Kính gửi quý anh chị phần kế tiếp và đọan chót bài post trước đây
Phần 1
Caroline Thanh Hương
Trong thơ Khayyam đơn vị thời gian là một
ngày đêm – ngày Hôm Nay. Hôm Nay có nghĩa là cả cuộc đời. Trường ca của
Fitzgerald được bắt đầu bằng buổi bình minh (Thức dậy đi và hãy ngắm
vầng đông…) và kết thức bằng đêm trăng (…Mai rồi trăng đừng kiếm tìm vô
vọng/ Ta đã về nằm ở dưới bóng dương).
Có một ý nghĩ xuyên suốt luôn dằn vặt Khayyam rằng thời gian trôi vội
vã, rằng hãy biết nắm bắt khoảnh khắc, biết sống với ngày hôm nay.
Rót rượu ra, em nhé, chớ phân vân
Thời gian đi ta không thể níu chân
Ngày Mai chưa về, Hôm Qua đã chết
Chỉ Hôm Nay ta hãy sống cho mình.
Biết sống trong ngày hôm nay thì khôn ngoan nhưng sống chỉ vì ngày hôm nay thì dại dột!
Khi ta tiếc nhớ về quá khứ hay mơ ước về tương lai thì ta đang dùng thời
gian của hiện tại. Chỉ trong thời gian này ta đang sống theo đúng
nghĩa. Nhưng tiếc nhớ về quá khứ thì phỏng có ích gì – quá khứ không còn
quay trở lại. Suy nghĩ, mơ ước hay dự định cho tương lai, kể ra cũng
hay đấy nhưng tốt nhất là hãy biết sống cho hiện tại bởi hiện tại là
tiền đề để tạo dựng tương lai.
Trong thế giới quan của Khayyam không chỉ có hôm nay là thước đo thời
gian mà cụ thể hơn là khoảnh khắc, là phút giây ta đang có.
Từ thần thánh đến vô thần – chỉ gang tay
Từ số không đến vô cùng – chỉ phút giây
Hãy gìn giữ phút giây này quý giá
Đời – không ít, không nhiều – chỉ phút giây.
Dòng thời gian vô tận đã chảy trước khi có
ta ra đời. Dòng thời gian vô tận còn chảy mãi sau cái chết của ta. Nếu
đem so với vĩnh hằng thì thời gian của ta: năm, tháng hay ngay cả trăm
năm thì cũng chỉ là khoảnh khắc, giây phút mà thôi. Cuộc đời con người
chỉ là phút chốc nhưng trong cái giây phút này con người có thể cảm nhận
được sự vĩnh hằng “Đời là cõi vĩnh hằng thu nhỏ” Emerson (1803 –
1882). Điều này rất quan trọng bởi sự đầy đủ, toàn vẹn của một phút giây
cũng là sự toàn vẹn đầy đủ của vĩnh hằng, bởi giây phút này là biểu
tượng của hạnh phúc con người. Hạnh phúc không phải đợi đến ngày mai,
ngày kia hay sau một tuần, một tháng, một năm mà hạnh phúc chính là giây
phút này, khi mà ta cảm thấy hoà nhập với vũ trụ. Và nếu như ta có thể
thì đây chính là giây phút tuyệt đỉnh của ta.
Muốn nếm hạnh phúc hãy rót rượu ra
Coi khinh ngày mai, đừng tiếc hôm qua
Mọi gông cùm dù chỉ trong phút chốc
Ớ người tù hãy gỡ khỏi hồn ta.
Viết đến đây tôi bỗng nhớ đến Xuân Diệu (1916-1985) khi nghe Xuân Diệu giục giã:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!
Phải vội vàng bởi thời gian không đứng đợi, bởi phía trước cuộc đời là
cái chết.Phải vội vàng bởi mỗi giây phút của cuộc đời ta không còn lặp
lại, bởi cái chết luôn rình rập bên ta. Mà chết là hết! Không bao giờ ta
còn được quay lại cõi đời này cho dù cõi đời này đau khổ thật đã nhiều
nhưng sung sướng cũng chẳng ít. Và tất nhiên, sau cái chết của ta rồi
trăng vẫn sáng, hoa cỏ vẫn ngát hương, chim vẫn hót líu lo trên cành,
rượu và người đẹp cũng không bao giờ hết nhưng cái bông hoa kia đã héo
tàn thì không còn tươi trở lại, bởi thế mà phải biết vội vàng.
* * *
Nhà nghiên cứu người Đan Mạch Christensen
cho rằng tất cả quan điểm triết học của Khayyam tập trung ở một nguyên
tắc: “Carpe diem”15 (nắm bắt khoảnh khắc), rằng Fitzgerald bằng cách
dịch tự do đã chuyển rất chính xác cái thần của Rubaiyat…
Omar Khayyam trở thành đề tài của nhiều cuộc tranh cãi gay gắt. Một
người này chỉ nhìn thấy Khayyam là người đề cao chủ nghĩa khoái lạc, một
người kia chỉ nhìn thấy Khayyam là kẻ bi quan, yếm thế còn một người
khác lại cho rằng Khayyam là người thần bí. Mỗi người giải thích theo
một kiểu và ai cũng có lý của mình bởi Omar Khayyam có nhiều đặc điểm
trái ngược nhau lại tập trung ở trong một con người.
