâu nhà mình. Có gì
đâu mà bí mật. Cả thị xã đều biết hết mà.
Chúa ơi, nghe chị
nói, tôi sửng sốt. Tôi có biết ất, giáp gì đâu.
-Thiệt hông chị?
-Sao hổng thiệt! Chịu Bội Mỹ không, nói đi?
-Sao em không biết? Tôi nói giọng chững chạc. Làm chị ngạc nhiên.
-Cả nhà ai cũng
tưởng tụi em... thân thiện với nhau mà. Trao đổi sách vỡ, đi học cặp
kè với nhau. Ăn nói thì... nị, ngộ... còn hơn thân thiện nữa. Thân
mật lắm mà. Sao vậy? Bộ em không thương Mỹ à?
-Dạ, thì cũng có...
chút chút.
-Vậy, còn hỏi gì
nữa. Đầu tiên thì chút chút, rồi sau đó thì... nhiều nhiều. Phải không
cậu Út?
-Không phải mà, không
phải mà... Chị Hai!
-Phải, không phải gì. Còn chối nữa hả? Thôi đi lên, phà cặp bến rồi kia.
**
Trời đã xế về
chiều khi xe đến Bắc Mỹ-Thuận, trên sông Tiền. Bến bắc Mỹ-Thuận có cùng
một lối kiến trúc nghèo nàn như bến bắc Cần-Thơ trên sông Hậu. Xe
lại chờ ở bến bắc. Trời vẫn chưa hết mưa. Chị em Thuỷ, Út Dân, lại
qua phà trước.
Đứng trên phà với đứa
em út, một cậu học trò sắp bước chân vào Trung học, Thủy ngán ngẫm
nghĩ đến bước tương lai lâu dài của em. Là chị cả trong gia đình, với
người cha thường bôn ba chật vật để lo cho cuộc sống chung, và người
mẹ bệnh hoạn, Thuỷ đã phải dìu dắt các em vừa trải qua một cuộc
chiến tranh mà chính Thuỷ không phân định được sẽ đưa đất nước đi đến
đâu.
Thuỷ đã từng khóc
khi thấy hai cơ ngơi đẹp đẽ của gia đình bị thiêu đốt trong ngọn lửa
chiến tranh. Một bị tiêu huỷ bởi lệnh tiêu thổ kháng chiến khi du
kích Việt Minh rút khỏi thị xã Cà-Mau để chống Pháp. Cơ ngơi khác ở
làng quê Thới Bình, công trình gầy dựng lâu dài của Ông Một, ba Thuỷ,
bị du kích chiếm làm trụ sở, sau đó lính người Miên, gọi là lính
Thổ, của Pháp hành quân vào, đốt sạch ngày Tết Nguyên đán, đầu năm 1946.
Cư dân Xã Thới Bình
và thị trấn Cà-Mau vẫn gọi ba Thuỷ là Ông Một. Vì lúc còn trẻ, ông
tham gia Đệ I Thế Chiến ở Âu-Châu, lập được chiến công gì đó trong quân
đội Pháp nên được phong cấp Thiếu úy. Ông hồi hương, cưới vợ, ở
Sài-Gòn làm việc nhiều năm. Sau đó hai vợ chồng về xã Thới Bình
lập nghiệp. Trở thành điền chủ. Trước chiến tranh ông bà lên thị xã
Cà-Mau ở. Xây nhà mới. Ba có vựa cây, xưởng cưa. Má ở nhà dạy làm
bánh khéo và nấu ăn cho các cô gái trong thị xã. Nay... đã trắng tay.
Bây giờ gia đình
Thuỷ đang bắt đầu một hành trình mới, một công cuộc xây dựng mới. Thật
là gian nan, khốn khổ vô cùng. Tội nghiệp nhất vẫn là ba Thuỷ. Một
đời ông đả trải qua không biết bao nhiêu cuộc chiến. Chết sống trong
gang tất, mà rồi ông vẫn còn mãi bền tâm, bền chí, vượt bao nhiêu
gian khổ, lo tìm lối thoát cảnh khó khăn cho gia đình. Không biết có
bao giờ ông tìm được hạnh phúc, cỗi nguồn của cuộc sống và chơn lý
của cuộc đời hay không? Hay hạnh phúc và chơn lý phải chăng là tình
yêu mãnh liệt của ông đối với gia đình? Thuỷ nghĩ như vậy. Còn tổ
quốc nữa... Ba đôi khi cũng kể cho Thuỷ nghe về tâm tình của ba. Ông
bảo ông luôn luôn đi tìm cỗi nguồn của cuộc sống.
Thuỷ cũng tự hỏi
mình, phải chăng hành trình của con người đi tìm cỗi nguồn của cuộc
sống là hành trình đi vào chiến tranh và tình yêu?
