Đọc bài trên net về cái khác giữa người trong và ngoài nước.
Đọc để biết tâm lý người trong và ngoài nước, giữa cái mình cho là Có và cái Không.
Có hay Không đều có ý nghĩa với một người vào thời gian nào đó.
Giàu ở nước giàu chưa chắc là đủ giàu.
Nghèo trong một nước giàu chưa chắc có ai tin.
Giàu trong một nước nghèo khác với Nghèo trong một nước nghèo thì quả thật khác xa với cái mà nhà giàu có thể biết được.
Kính mời quý anh chị đọc để có cái nhìn riêng của mình về sự đa dạng của cuộc sống và lối suy nghỉ của 2 không gian, thời gian khác nhau.
Caroline Thanh Hương
Thói Quen
Người ta thường
nói thói quen là những cử chỉ hay hành động,
đôi khi có thể là những câu nói cứ lập đi
lập lại của con người, ngay cả con vật
cũng có thói quen.
Thói quen nhiều
khi còn bị ngộ nhận là bản chất. Vì người
ta cho rằng do bản chất như vậy nên mới
đưa đến thói quen như thế.
Chẳng hạn
người đàn ông Tàu, Việt Nam, Ấn Độ (ngày
xưa) thường nghĩ mình là gia trưởng trong nhà,
nên thường có thói quen quát nạt vợ con. Hoặc
những người có chút ít chức quyền
thường hành hạ kẻ ăn
người ở trong nhà, để thoả mãn tính tự
cao tự đại của mình.
Những
chuyện thất nhân tâm như vậy, bây giờ nhan
nhản khắp mọi nơi ở xứ mình kể
từ ngày quê nhà đổi chủ.
Những chuyện trái tai gai mắt chúng ta nói hoài cũng không bao
giờ hết. Bởi vì muốn hết,
phải có sự thay đổi, nhưng khi người ta
không muốn thay đổi (do cố ý) thì chuyện không bao
giờ chấm dứt là lẽ đương nhiên.
Ngày xưa khi còn
ở trong nước, người ta ít bị bệnh nổ, tức là khoe
khoang um sùm về mình, vì một lẽ rất dễ
hiểu là những điều khoe khoang rất dễ
bị lộ tẩy. Ở cùng
một đất nước các chi tiết về gia
phả, quê quán, nghề nghiệp, chức tước
rất dễ dàng kiểm chứng.
Biến cố
30 tháng Tư năm 75 làm cho người Việt mình
phải lưu vong khắp nơi trên toàn thế giới. Chuyện
được sống ở hải ngoại hoàn toàn do
sự may mắn tình cờ, mà theo
đạo Phật, là do cái
duyên của người đó, chẳng do sự tính toán
của con người. Một anh chàng ở
miền biển, nhà rất nghèo, chẳng được
học hành gì cả. Nhưng một đêm nọ lang thang ngoài bãi biển, tình cờ gặp
một nhóm người đang lui cui đào những thùng
dầu chôn dưới cát. Thì ra đó là nhóm người
tổ chức vượt biên, để tránh bị
bại lộ, họ áp đảo anh chàng này
xuống tàu đi luôn. Chỉ có thế,
nhưng về sau anh ta cứ kể lể, chuyện anh
được ở đây là một sự trầy
trật của gia đình. Bao nhiêu
tiền bạc mất hết vì bị lừa đảo
nhiều lần, cuối cùng anh mới qua được
chỗ này. Anh nghe chuyện thiên hạ,
để thêu dệt thành chuyện của mình. Tự tạo cho mình một quá khứ hào nhoáng.
Để làm gì? có
chăng là để che giấu mặc cảm tự ti,
vốn thua kém mọi người về phương
diện học vấn. Thiệt là sĩ diện rởm,
ngày xưa nghèo mạt rệp, hay giàu nứt đố
đổ vách, thì ăn thua gì tới
người khác. Bản thân mình có thành công
không mới là chuyện đáng nói. Bản thân mình có
giúp ích cho gia đình, bạn bè, cộng đồng, làng
nước, mới là điều đáng kể.
Thật là quái
đản khi nhiều người rất thích nổ
ở những nơi công cộng.
Xa xứ ngộ cố tri. Gặp
đồng hương, được nói tiếng mẹ
đẻ là điều an ủi cho
người già. Nhưng sau khi tay bắt
mặt mừng, lại bắt đầu khoe về mình,
thói quen này, hình như nhiều người hay mắc phải.
Có nhiều người chỉ gặp nhau sau năm phút, là
người nghe đã biết người nói có bao nhiêu
căn nhà, có bao nhiêu đứa con toàn sư với sĩ.
Nhưng khi kêu gọi giúp đỡ cho trẻ em nghèo,
người hoạn nạn thì tự nhiên họ biến
mất!
Khi Ban mê Thuột thất
thủ vào đầu tháng Ba (10/3/75), những người
có chức có quyền biết rằng tình hình chiến
sự bất lợi. Một số tướng lãnh hay nhân viên
của Mỹ đã bắt đầu lặng lẽ
rời VN. Rồi tới ngày 24 tháng Tư thì cả Tổng
Thống lẫn phó TT cũng leo lên máy bay đi luôn, sau
những tuyên bố hùng hồn : cùng toàn
dân tử thủ đến cùng.
