Quê Ta, Quê Người.
Quê người cũng nóng cũng khô
Nhìn đồng cỏ cháy mà ngờ quê ta.
Quê mình cũng lúa gạo nhà
Ở đây thấy đó sao mà nhớ thương.
Ở đây không phải quê hương
Nhưng sao nhớ quá bờ mương thủa nào.
Thanh Hương
Cám ơn chị Thanh Hương đã khơi cảm hứng
Xin phụng họa cho vui :
Nhìn đồng cỏ cháy cây khô
Càng thêm tiếc nuối cơ đồ dân ta
Sản xuất thóc lúa chật nhà
Mà cam đói khát thực là thảm thương
Nơi đây rất ít đồng hương
Lấy ai vẽ cảnh ruộng nương thuở nào ?
Ma Nữ
Thật đúng là bài thơ xuất hồn đấy anh Đỗ Quý Bái.
Giang san tổ quốc, cả 1 cơ đồ mà người tài giỏi, hỏi đi đâu rồi.
Nhắc
lại chuyện đồng quê, tôi chợt nhớ đến loại lúa thần nông,
ngày trước, kính gửi vào đây, bài thơ làm vội trên máy và 2
bài sưu tầm nói về giống lúa này cho các anh chị nào đã quên
hay chưa biết.
Caroline Thanh Hương
Còn Đâu.
ĐÃ TỪNG CÓ
Đã có thần giúp nhà nông
Đã gieo mạ quý khắp đồng chim bay
Đã khiến Lạc Việt gái trai
Đã được vui hát giữ hai lũ mình
Cũng nhờ khoa học văn minh
Giúp cho dân hết sợ kinh khó nghèo
Có ao cá có chuồng heo
Có nguồn an ủi vớt bèo khẩn hoang
Hàng đêm dù lửa đã tàn
Dưới trăng họp mặt ca đoàn vui say
Chen vai sát cánh góp tay
Đã có hạt ngọc tháng ngày cơm no
LTĐQB(Ma Nữ) phụng họa
__._,_.___
Chào quý vị Thái Huy góp vui
Quê Ta
Cảnh đẹp quê ta ruộng lúa vàng
Chiều về thơ thẩn dẫu trâu ngang
Câu hò điệu hát giao duyên thắm
Có nợ không đây lại gặp chàng.
Quê hương ta đó một trời thơ
Sông cửu,Hồng Hà,Hương Huế thơ
Nhịp sống trào dâng như biển sóng
Vậy mà nay mất nét ngây thơ.
Kính chị Thanh Hương,
CÒN ĐÂU
Dân ta vốn dĩ nghiệp nông
Nhà : ao thả cá, đất trồng : cò bay
Ngày ra đồng lúa, gái trai
Tối về vui vẻ, hai thân thái hòa
Khi tòa ánh sáng văn minh
Tỏa lên, lại khiến nhà nông sinh nghèo
Muốn tăng thu nhập : nuôi heo
Muốn giầu : lên tỉnh, treo cầy, ruộng hoang
Kinh tế nông nghiệp đã tàn
Kinh tế thành thị mở màn mê say
Dân quê lên tỉnh chung tay
Dựng xây thành phố ngày ngày, mới no
Trần Trọng Thiện
Đọc thêm bài viết trên báo VN Net
LÚA THẦN NÔNG VÀ TRƯỜNG NLS CẦN THƠ
Trần Đăng Hồng
Viện Đại Học Cần Thơ được chính thức
thành lập năm 1966, và Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ là Viện Trưởng đầu tiên.
Vì là trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long trù phú, Viện ĐHCT phải có
Đại Học Nông Nghiệp xứng danh với vị trí kinh tế nông nghiệp hàng đầu
của đất nước. GS Phạm Hoàng Hộ tham khảo ý kiến với GS Tôn Thất Trình,
bấy giờ là Giám Đốc Trường Cao Đẳng Nông Nghiệp Sài Gòn, và nhờ GS Trình
giúp thực hiện một thí nghiệm lúa tại ĐH Cần Thơ.
