Người có công với tổ quốc hay không, đó là chuyện danh nhân lịch sử.
Khi một người đã có tầm vốc quốc tế, thì tiểu sử của người đó không do một chính phủ nào có thể làm thay đổi lịch sử qua những sách vỡ thông tin không đứng đắn.
Ngày nay với những bản tin hay sách vỡ đã ghi lại trên hệ thống internet, những tài liệu quý hiếm ngày càng được trưng bày ra.
Cho dù một quyển sách có bị thu hồi,hay cấm phổ biến hay huỷ bỏ, thì ai nấy có thể không cần đọc cũng hiểu nội dung của nó ra sao.
Quyền tự do thông tin và hiểu biết có mãnh lực vô biên, cho dù thế hệ này sang thế hệ khác đã mất đi những nhân tài, sẽ còn muôn vàn quyển sách mới, những bài viết mới thay lời người thiên cổ làm nó sống mãi trong lòng người dân yêu nước.
Kính mời quý anh chị đọc bản tin sưu tầm.
"VĂN HÓA ONLINE-CALIFORNIA" THỨ TƯ 11 JAN 2017
Sử gia Nguyễn Đình Đầu buồn vì sách Petrus Ký bị thu hồi / Tiểu sử Petrus Ký
Ảnh: FB Đoàn Lê Giang. Quyển sách “Petrus Ký – nỗi oan thế kỷ”
Gs Nguyễn Đình Đầu buồn vì cuốn "Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ" do ông chủ biên bị cấm.
Cuốn "Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ" do nhà nghiên cứu lão thành Nguyễn
Đình Đầu chủ biên, một công trình tập hợp các bài viết của nhiều tác giả
xưa và nay, nói về học giả Trương Vĩnh Ký (1837-1898), hiện đang bị thu
hồi khỏi các hiệu sách và bị cấm phát hành ở Việt Nam
Sách vốn được Cục Xuất bản cấp giấy phép với đầy đủ các thủ tục giấy
tờ và đã qua thời hạn lưu chiểu theo luật định đủ một tháng rưỡi, tức
được phép lưu hành, được dự trù ra mắt tại Đường Sách Sài Gòn vào sáng
Chủ nhật 8/1/2017.
Thế nhưng buổi ra mắt sách này đã bị hủy theo "một chỉ thị miệng" và
báo chí được tin nhận cảnh báo không đưa tin về cuốn sách này.
BBC Tiếng Việt đã hỏi nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, chủ biên cuốn sách, về phản ứng của ông trước việc này.
Trước hết ông cho biết ông không biết lý do của việc thu hồi và
ngưng phát hành này và cho tới nay cũng không hề có một văn bản hay giải
thích chính thức nào.
Ông nói: "Tôi nghĩ có lẽ do một hiểu lầm nào đó, cho là cuốn sách cần phải có một sự điều chỉnh nào đó mà tôi cũng không biết."
Được biết cuốn sách đã được giới thiệu rộng rãi tại thành phố Hồ Chí
Minh và Nhà xuất bản cũng cho biết đã làm đầy đủ các thủ tục nhưng ông
Nguyễn Đình Đầu nói thêm "có lẽ chính Nhà xuất bản cũng không rõ nội
dung cuốn sách có gì không hợp ý cho nên mới có chỉ thị ra miệng là tạm
không cho phát hành" như vậy.
Được biết Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh cho tới phút cuối
còn nói với nhà nguyên cứu rằng sẵn sàng giúp đỡ ông trong ngày ra mắt
sách nếu cần giúp đỡ gì.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cho biết ông rất buồn trước việc này
vì ông là người bắt đầu nghiên cứu về ông Petrus Ký, tức Trương Vĩnh Ký,
từ năm 1960 khi là Hội viên Hội nghiên cứu Đông Dương (nay là Bảo tàng
lịch sử Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh).