Sau đó khi
đài phát thanh của Mỹ phát ra bài hát white Christmas, thì
nhân viên của họ biết đó là tín hiệu báo
động, tất cả phải di tản ngay lập
tức. Dĩ nhiên ai có điều kiện thì họ
đã đến những địa điểm để ra đi an toàn.
Chỉ đến khi xe tăng bắt đầu lừng lững
đi vào thành phố, thì sự hỗn loạn bắt
đầu xảy ra. Tại sân bay, trên nóc nhà
toà đại sứ Mỹ ở Sàigon, nơi bến tàu
Khánh Hội, người ta tranh giành để vượt
thoát trong giờ phút cuối cùng.
Biết bao hình ảnh tang thương
để giành được một chỗ trong những
phương tiện thập phần nguy hiểm đó.
Vì có lợi
thế bờ biển bao quanh và sông rạch khắp nơi
ở miền Nam. Sau khi hoàn hồn, người
ta không ngừng hi vọng, bắt đầu âm thầm
vượt thoát bằng tàu ghe từ miền Trung, miền
Nam, ngay cả đường bộ.
Sau vài năm
thấy nước ngoài nhân đạo, dễ dãi trong
việc nhận di dân. Miền Bắc cũng
bắt đầu vượt biên bằng đường
biển, vì Hồng Kông quá gần với bờ biển phía
Bắc. Có người còn thoát được bằng
thuyền nhỏ chỉ chứa được vài
người, đó là những cái thuyền giống như
những cái rá vo gạo, gọi là thuyền thúng.
Thoát chết trong gang tấc,
thế mà khi đã yên nơi yên chỗ, người ta
lại mắc bệnh nổ. Trong 10 năm đầu ( 75-85) gặp nhau ở những nơi có
nhiều người Việt, Mít
ướt rất dễ nhận ra vì nghề nghiệp,
nơi ăn chốn ở, diện mạo bên ngoài. Họ là những người chân ướt chân
ráo mới qua. Tiếng Anh thì lúng túng,
quần áo thì lùng bùng, nhà ở thì lung tung.
Trái lại Mít khô cũng là người
Việt mình, nhưng họ là những người
được du học từ lâu, hoặc ít ra cũng
được ra đi rất sớm. Dĩ nhiên
tiếng Anh của họ thì rõ ràng, quần áo thì xênh xang,
cơ ngơi vững vàng.
Mít ướt và Mít
khô quả là khác nhau một trời một vực.
20 năm sau, không còn ai phân
biệt “ ướt hay khô” nữa. Vì quá ê chề khi còn bị kẹt ở quê nhà,
họ đã phải trả bằng một giá rất
đắt mới có mặt ở đây. Những
chuyến vượt biên đầy nguy hiểm,
những ngày tù tội trong ngục tù CS. Nên khi tới
được bến bờ tự do,
mọi người đều cố gắng vươn
lên. Chẳng mấy chốc con cái họ cũng ăn học thành tài. Rồi họ cũng có
nhà cửa dù không to, nhưng cũng là nơi trú ẩn an toàn cho những ngày còn lại khi tuổi
già bóng xế.
Sau năm 75, không còn phân chia
ranh giới bằng vĩ tuyến 17 là
con sông Bến Hải. Người miền Bắc lan tràn khắp nơi, họ vào lập
nghiệp ở miền Trung và khắp miền Nam. Rồi
họ lan tràn khắp hải ngoại.
Chỉ có một điều
không làm sao giải thích, người miền Bắc di
cư vào Nam năm 54 và người miền Bắc ở
lại gọi là Bắc 75, giọng nói hoàn toàn khác biệt.
Dù bây giờ họ có lấy chồng Mỹ, trở thành
siêu mẫu, siêu sao theo cách gọi của
họ, thì không cách gì họ thay đổi được
giọng nói của họ. Thế là lại có từ
Bắc Kỳ 9 nút(54) và Bắc Kỳ 2 nút( 75) xuất
hiện, và nguyên tắc để nhận ra là giọng nói.
Bởi vì bây giờ về VN các cô người mẫu,chân dài, chân ngắn, đại gia,
đại cán( bộ) xài tiền như nước. Dẫu họ có ở biệt thự đồ
sộ như lâu đài, nhưng khi nói cũng không thể
giấu được nguồn gốc của họ.
Bệnh phân biệt và bệnh nổ, hình như là thói quen của người mình. Chuyện
tại sao mình được sống ở hải
ngoại hoàn toàn không dựa vào những tiêu chuẩn về
gia thế, gia phả, tài năng… gặp nhau nơi xứ
lạ quê người. Nơi chôn nhau
cắt rốn, nơi mình lớn lên rồi làm việc,
hiếm khi gặp lại nhau, những người cùng
cảnh ngộ, để biết rõ về mình, để
kiểm chứng những điều mình nói ra.