ở một số bài thơ này ta thấy Khayyam như một kẻ tuyệt vọng, xa lạ với cuộc đời.
Dưới trời này cuộc đời là bể khổ
Chẳng bao giờ ông trời thương ta cả
Người chưa đến giá mà biết đau thương
Thì có lẽ chẳng bao giờ đến cả
hay như một người bi quan:
Người đi tìm chân lý ở khắp nơi
Rồi cứ băn khoăn cho đến cuối đời
Nhưng chẳng thể tìm đâu ra chân lý
Chỉ áo quan để khâm liệm người thôi.
thì ở một chỗ khác ta thấy Khayyam là người đề cao chủ nghĩa khoái lạc, khát khao những lạc thú của cuộc đời.
Vẫn ham mê từng gương mặt dễ thương
Và ham mê một thú uống rượu nồng
Tôi cố gắng phần của mình nhận hết
Đến một ngày riêng chưa trở thành chung.
Valentine Zhukovsky(1858 – 1918) – một
trong những nhà nghiên cứu về Omar Khayyam đầu tiên của Nga đã nhận xét:
“Ông là người có tư tưởng tự do, là kẻ nổi loạn đòi dẹp bỏ lòng
tin. Ông là kẻ vô thần, là người duy vật, người giễu cợt chủ nghĩa thần
bí, là người theo chủ nghĩa phiếm thần luận. Ông là một tín đồ ngoan
đạo, một triết gia chính xác có óc quan sát tuyệt vời, một nhà bác học
uyên thâm.Ông là kẻ chơi bời truỵ lạc, kẻ đạo đức giả. Ông không chỉ mạt
sát Thượng Đế mà còn phủ định mọi lòng tin. Ông là người có bản tính
mềm mỏng thiên về những suy tưởng thánh thần hơn là thú vui trần
thế. Ông là kẻ hoài nghi, ông là Abu Ala của Ba Tư, là Voltaire,
Heine16… Thực ra khó mà hình dung nổi con người này nếu ông không phải
là một người quái gở mà trong đó tập trung cả trăm thứ bà rằn, vừa say
mê cao thượng, vừa dục vọng thấp hèn”.
Đa số các nhà nghiên cứu Phương Tây gọi
Khayyam là người đề cao chủ nghĩa khoái lạc, đại diện tiêu biểu của
trường phái Epicurus (342 – 270 tCn).Thực ra quan điểm hưởng lạc của
Khayyam không hoàn toàn giống với quan điểm của Epicurus, thậm chí còn
có sự khác biệt. Khayyam có lẽ gần với Aristippos (435-356 tCn)
nhiều hơn. Triết lý Carpe diem không phải là bản chất của triết học
Epicurus.
Có một câu chuyện vui được kể lại rằng trước cửa ra vào khu vườn, nơi
Epicurus dạy triết học có dòng chữ: “Bạn thân mến, đến đây bạn sẽ sung
sướng, đến đây bạn sẽ được thỏa mãn”. Tuy vậy, những người khách đến đây
chỉ được uống nước nguồn tinh khiết và ăn món ăn chay từ lúa
mạch. Trong khi đề cao sự thỏa mãn Epicurus kêu gọi học trò của mình hãy
ăn kiêng và rèn luyện ý chí thông qua triết học.
Về mặt này ta thấy Khayyam “vật chất” hơn.
ổ bánh mì tròn như cái nong
Chân cừu nướng, một bình rượu nồng
Người bạn gái như mùa xuân sớm
Niềm vui này vua chúa đừng mong.
Chúng tôi xin tóm tắt một số nét chính về
quan điểm hưởng lạc trong triết học của Epicurus để bạn đọc có thể so
sánh với thơ của Khayyam.
Epicurus cho rằng con người ta ai cũng sợ
cái chết, đau khổ và lo cho số phận không được may mắn. Mặt khác, con
người luôn hướng tới lạc thú trong đó có sự thỏa mãn với cái đẹp, tình
yêu… Mục đích của con người là một cuộc sống hạnh phúc. Epicurus coi
hạnh phúc là sự thoả mãn. Điều kiện để có một cuộc sống hạnh phúc là một
thể xác khoẻ mạnh và một tâm hồn tĩnh lặng. Hãy thoả mãn với tất cả
những gì mình có nhưng nên nhớ rằng sự thoả mãn thể xác quá mức sẽ dẫn
đến đau khổ, bệnh tật. Không có Trời, không có Chúa, không ai mang hạnh
phúc đến cho ta cả. Hạnh phúc ở trong ta, trong thú khoái lạc tinh thần
và một cuộc sống tránh mọi công việc xã hội. “Hãy luôn luôn làm việc.