Tôi vốn
là sinh viên được GS Trình hướng dẩn luận án kỹ sư, và sau khi ra trường
về dạy NLS Cần Thơ, tôi vẫn còn tiếp tục liên lạc với GS để học những
kiến thức chuyên môn rất thâm uyên của Thầy. GS Trình giới thiệu tôi với
GS Viện Trưởng Hộ và thuyết phục rằng tôi có khả năng làm thí nghiệm
lúa cho ĐHCT.
Đó là năm
1966, ĐHCT khai giảng với 3 phân khoa chính là Khoa Học, Luật Khoa và
Văn Khoa. Trường Cao Đẳng Nông Nghiệp Cần Thơ chưa có, chỉ mới bổ dụng 2
nhân viên đầu tiên là cụ Kỹ Sư Phan Lương Báu làm Giám Đốc, và kỹ sư
trẻ Phạm Văn Kim làm phụ tá, để nghiên cứu việc thành lập trường. Trường
chưa có cơ sở gì cả. Vì vậy, việc nghiên cứu thí nghiệm lúa phải mượn
cơ sở của trường Trung Học NLS Cần Thơ. Như thế, một sự hợp tác được
thành hình giữa các Trường Nông Nghiệp Sài Gòn, Viện Đại Học Cần Thơ và
Trường NLS Cần Thơ.. Vốn là giáo sư của Trường NLS Cần Thơ, tôi được
phép lấy cơ sở của NLS CT để làm thí nghiệm lúa cho Viện ĐHCT dưới sự
yểm trợ chuyên môn của GS Trình.
GS Trình
giao cho tôi hạt giống lúa IR8 mà GS vừa nhận được từ Viện Nghiên Cứu
Lúa Gạo Quốc Tế (IRRI, International Rice Research Institute) ở Los
Banos, Philippines, một số tài liệu rất mới, và sách chuyên khoa lúa để
cho tôi đọc. GS cùng tôi hoạch định chương trình làm thí nghiệm với kỹ
thuật mới, nói đúng hơn là làm trình diển giống mới với kỹ thuật mới.
Đồng thời, GS Hộ chỉ thị xuống anh Pham Văn Kim phải yểm trợ tài chính
dồi dào và mau lẹ khi tôi yêu cầu. Anh Phạm Văn Kim tuyển dụng cho tôi 2
nhân viên, cô Trần Thị Thịnh (Huấn sự nông chính) và một lao công
thường trực là anh Trần Nhựt Tân để giúp tôi.
Cánh đồng
thí nghiệm là khu đất trống, khoảng 1 ha, đầy lau sậy, bên cạnh lộ Cần
Thơ - Long Xuyên, và lộ 20, nguyên là chổ cho đàn trâu Murat của trường
gậm cỏ. Trong khu đất này có một sân bóng rổ, nền tráng xi măng.
Sau khi
phát sạch lau sậy, các nhóm học viên NLS thực hành nông trại dùng máy
cày, máy xới Kubota, cày xới nhuyển đất, rồi đấp bờ bao quanh. Bây giờ
mới tới phần việc làm đám mạ, theo kỹ thuật mới. Các anh chị lớp huấn
sự, kịểm sự góp phần vào việc này cùng với chị Thịnh, anh lao công Tân
và tôi. Rồi tới ngày cấy, cũng áp dụng kỹ thuật mới, cấy lúa thẳng hàng,
rất đẹp mắt. Chi Thịnh và anh Tân lúc nào cũng ở ngoài đồng từ sáng sớm
đến chiều tối, và báo cáo cho tôi tức khắc những gì bất thường xảy ra.
Nhờ chăm sóc kỹ, phân bón, thuốc trừ sâu đúng theo kỹ thuật mới, đám lúa
IR8 tươi đẹp vô cùng, đánh vào mắt người qua lại trên hai con lộ sầm
uất kế bên.
Khi lúa
sắp trổ thì chuột trong khu gia cư chung quanh trường xuất hiện. Nhờ thủ
tục nhanh chóng, Viện ĐHCT xuất tiền mua tôn kẻm bao chung quanh khu
ruộng, và đánh bả mồi thuốc độc ở bên ngoài và bên trong tường tôn kẻm,
nên không có một con chuột nào chui vào được khu ruộng mà còn sống sót.