Thế là
bệnh nổ phát ra. Người ta
dễ tạo ra những
huyền thoại về mình trong quá khứ. Dĩ nhiên là tưởng tượng hơi
nhiều.
Có một nhà văn xứ cao
bồi thường viết rất hài hước về
những trái khoáy của những người “ đẻ gần kho đạn”. Hễ
ai nói gì cũng chen mang cái tôi của mình vào. Bất cứ chuyện gì mình
cũng phải đặc biệt hơn(
khác) người. Ngay cả chuyện ăn
trưa bằng tô mì gói. Ông pháo
binh này luôn luôn có thói quen nêu sự khác biệt của mình
với người khác, bằng câu mở đầu “ tôi ấy à…”.
Tôi mà ăn
mì gói thì phải đập thêm 2 quả trứng vào. Ý nói
sang trọng hơn người chỉ ăn mì không.
Khốn nỗi trong chỗ làm chung,
nhiều người ngứa tai quá. Họ đã
cười nhắc khéo: bố
già ơi, đây là xứ Mỹ, một quả trứng
chỉ có 10 xu. Người ta không ăn
vì người ta không thích, chứ không phải người
ta không thể mua. Bố nói câu ấy với dân Hà Tĩnh,
hay dân nghèo được cứu trợ bằng thùng mì,
để họ ao ước được ăn sang như bố. Nói không đúng chỗ rồi bố ơi.
Đôi khi nghe ông
tôi ấy à, khoe đi làm có
kẻ hầu người hạ. Nhà
ở thì to rộng thênh thang, dù chẳng biết ngày xưa
ông ấy ở đâu, làm chức gì. Chỉ biết
hiện nay ông không bao giờ bị kê khai lý lịch, trích dọc hay trích ngang, như hồi còn trong nước, nên
người làm chung chỉ biết bây
giờ ông chỉ là người quét dọn trong sở làm. Cùng là đồng hương, bán anh em xa mua láng giềng gần. Chẳng ai để ý tới chuyện ngày
xưa, mình có là ông to bà lớn, hay chỉ là dân khố rách
áo ôm. Tất cả đã vùi sâu trong
lớp bụi thời gian. Ngoại
trừ tính hay nổ, ông tôi
ấy à cũng nặng nợ gia đình. Gia cảnh của ông cũng làm se sắt lòng
người. Bà vợ bị stroke không
thể đi làm, ở nhà nuôi hai đứa cháu ngoại
mồ côi. Người ta cũng không
chấp nhất gì một ông già khi gánh nặng gia đình
vẫn đè nặng trên vai. Đám
trẻ vẫn ngồi yên nghe ông kể chuyện, lắng
nghe ông tâm tình. Đó là món quà lịch
sự nhất của đám VN cùng làm ở hãng. Biết lắng nghe là nguyên tắc đầu tiên
trong nghệ thuật đắc nhân tâm. Chỉ có
một thằng chuyên nghề kê
tủ đứng, mỗi lần nghe ông kể xong, nó
cứ hỏi lại: “ bố có nói thách quá không đấy”. Ông không giận, vì chữ nói không đau, nhưng
cử chỉ và thái độ người nói mới
đau. Thằng kê tủ
đứng, chỉ nói bâng quơ không ác ý, còn ông già
cũng chỉ nói vói theo: tao còn đẻ ra được mày.
Thói quen riêng
như thói quen của mỗi người gọi là thói quen
cá nhân, và của một cộng đồng gọi là thói
quen xã hội.
Về thói quen cá nhân như ăn mặn, ăn cay, thức khuya, dậy
sớm của mỗi con người ít ai nói đến. Nhưng khi người ta vượt ra khỏi
biên cương ranh giới quê nhà. Họ mang theo
cả những thói quen mà khi còn ở quê huơng ít ai
để ý. Bởi vì chung quanh mình, ai cũng như
vậy, đâu thấy gì khác biệt .
Không ít gia đình đã
đổ vỡ, vì cha mẹ ông bà được bảo
lãnh qua sống chung với con cháu,
vẫn mang theo những thói quen khó bỏ.
Người ta
bảo rằng non sông dễ
đổi, bản chất khó dời.
Từ bao đời nay,
người Việt dùng đũa để ăn
cơm và gắp thức ăn. Muỗng to
để chan canh. Suốt mấy ngàn
năm chẳng ai thắc mắc gì cả. Chẳng ai
mắc bệnh vì ngồi ăn cơm chung.
Bao nhiêu thế hệ sinh ra và lớn lên,
mọi việc vẫn êm đềm trôi qua. Nay qua sống ở xứ gọi là Hợp
chủng Quốc, bắt đầu có nhiều chủng
tộc khác len lỏi vào giòng họ. Thằng con
rể mắt xanh tóc vàng nói, mọi người húp nước miếng của
người khác,vì dùng đũa gắp
thức ăn. Đứa con dâu Ấn Độ nấu món
gì cũng cho cà ri cay xé họng. Thằng cháu đích tôn thì cứ nhăn nhó sao ông
bà weird quá, mặc pyjamas mà
ngồi ở phòng khách xem báo. Ăn
cơm xong miệng vẫn ngậm tăm xỉa răng. Bà nổi điên lên, bảo tao có ở truồng đâu mà weird. Thằng con trai thì mặt mày nhăn nhó,
như đứng giữa ngã ba đường: bên tình bên
hiếu, biết chọn bên nào. Mắng con cũng không
được,vì nó nói đúng mà.
