Kính gửi quý anh chị bài
Dư Thị Diễm Buồn
Tìm gặp dư ảnh quê
xưa qua hai tác phẩm
''Một Góc Trời Thôn Dã'' và
''Thời Biển Lặng Sông Trong''
Hồ Trường An
Dư Thị Diễm Buồn là cây bút tình tự dân tộc. Chị chuyên
viết về quê hương đất nước, nhất là những nơi chị định cư. Tuy nhiên ở truyện
dài Ngoài Ngưỡng Chiêm Bao chị lấy bối cảnh trại tiếp cư nơi quần đảo Nam
Dương dành cho các thuyền nhân vượt biên tìm tự do và chị lấy thành phố Chicago
thuộc tiểu ban Illinois dành nơi định cư cho kiều bào làm bối cảnh cho tác phẩm
này.
Những địa danh trên xứ sở Nam Kỳ
Lục Tỉnh mà chị nói đến nhiều nhất là 2 thành phố Mỹ Tho và Cần Thơ cùng quận
Cai Lậy. Thật ra, chị thích cái không khí tỉnh lỵ êm đềm và những vùng nửa
chợ nửa quê thơ mộng. Chúng ta chưa hề gặp trong các tác phẩm chị một vùng
nào quê rích quê rang, chó ăn đá gà ăn muối như miệt Năm Căn, Chắc Băng hoặc
các vùng Cực Nam đất nước vào thuở tiền chiến.
Một Góc Trời Thôn Dã xảy
ra vào thuở tiền chiến, có thể vào thập niên 20 hay thập niên 30, tức là vào
khoảng thời gian mà tác giả chưa chào đời. Như thế, chị phải moi móc sưu tầm
tài liệu vào khoảng thời gian ấy, tức là thuở mà trường Gia Long được dân gian
gọi là trường Áo Tím và trường Trương Vĩnh Ký được gọi là trường Pétrus Ký. Vào
thuở đó, dù là dưới chánh thể Thuộc Địa của Pháp, hạng điền chủ bậc lớn
hay bậc nhỏ đều sống phong lưu. Còn quyển truyện dài Thời Biển Lặng Sông
Trong tiếp theo quyển đầu xảy ra vào thuở bình minh của chánh thể Đệ
nhất Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thuở đó, nhờ sự viện
trợ dồi dào của Hoa Kỳ mà toàn dân Miền NamViệt Nam từ bên này sông Bến Hải
tới mũi Cà Mau được sống sung túc an bình.
Truyện dài Một Góc
Trời Thôn Dã là một truyện tình phản ảnh sự giao tiếp giữa thế hệ đàng cựu
gặp hồi suy tàn và thế hệ tân học chỉ vừa như hoa chớm nụ. Nữ nhân vật chánh là
Cẩm Hương sinh quán ở Lái Thiêu (thuộc tỉnh Thủ Dầu Một / Bình Dương) vừa tốt
nghiệp trường Sư Phạm được bổ về dạy học ở Cai Lăy ( thuộc tỉnh Mỹ Tho). Nàng ở
trọ tại nhà bà Tư Hiền, vợ bé ông Hai Cung. Ông này là chủ nhân nhà máy
chà gạo. Nguyên bà Tư Hiền trước kia là cô thôn nữ nhà nghèo, phải đi ở mướn
cho ông bà Hương Cả Cần, song thân của cậu Hai Cung. Cô lãnh phần chăm
sóc hai cô con gái Kiều Lan và Kiều Liên của cậu Hai Cung. Cậu Hai dù có vợ
nhưng vì không yêu vợ, vì mê cảm nhan sắc cô tớ gái xinh đẹp nên cưỡng dâm cô
ta. Không ngờ Hiền có thai, rồi sanh đứa con trai đặt tên Thiện Tố. Bà Cả Cần
phải tìm cách hợp thức hóa thân phận đứa con hoang của cậu quý tử của mình. Hiền
phải cam tâm làm vợ bé cho cậu Hai Cung, phải chịu sự xéo xắt bắt nạt của người
vợ lớn. Mụ này, sau đó ít lâu, sanh thêm đứa con trai đặt tên là Thiện Cảm.
Năm qua tháng lại, lũ con
dòng lớn và đứa con dòng nhỏ trưởng thành. Kiều Lan và Kiều Liên chanh chua, xí
xọn, hay ghen ghét cái hạnh phúc và cái may mắn của tha nhơn. Thiện Cảm thì đẹp
trai, tánh nết lông bông, lười học nên thi hoài mà vẫn rớt bằng Thành Chung.
Thiện Tố thì chăm học, đỗ bằng Tú Tài, rồi ở nhà làm quản lý cho cha để coi sóc
nhà máy chà gạo đang hồi thịnh vượng.
Khi tác giả đưa độc giả
vào một phần tư quyển truyện thì ông bà Hương Cả Cần đã qua đời. Kiều Lan và Kiều
Liên đã có chồng và theo chồng ra ở riêng. Thiện Cảm cưới một cô vợ tên Hồng
Ánh vốn đảm đang, biết phải quấy, cư xử mềm mỏng với mẹ con bà Tư Hiền. Thiện Tố
theo mẹ ra ở ngôi nhà gần nhà từ đường của ông bà Hương Cả Cần.
Cẩm Hương trong thời gian ở
trọ nhà ba Tư Hiền, được tiếp xúc nhiều lần với Thiện Tố, lúc đầu nàng hơi ác cảm
với chàng, nhưng nàng không ngờ đó là mặt trái của tình yêu.
Chàng thanh niên nầy cao lớn, có khoảng 1 thước 75 phân
chớ không chơi. Chắc là Từ Hải trong truyện Kiều bay vọt ra ngoài đời chớ gì? Vừa
nghĩ tới đây, Cẩm Hương cảm thấy vui vui. Nhưng nàng vẫn bực vì nụ cười hắn
ngạo nghễ, khuôn mặt hí hởn trong dễ ghét làm sao ấy! Hắn có dáng hiên ngang,
vai rộng, mặt rắn rỏi, tay chân cứng cáp, đi đứng chững chạc. Đây là mẫu người
vừa trí thức vừa phong trần. Nhỏ Ái Mỹ và nhỏ Ánh Nguyệt, Thục An thường ca tụng
mẫu thanh niên như vậy. Ái Mỹ vo vảnh:
- Tao ưa tài ử Clark Gable trong phim ''Cuốn theo Chiều
Gió'' vừa trí thức
vừa phong trần, trong có vẻ thạo đời. Đó mới là đấng quân
vương trong mộng của tao.
Thục An lim dim cặp
mắt ốc bươu:
- Tao cũng vậy Những thanh niên hiên ngang, hùng trai như
vậy mà chịu
cưới tao, chắc tao ăn chay một tháng 15 ngày để cám ơn Trời
thương Phật độ.
Ánh Nguyệt bình tĩnh hơn:
- Tao có đọc áo Ciné Miroir, biết được anh chàng Clark
Gable đó học hành
dở ẹc và miệng mồm hắn có vấn đề, nên đạo diễn phải bắt hắn
giữ vệ sinh tối đa khi đóng những màn cụp lạc hun hít với nữ diễn viên. Nhưng nếu
gặp chàng có bằng Thành Chung mà bảnh trai, xinh trai, dễ thương trai, lại có
cái miệng thơm mát, thì con Ánh Nguyệt nầy không niêm phong trái tim đâu nghen.
Bỗng dưng, hôm nay
chợt nhớ tới lời ba con xảnh xẹ đó, Cảm Hương tức cười quá. Nàng vội nghiêm mặt
kẻo ''đối phương'' coi thường mình. Nàng cũng nhận thấy tên nầy có cái mỉm cười
láu cá, cặp mắt sáng ngời, nụ cười ngạo nghễ, trông hao hao giống Clark Gable
thiệt đó. Nếu đứng bên cạnh hắn, nàng cảm thấy mình mềm mại như cây lệ liễu
đứng bên cây thanh tùng hùng tráng. Nhưng nàng chợt thấy mình ví von như vậy là
đề cao ''địch thủ'' quá đáng. Hắn mà là cây thanh tùng hả? Còn khuya! Hắn đâu xứng
đáng làm cây có tên đẹp như vậy. Hắn phải là cây cốc, cây còng, cây môn ngứa,
cây mù u... có tên xấu xí như vậy mới đúng chớ bộ!...