Đến lúc lúa chin, chim thành phố bay đến phá hại, chúng tôi phải treo
khắp cánh đồng giấy màu vàng có ánh lấp lóe, vì chim sợ màu vàng, và đặt
bù nhìn khắp cánh đồng. Anh Tân và chị Thịnh thay phiên trực ngoài
ruộng.
Quang
cảnh phấp phới giấy vàng trên cánh đồng lúa tốt xanh tươi và nặng triểu
hạt vàng, gây chú ý của người qua lại. Nhiều người hiếu kỳ, kể cả nông
dân và người ngoại quốc qua lại trên hai con lộ, dừng chân quan sát. Có
người vào trường xin xem cánh đồng và hỏi thăm tên giống lúa, lúc đó còn
mang tên xa lạ IR8.
Gần đến
ngày gặt, tôi báo cáo lên GS Tôn Thất Trình ở Sài Gòn, cụ Giám Đốc Phan
Lương Báu và GS Viện Trưởng Phạm Hoàng Hộ của ĐHCT. Các vị quyết định tổ
chức một cuộc hôi thảo giới thiệu giống lúa mới tại hội trường NLS vào
ngày thâu hoạch.
Sáng sớm
hôm ấy, các phái đoàn của Nha Nông Nghiệp Sài Gòn, trường CĐNN Sài Gòn,
cùng GS Tôn Thất Trình và một vị Giáo Sư về Lúa thuộc ĐH Davis,
California, xuống Cần Thơ. Ty Nông Nghiệp Cần Thơ cùng mấy chục nông dân
tiến bộ của tỉnh đến tham dự. Đăc biệt hơn nữa, viên Cố Vấn Nông Nghiệp
Hoa Kỳ ở Miền Tây dùng trực thăng đưa một số nông dân ở các tỉnh lân
cận đến quan sát và tham dự. Chúng tôi cho gặt một phần đám lúa, cân đo
năng xuất, cho biết là năng xuất 5 tấn lúa/ha, phá kỷ lục về năng xuất
vào thời đó (thời đó chỉ 3 tấn/ha). Cuộc hội thảo trở thành một đại hội
trình diển giống lúa mới. GS Phạm Hoàng Hộ và GS Trình rất hài lòng với
kết quả thí nghiệm này.
Chính nhờ
kết quả trình diển thành công giống lúa IR8 đã biến đổi sự nghiệp của
tôi. GS Viện Trưởng Phạm Hoàng Hộ tuyển dụng tôi vào làm ở Trường Cao
Đẳng Nông Nghiệp Cần Thơ, lúc đó chỉ mới có 4 nhân viên là cụ Phan Lương
Báu (Giám đốc), anh Phạm Văn Kim (phụ tá hành chánh, hiện nay PGS
DHCT), anh Nguyễn Phi Long (phụ tá học vụ, nay là Hiệu Phó Đại Học Cửu
Long, Vĩnh Long) và tôi (phụ trách thí nghiệm và nông trại). Vừa qua
ĐHCT được một tháng, thì GS Tôn Thất Trình được mời ra làm Bộ Trưởng Bộ
Canh Nông. GS Trình xin GS Hộ cho tôi được biệt phái qua Bộ Canh Nông để
giúp GS một thời gian, và GS Trình giao tôi nhiệm vụ thiết lập Trung
Tâm Quốc Gia Huấn Luyện Lúa Gạo tại Sài Gòn, với cơ sở thực hành ở Hiệp
Hòa (Biên Hòa). Tháng 10/1967, GS Bộ Trưởng Tôn Thát Trình đặt tên giống
lúa mới IR8 là Thần Nông 8. Với chức vụ Quản Đốc cho
môt trung tâm huấn luyện mới thành lập, phải mất 3 tháng tôi mới mở được
khóa huấn luyện đầu tiên giảng day canh tác lúa Thần Nông cho 30 vị
Trưởng Ngành Túc Mể và Khuyến Nông trên toàn quốc. Cũng trong thời gian
này, tôi được hân hạnh hướng dẩn vị nguyên thủ quốc gia (Tổng Thống) cấy
lúa Thần Nông 8 trong một lể Hạ Điền (26/3/1968) tại nông xã kiểu mẩu
Phước Thới, Long Xuyên. Nhờ công lao phát huy tiềm năng của lúa Thần
Nông 8 tại trường NLS Cần Thơ, và huấn luyện chuyên viên ngành Túc Mể và
Khuyến Nông của Bộ Canh Nông về kỹ thuật canh tác mới cho lúa Thần
Nông, trước khi trở lại Viện Đại Học Cần Thơ, tôi được tưởng thưởng một
Nông Nghiệp Bội Tinh. Có lẻ tôi là người trẻ nhất (lúc đó mới 27 tuổi)
mà không phải nhân viên của Bộ Canh Nông lại được cái vinh dự này.