Cậu bé nông dân của
thị trấn nhỏ nhoi mới lớn lên sau cơn binh lửa tàn phá vừa qua, biết
đâu rồi sẽ phải dấn vào những cơn binh lửa rộng lớn hơn sẽ diễn ra,
như ba vậy? Út Dân lên Sai-Gòn học hay Út đang bước vào cuộc phiêu lưu
vô định nào đó trong tương lai?
Cơn mưa lớn còn mờ
mịt trên dòng sông Cữu Long, làm mặt nước sôi trào cuốn băng đi hàng trăm
mảng bèo, lục bình và những xác cây khô, cành đổ, ra vùng cửa biển
mênh mông. Con người trong cơn binh lửa phải chăng cũng như những thứ
vật chất hữu hình mà vô nghĩa kia, bị định mệnh kéo băng đi, vô
định. Thuỷ nghĩ rằng chiến tranh sẽ còn đến, chẳng khác nào những
cơn sấm sét nổ lớn với những tia lửa chớp sáng mang theo tiếng rền
vang động, chợt tắt ngấm rồi chợt nổi lên nữa. Chiến tranh cũng vậy,
chợt đi rồi chợt đến. Đâu biết được!
Nếu người ta muốn tìm
lại sự thật của chiến tranh chẳng khác nào như đi tìm những làn chớp
ngoằn ngoèo của sấm sét đã lặn mất trong những áng mây đen kịt kia. Người
ta phải vạch trời hay vạch đất để tìm ra cho được ngọn tầm-sét có
bóng mà vô hình đây? Không hề tìm được sự thật đâu... Thuỷ tự nhủ.
Hoạ hoằn lắm mới có những người đã nhìn được sấm chớp, những
người đã đi qua cuộc chiến, mới nói lên được một đôi nét kịch cỡm
của những tia lửa chớp chợt hiện rồi chợt biến, như những chiếc tàu
bay của Pháp trên sông Trẹm năm 1945. Hay như bóng dáng ghê rợn của
những tên du kích, theo bóng đêm bắt dân đào đường đấp mô, gày mìn,
trên quan lộ. Hoặc bắt cóc buộc đá thầy thông, chú lính và bất cứ
ai bị nghi là Việt gian, cho đi mò tôm trên sông Cà-Mau. Chúng quăng cả
người còn sống, buộc chặt đá lớn, xuống sông. Rồi bóng đêm phủ kín mọi
dấu vết.
Những chuyện như vậy
đâu dễ gì nói ra cho rõ, vì nó chỉ diễn ra trong bóng tối. Nguyên
nhân nào tạo nên cuộc chiến cũng bí ẩn như vậy?
Đôi khi người ta nói
lên đôi mảnh của sự thật. Phần lớn là những câu chuyện ngụy tạo. Đôi
khi chỉ là những chuyện vẽ vời thêm bớt, hay hoang đường. Và rồi người
ta vẫn phải tiếp nhận thứ định mệnh vô hình, riêng hay chung, trong
những cuộc chiến tranh mờ ám đó.
Vậy mà, ai
đó cũng cứ hỏi, tại làm sao có chiến tranh? Người ta cứ lặp
đi lặp lại mãi câu hỏi nầy! Những kẻ tạo ra nó dấu
kín nguyên nhân hay nguỵ tạo những nguyên nhân nào đó để giấu kín sự
thật, chẳng khác nào những cô gái phải lòng trai, như chính Thuỷ,
mang tình yêu giấu kín trong lòng, trong tim... Và rồi người ta vẫn
muốn sống và sống với tình yêu trong chiến tranh kéo dài.
Còn tình yêu? Làm
sao định nghĩa cho rõ ràng được! Thương... chút chút hay
thương... nhiều nhiều. Nói cách khác, yêu sơ sơ hay yêu đậm đà. Yêu
thương thì cũng như nhau. Hành trình này sẽ đưa Dân vào cuộc tình nào
đây? Thuỷ tự hỏi. Chị Hai của Út, cũng như Út thôi. Đầu tiên chị yêu
Anh... chút chút, nhưng rồi dần dần chị yêu Anh đậm đà. Nhưng cuộc
đời không chìu lòng người. Đời đã phũ phàng với chị. Chị đã giấu
nhẹm tình yêu ấy, Út ơi! Chị cũng giấu luôn cả ba má và các em.
Chị ước mong rằng
có một ngày Út sẽ yêu Bội Mỹ nhiều thêm và có hạnh phúc. Không đau
khổ như chị. Đau lòng mà câm nín ôm chịu là sự tàn phá tinh thần
trầm trọng. Người ta sầu não, điên loạn vì nỗi đau gậm nhấm trong
lòng. Nhưng không đâu Út, trách nhiệm đối với gia đình của chị rất
nặng nề. Chị dằn cơn đau cho đến cuối đời mà trả công ơn sanh thành
của ba má, và làm tròn bổn phận với các em. Trời
còn mưa to mà chị em vẫn phải đi, phải không em? Đó là hành trình
của con người dù mưa hay nắng, cơ cực hay sung sướng. Thuỷ nói thầm.