Luôn luôn yêu. Hãy yêu vợ con hơn chính bản thân mình. Đừng trông chờ ơn
huệ ở người ta và đừng phiền muộn nếu người ta không cảm ơn mình. Hãy
để lời khuyên răn thay cho thù ghét, nụ cười thay cho sự coi khinh. Từ
cây tầm ma hãy làm ra sợi chỉ, từ cây ngải cứu hãy nấu thành thuốc
cao. Biết cúi xuống để nâng người ngã dậy. Trong đầu hãy để cho trí khôn
nhiều hơn lòng tự ái. Hãy tự hỏi mình mỗi buổi chiều: ngươi đã làm được
điều gì tốt. Luôn luôn có trong tủ sách một quyển sách mới, trong hầm
rượu một bình rượu đầy và trong vườn một bông hoa tươi”.
Là người duy vật Epicurus cho rằng lòng tin
vào linh hồn bất tử làm cho con người không hưởng được hết mọi lạc thú ở
đời, những thứ chỉ đến có một lần.Khát vọng về một cuộc sống bất tử là
hoàn toàn không có cơ sở vì rằng mọi thứ trên đời đều có thời hạn, có
bắt đầu và kết thúc. Epicurus khuyên người đời hãy sống vui vẻ và sử
dụng hợp lý cho hết thời hạn của mình, với thời hạn ấy hoàn toàn đủ để
tận hưởng mọi sung sướng trên đời. Và “khi cái chết đến gõ cửa thì chúng
ta, những người đã no đủ, sẽ vui lòng đứng dậy khỏi bàn nhường chỗ cho
kẻ đến sau”.“Tất nhiên, ngay cả khi đã sống hết thời hạn của mình ta vẫn
cảm thấy tiếc nuối vì phải chia tay với cõi đời tuyệt đẹp, nơi có đầy
ánh mặt trời nhưng biết làm sao được nếu như đời sinh ra như vậy. Chẳng
lẽ ta phải đau đớn với ý nghĩ rằng sao ta không sống một trăm hay một
nghìn năm trước? Thì tại sao ta lại phải buồn lòng vì không được sống
sau một trăm hay một nghìn năm?”
Epicurus cho rằng cái chết không có gì phải
sợ vì khi đang có ta thì cái chết chưa đến còn khi cái chết đến thì ta
đã không còn. Khayyam thể hiện ý này cũng khác với Epicurus. Khayyam cho
rằng đời người sống chỉ có một lần và chết cũng vậy: chỉ có một lần.
Nếu một ngày cái chết đến sau lưng
Thì hãy quay mặt lại đối diện cùng
Một lần thôi chẳng có gì phải sợ
Đấy là lời dặn lại lúc lâm chung.
* * *
Đầu thế kỷ 20, khi mà “Rubaiyat” đang rất
thịnh hành thì ở nước Mỹ có một số nhà phê bình đã lên tiếng chống lại
“bả” Khayyam. Theo họ thì Khayyam là người có “tâm hồn cao thượng nhưng
vô liêm sỉ”. Có tính cách “cám dỗ, lôi kéo con người từ bỏ những đạo đức
tôn giáo…” Nhưng từ năm 1872 trong tạp chí “Cũ và Mới” nhà truyền đạo
John Chadwick đã nhận xét rất chính xác: “Trong thơ Khayyam có một sự
quan tâm sâu sắc đến cuộc sống, cái chết và phía bên kia cuộc đời. Chủ
nghĩa hưởng thụ chỉ là cái vỏ bề ngoài mà nếu nhìn sâu vào ta sẽ thấy
một sự thể hiện vô cùng tỉnh táo. Ai đấy gọi quyển Ecclesiates là quyển
“đau buồn hơn hết trong những cuốn đau buồn” thì người đó chưa đọc Omar
Khayyam.Những bài thơ này còn đau buồn hơn quyển Ecclesiastes gấp nhiều
lần. Thứ nhất, là bởi vì chúng vang lên một cách du dương, êm ái
hơn. Thứ hai, là bởi vì trong đó tuyệt vọng nhiều hơn, và nữa, đằng sau
những bài thơ này ta cảm thấy một tâm hồn cao thượng hơn”17.
Nhà truyền đạo đã đánh giá quyển thơ của kẻ
hưởng lạc phương Đông cao hơn quyển Ecclesiastes của Kinh Thánh, là
quyển sách phổ biến nhất, linh thiêng và kính trọng nhất của phương Tây
Thiên Chúa giáo.
Có một điều thú vị là trong thơ ca phương Tây thời Phục hưng ta vẫn hay
gặp những mô típ của Khayyam. Sống cách Khayyam gần 500 năm Pierrè
Ronsard có những suy nghĩ về kiếp phù sinh, về ý nghĩa cuộc đời, về sự
giàu có, về thời gian…rất gần gũi với Omar Khayyam.
Ba thời gian từ lúc ta sinh ra
Có hiện tại, tương lai và quá khứ
Ngày mai, than ôi! – biết gì đâu chứ
Tốt nhất đừng thiên kiến, chớ đoán mò.
Hôm qua đã đi như một giấc mơ
Và mãi mãi không còn quay về nữa
Chưa đến tương lai, không còn quá khứ
Chỉ mình ta làm chủ phút giây này.
Hãy nắm bắt, hãy biết sống hôm nay
Bởi thời gian vút qua như chiếc bóng
Bên chén rượu, quây quần quanh bè bạn
Một lần thôi hãy quý phút giây này
Hãy hát tình yêu, uống rượu và vui
Xua chiến tranh, nỗi buồn và cay đắng.
Hay như bài sonnê “Gửi Helène” nổi tiếng đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng.
Khi mà em đã về gặp tuổi già
Ngồi một mình buổi chiều bên lò sưởi
Em đọc những dòng thơ và nhớ lại:
“Những ngày xưa thơ đã viết Ronsard”.
Và tôi như nhà thi sĩ tài hoa
Cho nữ tỳ đem tên tôi khen ngợi
Em không ngủ và em quên mệt mỏi
Nghe những lời ca tụng của người ta.
Còn tôi ngủ yên giấc ngủ muôn đời
Tình chỉ là sự quên lãng mà thôi
Nhưng còn em những đêm dài không ngủ
Em buồn rầu nhớ lại những lời tôi.
Chớ miệt thị tình yêu mà hãy nhớ
Giữa mùa xuân vội hái nụ hoa đời.
Trong sáng tạo của William Shakespeare
(1564 – 1616) ta cũng gặp những ý tưởng của Khayyam về sự tuần hoàn của
vật chất. Ta hãy đọc hồi IV, cảnh 3 trong bi kịch Hamlet nổi tiếng nơi
Hamlet nói với vua Claudius rằng con người có thể dùng con giun đã ăn
nhà vua để làm mồi bắt cá rồi lại ăn con cá đã ăn giun. Và dưới đây là
những lời của Hamlet nói với Horatio ngoài nghĩa địa (Hồi V, cảnh 1):
“… Alexander18 chết đi, người ta chôn Alexander rồi Alexander trở thành
đất sét thì tại sao từ đất sét này lại không thể làm thành nắp bình
rượu?
Tội nghiệp thay vị Hoàng đế oai phong
Ngài chết đi thành đất cát ngoài đồng
Ôi cục đất làm kinh hoàng thế giới
Giờ trát tường chắn ngọn gió mùa đông”.
Hamlet đã kết thúc lời thoại của mình bằng
một bài tứ tuyệt. ý câu nói của Hamlet đã được Khayyam nói đến cách đó
hơn 500 năm về trước:
Đừng buồn chi! Đời là vậy đó mà
Hết sáng ngày lại bóng tối buông ra
Nghìn năm sau xương ta thành đất cát
Cho người ta đem đóng gạch xây nhà.
Thật khó nói rằng làm sao mà Pierrè Ronsard
hay William Shakespeare có sự ảnh hưởng của Omar Khayyam bởi chỉ đến
đầu thế kỷ 19 ở Châu Âu mới xuất hiện một số bài rubaiyat được dịch đầu
tiên và người Âu chỉ thực sự biết đến Omar Khayyam khi bản dịch của
Edward Fitzgerald ra đời vào năm 1859.
III
Nguồn của bản tiếng Việt này là bản tiếng
Anh của Edward Fitzgerald với các lần hiệu đính và các bản tiếng Nga của
nhiều dịch giả rubaiyat nổi tiếng nhất của Nga và Xô Viết như
Plisetsky, Rumer, Thorgevsky, Strigkov, Derjavin, Nekora,
Tenegina… Ngoài ra còn tham khảo nhiều bản khác được nêu trong thư mục
tóm tắt ở cuối sách.
Bản tiếng Việt này được sắp xếp theo từng
mảng đề tài theo một trình tự thời gian của cuộc đời người giống như
cách sắp xếp của Fitzgerald: thời tuổi trẻ yêu đời, ca tụng Thượng Đế,
thích chơi bời, ham mê rượu, phụ nữ. Sau đó là nhà thông thái theo con
đường Sufism rồi dần dần tỏ ra nghi ngờ cho đến phủ nhận Thượng Đế. Về
già trở thành người bi quan, thất vọng về cuộc đời, hoài nghi tất cả.
Ở Châu Âu hiện nay có thể tìm thấy trên 2000 bài rubaiyat được coi là
của Omar Khayyam nhưng chủ yếu vẫn là các dị bản. Thực tế số lượng
rubaiyat của Khayyam là 200, 300, 500 hay nhiều hơn? Rất nhiều nhà
nghiên cứu xác định trong khoảng 200 – 500 bài. Bản tiếng Việt này dừng
lại ở con số 487 bài. Theo chúng tôi số lượng bài đã phản ánh hết mọi
khía cạnh của thơ Khayyam.
Mặc dù đã chọn lọc rất kỹ lưỡng, so sánh với nhiều bản khác nhau nhưng
nếu một bạn đọc để ý sẽ thấy vẫn có những bài gần giống nhau về nội
dung. Thực ra đây là một vấn đề chung của nhiều ngôn ngữ và là một vấn
đề phức tạp trong việc phân loại, đánh giá. Xin dẫn lời của một nhà
phương Đông học nổi tiếng, Viện sĩ thông tấn Liên Xô Edward Bertels về
vấn đề này: “Một người đọc chú ý thì không thể không nhận thấy có nhiều
bài rubaiyat chỉ nói về một đề tài. Ta tìm thấy từng “chùm” rất giống
nhau về nội dung, chỉ khác ở những chi tiết rất nhỏ. Ta có cảm giác rằng
đấy là một đặc điểm của thơ Khayyam. Ta biết rằng cuộc đời Khayyam có
nhiều tị hiềm ghen ghét, thậm chí cả sự nguy hiểm đến tính mạng từ những
kẻ cuồng tín Islam… Khayyam có lẽ đã không có ý định tập trung rồi phổ
biến những bài thơ của mình. Có thể ông chỉ viết ra trên những mẩu giấy
nhỏ và khi ngồi quanh bạn bè, bên chén rượu ông đã đọc cho mọi người
nghe. Ta hình dung có năm người bạn của Khayyam sau khi về nhà chép lại
những bài thơ đã nghe mỗi người lệch đi một chút, thay vào một vài
lời. Từ đó sinh ra ít nhất sáu bản mà rồi sau đấy khi tập hợp lại người
ta coi là những bài riêng biệt. Số dị bản cứ tăng lên theo thời gian khi
người đời sau tìm chép lại”.
Một đặc điểm nữa của rubaiyat mà khi dịch ra tiếng Việt rất khó giải
quyết. Đó là cách gieo vần của rubaiyat thường có những từ hoặc cụm từ
lặp lại ở cả ba câu (đôi khi cả 4 câu). Dưới đây là một số ví dụ mà
chúng tôi cố gắng dịch đúng cách gieo vần của những bài rubaiyat dân
gian:
Em không ngủ, em không biết làm sao
Con đường dài, em không biết làm sao
Nhìn con đường, anh còn quay trở lại?
Thiếu anh rồi, em còn biết làm sao!
* * *
Giấc mơ ngọt ngào trong đêm đến rồi đi
Người đẹp dịu dàng trong mơ đến rồi đi
Và sáng ra người đẹp dịu dàng đến thật
Như trăng giữa trời người đẹp đến rồi đi.
hoặc như những bài sau đây:
Mùa xuân đến rồi. Bao giờ em đến?
Thiếu em anh buồn. Bao giờ em đến?
Em hứa rằng khi tuyết bắt đầu rơi
Tuyết tan hết rồi. Bao giờ em đến?
* * *
Em có thể phụ tình – còn anh không thể
Em có thể lại yêu, còn anh không thể
Em có thể quên hết thảy mọi điều
Quên mãi mãi, muôn đời còn anh không thể.
Thơ rubaiyat được gieo vần theo sơ đồ aaba
(một số ít bài aaaa). Trong tiếng Việt nghĩa là thơ tứ tuyệt nhưng thơ
tứ tuyệt chỉ có 5 tiếng hoặc 7 tiếng không thể chuyển tải hết lượng
thông tin của rubaiyat. Chúng tôi đã từng loay hoay trong nhiều tháng
trời dịch ép vào 7 tiếng nhưng rồi thấy không ổn. Tham khảo rất nhiều
ngôn ngữ châu Âu thì nhận thấy rằng người ta đều dịch không hạn chế số
tiếng, thậm chí người ta còn dịch rubaiyat 4 câu thành 8 câu, miễn là
chuyển tải hết nội dung của rubaiyat. Từ đó chúng tôi quyết định không
hạn chế số tiếng còn cách gieo vần thì vẫn tuân thủ cách gieo vần của
rubaiyat trừ cách gieo vần cả 4 câu như nhau vì nhận thấy không phù hợp.
Trong bản tiếng Việt cũng ít khi dịch tên riêng, tên của các nhân vật
truyền thuyết, các ông vua, tên địa danh mà phần nhiều chỉ dịch chung
chung là vua, thần, tiên… Có một hình tượng rất quen thuộc trong
rubaiyat là người hầu rượu Saki. Saki là một chàng trai trẻ vui nhộn,
hoạt bát, nhanh nhảu được Khayyam hay nhắc đến. Trong bản tiếng Việt
Saki trở thành cô bán hàng. Có lẽ đây là một đặc điểm của văn hoá Việt.
Xưng hô đối với Đấng Tối Cao trong rubaiyat được Khayyam dùng rất đa
dạng. Từ tiếng Ba Tư khi dịch sang các ngôn ngữ khác cũng vậy. Thí dụ
trong bản của Fitzgerald có rất nhiều từ đồng nghĩa của từ “Thượng Đế”
(He, Thou, Lord, Maker, Potter, Master hoặc ngay cả Master of the Show,
dark Ferrash, Eternal Saki rồi Trời (Heav’n), Vận (Destiny), Số (Fate),
Thời gian (Time). Trong tiếng Việt cũng được dùng rất đa dạng: Thượng
Đế, Ông Trời, Ông xanh, Ông Thợ gốm, Ông Tháp canh, Con tạo, Số phận,
Thời gian, Người, Ngài…
Có một số đặc điểm của rubaiyat mà theo chúng tôi rất khó chuyển đạt là
tính triết lý, sự cô đọng, súc tích của thơ Khayyam. Chỉ với 4 câu thơ
Khayyam nói lên được những vấn đề mà người khác phải cần đến nhiều trang
giấy.Thông thường hai câu đầu của rubaiyat là hai câu đặt vấn đề còn
cách giải quyết vấn đề và kết luận của tác giả ở câu thứ 3 và thứ 4.
Hãy cho tôi một bình rượu thật đầy
Cô bán hàng cứ rót, chớ dừng tay
Giờ chỉ rượu người bạn hiền duy nhất
Cả bạn và tình đều đã đổi thay.
Nhưng cũng không ít khi rubaiyat trở thành một cuộc đối thoại mà tác giả chỉ làm vai trò người dẫn chuyện.
Cá hỏi vịt: “Liệu nước có trở về
Và nếu trở về thì đến bao giờ?”
Vịt trả lời: “Khi Người đem ta rán
Chảo sẽ trả lời những câu hỏi kia”.
Đôi khi hai câu đầu nêu lên vấn đề. Câu thứ 3 nêu lên một sự vật hay hành động mà ta thấy được đột ngột lật lại ở câu thứ 4.
Ta cần sống sáu mươi năm yên ổn
Không vì giàu mà chỉ vì tình bạn
Đến một ngày ta chưa trở thành bình
Cần kết bạn với cả bình và chén.
hoặc như một bài khác ;
Hãy vuốt ve mái tóc đen óng mượt
Uống rượu nồng, nói những lời đường mật
Đến một ngày thần chết chưa bắt ta
Những lạc thú trên đời cần nắm bắt.
Một đặc điểm nổi bật trong thơ của Khayyam là sự tương phản.
Vẫn biết rằng rượu cấm bởi Koran
Rượu đắng cay nhưng tôi uống với em
Chẳng vô tình như người đời vẫn nói
Những thứ gì càng cấm lại càng ham.
Câu đầu tiên “rượu” được đặt bên cạnh
“Koran”. Koran cấm rượu, bởi thế nên hai khái niệm này kỵ nhau giống như
lửa với nước, như mặt trăng với mặt trời… Câu thứ hai: “rượu đắng cay”
(đã đành là như vậy) nhưng Khayyam ngồi uống với “em” (vốn được coi là
thứ ngọt ngào nhất trên đời). Như vậy “đắng cay” và “ngọt ngào” là một
cặp tương phản thứ hai. Câu thứ ba giải quyết vấn đề đã nêu để rồi đi
đến kết luận: “Những thứ gì càng cấm lại càng ham”. Khayyam nói lên một
cái thói thường của người đời, cái bản năng tự nhiên của con người nhưng
hai từ “cấm” và “ham” cũng là một cặp tương phản nữa.
Đi thanh minh về sự ham mê lạc thú của mình Khayyam viết:
Có phải con được thừa thì người bị thiếu đâu
Con có nghèo đi thì người cũng chẳng giàu
Thượng Đế ơi con xin Người độ lượng
Tha thứ nhiều và ít đánh con đau.
Chỉ trong 4 câu Khayyam sử dụng đến 4 cặp
từ đối lập với nhau: Thừa và Thiếu, Giàu và Nghèo, Tha và Đánh, Nhiều và
It…vân vân và vân vân.
* * *
Thơ của Omar Khayyam cũng như các công
trình về toán học, thiên văn học hay triết học của ông – đó là thế giới
của những điều bí ẩn, của những câu hỏi day dứt mà bất kỳ con người có
trí tuệ nào cũng muốn tìm ra câu trả lời trong suốt cuộc đời mình. (Tất
nhiên, con người của thế kỷ 21 sẽ có nhiều điểm không đồng tình với
Khayyam nhưng chúng ta không thể đem những tiêu chuẩn của thời đại mình
làm thước đo cho người đã sống cách chúng ta gần 1000 năm). Omar
Khayyam là con người có những suy nghĩ vượt ra ngoài thời đại mình trong
khi ông mãi mãi vẫn là con người của thế kỷ 11 và 12.
Omar Khayyam suy ngẫm rất nhiều về nhân tình thế thái, đưa ra nhiều lời
khuyên về cách đối nhân xử thế nhưng Khayyam không dạy khôn cho ai cả mà
Khayyam chỉ bày tỏ sự mong muốn để cho người đọc tự giải quyết vấn
đề. Đây cũng là một phẩm chất vô cùng quí báu của con người ở thời đại
ngày nay.