Phần lớn các nhà nghiên cứu Việt Nam hay nước ngoài thường dựa vào
cuốn Tiểu sử Trương Vĩnh Ký, xuất bản vào các năm 1925-27, của Jean
Bouchot, Giám đốc lưu trữ của Nam Kỳ, một người rất có cảm tình với
Trương Vĩnh Ký nên đã viết khá đầy đủ "về cuộc đời con người có rất
nhiều cống hiến cho Việt Nam, chứng tỏ ông Trương Vĩnh Ký là một người
yêu nước Nam Kỳ, một nhà bác học", ông Đầu nói.
Phát hiện thêm về Trương Vĩnh Ký
Nhưng sau này ông Nguyễn Đình Đầu cho biết ông đã phát hiện được một
tư liệu nói về sự hợp tác của ông Trương Vĩnh Ký với người Pháp không có
suôn sẻ từ đầu đến cuối như là người ta tưởng, như ông Bouchot đã trình
bày.
"Trong những lời đối đáp khi chính quyền Pháp yêu cầu Trương Vĩnh Ký
làm thông ngôn, có những văn thơ chứng tỏ là Trương Vĩnh Ký rất bất mãn
trong chuyện người Pháp cư xử với người Việt Nam, cho nên ông không muốn
hợp tác. Tôi viết ra sau khi xin được những tài liệu mà Trương Vĩnh Ký
còn chưa xuất bản mà mới chỉ là nháp".
Ông cũng nói đang chuẩn bị thêm để chứng minh đã viết dựa trên những
tư liệu ông khám phá được trong lần sang Pháp năm 1991 ba tháng khi
nghiên cứu tại một bảo tàng ở Pháp.
"Nói tóm lại đây là một công trình mà đối với tôi, đến tuổi đã cao
như thế này, không có thể kiếm tìm thêm hơn được nữa, nhưng với những
hiểu biết của tôi, với những tài liệu mà tôi có cho đến bây giờ thì tôi
nghĩ là tôi đã có phần đóng góp không những về cá nhân một nhân vật như
ông Trương Vĩnh Ký, nó thuộc về lịch sử, mà cả giai đoạn lịch sử biến
chuyển khi ông Trương Vĩnh Ký còn sống, làm việc với xã hội và cho đến
khi qua đời", ông Nguyễn Đình Đầu chia sẻ.
Hy vọng sách được phát hành
Là một người tự cho rằng đã có đóng góp trong vấn đề chủ quyền của
Việt Nam tại Trường Sa, Hoàng Sa trong một thời gian dài và còn tiếp tục
trong thời gian tới ông hy vọng cuốn sách sẽ được chính quyền nghiên
cứu kỹ, làm sáng tỏ và được phát hành trở lại.
Ông Đầu cũng cho biết có lẽ đang có những điều đình giữa công ty Nhã
Nam chịu trách nhiệm xuất bản cuốn sách này "với những người tạm gọi là
có ý kiến ngưng phát hành cuốn sách" liên quan tới khoảng hai chục trang
của cuốn sách nhưng nhà nghiên cứu nói rằng đó chính là những điều mới
mẻ có giá trị về phương diện sử học của cuốn sách.
"Có thể người đó đọc không kỹ. Đó chính là điều cần thiết nhất để
đánh giá lại Trương Vĩnh Ký thì lại thắc mắc. Tôi cho là đọc không có
kỹ. Cho nên tuy rất là buồn nhưng tôi yên tâm là sẽ được giải quyết,"
ông Nguyễn Đình Đầu nói.
Trong lời giới thiệu cuốn sách, giáo sư Phan Huy Lê viết: "Học giả
Nguyễn Đình Đầu là người đã dày công nghiên cứu về Petrus Ký, đã thu
thập được nhiều tư liệu về Trương Vĩnh Ký trong Thư viện Hội Nghiên cứu
Đông Dương (Société des Études indochinoises), Trung tâm lưu trữ Hội
Thừa sai Paris (Société des Missions étrangères de Paris) và đã dịch,
chú thích, xuất bản một số tác phẩm của Trương Vĩnh Ký.
"Trên cơ sở chuẩn bị nhiều năm, học giả Nguyễn Đình Đầu đã hoàn thành một công trình như một hồ sơ Trương Vĩnh Ký mang tên
Petrus Ký - Nỗi oan thế kỷ.
"Cuốn sách của học giả Nguyễn Đình Đầu không chỉ là một công trình
khảo cứu về Trương Vĩnh Ký mà còn là một công trình tổng hợp bao gồm các
trước tác tuyển chọn của Trương Vĩnh Ký và hệ thống theo thời gian các
sách, báo nghiên cứu, phê bình Trương Vĩnh Ký kể cả khen và chê.
"Trong sách, tác giả còn sưu tập và công bố một số tư liệu mới về
Trương Vĩnh Ký, đóng góp thêm cơ sở tư liệu về nhân vật lịch sử này."/
(theo BBC 09/1/17)
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
XEM THÊM:
Trương Vĩnh Ký
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chân dung Trương Vĩnh Ký.
Pétrus Trương Vĩnh Ký (
1837 –
1898), tên hồi nhỏ là
Trương Chánh Ký, sau này đổi tên đệm thành
Trương Vĩnh Ký, hiệu
Sĩ Tải; là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học, và khảo cứu văn hóa tiêu biểu của
Việt Nam.
Ông có tri thức uyên bác, am tường và có cống hiến lớn trên nhiều
lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên được kết nạp làm thành viên thứ 18
của hội "Savants du Monde", một hội gồm nhiều nhà khoa học, văn học
Pháp
[1].
Ngoài ra, vì biết và sử dụng thông thạo 27 ngoại ngữ, nên ông trở thành
một trong số ít những người biết nhiều thứ tiếng ở Việt Nam, và đứng
vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới
[2].
Ông để lại hơn 100 tác phẩm về
văn học,
lịch sử,
địa lý,
từ điển và dịch thuật,... Riêng đối với nền báo chí Quốc ngữ Việt Nam,
ông được coi là "ông tổ nghề báo", bởi ông chính là người sáng lập, là
Tổng biên tập tờ báo quốc ngữ đầu tiên mang tên là
Gia Định báo [3]).
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh ngày
6 tháng 12 năm
1837 (tức năm
Đinh Dậu,
Minh Mạng thứ 17) tại ấp
Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh
Vĩnh Long (nay thuộc huyện
Chợ Lách, tỉnh
Bến Tre). Vĩnh Ký là con thứ ba (sau một anh cả và một người chị) của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu.
Đi học
Nhà bia kỷ niệm nơi sinh Trương Vĩnh Ký. Phía sau là nhà thờ chính của họ đạo Cái Mơn.
Lúc 5 tuổi, Vĩnh Ký cùng anh trai là Trương Chánh Sử được đi học
chữ Hán với một thầy đồ tên Học ở trong xóm dạy.
Năm ông 8 tuổi
[4], cha ông được triều đình cử đi phò tá đoàn sứ thần sang
Cao Miên (
Campuchia ngày nay), rồi mất vì bệnh ở bên ấy.
Thấy ông ngoan và cần mẫn, Cố Tám (một tu sĩ
Công giáo từng được ông Thi che giấu lúc
nhà Nguyễn cấm đạo gắt gao)
[5] đã khuyên mẹ ông cho ông đi học chữ
Quốc ngữ và cải theo đạo Công giáo. Sau đó, ông có tên là
Jean-Baptiste Pétrus Trương Chánh Ký, sau này đổi tên đệm là
Pétrus Trương Vĩnh Ký, viết và gọi tắt là
Pétrus Ký.
Đến khi
Linh mục Long từ
Pháp
sang, Cố Tám (ít lâu sau ông mất) cho Pétrus Ký theo hầu nhà truyền
giáo này. Thấy ông thông minh và ham học, Linh mục Long đã tận tình dạy
dỗ chữ
Latinh, đồng thời dành riêng cho ông một chỗ ở trong nhà Giảng vừa mới thành lập ở
Cái Nhum (
1846).
Năm 11 tuổi (
1848),
theo đề nghị của Linh mục Long, vị Giám mục chủ quản xứ đạo lúc bấy giờ
cho Pétrus Ký theo học với Cố đạo Hòa (tức Linh mục người Pháp
Belleveaux), đang giữ chức Cai tại trường đạo Pinha-lu ở
Phnom Penh (
Cao Miên). Ở đây, có các học sinh là người Cao Miên (
Campuchia), Ai Lao (
Lào), Miến Điện (
Myanma),
Trung Quốc;... ông lân la làm quen và rồi học luôn các thứ tiếng ấy.
Năm
1851, Pétrus Ký lại được gửi vào trường đạo Dulalma ở
Penang (đây là một hòn đảo nhỏ trên vùng biển Hạ Châu, tức Nam Dương, nay thuộc
Malaysia). Ban đầu, đoàn du học (có Linh mục Long đi theo) đi theo đường bộ xuất phát từ
Nam Vang, nhưng rồi đoàn bị lạc giữa rừng, lại gặp bão ở
Biển Hồ, nên phải trở về
Sài Gòn để xuống tàu thủy qua Penang... Trong khoảng thời gian theo học tại đây, ông còn học thêm các thứ tiếng khác, như:
Ấn Độ,
Anh,
Tây Ban Nha,
Mã Lai,
Nhật Bản,
Hy Lạp,
Thái Lan,
Pháp,...
[6]
Năm 21 tuổi (
1858), Trương Vĩnh Ký học xong và về nước đúng vào lúc mẹ ông qua đời.
Lúc Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn, cũng là lúc
thực dân Pháp đem quân sang xâm chiếm Việt Nam (Đà Nẵng bị tấn công ngày
1 tháng 9 năm
1858). Vì thế, việc cấm đạo Công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn.
Làm việc trong chính quyền thuộc địa
Bia kỷ niệm nơi sinh Trương Vĩnh Ký.
Lược kê ra một số sự kiện đáng chú ý:
Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành
Gia Định, trung tá hải quân
Jean Bernard Jaureguiberry
và 800 lính ở lại giữ thành Gia Định. Pétrus Ký viết thư cho Jean,
trong đó kêu gọi quân Pháp nhanh chóng đánh đuổi quân nhà Nguyễn để hỗ
trợ các tín hữu Ki-tô giáo tại Việt Nam.
Không du học nữa, và cũng không thể ở quê nhà vì chuyện đã viết thư cầu viện Pháp, Pétrus Ký chạy lên
Sài Gòn vào tá túc nhà vị
Giám mục người Pháp Dominique Lefèbre, và được ông này giới thiệu làm thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày
20 tháng 12 năm
1860.
Năm
1861
Pétrus Ký thành hôn với bà Vương Thị Thọ (con gái ông Vương Tấn Ngươn,
hương chủ làng Nhơn Giang [Chợ Quán] do Linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang
mối mai) và dời về cư ngụ ở
Chợ Quán,
Sài Gòn.
Ngày
8 tháng 5 năm
1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn (
Collège des Interprètes),
ông được nhận vào dạy. Cũng trong năm này, ông theo sứ thần Simo đáp
thuyền Forbin ra Huế bàn việc nghị hòa. Trong hiệp ước nghị hòa, nhà
Nguyễn phải chịu mất 3 tỉnh Miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, điều này khiến
nhiều người Việt căm phẫn và chỉ trích Pétrus Ký vì ông đã giúp Pháp
thương thảo hiệp ước này.
Năm
1863, triều đình
Huế cử một phái đoàn do
Phan Thanh Giản đứng đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông
Nam Kỳ, và ông Giản đã xin Pétrus Ký đi theo làm thông ngôn.
Sang
Pháp, Pétrus Ký cùng phái đoàn
nhà Nguyễn được triều kiến Hoàng đế
Napoléon III, gặp nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn được sang thăm
Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha,
Ý và được yết kiến
Giáo hoàng tại
Rôma. Ngày
18 tháng 3 năm
1864, phái đoàn về đến
Sài Gòn[7].
Năm
1865, Pétrus Ký xin lập một tờ báo quốc ngữ mang tên là
Gia Định báo. Lời yêu cầu của ông được chấp thuận và Nghị định cho phép xuất bản được ký ngày
1 tháng 4 năm
1865, nhưng không phải ký cho ông mà lại ký cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux, một viên thông ngôn làm việc tại Soái phủ
Nam Kỳ. Mãi đến ngày
16 tháng 5 năm
1869 mới có Nghị định của Chuẩn Đô đốc Ohier ký giao Gia Định báo cho Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc,
Huỳnh Tịnh Của làm Chủ bút; và khi ấy tờ báo mới thật sự được khởi sắc.
Từ năm
1866 đến
1868, ông được bổ làm Giáo sư dạy tiếng Pháp ở trường Thông ngôn Sài Gòn.
Năm
1869, Sứ thần
Tây Ban Nha sang Việt Nam nhằm ký thương ước với triều đình
Huế.
Tới Sài Gòn, vị sứ thần này đã xin Chính quyền Pháp ở Nam Kỳ cho phép
Pétrus Ký đi theo giúp đỡ. Nhiệm vụ hoàn thành, nhân thời gian rãnh rỗi,
ông sang thăm
Hồng Kông,
Ma Cao,
Quảng Đông,
Quảng Tây,...
Năm
1872,
Pétrus Ký được Pháp thăng chức Tri huyện hạng nhất, đồng thời được bổ
làm Đốc học (Giám đốc) trường Sư phạm dạy người Pháp học tiếng
phương Đông, kiêm chức thư ký Hội đồng châu thành
Chợ Lớn (
1 tháng 6 năm
1872).
Ngày
1 tháng 1 năm
1874, Pétrus Ký lãnh chức Giáo sư dạy chữ Việt và chữ Pháp cho người Pháp và người Tây Ban Nha tại trường Tham biện Hậu bổ (
Collège des administrateurs stagiaires), rồi làm Chánh đốc học trường ấy, đồng thời lãnh chức Ủy viên thượng Hội đồng Giáo dục (
17 tháng 11 năm
1874). Cũng trong năm này, Pétrus Ký được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong 18 "Thế giới Thập Bát Văn Hào"
[8][cần dẫn nguồn]
Năm
1876, Thống đốc
Nam Kỳ Duperré cử ông ra
Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình miền Bắc. Khi về Sài Gòn, ông viết cuốn
Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876).
Năm
1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên người Nam, được cử làm Ủy viên Hội đồng cai trị
Sài Gòn.
Ngày
17 tháng 5 năm
1883, ông được
Hàn Lâm Viện Pháp phong danh hiệu
Viện sĩ (
Officier d'Académie)
[9].
Năm
1886,
Paul Bert (nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học) được cử sang
Đông Dương làm Khâm sứ
Trung Kỳ và
Bắc Kỳ, trong bối cảnh sau khi
Tôn Thất Thuyết và vua
Hàm Nghi làm cuộc binh biến chống Pháp thất bại. Vốn là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc. Khoảng đầu
tháng 6 năm ấy, Pétrus Ký ra Huế, được vua
Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ.
Trong vai trò này, Pétrus Ký chủ trương An Nam không thể chống lại
Pháp được, mà phải tuân theo họ, nhất là sau khi cuộc nổi dậy của vua
Hàm Nghi thất bại. Pétrus Ký coi những người tham gia
phong trào Cần Vương
chống Pháp chỉ là đám phiến loạn không hiểu thời cuộc, ông cho rằng
rằng tinh thần ái quốc của họ chỉ là do sự hận thù đối với các con chiên
Công giáo cộng tác với người Pháp. Ông đề nghị Paul Bert cho huấn luyện
và cấp vũ khí cho các đơn vị lính người Việt, dùng các đơn vị này để
trấn áp các cuộc nổi dậy của
phong trào Cần Vương. Ông cũng cho rằng: về phương diện chính trị và kinh tế, nước Pháp là người đi đồng hóa, còn người An Nam là kẻ chịu
đồng hóa.