Ôi văn hóa Âu Tây đã làm cho
người ta phải gọi dân tộc mình có nhiều
thứ xấu xí, man rợ quá.
Dù đó chỉ là ẩm thực : ăn
thịt chó mà còn làm thơ ca tụng:
Sống
ở trên đời ăn miếng
dồi chó.
Chết xuống âm phủ biết có hay không?
Không những ăn
dồi, mà còn ăn tiết canh chó. Rồi cách
giết chó lại càng nhẫn tâm hơn. Trấn nước, đập đầu, dù
đó là con chó thân yêu ngày đêm canh gác cửa nhà cho chủ.
Miếng ăn là miếng
tồi tàn, mất ăn một miếng
lộn gan lên đầu.
Thật sự ra, thói quen
ăn uống mà người ta hay nói là khẩu vị,
cũng chỉ là một loại phản xạ có
điều kiện của cái lưỡi. Nếu từ
khi sinh ra một đứa trẻ được nuôi
dưỡng bằng những loại thức ăn toàn rau củ thực vật, thì khi
lớn lên không thèm khát thức ăn có nguồn gốc
động vật. Chưa kể hệ thống tiêu hóa
thích ứng với những thức ăn
dễ tiêu, rất khó tiêu thụ những thứ thức
ăn khác.
Hãy nhìn những dân tộc
chuyên ăn chay như người Tây Tạng (
đa số), hay các nhà sư
đủ mọi chủng tộc. Họ có thấy
ngon miệng ( appetite) khi ăn không?
Những người chuyên ăn thịt
cá rụt rè hỏi. Có chứ, tất cả những
đứa trẻ từ khi sinh ra, cho tới khi lớn lên
trở thành những nhà sư uyên bác, không có một sự
khác biệt gì, bởi các thức ăn thực vật mà
họ đã ăn để nuôi thân. Và nghiên cứu khoa
học bây giờ đã chứng minh các thức ăn có
nhiều xơ ( thực vật) lại
là những thức ăn tốt nhất cho hệ tiêu hóa.
Ngày xưa có chuyện một
ông vua ăn đủ thứ sơn hào
hải vị, vẫn kêu ca không thấy ngon. Có một ông
trạng ( Quỳnh) xin cống hiến
một món ăn sẽ giúp cho vua thấy ngon miệng. Vua mừng lắm, bằng lòng cho ông trạng
thử tài. Ông trạng bắc nồi lên
nấu, vua ngồi chờ. Thỉnh
thoảng để vừa bớt sốt ruột, ông
trạng giả bộ nếm, rồi nói chưa xong.
Vua cứ
ngồi chờ, chờ mãi cho tới khi bụng đã
đói cồn cào. Lúc đó ông trạng mới nói món ăn đã chín. Vua
được cho ăn, nhưng chỉ một chén nhỏ.
Vua ăn mà cứ nức nở khen ngon,
xin thêm nhưng ông trạng từ chối.
Vua khen rối rít, muốn ban
thưởng lụa là châu báu cho ông trạng, để ông
chỉ cho đầu bếp của vua cách nấu món ăn tuyệt vời này.
Ông trạng không nhận quà
thưởng, chỉ thưa rằng, đây là món ăn của người nghèo. Đó chỉ
là cháo trắng ăn với muối.
Nhưng khi đói thì ai ăn cũng
thấy ngon. Sở dĩ ngài không cảm thấy ngon
miệng,vì được ăn quá nhiều thức ăn
khó tiêu, gây khó chịu cho bao tử và ảnh hưởng
tới cảm giác của lưỡi. Chứ thật ra
Phật đã bảo rằng, thức ăn
sau khi trôi qua cổ họng, xuống bao tử để co
bóp xay nhuyễn thành chất nuôi cơ thể. Khi qua
ruột già thành chất cặn bã thì cái nhà xí kia
tiếp nhận, nó cũng chẳng hề biết đây là
chất thải của một ông vua, hay là chất thải
của một người nghèo khốn chạy ăn
từng bữa.
Nhà vua đã ngộ ra một
chân lý của cuộc đời, bộ máy tiêu hóa và căn
nhà xí kia đối xử công bằng
với mọi thứ mà nó phải phục vụ. Mà thật ra cái lưỡi cũng không có lỗi,
cái có lỗi chính là cái đầu của con người.
Phật bảo rằng ai sinh
ra cũng có lòng từ bi bác ái, cũng như Khổng
Tử cũng từng nói: nhân
chi sơ tính bổn thiện.
Phật còn nói chung quanh chúng
ta, ai cũng có 6 con quỉ( lục
tặc) lúc nào cũng lôi kéo con người làm điều
xằng bậy tội lỗi.