( MGTTD, các trang 53, 54)
Rồi Cảm Hương và Thiện Tố
thông cảm nhau, yêu nhau say đắm. Kiều Lan và Kiều Liên từ lâu cay cú vì chị em
họ không có khoa bảng trong khi Thiện Tố ăn học thành công. Nay, thấy Cẩm Hương
trội hơn họ về nhan sắc, học thức và tánh nết nên họ quyết phá đám để cho
mối lương duyên sẽ rả tan trước khi hình thành. Nhân trong xóm có cô Ngọc Huệ vốn
là gái xinh đẹp, duyên dáng, tốt bụng, chánh trực dù có tật ăn hàng như chim mỏ
khoét; cô ta trở thành công cụ để hai nàng Kiều ra tay phá hoại cuộc tình của
thằng em khác mẹ kia:
Cô tươi mát trong chiếc áo
dài nhung màu tím, cổ cao, quần lụa trắng. Tóc cô vấn bính, quấn nhiều vòng và
kẹp bằng chiếc nơ bướm bằng nhung đen phía sau ót. Cô đeo suu bộ ngọc trai màu
ngà voi, gồm có: bông tai, chuỗi, cà rá và vòng tay... Ngọc Huệ tô son hồng
đào, giồi phấn sương sương, dậm phấn hồng phơn phớt. Trông cô đẹp hẳn lên.
Nhưng ai có thể ngờ sau cặp
môi trái tim cười đẹp như hoa nở đó, lại là cái miệng ăn hàng hết chỗ chê! Cô
ăn xàm xạp tối ngày. Thịt phay nhai ngấu nghiến, thịt gà thiến ăn tràn miệng vẫn
còn thèm, chả nem ních sạch bách, tôm kho gạch cũng chẳng chừa, dừa cô cũng ưa,
dưa cô cũng thích, mít cô không chê... Ai biết được đôi mắt viền đen kia sáng
ngời lóng lánh khi nghe chuyện tiếu lâm, chuyện ngồi lê đôi mách... Đây là mẫu
thiếu nữ hạnh kiểm thưa thớt, tánh tình bông lông nhưng tâm địa hiền lành, giàu
lòng từ thiện, kẻ dữ người hiền đều mến chuộng:
(MDTTD, trang 338)
Hồi Thiện Tố và Ngọc Huệ
còn nhỏ, trong cuộc chuyện trò thân mật, ông bà Hương Cả Cần có bảo ông nội bà
nội Ngọc Huệ rằng khi cả hai lớn lên, họ sẽ cưới Ngọc Huệ cho Thiện Tố. Do đó,
Kiều Lan và Kiêu Liên bảo Cẩm Hương rằng Ngọc Huệ là hôn thê của Thiện Tố. Cho
nên Cẩm Hương đau khổ quyết chặt đứt mối tình với người yêu, dù Thiện Tố năn nỉ
nàng cho tới cạn lời, dù ông Hai Cung và bà Tư Hiền đính chánh cho thế mấy
đi nữa. Nhưng về sau, tình cờ gặp lại Ngọc Huệ, Cẩm Hương được cô ta cho biết rằng
trong vòng ít lâu cô ta sẽ vu quy, người chồng tương lai cô ta trước kia ở Cai
Lậy, gần nhà cha mẹ cô ta, về sau thiên cư về Vĩnh Long lập nghiệp. Đó mới chính
là người yêu của cô ta, còn Thiện Tố chỉ là bạn cùng lớp hồi cả hai ngồi bậc tiểu
học vậy thôi. Tới chừng đó, Cảm Hương mới yên lòng để cho Thiện Tố cưới nàng
làm vợ.
*
Song song mối tình
giữa Cẩm Hương và Thiện Tố, còn có lối sống thay đổi của Thiện Cảm. Vốn quen
thói phong lưu, ăn chơi bạt mạng, Thiện Cảm vụt cảm thấy chán nản lối sống
truy hoan của mình. Tình cờ đọc quyển Bùn Lầy Nước Đọng của Hoàng Đạo trong
nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Chàng sanh ra cảm khái, quyết sống cuộc đời có ý nghĩa:
giúp đỡ người nghèo khó, cải thiện nếp sống dân quê. Chàng viết văn theo tôn chỉ
xây dựng cuộc tân sinh hoạt theo chủ trương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn; chàng kiến
tạo ấp mới theo bước chân của Hoàng Đạo. Hai công việc đó đều nhờ sự giup đỡ và
khích lệ của vợ chồng Thiện Tố. Không ngờ chàng thành công trên văn đàn và rồi ấp
mới của chàng được thực hiện đúng như niềm mơ ước của chàng.
Nghe vợ chồng Thiện Tố đi
thăm ông bà nhạc ở xa và dự đám cưới cậu em út của vợ trở về chiều hôm qua, vợ
chồng Thiện Cảm đến chơi, chồng khoe với Thiện Tố:
- Toa ơi, moa vừa mới lập cái ấp mới cho tá điền. Nhà nhà
trong ấp đều
thoáng khí, mặc dù là vách bùn trộn với trấu hay rơm, mái
lợp lá xé hay lá chầm, nhưng cũng che mưa che nắng được mấy mùa. Ở giữa ấp moa
cất cái trạm để mỗi tuần có y tá vào phát thuốc cho dân, còn những thứ thuốc
thông thường như chữa nhức đầu, đau bụng, trầy giò, đứt tay chảy máu thì lúc
nào cũng chứa trong thùng để ở nhà ông trưởng ấp. Có lớp Bình Dân Học Vụ nữa.
Hôm nào vợ chồng toa có rảnh, mời ghé qua, coi có góp thêm ý kiến gì không ?
Thiện Cảm đưa cho Cẩm
Hương ấn bản quyển tiểu thuyết mới ra. Cẩm Hương ngắm nghía cái bìa màu lam có
tranh vẽ cảnh thôn quê dưới vầng thái dương chói rạng, bảo:
- Cái tựa sách Ánh Sáng Đồng Quê của tác phẩm, chắc là muốn
nói lên ánh
sáng văn minh tân tiến rọi đến cảnh đồng ruộng quê mùa chớ
gì?
Hồng Ánh hớt chồng trả lời:
- Chị nói đúng đó. Cái ấp mới do chồng em chắt chiu xây dựng
phần lớn
nhờ anh Thiện Tố đỡ đầu từ vật chất lẫn tinh thần Hôm nay
tụi nầy đến đây ngoài việc tặng sách còn để báo tin ấp đã tạm xong và cám ơn
anh chị.
Cẩm Hương vui vẻ hỏi:
- Thím có thai được mấy tháng rồi?
Hồng Ánh cười:
- Hơn 5 tháng nay thôi. Khi em sanh xong nhờ anh chị làm
cha mẹ đỡ đầu
cho đứa nhỏ.
Cẩm Hương cười tươi, sốt sắng:
- Rất sẵn lòng
Cẩm Hương nhìn chăm chú
Thiện Cảm rồi nhìn chồng. Hai anh em họ có vài nét giống nhau. Thiện Tố cao
ráo, khỏe mạnh, hùng tráng bao nhiêu thì Tiện Cảm mảnh khảnh, văn thái tinh hoa
tao nhã bấy nhiêu. Từ khi thành công trên con dường văn nghiệp, Thiện Cảm chững
chạc hơn, không còn đía dóc ba hoa nữa. Chàng trầm mặc hơn. Nàng tự hào là vợ
chồng nàng biết khơi dậy một thiên thần trong một con ngưòi hư hỏng.