Ông tin rằng việc người Pháp tấn công Việt Nam là một sứ mệnh mà Thiên
Chúa giao phó, và người Pháp với tư cách là chủ nhân, cần giảng dạy
người An Nam những tư tưởng và khái niệm cần thiết cho việc cải tạo
người An Nam.
Pétrus Ký đề ra nhiều chính sách có lợi cho Pháp, nên Paul Bert cho
rằng sẽ rất có lợi cho Pháp nếu giữ Pétrus Ký làm việc lâu dài ở triều
đình nhà Nguyễn. Nhưng ngày
11 tháng 11
năm đó, Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết. Mất người bảo hộ, Trương Vĩnh
Ký bị nhóm thực dân Pháp không cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân
Pétrus Ký sau đó cũng bị triều đình
Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin từ chức về lại
Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn và viết sách...
Cuối đời
Nhà Trương Vĩnh Ký tại Chợ Quán.
Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức nhỏ, nhưng Pétrus Ký vẫn
bị những người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào
ngạch Giáo sư sinh ngữ
Đông Phương
của ông. Khi trước, lúc còn được người Pháp ưu ái, những sách của
Pétrus Ký đều được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in, để phân phối cho
học sinh. Nhưng từ khi bị hắt hủi, lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông phải bỏ
tiền riêng ra in ấn và tự phát hành. Sách ế ẩm khiến Pétrus Ký phải mắc
nhiều nợ.
Năm
1887, sau khi đi công tác ở
Bangkok để giải quyết vấn đề giữa
Thái Lan và
Đông Dương, ông nghỉ hưu.
Năm
1888, ông xuất bản tạp chí tư nhân
Thông Loại Khóa Trình (Miscellanées) được 18 số (
1888-
1889).
Cũng trong năm này, trường Thông ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất
nghiệp. Sống trong hoàn cảnh buồn bã, ông bệnh hoạn luôn. Pétrus Ký qua
đời vào ngày
1 tháng 9 năm
1898.
Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện nằm nơi góc đường
Trần Hưng Đạo và
Trần Bình Trọng thuộc
quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
Chức vụ, huân huy chương
Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong của nền văn học chữ quốc
ngữ, đương thời ông là một học giả nổi tiếng. Trong quá trình hoạt động,
ông đã được nhận các chức việc và huân huy chương:
Một số tác phẩm
Ông có trên một trăm tác phẩm (có nguồn ghi 119 tác phẩm), nhiều quyển rất đáng chú ý, như:
- Truyện đời xưa
- Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)
- Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
- Tiểu giáo trình Địa lý Nam Kỳ
- Ký ức lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận
- Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
- Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc Kỳ năm Ất Hợi, 1786)
- Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
- Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
- Lục súc tranh công
- Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois (Bài giảng tiếng quan thoại hay chữ Trung Quốc)
- Cours d'histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam)
- Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
- Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
- Cours de littérature annamite (Bài giảng văn chương An Nam)
- Cours de géographie générale de l'Indochine (Bài giảng địa lý tổng quát Đông Dương)
- Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
- Grand Dictionnaire Annamite-Français (Đại tự điển An Nam-Pháp), v.v...[11]
Cuối đời
Nhà mồ Trương Vĩnh Ký tại Chợ Quán, với câu "Miseremini Mei Saltem Vos Amici Mei"
Mộ Trương Vĩnh Ký ở bên trong nhà mồ.
Hay tin Pétrus Ký, một con người nhiều học vấn, sẽ ra làm việc với Pháp, một số quan lại
nhà Nguyễn
đâm ra nghi kỵ ông. Nhưng sau nhiều toan tính, ông nghĩ rằng phải làm
việc để cải biến xã hội An Nam, trước hết là trong phương diện văn hóa,
nhất là lúc ấy, Pháp và Nam triều chưa hiểu nhau, chưa thành thật với
nhau. Pétrus Ký đã mượn câu cách ngôn
Latinh "
Ở với họ mà không theo họ" ("
Sic vos non vobis"), để biện minh cho việc nhận lời làm thông ngôn cho Jauréguiberry.