Khi ăn
mặn đã là một cách đối xử không công
bằng với thú vật. Vì con người là sinh vật
thượng đẳng cao cấp nhất trong các loài
vật có sự sống. Con người có bộ óc có
thể làm những chuyện, mà những con thú không làm
được. Con người có thể giết thú
vật để làm thức ăn. Không
ngừng lại như thế, người ta còn muốn
lùng sục săn những loài thú quý hiếm có nguy cơ
tuyệt chủng.
Không những muốn ăn những thứ quý hiếm, con quỉ
ác còn xúi người ta tăng cảm giác ngon miệng
bằng cách hành hạ các con vật trước khi
chết, xem chúng phản ứng như thế nào. Cũng như Hitler ngày xưa đã thử
nghiệm xem người ta có thể chịu đựng
tới bao nhiêu mới chết. Kẻ độc tài
đã dùng đủ thứ cách tàn ác: nhận chìm một
người còn sống trong bồn chứa đầy
đá lạnh, hay
ngăn không cho ngủ…
Tính dã man theo
kiểu Hitler, người ta vẫn đem ra làm trò tiêu
khiển ở VN. Nơi mà sự tàn ác vẫn
nhan nhản khắp nơi. Ở các quán nhậu
người ta dùng một con vịt để ăn tiết canh nhiều lần. Đầu tiên hứng máu chảy ra từ một
bên đầu cánh. Sau đó mới tới phiên cánh bên kia, cuối cùng mới cắt cổ. Hoặc
họ lấy mật gấu trực tiếp từ một
con gấu còn sống để pha chung
với rượu. Mặc cho con vật oằn lại
đau đớn. Chẳng có chủ quán
nhậu nào bị phạt vì tội hành hạ súc vật.
Suy cho cùng chủ nhân của họ, những
người lãnh đạo cũng tàn ác không kém với
những người dân nghèo khốn khổ. Biển nhiễm độc, cá chết trắng
bờ, lụt lội khắp nơi, người dân nghèo
quê tôi biết trông cậy vào đâu?
Ngày xưa khi còn bé, tôi không thể nào chịu được
tiếng kêu thảm thiết của một con dê, bị
treo lên cái cột của cái mái hiên một nhà trong xóm.
Người ta đánh con dê từ sáng sớm cho đến
chiều tối. Họ bảo rằng đánh như
vậy để con dê toát hết mồ hôi, khi ăn sẽ không còn mùi hôi của nước
tiểu. Họ làm như trong cơ thể con dê có sẵn
một túi mồ hôi. Trong khi nước
tiểu chỉ được chứa trong bàng quang, khi
xả ra thì hết. Tội nghiệp cho con dê, vì mùi
đặc trưng của giống, mà nó bị hành hạ
dã man bởi những con người ngu
ngốc, để tăng thêm cảm giác cho cái lưỡi
của họ. Có thực sự họ khoái khẩu do hành
hạ con dê, hay do chính cái đầu họ nghĩ vậy!
Đông là Đông và Tây
là Tây.
Đúng là nhân đạo hay
tàn nhẫn là do cách nhìn của con người. Bên này dãy núi Pyrenees là chân lý, bên kia là tội ác.
Bên Mỹ chỉ có giết
một con sóc hoang, mà hàng xóm thấy được cũng
bị vô tù.
Ngay cả cách
nuôi dưỡng thú nuôi để lấy thịt, hay thú nuôi
trong nhà, cũng phải có tính nhân đạo. Một
nông trại nuôi gà đã bị phạt vì nuôi gà quá chật
chội thiếu vệ sinh. Họ nhân đạo theo cách nghĩ của họ, ngay cả
giết gà tại nhà cũng không được phép, vì
cầm dao cắt cổ gà vịt rồi đem nhúng
nước sôi vặt lông, thấy man rợ quá. Thôi thì khuất
mắt trông coi. Những con gà, những con bò bị
giết hàng loạt bằng máy móc nhanh nhấp nháy, chứ
không bị hành hạ trước khi chết. Người ta cảm thấy không ghê rợn, vì
cuối dây chuyền sản xuất, chỉ thấy cho ra
những mảng thịt bò, những miếng thịt gà
gọn ghẽ.
Những thói quen
mà khi ở quê nhà, người ta coi như chuyện bình
thường. Xả rác bừa bãi, phóng uế tuỳ
tiện, không coi trọng của công, bứt hoa dẫm chân
trên cỏ ở công viên, vẽ bậy trên tường,
khạc nhổ vung vãi…
Những bãi rác
khổng lồ, bên trên là tấm bảng “cấm đổ rác”.
Từ tác phẩm Người Tàu xấu xí, ta
thấy người Việt mình cũng chẳng hay ho gì.
Quả thật thói quen xã
hội phản ánh trình độ nhận thức của
những con người sống trong xã hội đó.