Nàng nhìn qua Hồng Ánh. Cô
ta biêt ăn diện chải chuốc để làm đẹp lòng chồng. Nhưng cô ta vẫn hồn nhiên giản
dị, không kiểu cách điệu đà, không đánh lưỡi sửa giọng khi nói chuyện. Cô hồn
nhiên, hịch hạc, cười nói véo von,
pha trò duyên dáng và có chừng mực.
Khi khách ra về, Cẩm Hương
làm mặt lạnh và liếc xéo chồng rồi nghiêng bình tích rót trà ra uống. Thiện Tố
áy náy nhìn vợ cười cầu tài, rồi ôm choàng lấy vai nàng. Nàng lách khỏi vòng
tay chồng, mắt xoáy vào mặt chàng. Thiện Tố nhìn vợ ngập ngừng:
- Anh giúp Thiện Cảm làm em phật lòng sao?
Cẩm Hương ngún nguẩy:
- Hỏng biết!
Thiện Tố nắm tay vợ tha thiết,
khổ sở:
- Xin lỗi em!
Thấy dáng điệu chồng thiểu
não, Cẩm Hương bật cười thành tiếng:
- Sao anh lại xin lỗi? Anh đã làm những gì mà em định
khuyên anh làm.
Anh biết không? Bấy lâu nay, thấy Thiện Cảm đổi tánh
tình, làm việc thiện nguyện. Còn anh thì êm ru bà rù làm em mắc cở thầm. Bây giờ
em mới cảm thấy thoải mái khi gặp Hồng Ánh. Anh làm em hãnh diện với
chính mình không chọn lầm nguời chồng và còn là người bạn đồng tâm...
(MTTD, các trang 365, 366, 367)
Trong quyển Một Góc
Trời Thôn Dã, có 6 cô cựu nữ sinh trường Áo Tím là Thục An, Ái Mỹ, Thụy Châu,
Ánh Nguyệt hợp với Cẩm Hương thành nhóm Ngũ Nữ La Sát. Về sau có thêm Nguyệt Mi
trở thành nhóm Lục Nữ La Sát. Sáu vai phụ ấy làm cho tác phẩm trở nên xôn xao
tuổi dậy thì và gợi lại tuổi mộng mơ trong khung cảnh sân trường, lớp học, bảng
phấn, cửa gương. Không khí tác phẩm trở nên sinh động khi tác giả dựng lên cảnh
họp mặt của họ. Trong đó, Ánh Nguyệt hoạt náo nồng mặn duyên dáng nhất:
... Con chằng lửa Thục An bảo:
- Làm đờn bà thì phải thương chồng hơn cha mẹ. Ông
bà mình thường
nói: ''Vông đồng trổ đỏ bờ sông/ Mẹ kêu con dạ, thương chồng
con theo''.
Con ma nương Ái Mỹ tán đồng:
- Mầy nói đúng đó Thục An. Cha mẹ nuôi mình chừng 20 năm
hoặc hăm
mấy năm thôi. Còn chồng mình thì nuôi mình tới già, tới
chết.
Con nữ tặc Thụy Châu chợt
nhớ ra:
- Mấy cô xẩm trước khi lấy chồng, cứ khóc ra rả trong buồng,
khóc rống
lớn lên cho thiên hạ biết mình đau xót sắp xa cha mẹ...
Con hồ ly tinh Ánh Nguyệt
trề môi dài cả thước :
- Lấy được ông chồng toại ý, tao đương thèm khóc. Còn kết
hôn với cái thứ
ôn hoàng dịch lệ thì tao khóc rỉ rả, khóc nỉ non để trù ẻo
cho đám cưới trở hành đám ma chơi !
Cẩm Hương cười ha hả :
- Ánh Nguyệt ơi, lòng da mầy hiền lành như bông bí, như
dưa leo, như rau
lang rau muống luộc. Vậy mà mầy ăn nói nghe dữ tợn, gớm
ghiếc không hà. Coi chừng mắc khẩu nghiệp đó nghen.
Ánh Nguyệt trề môi nói
rán, nói thêm:
- Kệ em! Chớ sống với kẻ không yêu, bị nó nài hoa ép liễu
thì em chỉ còn
có nước trù ẻo nó chết sớm để em rảnh nợ. Chôn nó rồi
em đi xe kiếng.
Cả bọn trợn mắt hỏi đi xe
kiếng để làm chi? Nhỏ cười ngỏn ngoẻn rồi cất giọng thẻo thợt hò: ''A
ơi... Bước lên xe kiếng đi viếng mộ chồng'' / ''Mộ chưa cỏ mọc tron lòng thọ
thai... à ơi...''.
(MGTTD, các trang 46, 47)
Kiều Lan và Kiều
Liên cũng là hai nhân vật làm cho không khí câu chuyện trong tác phẩm sinh động
hẳn lên. Tác giả dùng họ làm nhân vật phản diện để tạo sự mâu thuẩn cho cả một
hệ thống tình tiết của câu chuyện và cũng để bày tỏ cái óc khôi hài tinh nhuệ của
mình khi nhận xét tình đời. Hai cô Kiều ghen ghét cái hạnh phúc của thằng em
khác mẹ đã đành mà còn không mấy hoan nghinh cái thành công của thằng em ruột:
Lúc hay tin Thiện Tố
khéo tay trang hoàng ngôi nhà mới của mình, hai cô Kiều liền rủ Thiện Cảm tới
thăm. Kiều Lan chê bai:
- Thằng Thiện Tố dại dột, lo trang Hoàng o bế sách vở,
khong để dành tiền
mua gach tráng men lót nền nhà.
Kiều Liên phụ họa chị:
- Đúng rồi, gạch tàu dùng để lót sân đúng điệu hơn, chớ
đâu để mà lót nền
nhà!
Bà Tư Hiền mời lũ con chồng
uống trà. Thiện Tố không trả lời hai chị, vì trong mắt họ, có cái gì mà chàng
làm tốt làm đẹp bao giờ đâu. Thiện Cảm săm soi tủ sách tắm tắc:
- Từ khi đọc sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, tui mới biết
quý sách báo.
Thật là tao nhã, tui thiệt tình phục lăn Thiện Tố!Thế nào
tui cũng sắm cái tủ như vậy.
Kiều Liên nguýt thằng em
ruột, mỉa mai:
- Thôi cho tao can đi. Dòng họ mình đã có một học giả rồi.
Ai cần mượn
cái mặt mẹt mầy đóng vai trí thức rồi bày đặt viết văn. Mầy
chẳng có bằng cấp nào lận lưng hết.
Thiện Cảm sừng sộ lại:
- Chị bớt chót chét lại đi. Bằng cấp có dính dáng gì đén
việc viết văn? Có
bằng cấp mới viết văn được sao ? Thật là đầu óc nhỏ hẹp
như cái vú cau!
Kiều Lan õng ẹo:
- Tui cấm chồng tui coi tiểu thuyết. Thời buổi nầy mấy
ông bà văn sĩ hay
đề cao tình yêu. Chồng tui nhẹ dạ. Nếu rủi ảnh nhiễm tư
tưởng lãng mạn trong tiểu thuyết, ảnh sẽ mềm lòng lõng dạ mỗi khi gặp con lành
con lủng nào đó ở ngoài chợ thì phiền toái cho tui lắm. Lòng dạ tui chặt chịa,
cứng cỏi thì tui có quyền coi tiểu thuyết.
Kiều Liên bị em nạt không
cự lại, vo vảnh:
- A -di-đà Phật! Chồng tui thích coi đá banh thôi. Nhưng
hễ ảnh gặp mấy
con lành tốt mã, mấy con lủng lẳng lơ thì cặp mắt ảnh chớp
lia chớp lịa, thấy thật ứa gan!