[12] Mặc dù làm việc cho thực dân Pháp, nhưng khi sưu tầm và chú thích bản
Gia Định thất thủ vịnh, Trương Vĩnh Ký vẫn gọi họ là "giặc".
Ngày
8 tháng 11 năm
1870, ông có lời di huấn:
Người
đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có
phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng
mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như
hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như
khói. Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong....
Bài thơ ông sáng tác lúc gần lâm chung:
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gửi tên con mọt sách,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài!
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.[13]
Trên cửa nhà mồ của ông có ghi một câu văn bằng tiếng Latinh: "
Miseremini Mei Saltem Vos Amici Mei" (
Xin hãy thương xót tôi, hỡi các anh chị là những người bạn của tôi). Đây là một câu văn trích ra từ cuốn thánh kinh
Sách của Gióp (
Job 19:21-27) trong
Cựu ước, thuật lại chuyện Gióp bị Thượng đế và loài người lìa bỏ
[14][15].
Đánh giá
Ở cuối
thế kỷ 19, học giả Pháp tên là Jean Bouchot đã gọi Trương Vĩnh Ký là
"một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cho đến ở nước Trung Hoa hiện đại nữa." Ngoài ra, ông này còn viết:
Ta phải xem đời của cụ Trương Vĩnh Ký là một bài học và một gương tốt cho ta. Một bài học vì, vì ta thấy người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa học...[16]
Trích thêm một vài nhận xét:
Trương Vĩnh Ký,
Trương Minh Ký,
Huỳnh Tịnh Của là
ba
ông minh triết bảo thân, gần bùn mà chẳng nhuốm mùi bùn, không ham "đục
nước béo cò" như ai, chỉ say đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà lòng
giữ Hán, thác không tiếng nhơ, thấy đó mà mừng thầm cho nước nhà những
cơn ba đào sóng gió còn hiếm người xứng danh học trò cửa Khổng[17].
Ông Trương Vĩnh Ký từ khi đỗ đạt cho đến khi mất vẫn tỏ ra thân
Pháp. Tuy nhiên, người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông không
gia nhập Pháp tịch; trước khi mất, ông biết thân phận của người học giả
sống trong thời kỳ khó khăn...Ông này khi sanh tiền tuy là nhà nước tin
cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan
Lang sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam, cho khỏi chỗ mích
lòng nhau, làm cho mẹ gà phải thương con vịt. Đêm ngày lo đặt sách này
dịch sách kia cho kẻ hậu sinh dễ học. Thiệt là quan thầy của cả và Nam Kỳ...
Ngoài những tác phẩm biên khảo mang tính cách bác học, ông Trương
vĩnh Ký còn chú ý đến độc giả bình dân, lời văn theo lời ăn tiếng nói
thông dụng lúc bây giờ. "Chuyện đời xưa" của ông cùng là "Chuyện giải
buồn" của Huỳnh Tịnh Của hãy còn được nhắc nhở[18].
Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông
trai trẻ hơn, ông mới hơn...Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng
khỏi những xiềng xích chữ Hán.
Chủ trương của ông chính là "cách nói tiếng An Nam ròng" và viết "trơn
tuột như lời nói". Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi,
nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn
hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn [19].
Những biên soạn của Trương Vĩnh Ký đã có những đóng góp quan trọng
cho một số ngành khoa học đương thời, nhất là khoa ngôn ngữ học và khoa
học lịch sử… Các sáng tác của Trương cũng nói lên ít nhiều cá tính một
con người cần mẫn trong công việc, có cái nhìn tinh tế và óc tò mò trước
sự vật, nhiều lúc có khả năng hài hước hóa mọi chuyện ở đời...
[20]
Ông là người, từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi
trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục
ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ
quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy[21].
- Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh: Nếu cụ Võ Trường Toản là "Hậu tổ" của Nho học ở đất Gia Định thì cụ Trương Vĩnh Ký là bậc tiền hiền của chữ quốc ngữ trong toàn cõi đất Việt [22].
- Nhà văn Vũ Ngọc Phan:
Trong số những sách dịch thuật, khảo cứu và sáng tác của ông,
người ta thấy chỉ những sách khảo cứu của ông là có giá trị hơn
cả...Người ta thấy ông rõ là một nhà bác học có óc tổ chức và có phương
pháp...[23].
- Học giả Nguyễn Văn Tố tóm tắt sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký gọn trong 3 tiếng Bác học, Tâm thuật, Khiêm tốn[24]
Tập tin:Trường Trung học Petrus Ký.jpg
Trường Trung học Petrus Ký xưa, nay là Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ghi công, khi
phong trào Duy Tân hoạt động công khai rầm rộ, ông
Trần Chánh Chiếu đã cổ động lạc quyên đúc tượng kỷ niệm ông Trương Vĩnh Ký với bài "ông Đốc Ký" đăng trên báo
Lục Tỉnh Tân Văn[18].
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến phê phán, buộc tội vì Trương Vĩnh Ký
đã cộng tác với thực dân Pháp. Đương thời, Trương Vĩnh Ký bị giới nho sỹ
Bắc Hà nhạo báng, châm biếm bằng những câu thơ, đối chương lên báo chí.
Hiện nay, nhiều tác giả như Lê Thanh trong quyển
Trương Vĩnh Ký,
Trần Huy Liệu trong
Lịch sử 80 năm chống Pháp, Phạm Long Điền và Nguyễn Sinh Duy trong quyển
Cuốn sổ bình sanh của Trương Vĩnh Ký.... cũng phê phán Trương Vĩnh Ký vì sự cộng tác với thực dân Pháp của ông.
Ông
Nguyễn Sinh Duy, trong cuốn “Trương Vĩnh Ký – cuốn sổ bình sanh” viết:
Chỗ đứng của Trương Vĩnh Ký vẻ vang và đồ sộ không phải trên văn
đàn dân tộc Việt Nam mà chính ở trong nền văn chương thuộc địa (une
littérature coloniale) của người chính quốc Pháp và những ngòi bút phục
vụ quyền lợi thuộc địa
Ông
Nguyễn Đắc Xuân, trong cuốn "Pétrus Trương Vĩnh Ký nhìn từ những khía cạnh và nhận thức khác nhau" viết:
Lịch sử Việt Nam cận đại luôn luôn phải nhắc đến Trương Vĩnh Ký
như một nhân vật phản diện điển hình. Đây là trường hợp có một không hai
trong lịch sử Việt Nam. Chúng ta cần phải nghiên cứu một cách nghiêm
túc, đầy đủ để có một sự đánh giá đúng đắn về tội tiếp tay cho giặc của
nhà bác học siêu hình Trương Vĩnh Ký.
Tên đường và tên trường
Từ thời Pháp thuộc cho đến năm
1975, tên của ông đã được đặt cho một ngôi trường trung học lớn ở
Đô thành Sài Gòn dành cho nam sinh: Trường Trung học Petrus Ký. Sau năm
1975, trường này được đổi tên là
trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong.
Ở
Thành phố Hồ Chí Minh trước năm
1975
(lúc đó gọi là Sài Gòn và Gia Định) có tới 2 con đường mang tên ông với
2 tên gọi khác nhau. Đường Petrus Ký của Đô thành Sài Gòn cũ hiện nay
là đường
Lê Hồng Phong ở quận 5 và quận 10; còn đường Trương Vĩnh Ký của tỉnh Gia Định cũ nay là đường Nguyễn Văn Bảo ở quận
Gò Vấp.
Hiện nay vẫn còn một con đường lớn mang tên ông tại quận Tân Phú
thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có một ngôi trường mang tên ông tại
xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, Bến Tre.
[cần dẫn nguồn]