Hai chị em cùng che
áo mưa lên bến bắc. Mưa bay phơi phới. Vô tình Thuỷ bật miệng ca: “đường
trường xa, muôn vó câu bay chập chùng... trời mưa to, nên nước mưa bay
chập chờn...”
Út bật cười:
-Đó thấy không? Chị
bị lây bịnh của em rồi đó! Ủa, mà sao chị nhớ giỏi
quá vậy?
-Dễ ợt. Cô tú, giáo
sư, mà lị! Thôi đi lẹ, chị còn mua ít trái cây cho Thái
Hân
nữa. Để lên bến bắc rồi mua.
Hành trình nào rồi cũng
kết thúc. Mưa cũng không theo chị em Thuỷ nữa. Thuỷ đã mua xong mấy
trái ổi xá-lị và hai trái xoài tượng to, xanh óng, thiệt tươi. Xe Thiên
Tân đã chạy qua Cai Lậy rồi lên thẳng Sai-Gòn không rẻ vào tỉnh lỵ
Mỹ-Tho. Qua Tân-An, qua Cầu Bến-Lức, qua Bình Chánh rồi vào Chợ-Lớn. Trời
đã đổ về đêm. Đèn xanh đỏ chớp nhoáng. Út Dân hào hứng ngó ra
ngoài, nhìn ngang nhìn dọc, qua khung cửa nhỏ của xe đò, nói:
-Sài-Gòn đẹp quá hả Chị Hai. Đèn nhiều
ghê, người ta đi cũng đông nữa!
-Mới tới Chợ-Lớn thôi. Ban
đêm Chợ-Lớn đông vui hơn. Nhưng Sài-Gòn đẹp hơn, đèn cũng nhiều hơn.
Người ta nói, “đèn Sài-Gòn ngọn xanh ngọn đỏ, đèn Mỹ-Tho ngọn tỏ
ngọn lu, anh về học lấy chữ nhu, chín trăng em cũng đợi, mười thu em
cũng chờ.” Còn em, em lên Sài-Gòn lần nầy là đi học. Học lấy chữ chữ
nhu mà thêm chữ thức nữa để không uổng công Bội Mỹ đợi chờ nghen.
-Em biết rồi... Nhưng
thức là cái gì chị Hai?
-Vậy mà cũng nói
biết rồi. Thức là trí thức, tri thức, kiến thức và ý thức. Có
bằng cấp cao, có hiểu biết rộng và thấu lẽ hành xữ phải trái, có
lương tâm, không coi thường đạo lý. Ý thức là quí nhất. Người trí
thức mà thiếu tri thức, nhất là thiếu ý thức là nguy hại vô cùng.
-Thì, làm gì cũng
phải suy nghĩ chớ chị Hai.
-Ờ, vậy mà không dễ
đâu em... Thôi tới bến xe Sai-Gòn rồi. Mình xuống. Cái nón đâu? Em nhớ
lấy va-li. Còn chị xách giỏ trái cây này. Cái giỏ quần áo của chị
đây, nhưng còn cái áo mưa đâu rồi?
-Đây nè, em xếp lại
rồi nè.
-Ờ, thôi xuống xe đi.
Lấy hành lý xong,
Thuỷ và Út đi bộ đến nhà Cô Ba ở đường Frère Louis, cách bến xe ở
Ngã Bảy Sài-Gòn không xa. Đi chừng vài trăm thước, thì đến nhà Cô
Giáo, gần nhà Thờ Huyện Sĩ. Ngôi nhà một tầng lầu, với sân thượng,
lẻ loi một mình, nằm trong một khu vườn nhỏ. Phía trước là một sân tráng
xi-măn khá rộng, có mấy chậu kiểng nắn hình rồng phượng, bên trong
hàng rào sắt. Hàng rào cao chừng quá đầu, cặp theo lề đường. Phía
trên cửa vào ở hàng rào có nút chuông bấm để gọi vào trong nhà.
Chị Hai bấm vào nút chuông. Cửa sắt trong nhà hé mở, ánh đèn từ
trong hắt ra sân. Một người đàn bà chừng năm mươi, vừa bước ra, vừa
hỏi:
-Phải Cô Hai Cà-Mau
không?
-Dạ phải, phải Dì
Năm, con Đây, có thằng Út nữa.
Đọc tiếp phần còn lại nơi đây
Văn Nguyên Dưỡng viết truyện dài CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU.
http://www.mediafire.com/view/5cnkgjjzxofgj5x/CHI%E1%BA%BEN_TRANH_V%C3%80_T%C3%8CNH_Y%C3%8AU._TRUY%E1%BB%86N_D%C3%80I._CH%C6%AF%C6%A0NG__I.doc
--