(MGTTD, các trang 210, 211)
*
Trong Một Góc
Trời Thôn Dã có thêm một vận sự: Trong tai nạn xe cộ, Cẩm Hương được người hành
khách cùng một chuyến xe đò cứu giúp. Chàng ta yêu thầm nhớ trộm nàng, xây mộng
lứa đôi với nàng. Nhưng mối tình đó chỉ là mối tình đơn phương vừa tượng tình
mà chưa kịp thành tựu đến ngưỡng cửa hôn nhân thì phải tan rã vì Cẩm Hương báo
tin nàng kết hôn với Thiện Tố. Nếu bỏ vận sự nầy cũng không sao. Còn có nó, tác
phẩm thêm phần hào hứng đôi chút vì mối ẩn tình của người đồng hành cùng chuyến
xe đò với Cẩm Hương không có gì đặc sắc lắm. Lại nữa, cuộc hờn ghen của Cẩm
Hương kéo quá dài làm cho độc giả sốt ruột. Đáng lẽ tác giả để dành giấy viết về
nếp sống và nhân sinh quan của hạng tân học vào buổi giao thời như hai cậu em của
Cẩm Hương, của Nguyệt Cúc (hôn thê của cậu em út ) thì chị đào cho tác phẩm một
chiều sâu đáng kể hơn.
Sự thành công của tác phẩm ở chỗ
tạo cho mỗi nhân vật một cá tánh khác biệt, trừ hai chị em Kiều Lan và Kiều
Liên như đúc từ một cái khuôn. Xin kể các nhân vật quan trọng xoay chung quanh
hai nhân vật chánh (Cẩm Hương và Thiện Tố) và những nhân vật then chốt (hai cô
Kiều, Thiện Cảm, Hồng Ánh và Ngọc Huệ). Bà Cả Cần tôn trọng huyết thống,
ông Hai Cung dù đã sa ngã nhưng vẫn là người có lương tâm, bà Tư Hiền tuy hiền
lành nhẫn nhục nhưng vẫn vướng tật chì chiết lúc tâm sự với Cẩm Hương, bà Hai
Cung vẫn là người có căn tánh tốt đẹp chớ không hoàn toàn xấu xa ác độc, cha mẹ
bà Tư Hiền hiền lành và chất phác.
Tác giả rất thích miêu tả:
tả người, tả cảnh, tả tâm tình, tức là tạo đầy đủ chất liệu để đúc kết cái nền
mống lẫn cái lâu đài văn chương vững chắc.
Về nghệ thuật tả người,
xin cùng đọc đoạn hai cô Kiều phục sức và trang điểm trong dịp đám cưới Thiện Tố:
Kiều Lan và Kiều Liên muốn
nổi bật hơn cả cô dâu nên trước đám cưới cả tháng, hai cô hẹn nhau xuống chợ tỉnh
đặt may mỗi người một chiếc áo dài ''mốt'' bằng gấm đỏ, bâu áo cao chống cổ,
tay phùng cao. Hai cô đều mặc trang phục giống nhau. Họ đeo bông tòn teng, dây
cổ, dây tay bằng hột xoàn chiếu lấp lánh... Trông họ đẹp và lạ mắt thật. Nhưng
áo quần và trang sức nầy nếu trên một thân hình có dáng dấp thanh cảnh thì tuyệt!
Khổ một nỗi hai nàng Kiều đã nhiều lần sanh đẻ, ăn uống không giữ gìn, dù cái bụng
không lớn lắm, nhưng thân thể lệch lạc, tướng đi hai hàng, ngó vào là biết hai
mụ xề ngay. Trước đó cả tháng, hai nàng nhịn ăn đễ giữ eo thon, mông gọn. Nhưng
khổ nỗi cái bụng dưới, tức là cái nây bụng phồng ra như có độn trái dưa hấu cắt
đôi. Hai nàng còn nhờ thím xẩm Lầy Phá (Lệ Hoa), vợ bé ông Bang Quảng Đông dùng
chỉ se trên da mặt để lấy lông mang, cùng tỉa cặp mày cong như viền trăng non,
như cái mống chuồng vậy. Hai nàng biết tướng đi của mình không đẻo, nên uốn éo
mình xà, mông đưa qua bên trái, rồi sàn qua bên mặt làm mấy bà mấy cô dọn đám
dưới bếp có dịp nói hành nói tỏi rồi cười khúc khích.
(MGTTD, các trang 337,
338)
Tác giả Dư Thị Diễm Buồn rất
khoái phần tả cảnh. Cho nên trong tác phẩm Một Góc Trời Thôn Dã, cảnh vật cứ nườm
nượp hiện dưới ngòi bút liến thoắng và trơn tru của chị. Ít có nhà văn gốc Nam
Kỳ có cái mẫn cảm với phần miêu tả như chị.
Trong những thủa ruộng
loang loáng nước, ngăn cách nhau bởi những bờ mẫu ngoằn ngoèo chia ruộng ra có
miếng hình vuông, hình chữ nhựt, hình xéo... còn rộng hay hẹp là tùy theo diện
tích của mỗi miếng ruộng. Những bụi lúa mập, tua tủa lá vươn cao rậm rạp và
xanh lặt lìa như đỡ nâng bông lúa đòng đòng ngậm sữa quằn nặng hột. Những bụi
lúa trồng san sát nhau thành những hàng ngang hàng dọc thẳng tắp chạy dài đến tận
chân vườn xa lắc xa lơ. La đà trên ngọn lúa, bầy chuồn chuồn xanh, đỏ, tím,
vàng, cam, hồng... đủ màu sắc, bay qua lượn lại tìm bắt muỗi. Thỉnh thoảng cây
lúa rung rinh, hay quặn lên làm chao động mặt nước do lũ cá rô, cá sặc,
cá lóc... hám ăn nhào lộn, rượt đuổi nhau, hoặc tranh giành đớp mồi. Những chú
cào cào, sâu, bọ vô tình rơi xuống. Những con ốc bươu đen, sùi bọt trắng đeo từng
hùm từng đám trên cụm lác, cụm đuơng mọc từ đáy nước. Nước ruộng trong veo,
nhìn thấy rõ bầy cá bãi trầu, cá lòng tong, cá bạc đầu lội nhởn nhơ.... Gió
sáng mát rượi. Trên gò nổng xa xa, đàn vịt trời, le le, chằn nghịch... đang rỉa
lông. Bầy chim áo dà, chích chòe gọi nhau bên chòm bông cỏ, bông gạo. Ven ao có
hàng cây điên điển nở từng chùm hoa vàng phơi phới, nghiêng nghiêng in bón dưới
lòng ao, mặt bằng phẳng nước.
(MGTTD, trang 179)
Cảnh nhà của song thân của cô
thôn nữ Hiền dưới mắt bà Cả Cần đuợc tác giả trình bày như sau:
Bà Cả dòm khắp nhà. Tuy
là nhà lợp lá xé, vách tre, nền đất nện, nhưng đâu đó đưọc quét tước sạch sẽ.
Bàn thờ, bàn ghế, tủ áo, cái đi-văng... đóng bằng gỗ rẻ tiền như thao lao, mít,
nhưng được lau chùi bóng láng. Chiếc bàn dài đặt giữa nhà, hai ghế trường kỷ đặt
hai bên có vẻ tươm tất hơn. Ba con Hiền cho biêt, bàn ghế đó do người bác ruột
qua đời để lại cho. Bàn thờ có bát cắm nhang tráng men xanh vẽ bát tiên ngồi
chơi cờ bằng mực chàm đậm. Dĩa quả tử vẻ tám thứ trái cây ở thành dĩa: lệ chi
(trái vải), long nhãn, phật thủ, đào tiên, mộc lý, mộc qua, lựu, trái xá lị.