* * *
Như đã nói ở những phần trên: thế giới quan
của Khayyam là rất phức tạp. Thơ ông cũng vậy. Đi đối chiếu tất cả theo
một công thức định sẵn, đi giải thích theo một lối mòn chắc chắn sẽ
không tránh khỏi sai lầm. Mỗi bài rubaiyat riêng biệt đòi hỏi một sự
phân tích kỹ lưỡng xem có đúng với hồn thơ và phong cách của Khayyam hay
không? Nếu của Khayyam thì có thể đã được viết trong quãng thời gian
nào trong cuộc đời của Khayyam? Trong một tâm trạng như thế nào? Có sự
liên hệ gì với các bài thơ khác, với tiểu sử? Nếu là bài xuất khẩu thành
thơ thì được xuất ra trong tình huống nào?
Người dịch, người nghiên cứu về Omar Khayyam đã phải làm một việc tưởng
chừng như không thể: tưởng tượng, hình dung lại thời đại của Khayyam với
những đặc điểm về chính trị, văn hoá, xã hội của thời đại đó, nhập vai
sao cho hoà nhập được với nhà thơ… Chỉ khi đó Omar Khayyam mới thực sự
hồi sinh!
Nguồn: Omar Khayyam. Thơ Rubaiyat. Nhà xuất bản Văn học 2004.
1 Alfred Mc Kinley Terhune. The Life Of Edward Fitzgerald, Translator of the Rubaiyat of Omar Khayyam. L.,1947, tr. 223
2 Edward Heron-Allen. Edward Fitzgerald’s Rubaiyat of Omar Khayyam with their Original Persian Sources. L.,1899. tr. XI.
3 L. P. Elwell-Sutton. Introduction. – Ali Dashti. In Search of Omar Khayyam. L., 1962. tr. 11.
4 Peter de Polnay. Into an Old Room. The Paradox of Edward Fitzgerald. L., 1950, tr. 183.
5 Tuy vậy, năm sinh, năm mất của Omar Khayyam vẫn chưa phải đã được xác
định hoàn toàn. Ngay cả những tập sách vốn được coi là “khuôn vàng thước
ngọc” cũng vẫn còn có sự khác nhau. Thí dụ: Từ điển Britannica 2003 năm
sinh, năm mất của Omar Khayyam được xác định là 18/5/1048 –
4/12/1131. Còn từ điển Encarta 2004 là 1050 – 1122vv…
6 Khởi thuỷ là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ac; lòng tin vào
thắng lợi của cái Thiện mà trong đó lửa đóng vai trò chủ đạo.
Theo truyền thuyết, Zarathustra là đứa bé duy nhất trên đời này khi sinh
ra không khóc mà cười. Học thuyết của Ngài cũng vậy – rất yêu đời và
đầy ắp tình yêu đối với thế giới xung quanh. Ngài kêu gọi tín đồ của
mình hướng tới cái Thiện và sự công bằng.
Thời đại của Zarathustra được xác định rất khác nhau. Aristotle cho
rằng Zarathustra sống trước Platon 6000 năm. Một số tác giả cổ đại khác
cho là 5000 trước cuộc chiến Tơ-roa (thế kỷ 13 tCn). Còn một số khác dựa
theo truyền thuyết cho là Zarathustra sống trước Alexander
Mác-xê-đô-nia (356-323 tCn) 250 năm.
Theo Zarathustra cái chết làm cho linh hồn con người từ giã thế giới vật
chất để trở về thế giới phi vật chất. Mọi linh hồn đều chịu sự phán xử
vì những hành động đã làm nơi trần thế. Kết qủa là một số lên thiên
đàng, số kia về địa ngục… Zarathustra là người đầu tiên đi nói về thiên
đàng, địa ngục, về sự hồi sinh… “Đạo thờ Thần lửa là tôn giáo cổ xưa
nhất trong các tôn giáo biểu hiện của thế giới và có lẽ nó đã có sự ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến loài người nhiều hơn bất kỳ tín ngưỡng
nào”. Mary Boyce, Zoroastrians//http://www.avesta.org/avesta.htm
7 Xem chú thich: Sufism.
8 Ghazali’s Book of Counsel for Kings. Translated by F.R.C. Bagley. L., 1969, tr.9.
9 The Doctorine of the Sufism. Translated
from the Arabic of Abu Bark al-Kalabadhi by A. J. Arberry. Cambridge.
1977, tr. 44-45.
10 Holbrook Jackson. Edward Fitzgerald and Omar Khayyam. L., 1890, tr.26.
11 Izad trong thần thoại cổ Iran có nghĩa là Ngọc Hoàng (ông trời).
12 Khayyam nhắc lại Koran 2:216: “Người ta hỏi con về rượu thì hãy nói: “
Trong rượu tội lỗi và cả ích lợi cho con người nhưng tội lỗi nhiều hơn
ích lợi”.
13 Sufism – một giáo phái thần bí của Islam xuất hiện gần như đồng thời
với Islam trên cơ sở của chủ nghĩa khổ hạnh. Mục đích của Sufism là sự
nhận thức chân lý tuyệt đối thông qua Tình yêu và sự hoà nhập với Thượng
Đế. “Con người – sáng tạo cuối cùng của Thượng Đế – cần hướng tới sự
hoà nhập với Người. Để đạt được điều này cần từ chối những sung sướng
vật chất và kìm nén những mong muốn, khát khao ngoài một điều mong muốn
khát khao duy nhất là được hoà nhập với Thượng Đế”. (Морочник С. Б. и
Розенфельд Б. А: Омар Хайям – поэт мыслитель ученый Сталинабад, 1957,
tr. 15)
Con đường của Sufism theo al-Ghazali có 9 bước: 1) hối hận trong lỗi
lầm; 2) chịu đựng trong đau khổ; 3) mang ơn Thượng Đế (Thánh Ala) vì
những gì mà Ngài đã ban cho; 4) sợ hãi Đấng Tối Cao; 5) hy vọng ở sự cứu
rỗi; 6) tự nguyện chịu đói nghèo; 7) tránh xa cuộc đời; 8) từ chối mọi
ước muốn của mình; 9) tình yêu đối với Thượng Đế. Năm bước đầu tiên là
con đường chung dẫn đến sự hoàn thiện tâm linh được luật Shariah xác
định cho tất cả tín đồ Islam. Bốn bước cuối là của riêng Sufism. Trong
mỗi bước như vậy Ghazali chia tiếp ra làm ba giai đoạn. Thí dụ, bước thứ
ba: Sufi (người theo Sufism) cần nhận thức ơn huệ của Thượng Đế ban
cho, điều mà Ngài có thể đã không làm. Cụ thể như Ngài đã tạo ra Sufi là
một cơ thể sống chứ không phải hòn đá; có nhận thức chứ không phải như
động vật không biết suy nghĩ; đàn ông chứ không phải đàn bà; có sức khoẻ
đầy đủ chứ không đui mù, què quặt; người tốt chứ không phải người ác
độc. Tiếp đó Sufi phải biết nhìn ơn huệ của Thượng Đế như là phương tiện
để đạt được sự hoàn thiện sau này. Và cuối cùng phải biết coi sự đau
khổ như là hạnh phúc và cám ơn Thượng Đế vì điều này. Đến đây, Sufi
không chỉ biết chịu đựng đau khổ mà còn vui mừng vì đau khổ.
14 Laurent Tailhade. Omar Khayyam et les Poisons de l’Intelligence. P., 1905, tr. 14.
15 Chữ dùng của nhà thơ La Mã cổ đại Quintus Horatius Flacus (65-8 tCn).
16Жуковский В. А: Омар Хайям и странвующие чевертишие. Спб. 1897 tr. 323-325.
Abu Ala (al-Ma’arri)(979-1057) – nhà triết học, nhà thơ mù Arập (Syria),
nổi tiếng với những bài thơ triết lý; Voltaire (1694-1778) – nhà triết
học, nhà văn Pháp; Heine (1797-1856) – nhà thơ Đức: hai ông nổi tiếng
với những quan điểm phủ nhận tôn giáo. Dưới đây chúng tôi xin nêu mấy ví
dụ.
-Xin hãy chớ nói rằng: “Ta trong trắng!”
Trong trắng làm sao giữa cuộc đời bụi bặm.
Thơ Abu Ala.
-Đây, trên giá sách này của tôi có quyển Kinh Thánh nhưng tôi để gần với Voltaire – giống như thuốc độc và thuốc giải độc.
Betrand Russell (1872-1970).
-Lòng tin trong tôi có thật nhiều. Tôi bây giờ đã tin vào những điều cốt
yếu nhất được ghi trong Kinh Thánh. Tôi tin rằng Abraham sinh Isaac;
Isaac sinh Jacob; Jacob sinh Judah. Rằng Judah đã nhận ra nàng Tamar –
con dâu của mình trên con đường đi đến Timnath; rằng Lot đã uống rượu
quá nhiều với hai cô con gái ruột; rằng vợ của Potiphar đã giữ trong tay
áo của chàng Joseph trung thành giữ phẩm tiết; rằng hai vị tu sĩ bắt
gặp nàng Susanna xinh đẹp trong khi tắm đã rất già. Ngoài ra tôi còn tin
rằng tổ tiên của Jacob đã lừa dối anh em, bà con mình; rằng vua David
đã giao cho Uri một nhiệm vụ nguy hiểm ngoài chiến trường; rằng Solomon
đã cưới cho mình cả nghìn bà vợ để rồi mà than vãn: hư không, thảy đều
hư không!
Heine.
17 Arberry A. J. The Romance of the Rubaiyat. L., 1959, tr. 28.
18 Hamlet nói đến Alexander Đại đế, vua xứ Mac-kê-đô-nia, vị tướng lừng danh thời cổ đại.
Nguyễn Viết Thắng
Đọc tiếp thơ Say , thái Bá Tân dịch nơi đây