Hướng dẫn Tổng Thống cấy lúa Thần Nông 8 ở Long Xuyên
Tóm lại,
chính nhờ mảnh đất của Trường NLS Cần Thơ, nhờ bàn tay lao động của các
em học viên NLS, sư tận tụy của cô Trần Thị Thinh và anh lao công Trần
Nhật Tân, sự yểm trợ nhanh chóng và hửu hiệu của anh Phạm Văn Kim và cụ
Giám Đốc Phan Lương Báu, lòng ưu ái và khuyến khích của GS Viện Trưởng
Phạm Hoàng Hộ và GS Tôn Thất Trình làm bực thang căn bản, vửng chắc, để
từ đó tôi tiến lên sự nghiệp tốt đẹp hơn.
Tôi vô vàng ghi ơn các em học sinh NLS và các vị kể trên đã giúp tôi thành công trong thí nghiệm này.
Reading, 26/9/2008
Trần Đăng Hồng
Bài này viết theo yêu cầu của Ban Biên Tập Đặc San "Trường Củ Tình Xưa" của lớp CT 1970-1973, NLS Cần Thơ.
Khóa huấn luyện canh tác lúa Thần Nông đầu tiên
(9-20/4/1968) ở VN do tôi giảng dạy tại National Rice Production
Training Centre do tôi vừa thành lập. Tôi đúng hàng đầu, thứ tư tính từ
phía có hai chị.
Lời ước ở thế kỷ 21
Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi, mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi, người thương gia lợi tức, người công nhân ấm no, thoát ly đời gian lao nghèo khó…Nhạc sĩ của những tuyệt khúc đón xuân, Phạm Đình Chương, có tâm nguyện gì trong lời chúc Ly rượu mừng ấy? Đã 62 năm kể từ mùa xuân Nhâm Thìn ấy đến xuân Giáp Ngọ năm nay, ba giai tầng xã hội – gồm một giai cấp nông dân, một khối thương gia (kinh tế thị trường ban đầu) cùng một giai cấp công nhân – mà ông gửi lời chúc đến, đã chuyển biến, thăng hoa như thế nào? Có thể làm gì hơn không?
"Vui lúa thơm hơi, người thương gia lợi tức"
Năm 1952 ấy, chuyện nông dân thóc lúa đầy bồ không còn là một băn khoăn, mà là làm sao cho giá trị hàng hóa của gạo (xuất khẩu) cao hơn, nếu như có được những dòng lúa thơm ngon hơn. Xuân Giáp Ngọ này khi nghe lại “mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi”, ắt hẳn những ai quan tâm đến vấn đề phát triển nông thôn sẽ phải nhíu mày vì lời chúc “lúa thơm hơi” ấy của Phạm Đình Chương sao vẫn còn chưa thành sự thực.
Mong ước người nông dân no ấm, mùa màng bội thu |
Những nguyên nhân của sự thua kém này đã được biết đến từ lâu, ghi nhận từ cách đây hơn 50 năm và bị tố cáo không ngừng như là một trở ngại cho việc bước vào cạnh tranh thương mại mọi mặt với các đối thủ trong các thị trường phương Tây. Ngay từ năm 1867, gạo của xứ Nam Kỳ đem dự đấu xảo thế giới đã cho thấy chất lượng kém… Đến năm 1875, Giám đốc Sở nội vụ Nam Kỳ ghi nhận rằng loại nông sản hầu như là mặt hàng xuất khẩu duy nhất của chúng ta không còn có chỗ chen chân trừ phi chấp nhận giá thấp...".