Mặt đẹp, ăn
mặc hàng hiệu, nhưng khi chạy xe bị cọ
quẹt, thì miệng
tuôn ra những tiếng thật tục tĩu,
nhuần nhuyễn như một tay giang hồ tứ
chiếng. Người mẫu hay nữ sinh cũng cá mè một lứa. Những
bài thơ ca ngợi thiếu nữ như “ đứng ngẩn trông vời áo tiểu
thư”, nghe chừng như
xa lạ.
Em
tan trường về, anh theo Ngọ
về.
Bây giờ không còn nữa, nữ sinh bây giờ phóng xe ào ào. Chẳng còn e ngại “em không dám đi mau, sợ chàng
chê hấp tấp. Số gian nan không giàu”. Hình như e lệ
không còn là đặc tính của nữ sinh, khi trong quán
nhậu người ta thấy các bà các cô cũng hò hét dô dô. Khi say
thì tóc tai rũ rượi, quần áo loã lồ. Một gã
đàn ông say xỉn đã coi không được, này
lại là một mụ đàn bà, thì xã hội chẳng coi
luân thường đạo lý là thước đo tư
cách con người nữa.
Quê tôi bây
giờ, người ta không còn thói quen giữ những
truyền thống như xưa. Như
Nguyễn Bính đã từng than thở “ hôm qua em đi tỉnh về,
hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”.
Tất cả
đều đổi mới đến chóng mặt. Chẳng còn các “ em gái vườn quê dầm mưa
dãi nắng”. Con gái
dưới quê chẳng có ruộng vườn để
cày cấy, họ phải đi kiếm ăn
ở thành phố: bán bia ôm, làm tiếp viên trong các quán
nhậu, hay lấy các ông chồng thiểu năng, tật
nguyền xứ Hàn, xứ Đài.
Người ta bắt
chước phương Tây đủ thứ theo kiểu trưởng giả học làm
sang.
Ngày xưa nhà văn Vũ
Trọng Phụng tả Xuân tóc
đỏ là một thứ “ chó nhảy bàn
độc”. Nhờ thời được bà me Tây mê
mẩn, theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng, bây giờ
đầy rẫy Xuân tóc
đỏ trong xã hội VN bây giờ. Chẳng biết
chúng ta nên cười hay khóc.
Nhà thơ Tú Xương đã
phải thốt lên “
xu hào rủng rỉnh
mán ngồi xe”.
Gia đình là căn bản
của xã hội. Khổng Tử đã nói
rằng tề gia trị
quốc bình thiên hạ. Nhưng bây giờ bức
tranh gia đình quây quần vào buổi tối, mà nhạc
sĩ Phạm Duy đã nói trong bản nhạc: cha tôi ngồi đọc báo,
mẹ tôi ngồi đan áo, không còn nữa.
Buổi tối bố trong
quán nhậu, mẹ đi nhảy đầm, con thì đàn
đúm cờ bạc rượu chè hút sách. Đó
là hình ảnh của xã hội VN bây giờ, bức tranh
với nhiều mảng đen trắng. Một
đất nước đứng đầu thế
giới về lượng bia tiêu
thụ, về tỷ lệ ung thư, về môi trường
độc hại. Mặc kệ ai kêu
gọi, mặc kệ những phi lý bất công,
người ta vẫn quay cuồng hưởng thụ.
Về mặt
nề nếp, quả thật xã hội Âu Tây có những
điều rất đáng ca ngợi. Trẻ con
đã thấm nhuần cung cách xếp hàng chờ
đợi, không chen lấn la ó
trước đám đông. Mọi người tuân theo mọi qui định do pháp luật
đề ra. Cảnh sát là người giám sát người
dân, nhưng cũng là người giúp đỡ
người bị nạn. Chứ không phải cảnh sát
là người chuyên rình rập để bắt bớ
người, vu oan giá họa cho họ để ăn tiền tham nhũng.
Khái niệm của lòng từ
bi nhân đạo cũng khác nhau tùy theo
hoàn cảnh xã hội. Bên này dãy
núi Pyrenees là chân lý, nhưng bên kia là
tội ác.
Qua Ấn Độ, về VN
bạn sẽ thấy nhan nhản trẻ con làm những
việc lao động rất cực
nhọc. Bê hàng chồng gạch nặng chĩu trên đôi tay gầy guộc bé nhỏ, lau chùi dọn
dẹp ở những quán nhậu đến tận
nửa đêm với bộ mặt phờ phạc,
hoặc cắm cúi ngồi đánh giầy cho khách bộ
hành. Những hình ảnh làm tê tái lòng người
phương xa, nhưng lại bình thường trong trái tim những kẻ cầm quyền. Chẳng phải là bóc lột trẻ thơ, mà là
giúp đỡ cho gia đình các em đó có được
miếng cơm manh áo.
Nhân quyền và
quyền lợi của trẻ em, người già là
những khái niệm mơ hồ ở các nước nghèo
đói.
Ở
bầu thì tròn, ở ống thì dài. Ngày xưa còn
ở quê nhà, con cháu thường sống chung
với cha mẹ ông bà trong cùng một mái nhà. Chẳng
ai kêu ca thắc mắc, hết thế hệ này tới
thế hệ khác, coi như chuyện bình thường.