Bàn thờ không có lư hương, chân đèn, đèn lưu ly gì cả. Chỉ có bài vị thờ cha mẹ
và ông bác sơn son thếp vàng. Trên bàn dài là bình trà bằng sành lớn, cỡ 4 bàn
tay vòng có vẽ hình con đại cẩm kê (gà trống cồ, mồng đỏ, lông màu lửa, cổ và ức
giát lông màu xanh). Trên khay có 6 cái tách sành lại vẽ gà tre, có lẽ không
cùng một bộ với bình tích, nhưng nhìn chung thì tất cả như cùng chung một thứ
men, cùng một kiểu vẽ. Trên 4 cột nhà ở giữa chỉ treo liễn kiếng Lái Thiêu. Còn
trên vách thì treo liễn giấy bồi màu vàng nghệ, màu cánh sen, màu đọt chuối gợn
sóng ngân nhũ. Trên nền ngân nhũ là bài thơ chữ Nho viết bằng lối chữ thảo. Mà
con Hiền bảo là do ông bác để lại để vào ngày Tết trang hoàng nhà cửa. Trên mỗi
tấm tranh là một bài cổ thi chúc xuân mà vợ chông bà không biết đọc chữ Nho nên
không biết nghĩa thú trong thơ ra sao.
(MTTD, các trang 94 95)
Sự mô tả khung cảnh mộc mạc
quê mùa của tác giả Dư Thị Diễm Buồn mang một ý nghĩa sâu xa. Chị muốn gợi lại
khung cảnh gần gũi và thân thương cho những kiều bào cùng thế hệ hoặc cùng
trang lứa với chị trở lên để tất cả cùng nhau trên nẻo thời gian tìm lại, được
đắm hồn sống trong một chặng nếp sống cổ truyền của dân tộc đã từng ghi biết
bao dấu ấn trong tình hoài cố hương vọng cố quốc. Trong lúc miêu tả, chị quăng
mình trọn vẹn vào đối tượng, vào chủ đề một cách nồng nhiệt thành khẩn, bằng
tâm tư hoài vọng.
*
Bước
sang qua quyển Thời Biển Lặng Sông Trong, tác giả đưa câu chuyện lớp con
của hai nàng Kiều, của Thiện Tố và của Thiện Cảm vào thời kỳ nước Việt Nam bị
con sông Bến Hải ngăn đôi, dân Miền Nam Việt Nam được sống sung túc dưới chánh
thể Đệ nhất Cộng Hòa. Thế có nghĩa là, chị bỏ qua thời kỳ chiến tranh
Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, cái thời kỳ gay go nhất mà những cây bút phụ
nữ sinh vào đầu thập nien 50 không thể nào thấu hiểu qua những chúng nghiệm máu
xương của dân tộc.
Trong truyện này, đại gia
đình ông Hai Cung có đủ con trai, con gái, dâu và rể sống cùng xã hay cùng quận
Cai Lậy. Vợ chồng Kiều Lan, vợ chồng Kiều Liên và vợ chồng Thiện Tố từ quyển Một
Góc Trời Thôn Dã đã ở riêng, chỉ trừ vợ chồng của Thiện Cảm vẫn ở dưới
mái nhà thừa tự của cha mẹ. Về lũ cháu của ông Hai Cung, thì con của hai nàng
Kiều Lan và Kiều Liên và con của Thiện Cảm đa số đã sinh cơ lập nghiệp ở phương
xa, duy chỉ có hai cô con gái của cặp Thiện Tố &Cẩm Hương là còn ở với cha
mẹ đầy đủ. Sống với vợ chồng của Kiều Lan chỉ có cô con gái út tên Kiều Nga. Sống
với vợ chồng Kiều Liên chỉ có con gái út tên Kiều Phương. Sống với vợ chồng Thiện
Cảm là cậu con trai áp út trong hàng ngũ lũ con tên Thiện Cần và cô con
gái út tên Hồng Nguyệt.
Kiều Phương khá xinh đẹp,
giỏi đóng kịch và ca hát trong những kỳ văn nghệ do nhà truờng tổ chức vào dịp
phát lễ phần thưởng. Tố Tâm kiều nhược, hiền lành, khép kín với người lạ, nhưng
cởi mở với người thân. Tố Tiên, khỏe mạnh, sinh động, cởi mở với tất cả mọi người,
thường ao ước được du học ở ngoại quốc.
Kiều Nga hiền lành, thùy mị, có năng khiếu làm thơ từ thuở
13 tuổi. Hồng Nguyệt có văn tài tự bẩm sinh; nhưng cô tật ở chân, mặt rỗ. Nhưng
cô thông minh và đôn hậu, biết khắc phục cái bất hảo của thể chất và ở dung mạo
để thành công rực rỡ trên đường đời. Thiện Cần bảnh trai, liến láu, ưa bông đùa
nghịch ngợm. Cậu giống cha ở chỗ đắc mèo, tán gái thành công, nhưng không thọ
hưởng một chút văn tài nào của cha. Cậu là một điểm tươi sáng rực rỡ, gây cho
không khí u trầm trong gia tộc một sinh dộng hào hứng.
Ngoài ra thân với chị em Tố Tâm
và Tố Tiên còn có Tuyết Mai, bạn chung lớp với Tố Tâm. Cô này mồ côi mẹ, bị bà
kế mẫu, các người con gái riêng của bà và lũ em cùng cha khác mẹ xéo xắt đày đọa.
Cuối niên học năm đó, Kiều Phương, Tố Tâm, Thiện Cần và Tuyết Mai cùng đậu bằng
Trung Học Đệ Nhất Cấp, Còn Kiều Nga thi đậu vào lớp Đệ thất. Tố Tâm theo Tuyết
Mai về chơi quê ngoại của bạn. Đó là làng Hòa Lộc thơ mộng nằm ven sông Mỹ
Lương êm đềm. Tại đây, cả hai gặp Khải Tuấn, anh chàng sinh viên đẹp trai sắp tốt
nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh. Nhưng Tố Tâm lẫn Tuyết Mai không cảm thấy
mình bị cú sét ái tình. Tại làng Hòa Lộc cả hai được ăn những món thổ sản địa
phương, được hưởng thú vui thôn dã như cảnh đập lúa trong đêm trăng. Trong chuyến
thủy trình về Cai Lậy, chiếc tàu thủy bị chìm vì chở quá khẳm. Hành khách
đều được cứu sống. Nhưng Tố Tâm làm cho bà nội, cha mẹ và cả đại gia đình phải
một phen điêu đứng vì lo lắng. Nhưng chính nhờ tai nạn này mà Tố Tâm gặp được
anh chàng Quận trưởng Đào Vũ Kỳ Trân để rồi cả hai gặp cú sét ái tình tuy
không nổ ầm ỉ nhưng vẫn làm cho tim họ bàng hoàng dao động.
Trong dịp lễ phát phần thưởng
cuối năm cho các học sinh ưu tú trường Đốc Binh Kiều, đạo diễn điện ảnh Hoàng
Tâm chợt thấy các cô nữ sinh tham gia vào các tiết mục văn nghệ trình diễn rất
vừa ý. Cho nên ông ngõ lời chọn một số nữ sinh mà ông ta cho rằng có thể đóng
phim được, trong số đó có Tuyết Mai, Kiều Phương và hai chị cô Tố. Nhưng cả bọn
phải lên Sài Gòn để trải qua cuộc thử test gay go theo cách thức dự
một cuộc thi tuyển do hảng phim tổ chức. Tuy nhiên, Tố Tâm lẫn Tố Tiên từ chối
vì cả hai muốn tiếp tục việc đèn sách. Chỉ có Tuyết Mai và Kiều Phương nhận lời.
Tuyết Mai không có tiền sắm sửa y phục và các món trang sức trước khi đi
dự thi tuyển lựa tài tử thì vợ chồng Thiện Tố và bà Tư Hiền bỏ tiền ra
giúp cô . Vì ban giám khảo bị một áp lực nào đó do bạo quyền thúc đẩy nên
vào kết quả cuộc thi thì Tuyết Mai đứng hạng nhì, Kiều Phương đứng hạng ba. Còn
giải khôi nguyên thuộc về Nhan Như Thúy Ngọc, một cô thiếu nữ nhan sắc kém cỏi.
Điện ảnh gia Hoàng Tâm bực tức lắm. Cho nên khi nắm vai trò vừa viết kịch bản vừa
làm đạo diễn cho phim Tấm Cám, tuy ông phải giao vai Tấm cho cô
Nhan Như Thúy Ngọc, nhưng khi viết kịch bản, ông cố tình đôn vai Cám do Tuyết
Mai đảm nhiệm lên cao, tạo thêm một vai nòng cốt cho Kiều Phương. Kết quả: Nhan
Như Thúy Ngọc chẳng những bị Tuyết Mai lấn át bóng sắc lẫn nghệ thuật diễn xuất
mà còn bị Kiều Phương làm lu mờ ở nghệ thuật diễn tả hồn nhiên. Thế là từ
đó tên tuổi Tuyết Mai và Kiều Phương lên vùn vụt như diều tung hoành trong gió
lộng, còn cô Nhan Như Thúy Ngọc phải âm thầm rút lui vào bóng tối. Tuyết Mai và
Kiều Phương còn luyện giọng để hành nghề ca hát nữa.
Trong buổi khánh
thành Viện Dưỡng Lão do ông Tỉnh Truỏng tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) tổ chức,
Tuyết Mai được mời cắt băng khánh thành vì cô ta đã tặng cho ban thành lập viện
một số tiền to. Tuyết Mai nhã ý mời gia đình Thiện Tố đến dự buổi tiếp tân lẫn
dạ yến và dạ vũ tại dinh Tỉnh Trưởng. Chỉ có Cẩm Hương cùng Tố Tâm và Tố Tiên đến
dự. Tố Tâm gặp lại Đào Vũ Kỳ Trân và Khải Tuấn. Trong khi nàng và Kỳ Trân xoắn
xít nhau thì Tố Tiên và Khải Tuấn quyến luyến nhau. Nhưng sau đó, cả hai không
liên lạc nhau. Tố Tiên học cho xong bậc trung Học Đệ Nhị Cấp và thi đỗ Tú Tài.
Còn Khải Tuán thì ra trường, trở thành công chức và làm việc ở Sài Gòn.
Hồng Nguyệt trở thành nhà
văn chuyên nghiệp, có kết bạn văn chương với một ký giả Pháp gốc người Ba-lan
tên Ilya Polanski. Anh chàng này hành nghề tự do, không cộng tác nhất định
với một tờ báo nào hay một hảng thông tấn nào, mà người trong nghề gọi là ký giả
''free lance''. Kiều Nga trong chuyến về thăm quê nội ở Bình Chánh, vào dịp dự
lễ ở Thánh thất CaoĐài, gặp anh chàng Tây lai vốn là thợ nguội xuất thân ở sở
Ba-son (Hải Quân Công Xưởng) có lương lậu cao. Mẹ chàng vốn có đạo Cao Đài nên
chàng tháp tùng theo bà dự lễ. Cả hai bắt đầu yêu nhau và hứa hẹn thực hiện cuộc
sống lứa đôi.
Đào Vũ Kỳ Trân ráo riết
tìm cách chiếm đoạt trái tim của Tố Tâm và đi đến cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hai
người bạn thân của chàng là Lê Phước Nghiệp và Hoàng Khiết Tịnh về sau trở
thành thân bằng quyến thuộc của Tố Tâm và Tố Tiên. Lê Phước Nghiệp kết hôn với
Tuyết Mai. Hoàng Khiết Tịnh se duyên chỉ thắm với Kiều Phương dù chàng ta góa vợ
và có con riêng. Còn Thiện Cần quyến rũ hai cô nữ sinh, tặng cho mỗi cô một cái
bầu nên song thân cậu phải đem họ về nuôi. Cả hai ghen tương nhau, dậy giặc hà
rầm làm cậu bực tức đau khổ, không biết cách nào làm cho cảnh nhà dược trong ấm
ngoài êm.
Tố Tiên lên Sài Gòn lưu học
và ở chung với Tuyết Mai. Tình cờ cô gặp lại Khải Tuấn. Cả hai yêu nhau say đắm.
Nhưngsau bao lần bất đồng ý kiến, sau bao cơn cãi cọ vì tự ái, Tố Tiên qua Mỹ
du học. Khải Tuấn vẫn bền lòng đợi nàng trở về.
Bốn năm sau, Tố Tiên hồi hương.
Bà nội nàng ở ngôi nhà từ đường để săn sóc ông nội nàng vì bà chánh thê của
ông đã qua đời. Kiều Nga đã kết hôn với anh chàng Tây lai tên Yves Ronsin mà cô
ta gọi trài trại là Yêu Rồng Xanh. Hồng Nguyệt vẫn độc thân để tâm trí thảnh
thơi phụng sự văn nghiệp đang hồi lừng lẫy của mình. Tuyết Mai vẫn hành nghề
trình diễn ca nhạc và đóng phim. Kiều Phương giải nghệ để cùng chồng khuếch
trương việc thương mãi đang hồi bành truớng và thịnh vượng. Riêng hai cô vợ
không giá thú của Thiện Cần đều bồng con về cha mẹ ruột, lấy chồng khác, nhưng
vẫn cho con mình lui tới với ông bố hào hoa lẫn đào hoa của chúng. Chàng cưới một
cô vợ khác ôn nhu và hiểu biết hơn hai cô vợ sư tử Hà Đông kia. Chàng mở tiệm
bán và sơn sửa xe gắn máy, tìm được hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi chung
lòng chung hướng, đồng sàng đồng mộng cùng người vợ có giá thú.
Kết cuộc, Tố Tiên sau bao
năm bôn ba trên con đường sự nghiệp, thành hôn với Khải Tuấn.
*
Trong tác phẩm Thời
Biển Lặng Sông Trong, các nhân vật thuộc giai cấp trung lưu và thuộc thế hệ
đang độ hoa niên vào 5 năm chót của thập niên 50 đã bước vào một thế hệ được
ánh sáng văn minh tân tiến soi rọi. Phụ nữ đã ý thức sự bình quyền với
các đấng tu mi nam tử, họ từ bỏ khuê phòng để ra đời mưu sinh. Khi lớn lên, họ
không quá chú trọng vào công việc trao giồi công dung ngôn hạnh rồi đợi chồng đến
cưới hỏi. Họ chọn ngành nghề để đeo đuổi trước khi kết hôn.
Vận hội mới bắt đầu. Các trường
tiểu học đuợc mở mang khắp mọi quận lỵ và ở các xã ấp gần quận lỵ hay gần các
miền ngoại ô tỉnh lỵ. Các tỉnh bậc trung đã có một trường trung học công lập và
vài trường trung học tư thục. Còn các tỉnh lỵ nhỏ thì chỉ có một trường trung học
tư thục mà thôi.
Quận Cai Lậy là một địa danh
cách trung tâm thành phố tỉnh Mỹ Tho 23 cây số. Nó nằm bên Quóc Lộ 9, tức là
trên tuyến đường quan trọng đưa đón du khách và các tay buôn bán xuôi ngược từ
Sài Gòn xuống vài tỉnh vùng Tiền Giang và tất cả tỉnh miền Hậu Giang. Từ thuở
bình minh nền Đệ nhất Cộng Hòa nó đã là một nơi thị tứ khá hoạt náo và phồn thịnh.
Cư dân ở đây tiếp xúc khá nhiều nếp sống theo cao trào văn minh tân tiến nên họ
không chênh lệch với thị dân ở Thủ Đô Sài Gòn bao nhiêu. Cho nên các nam sinh,
các nữ sinh cùng các công chức ở đây đều là những kẻ thấm nhuần óc tiến thủ, đều
có thể thu góp một cách dồi dào những kiến thức về một nền văn hóa trên đà phát
triển thuận lợi.
Bởi đó, nữ sĩ Dư Thị Diễm
Buồn thường tạo ra các nhân vật bậc trung lưu đù cấp bậc cao thấp lớn nhỏ. Chị
không thích tạo những nhân vật nông phu cày sâu cuốc bẳm và những
nhân vật thôn nữ chân lấm tay bùn. Tạo những nhân vật cổ lổ hay những nhân vật
quê rít quê rang thì quá xa vời với cái xã hội và cái thế giới mà chị đã
sinh ra và lớn lên. Những nhân vật chậm tiến như thế thì cái xã hội của họ dưới
ngòi bút của chị không thể sinh động được; chị phải nhờ óc tưởng tuợng
thêu dệt thêm ít nhiều chi tiết. Vả lại qua tác phẩm Một Góc Trời Thôn Dã và
tác phẩm Thời Biển Lặng Sông Trong, tác giả muốn nói lên cái hay, cái đẹp của
Miền Nam Việt Nam tự do. Lẽ dĩ nhiên, cảnh đồng quê chỉ nên lót nền mờ nhạt cho
những cô cậu học sinh yêu nhau da diết chứ không nên xen nhiều lần, chui lắm lượt
vào cuộc sống của họ. Họ phải được huởng ánh sáng văn minh để tình yêu của họ
thêm mới mẻ như tình yêu của lớp thanh thiếu niên trong phim ảnh Hoa Kỳ đang
chiếm rộng rải trên thị trường Việt Nam.
Dư Thị Diễm Buồn
thương yêu cưng chiều những nhân vật hiền lương hoặc những nhân vật thông minh
và biết cư xử vuông tròn, ăn ở phải đạo. Họ đâu thể nghèo hèn mà dẫu có nghèo
như Tuyết Mai thì cũng không được dốt nát và phải có ăn học chút đỉnh hoặc phải
có tài hoa. Nhất là họ phải có nhân diện và vóc dáng trội hơn bàng dân thiên hạ.
Đào Vũ Kỳ Trân, Lê Phước Nghiệp và Tố Tâm dù có mảnh khảnh thì hai chàng kia vẫn
được chị ca ngợi là đẹp rắn chắc theo kiểu trượng phu nam tử, còn nàng nọ cững
được chị so sánh vẻ thướt tha của cây lệ liễu. Chàng Hoàng Khiết Tinh tuy mập mạp
nhưng được tác giả tặng thêm vẻ bảnh trai như nam tài tử điện ảnh Rod Taylor.
Còn cô Hồng Nguyệt có chân thấp chân cao và mặt rỗ hoa mè hồi nhỏ, nhưng vì cô
ta hiền lành, tài hoa lỗi lạc nên tác giả thay thế Ông Trời cho cô gặp
ông thầy bó ngải Chiêm Thành kéo dài cái chân thấp vài phân để nó xấp xỉ
với chân cao, và chị đóng cho cô ta đôi giày đế mỏng đé dầy để cô ta có dáng đi
thăng bằng, thướt tha và uyển chuyển. Chưa hết! Chị còn truyền lịnh cho
những vết rỗ trên khuôn mặt cô ta phải theo thời gian mà lì đi để da mặt cô ta
trơn láng.
Chân dung và cách phục sức
của các nhân vật trong Thời Biển Lặn Sông Trong tuy không được miêu tả
chăm chút, nhưng cũng khá chu đáo. Xin đọc đoạn hai chị em Tố Tâm và Tố Tiên đi
dự cuộc dạ yến và dạ vũ tại Dinh Tỉnh Trưởng:
TốTâm Tố Tiên như cặp
sanh đôi. Hai chị em có những đường nét khuôn mặt thanh tú và hao hao giống
nhau. Hai cô chỉ khác Tố Tâm mảnh mai có mái tóc để dài lưng chừng lưng, còn Tố
Tiên nồng nàn sinh lực với mái tóc đen ngắn đến cổ, vén gọn hai bên mép tai.
Đêm nay hai cô ăn mặc và trang sức cũng giống nhau, áo dài tay phùng bằng gấm
Thượng Hải màu hồng, nổi những cành bạch mai trên nền gấm rập rờn ánh bạc. Cả
hai đeo bông giọt mưa bằng ngọc trai, vòng cổ, vòng tay bằng ngọc trai. Quần lụa
trắng, mang giày bít mũi với gót cao. Mái tóc đen như nhuộm mực nằm trong chiếc
''băng-đô'' hồng xõa bồng trên bờ vai thon gầy mảnh khảnh của Tố Tâm. Làn da trắng
của cô đuợc dậm lên lớp phấn hồng nhẹ, dưới ánh đèn điện trông cô hết sức bình
thuờng. Nhưng trước cái vẻ cao sang và nét quý phái trời ban đó, ai trông thấy,
cũng khó lòng mà quên đi trong giây lát.
Còn Tố Tiên dáng thanh
thoát không bằng chị, cô hơi thấp hơn, nhưng có vẻ tươi mát hơn chị bởi nước da
trắng như gà bóc, nụ cười vui tươi hớn hở đi với đôi mắt to ngời sáng. Cái nhìn
vô tư cô đầy tự tin. Và lúc nào trên miệng cô cũng sẵn sàng chớm nở nụ cười
càng lâu càng cảm thấy cô rất dễ thương tạo cho người đối diện nhiều mỹ cảm lẫn
thiện cảm.
(TBLST, các trang 241, 242)
Còn chân dung của Khải Tuấn, một
chàng thanh niên thuộc thành phần ưu tú của xã hội trung lưu cấp cao được tác
giả phác họa như sau:
Khải Tuấn có tướng khỏe
mạnh, cao ráo phải một mét bảy chứ không ít. Nước da ngăm, cái ngăm khỏe mạnh hồng
hào như da rái lựu rám nắng. Mái tóc anh bồng bềnh trên vầng trán vuông, cao và
rộng. Chân mày rậm. Cặp mắt to, tròng đen ngời sáng nhiều hơn tròng trắng như
phớt màu xanh lợt của men sứ. Anh đi đứng thong thả, nói cười vui vẻ, tế nhị.
Hôm đó, Khải Tuấn mặc chiếc áo tay ngắn màu kem, quần nâu sậm. Cái mốt thời
nay, các cô cậu thường hay đeo dây chuyền mỏng, bằng vàng 18k, dài gần tơi rún
và miếng mề-đai hình bầu dục có lồng ảnh giữa hai mặt kiếng. Chiếc đồng hồ mạ
vàng lớn mặt, dây cũng mạ vàng gồ ghề tương xứng với mặt đồng hồ. Anh mang giày
da bóng loáng, miệng luôn cười tươi, ưa pha trò nên trông trẻ trung hơn
trong bộ veste màu xanh đậm đêm dạ tiệc năm nào.
(TBLST, trang 305)
Đặc điểm chót trong văn chương
của Dư Thị Diễm Buồn là chị hào sảng với độc giả. Chị thết đãi các nhân vật
trong mọi tác phẩm của mình những món ăn quốc túy quốc hồn rất thường xuyên, rất
phong phú ê hề, không tiện tặn, không bỏn sẻn. Độc giả nhờ vậy cũng đuợc...
ăn hàm thụ luôn. Nhưng có điều hơi lạ lùng là không bao giờ chị cho các nhân vật
mình ăn bất kỳ món mắm nào. Hỏi ra, chị vốn dị ứng với món quốc túy quốc hồn đậm
tình dân tộc này. Thỉnh thoảng, chị biểu diễn tài nữ công gia chánh của mình bằng
chỉ vẽ cho độc giả làm một vài món ăn địa phương ( như các món ăn cỏ truyền ở
quận Cai Lậy). Và cũng hình như chị chỉ đãi độc giả ăn các món ăn Nam Kỳ Lục Tỉnh
chứ không đãi các món ăn miền Bắc hay các món ăn miền Trung. Có lẽ về ẩm thực,
chị có dị ứng hoặc kỳ thị với các món ăn ngược lên hướng Bắc xa xôi chăng?
*
Trong truyện có thêm hai mối
tình quan trọng nữa. Đó là mối tình giữa Đào Vũ Kỳ Trân và cô Thoại Hoa. Cô này
có học thức, giỏi việc mưu sinh, thông minh, quyền biến, cư xử theo con nhà thượng
lưu trong xã hội. Nhưng Đào Vũ Kỳ Trân chỉ thương mến cô ta, chứ không yêu
đương say đắm như đối với Tố Tâm. Không hiểu Thoại Hoa có vì tự ái hay vì nhút
nhát mà không chịu tỏ tình trước với Kỳ Trân? Nàng mòn mỏi đợi chàng bật đèn
xanh trước, nhưng chàng cứ bật đèn đỏ, rồi bật đèn vàng, nên nàng đành đậu chiếc
xe tình ái tại chỗ. Sau cùng,Thoại Hoa đi qua Pháp học tu nghiệp (tác giả không
nói tu nghiệp về ngành nghề gì ) cốt nhờ không gian và thời gian chôn mối ẩn
tình của nàng.
Mối tình thứ hai là mối
tình giữa Khải Tuấn và nữ dược sĩ Vân Trang. Cô này là chị ruột của Vân Hạnh,
mà cô Hạnh lại là bạn tâm đầu của Tố Tiên. Cả hai chia tay mà cả cô Trang lẩn
Khải Tuấn chẳng ai ngậm ngùi lưu luyến huống hồ là đau khổ tổn thương? Mối tình
này gượng gạo, lỏng lẻo, chẳng những không dậm chân tại chỗ mà coi bộ đang hồi
suy thoái. Cho nên Vân Trang cương quyết cắt đứt cuộc tình phai thắm lạt hương
kia đi. Có như thế, Vân Trang thảnh thơi đi lấy chồng, còn Khải Tuấn tha hồ vẫy
vùng trong cuộc đùa bóng giỡn trăng với Tố Tiên để rồi trầm lụy si mê nàng.
Nếu bảo rằng Thời Biển Lặng
Sông Trong là tiểu thuyết đồng quê theo trường phái văn chương hiện thực
thì chưa chắc đúng. Ở đây, trong bối cảnh nửa chợ nửa quê, tác giả thăng hoa
vào những giấc mơ danh vọng chói chang, những ước vọng đến những địa vị nguy
nga tráng lệ dưới bóng mặt trời, rồi rủ rê độc giả bơi lội trong những ảo
tượng lộng lẫy do chị un đúc, sản sinh . Những giấc mơ, những ước vọng ấy được
thể hiện ở hai cô gái tỉnh lỵ, một liệt vào bậc trung lưu cấp thấp (Kiều Phương),
một còn cựa quậy trong cảnh nghèo hèn (Tuyết Mai), nhưng bỗng dưng nhờ tài năng
thiên bẩm vụt trở thành minh tinh màn bạc. Chúng còn thể hiện qua cô gái có tật
chân và xấu xí từ lúc nhỏ (Hồng Nguyệt) và qua cô gái hiền lành khờ khạo, không
có cá tính (Kiều Nga) ; rồi đó cô đầu trở nên một nhà văn lừng danh, cô sau trở
thành một nhà thơ lỗi lạc. Hai cô gái lao vào vực văn nghệ trình diễn và hai cô
gái lao vào môi trường văn chương thi phú, nếu không được trai tráng xun xoe ve
vãn thì cũng lấy chồng giàu. Còn hai nữ nhân vật vai chánh là Tố Tâm và Tố Tiên
đều lấy chồng nhà giàu, học giỏi, đẹp trai hoặc bảnh trai. Riêng cô chị
thì đậu tú tài vào đầu mùa nền Đệ nhứt Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam, bằng đó
rất hiếm quý vào thuở đó, huống chi bằng cao học của cô em đa từng du học
ở Mỹ.
*
Dư Thị Diễm Buồn vốn chủ
trương văn dĩ tải đạo. Chị chịu ảnh hưởng nền luân lý cổ truyền của nhà sĩ Nguyễn
Đình Chiểu: Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Nhưng vào thời đại nam nữ bình quyền, chị không đành lòng để cho nàng phục tùng
chàng theo truyền thống gọi dạ bảo vâng. Lúc còn đá lông nheo với nhau,
lúc yêu nhau và lúc hứa hôn với nhau, nàng có thể cải vả với chàng rầm rĩ, chì
chiết chàng dằng dai bởi tự ái ổn thương, bởi ghen tuông sa đà. Nhưng khi
cả hai nên vợ nên chồng rồi thì nàng trở nên mềm mỏng ngọt ngào với chồng.
Trong hai truyện dài Một Góc Trời
Thôn Dã và Thời Biển Lặng Sông Trong ít có nhân vật gia nhập vào quân
ngũ, trừ Đào Vũ Kỳ Trân, Lê Phước Nghiệp và Hoàng Khiết Tịnh vì thuở đó
dân miền Nam an hưởng thái bình, chưa có ngòi lửa chiến tranh ngún cháy khắp phần
đất nước tự do nên chưa có lịnh Tổng Động Viên. Cho nên dù vốn yêu lính nhưng
tác giả chỉ có thể tạo ra những lính kiểng lính huê, ngồi ngoáy bút ở văn phòng
và họ chưa thể tỏ ra anh dũng trong các cuộc hành quân diệt địch.
Dư Thị Diễm Buồn cũng chủ trương
luôn chuyện ở hiền gặp lành. Trong hai tác phẩm này, người ác đúng nghĩa rất hiếm.
Bà Hai Cung xéo xắt đày đọa tình địch lúc đầu, nhưng về sau lại tỏ ra tử tế với
bà Tư Hiền và đứa con của chồng. Hai nàng Kiều quyết lòng chia uyên rẽ thúy thằng
em khác mẹ của mình vì mặc cảm hơn vì hiểm ác. Tuy nhiên khi con gái của Thiện
Tố gặp nạn, cả hai tỏ ra thông cảm với Cẩm Hương, ân cần an ủi nàng.
Còn thêm một đặc điểm nữa,
bao giờ các nhân vật chánh của Dư Thị Diễm Buồn cũng được trời ban thưởng: nam
nhân vật thì hùng tráng ở sắc vóc và trượng phu ở cách sống, còn nữ nhân vật
thì diễm lệ yêu kiều, tâm tánh hiền lương. Lại nữa, họ còn được Thượng Đế lì xì
một hậu vận tốt đẹp hiển vinh giống như hậu vận các nhân vật chánh trong cổ
tích, trong truyện thơ, trong các tác phẩm diễm tình của nữ sĩ Barbarra
Cartland (Anh) hoặc của đôi uyên ương tiểu thuyết gia Delly (Pháp).
Dư Thị Diễm Buồn ưa viết những lời
mắng mỏ và chì chiết với các nhân vật ác độc (nhân vật phản diện), ưa nói xóc
hông xóc óc họ. Nhưng điều đó chứng minh tâm địa chị rất tốt lành, rất can đảm.
Có lẽ chị nghĩ rằng mình chẳng cần các độc giả trí thức rởm rang khó tánh, hạng
ưa chê bai văn chương nêu lên cái Thiện. Thứ văn chương dưới tầm mắt cao ngạo của
họ là lỗi thời. Con đường văn chương tải đạo của chị đã mở sẵn từ khi chị bắt đầu
cầm bút và chị tha hồ hăm hở xông pha lên đường, trối kệ những miệng lằn
lưỡi mối được ngụy trang đó là miệng lưỡi thông minh uyên bác của bọn ngụy trí
thức. Nếu chị nghĩ như thế thì các tác phẩm của chị lọt vào quảng đại quần
chúng dễ như bỡn và sẽ trường tồn với cảm quan trong sáng của hạng độc giả thuần
hậu và đơn giản trong cách suy nghĩ.
Hồ Trường
An
(trích Quê Nam
Một Cõi)