Một thế kỷ sau, cũng vẫn tồn tại vấn nạn chất lượng gạo không sánh nổi các đối thủ truyền kiếp. Ai có thể làm gì hơn cho nông dân thoát khỏi cảnh “nghèo vẫn hoàn nghèo”? Câu trả lời xin nhường cho các nhà làm chính sách “phát triển nông thôn”.
Trong khi chờ đợi xin kể một câu chuyện. Khi bắt đầu biết ăn và đòi ăn, tôi đã nghe người ta gọi mãng cầu xiêm, vịt xiêm, dừa xiêm; nay già rồi, lại phải nghe xoài Thái, nhãn Thái, me Thái, boòng boong Thái, chôm chôm Thái, sầu riêng Thái… Và thú thiệt, trái cây của Thái bựu và ngon hơn của ta! Quái lạ, hết “xiêm” (Siam) nay là Thái! Tại sao giống má của ta cứ phải chào thua giống Thái ngay trên sân nhà vậy? Có công bằng không khi cứ bó tay để cho nông dân phải trồng những giống lúa giá bèo như IR50404 vì sợ thất mùa, vì năng suất cao… hay những giống cây ăn trái đèo đuột?
Gạo Việt Nam đang phải cạnh tranh với các nước |
Nhìn lại câu chuyện trên về hạt gạo xuất khẩu hay bất cứ nông sản, thủy sản nào khác ở Việt Nam có thể thấy người nông dân, ngư dân trực tiếp sản xuất sao cứ chỉ “vỗ béo” các doanh nghiệp thu gom, xuất khẩu! Thị trường thế giới lên hay xuống, cũng chỉ nông, ngư dân lãnh đủ. Nếu không điều chỉnh được mối quan hệ này, e rằng đứt gãy xã hội sẽ ở đó. “Người thương gia lợi tức” mà “người nông dân không vui lúa thơm hơi”, thì rõ ràng là không ổn.
"Người công nhân ấm no, thoát ly đời gian lao nghèo khó"
Lời chúc trong bài ca mừng xuân từ năm 1952 e rằng đến nay vẫn còn là điều ước đối với một số công nhân. Không lúc nào trong năm mà người lao động thắm thía sự chênh lệch xã hội bằng mỗi dịp Tết đến. Trước Tết vài tuần khi báo chí đăng tin về các khoản tiền thưởng “trên không trung” của một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài, cũng là lúc mà người lao động cám cảnh thân phận mình nhất. Năm ngoái, ở TP.HCM, theo Sở Lao Động – Thương binh và Xã hội, mức thưởng Tết Nguyên Đán Qúy Tỵ cao nhất gần 540 triệu đồng, thấp nhất 373.000 đồng, cá biệt, có doanh nghiệp thưởng Tết bằng xe hơi…Tính ra chênh lệch giữa hai khoản tiền thưởng đối cực này là 1.447 lần! Đã thế, còn có những doanh nghiệp không thưởng, có doanh nghiệp cho gần 700 công nhân ngừng việc.
Mong người công nhân thoát ly đời gian khó |
Với “thế giới phẳng”, các tầng nấc của một tập đoàn công nghiệp trung tâm trước kia nay tan rã. Thay vì sản xuất từ A-Z, người ta sử dụng gia công bên ngoài cho những công đoạn không thiết yếu. Duy nhất còn tập trung là các kỹ sư trong các văn phòng nghiên cứu độc lập, mà ở đó chẳng có công nhân trực tiếp, thậm chí công việc phục vụ, bảo vệ thuê bên ngoài. Song song, cuộc cách mạng tài chính của những năm 1980 cũng đã làm thay đổi bộ mặt công ty. Nay không còn là lúc bảo vệ sự sống còn của người lao động mà là sự lời lãi của các cổ đông.
Daniel Cohen, một giáo sư kinh tế hàng đầu người Pháp, đã nhận xét: “Xã hội công nghiệp gắn bó một phương thức sản xuất với một phương thức bảo vệ. Qua đó, kết làm một bài toán kinh tế và bài toán xã hội. Xã hội “hậu công nghiệp” thì tách các vế đó ra. Xã hội hậu công nghiệp đó là xã hội dịch vụ”.