Các cụ thường
bảo rằng ăn
thì nhiều, chứ ở chẳng bao nhiêu. Khéo ăn thì no khéo co
thì ấm.
Điều này
thật là trái ngược khi sống ở xứ người. Khi mua nhà, ngân
hàng đã ước lượng tiền nhà chiếm1/3
tiền lương thu nhập. Chẳng ai làm chủ hoàn toàn đúng nghĩa là nhà
của mình, vì dẫu trả hết tiền mượn
ngân hàng, bạn vẫn phải trả tiền thuế hàng
tháng cho chính phủ. Đây là số
tiền không nhỏ.
Như vậy đúng lý ra
ở hải ngoại người ta phải sống theo kiểu ngũ
đại đồng đường, cho bớt
phần chi phí về tiền nhà mới hợp lý.
Trái lại phong
tục tập quán ở Âu Tây không dựa vào sự hợp
lý đó. Giới trẻ sau 18 tuổi,
luật pháp cho phép chúng được toàn quyền không còn
bị lệ thuộc vào cha mẹ. Khi
còn đi học ở trung học, cha mẹ chỉ
được biết kết quả học tập
của con cho đến khi 18 tuổi. Khi
bắt đầu học đại học, nhà
trường không còn cho cha mẹ biết con mình học hành
như thế nào. Họ chỉ báo cho biết
đứa con học bao nhiêu credit, có đủ để
được bảo hiểm sức khỏe theo cha mẹ không. Mỗi
lục cá nguyệt đậu rớt bao nhiêu credit, chứ
hạng mấy thì không nói. Cha mẹ
chỉ có một bổn phận duy nhất là đóng
tiền học. Có rất nhiều cha
mẹ ít học, chẳng biết con mình học hành như
thế nào, chỉ biết ở trong nội trú. Sau vài năm trường đuổi về nhà vì
rớt các môn học. Nhưng con cái sau khi học xong,
có công ăn việc làm chúng cũng
dọn ra ở riêng, bất kể chỉ là đứa con
duy nhất, con gái cũng như con trai.
Khi còn
độc thân chúng còn xử sự như thế, thì
tới khi lập gia đình, chuyện cha mẹ dọn vào
ở chung là điều không thể xảy ra.
Cha mẹ (người
bản xứ) đôi khi cũng không muốn ở chung với con cháu. Tự do cá nhân là tiêu
chuẩn đầu tiên trong mọi mối liên hệ,
đó là kim chỉ nam cho mọi hành
động. Ngay khi còn đi học trung
học, cha mẹ cũng không được (phép) vào phòng
riêng của con. Bạn có cảm thấy
bị xúc phạm tới quyền làm cha mẹ cũng không
được. Vì điều này
luật pháp cũng hỗ trợ cho đứa trẻ.
Người già ở VN khi
sống ở hải ngoại thường mang tâm trạng
cô đơn. Một nhà văn đã gọi
đây là xứ lạnh lùng.
Con cháu không muốn ở chung với ông bà cha mẹ, vì không chịu
được những thói quen của người già.
Bởi vì chúng muốn có quyền tự do làm bất kỳ cái gì theo ý
chúng, muốn đi ngang về tắt không bị ai quấy
rầy.
Cha mẹ
chỉ biết thở dài, nước
mắt chảy xuôi hay nợ
đồng lần. Đừng mang tiêu chuẩn
bằng cấp ra so sánh, dẫu con là người có
bằng cấp hay chức phận thì các bậc sinh thành
cũng vẫn phải sống theo cách
cư xử của phương Tây.
Quả thật cái tự do
ở xứ này đôi khi cũng có phần quá đáng, trong
cách suy nghĩ của các đấng sinh thành.
Bỗng dưng những
người già nghĩ đến những ngày còn ở quê
nhà. Ăn bằng đũa, mặc
những bộ đồ thoáng mát dạo chơi trong xóm.
Ghé nhà này nhà kia không cần báo
trước. Nhai trầu bỏm bẻm cũng chẳng ai thấy
ghê rợn, chưng mắm kho quẹt
cũng không ai kêu hôi kêu thúi. Ôi sao mà sung sướng.
Qua xứ người
muốn nuôi con gà trống để nghe nó gáy mỗi sáng
cũng không được. Hàng xóm than phiền ồn ào,
nuôi con chó sủa nhiều cũng có cảnh sát tới
khuyến cáo hàng xóm kêu ca.Tự do của người này
bị giới hạn bởi tự do của người
khác.
Vậy mà người ta
gọi là xứ tự do. Ngày xưa khi còn
ở quê nhà, muốn đi câu thì cứ kiếm chỗ nào
có nước, thả cần câu xuống. Đâu có ai tới hỏi license đi câu.
Ở VN người ta
muốn làm gì thì làm! Hát karaoke ầm ĩ
bất kể đêm ngày, nhà cửa muốn xây cất tùy ý
chả cần phép tắc gì cả.
Hoá ra bên VN, người ta
được tự do làm
trong trói buộc. Vì là chính thể
độc tài đảng trị.
Còn bên Mỹ, người ta
bị trói buộc trong tự
do. Vì là nước dân chủ tự do.
Dù không được
làm mọi chuyện tuỳ tiện như khi còn ở quê
nhà, người ta vẫn muốn di cư qua Mỹ.
Cột đèn nếu có chân thì cũng muốn qua Mỹ.
Chúng bảo rằng qua Mỹ, chân cột đèn không bị
người ta tè bậy, khiến chúng lúc nào cũng toả
ra mùi khó ngửi.
Người ta
vẫn muốn qua Mỹ để ngày ngày nhớ tiếng
gà gáy, nhưng không còn thấy cảnh người bóc
lột người. Đi chợ
mua rau hay trái cây không thắc mắc nghi ngờ, rau sạch hay rau bẩn. Đã có cơ quan kiểm soát
thực phẩm rất gắt gao. Mạng sống của người dân xứ
họ, không thể coi thường như mớ tôm, mớ
tép. Khi có người bị nạn,
việc đầu tiên là được mang tới nhà
thương để cứu sống sinh mạng. Các
cơ quan hữu trách có thể dùng bất kỳ
phương tiện nào hữu hiệu nhất, trực
thăng hay xe cứu thương. Không có bất kỳ thủ tục gì để
hạch hỏi có tiền hay không? Người hợp
pháp hay người di dân lậu. Họ chỉ biết
đây là một sinh mạng con người, phải dùng
mọi cách để cứu chữa.
Dù có rất
nhiều trói buộc trong đời sống, để duy
trì mọi trật tự của xã hội. Nhưng khi
sống trong xã hội phương Tây nhân phẩm con
người được tôn trọng. Khi có việc
tới công sở không ai phải khúm núm thưa trình. Không ai bị quát tháo dọa nạt.
Thôi đành
dẹp những thói quen xưa, để bắt
đầu những thói quen mới. Bỏ
trầu, bỏ mắm kho quẹt. Không
hút thuốc trong nhà tuỳ tiện như xưa.
Điều quan
trọng là bỏ những suy nghĩ tiêu cực. Con cháu mình là
những đứa con có ăn có
học. Không phải chúng bất hiếu, mà
bởi vì cuộc sống ở mỗi nơi mỗi khác.
Nhập gia tùy
tục.
Không kêu ca than phiền, vì có
biết bao người muốn “ bị trói buộc” như mình. Ban đêm ngủ không
bị ai gõ cửa còng tay, vì bị gán vào
những tội mà mình không làm. Thấy cảnh sát không
sợ nếu mình không vi phạm
luật.
Khi già nếu nghèo hay không có
nơi nương tựa, cũng chẳng vất vả
kiếm ăn nơi bãi rác bán mặt cho trời, bán thân cho
đất.
Được
cái này thì mất cái khác. Mỗi khi có thiên tai bão lụt thì chính quyền đã ra tay
cứu trợ cấp kỳ. Điện cúp,
nước cúp sẽ trở lại nhanh chóng. Không phải lo mỗi khi trời mưa,
đường biến thành sông như ở quê nhà.
Con nít không lo thất học. Người nghèo không cần phải ngóng chờ
từng bao gạo, thùng mì cứu đói. Tiền chính phủ giúp được gửi
về địa chỉ nơi cư ngụ.
Không ai quát tháo khi đến
các văn phòng để nộp đơn.
Tự do của bạn
được bảo vệ tối đa, thì bù lại
bạn cũng phải tự mình bỏ đi những thói
quen tuỳ tiện.
Tiên trách kỷ hậu trách nhân. Nhập
gia tùy tục. Người ta đã gán cho chúng ta là
những người may mắn. Những người đẻ
bọc điều.
Phải chăng
nỗi canh cánh của những người phải xa lìa
quê cha đất tổ là được trở về
nơi chôn nhau cắt rốn.
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa.
Nở hoa trong
lòng tất cả người dân Việt trên toàn thế
giới. Lúc đó chúng ta lại cùng nhau
trở về quê cũ.
Về
đây nghe em, về đây nghe em.
Về đây mặc áo the, đi guốc
mộc.
Chao ơi
chỉ nghĩ thế thôi, mà lòng đã lâng lâng vui
sướng. Chẳng còn than thở nước Mỹ lạnh
lùng.Thay vào đó là những khuôn mặt lạnh lùng vô
cảm của những kẻ cai trị
người dân quê tôi. Có tai như
điếc, có mắt như mù.
Chỉ vì họ không có thói
quen nghe tiếng nói của lương tâm con người.
Họ chỉ mang bộ
mặt người thôi, nhưng trái tim
thì của loài dã thú.
Nhìn về
đường cố lý, cố lý xa xôi.
Quê hương
chỉ còn là nơi để nhớ trong tâm tưởng.
Chẳng
biết đến bao giờ thanh bình mới thật
sự nở hoa trên quê nhà yêu dấu.
Tác giã L.T.M.
Hội "quăng bút" hải ngoại, LHCT độc quyền phát hành