Tờ The Economist ngày 29/5/2005 loan báo số công việc làm trong ngành công nghiệp ở Mỹ nay chỉ còn không đầy 10% tổng số việc làm, và rằng tiếp sau Mỹ là Anh, Pháp, Nhật Bản, Đức và Ý… Số liệu đó không gây sốc bằng lời bình luận kèm theo: “Sự sút giảm công ăn việc làm trong bất cứ lĩnh vực nào nghe qua cũng có vẻ như là một tin xấu. Song, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thì công việc làm bấy nhiêu là do nền kinh tế mạnh khỏe, chớ không đau ốm”.
Tờ báo này giải thích: “Sự suy giảm của lĩnh vực sản xuất công nghiệp không phải là do sự tràn ngập hàng hóa “made in China” trên các quầy siêu thị. Sản lượng công nghiệp ở Mỹ từ năm 1991 vẫn tăng đều đều 4% và Mỹ vẫn là nhà sản xuất lớn nhất thế giới, sản xuất giá trị hàng hóa gần gấp đôi Trung Quốc…
Tổ chức Tết cho công nhân xa nhà |
Nay, thì sự phân công lao động trên không còn gây ngạc nhiên nữa. Ngạc nhiên nếu có chính là làm thế nào mà từ khi Việt Nam mở cửa vào đầu thập niên 1990 đến nay, vẫn chỉ phát triển được có mỗi lĩnh vực cung cấp lao động gia công giản đơn cho các nhà đầu tư.
Tháng 4 năm nay, BBC Lab UK công bố một kết quả nghiên cứu rộng rãi, theo đó, ở Anh hiện nay có bảy lớp xã hội, trong đó cao nhất là lớp tinh hoa ưu tú và chót hết là lớp vô sản có cuộc sống tạm bợ. Liên tưởng đến xứ mình, có thể thấy sự phân hóa xã hội qua thu nhập là tất yếu trong một nền kinh tế nông nghiệp “cổ truyền” với phương pháp và diện tích canh tác cùng một nền sản xuất gia công của hậu bán thế kỷ trước cộng sinh cùng một vài lĩnh vực dịch vụ đương thời mà tập trung chủ yếu ở một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Một vài lĩnh vực dịch vụ bung ra quá cỡ và “sống khỏe” (bằng những dịch vụ thiếu cân nhắc rủi ro, nên nay gãy đổ, tỷ như lĩnh vực ngân hàng, địa ốc và môi giới địa ốc)…., cùng một số lạm dụng trong một số tập đoàn quốc doanh lại càng làm cho sự phân hóa xã hội sâu sắc thêm.
Vấn đề đặt ra là làm sao tái cân bằng lực lượng lao động. Muốn thế phải xác định lại “xã hội công nghiệp” mà ta muốn tiến đến vào năm 2020 là như thế nào, gồm những lĩnh vực gì và ngành giáo dục đào tạo có thể được tham vấn gì trong đề án đó? Kinh nghiệm thất bại của năm lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn đã qua không chỉ trong thất bát mà trong cả việc cung ứng nhân lực cho các ngành công nghiệp đó đòi hỏi phải quan tâm hơn nữa đến lực lượng lao động cần thiết phải có. Bằng không, nếu cứ mãi ở chế độ gia công, e rằng sẽ có lúc không có cả hợp đồng gia công và cứ mãi ở giai đoạn mà kinh tế học gọi là “cất cánh kinh tế”.
Một báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới có tên “Phát triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao động cho một nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam” cho thấy người sử dụng lao động hiện nay đang tìm kiếm không chỉ là các kỹ năng nhận thức cơ bản, mà họ ngày càng quan tâm đến các kỹ năng như tư duy phê phán, làm việc nhóm và giao tiếp. Người sử dụng lao động nói rằng sinh viên Việt Nam tốt nghiệp ra trường thường bị thiếu các kỹ năng này.
Chìa khóa của các vấn đề đó phần nào nằm trong tay Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mong là sang năm mới này không còn “ba chung” tuyển sinh nữa, nên có lẽ sẽ dành tài lực, trí lực mà tư duy thêm một chút cho bài toán nhân lực này.
(Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn số xuân)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire