Có ai thích thì vào đọc vài câu chuỵên của nhà văn Tiểu Tử viết để thấy có mình, có ta trong đó ngày xưa hay bây giờ không nhé?
Cám ơn Tiểu Tử.
Bài đọc trên net.
Caroline Thanh Hương
Mấy chuyện
nho nhỏ!
Tiểu Tử
1
Hôm đó, trên
đường về nhà, tôi gặp một người đàn ông Pháp cỡ bốn mươi tuổi ăn mặc đàng
hoàng, kè theo hỏi:
- Xin lỗi !
Ông là người Tàu hay người Việt Nam ?
Tôi dừng lại,
ngạc nhiên, trả lời:
- Tôi là người
Việt Nam.
Ông ta mừng
rỡ:
- Vậy, có phải
trưa hôm qua, ông đã đỡ một bà cụ té ở chỗ này không?
Tôi càng ngạc
nhiên thêm:
- Không! Tôi
không có đỡ ai hết!
Tôi trả lời
mà nghĩ đến mấy chuyện ra tay cứu người rồi mang vạ vào thân vì sau đó nạn nhân
quay lại thưa người cứu mình đã lấy tiền lấy đồ.. v v …
Có lẽ đoán
được ý nghĩ của tôi nên ông ta mỉm cười ôn tồn nói:
- Ông yên
tâm! Không có chuyện gì rắc rối hết. Tôi chỉ muốn tìm người Việt Nam đã đỡ mẹ
tôi thôi. Bà cụ đó là mẹ của tôi, thưa ông.
- Vậy à!
Nhưng mà tôi nói thật: Hôm qua, vào giờ này tôi có đi qua đây, không thấy ai té
hết. Mà… bà cụ có sao không ?
- Cám ơn
ông, Mẹ tôi không có sao hết.
Rồi, không đợi
tôi hỏi, ông kể lại những gì mà mẹ ông đã kể cho ông nghe… Hôm qua, bà cụ đi
thăm một bà bạn. Bà đi qua lối này để về nhà. Đây là ngõ đi tắt duy nhứt dẫn
qua khu nhà bà ở. Khi đến khoảng đất trống có bốn trụ đèn đường, bà trợt chân
té. Lúc đó, cũng có mấy người hấp tấp qua lại, họ quay đầu nhìn nhưng rồi bỏ đi
luôn. Một người đàn ông Á Đông, đã đi qua rồi, thấy vậy chạy trở lại đỡ bà đứng
lên, lượm cái xắc da mang chéo vào người bà, ân cần hỏi bà có sao không ? Bà bước
thử vài bước, nói không sao, rồi kể rằng già rồi, đi thì được, chỉ có ngồi xuống
đứng lên mới là khó. Ông ta tỏ vẻ ái ngại, bước lại cập tay bà nói để dìu bà về.
Hai người đi như vậy một lúc, bỗng bà hỏi ông người Tàu hả, ông trả lời rằng
mình là người Việt Nam. Mắt bà sáng lên, bà nói bà có bà bạn năm nào cũng đi du
lịch Việt Nam vào dịp đầu năm, bả nói xứ ông đẹp lắm rẻ lắm, dân chúng hiếu
khách dễ thương …
Đến một đoạn
đường ngắn, bà cụ bỏ tay ông Việt Nam, bước một mình vừa đi vừa nói tôi đi được
ông khỏi lo, tôi ở đường Colette gần đây, còn ông, ông ở đâu? Ông đó nói tôi ở
khu xa hơn, phía bên kia trường học, ngày nào cũng đi và về bằng ngã này. Bà cụ
đi một đỗi nhìn lại thấy ông Việt Nam còn đứng nhìn theo coi bà cụ có thật sự
đi một mình được không! Tối đó, bà kể chuyện cho người con nghe, rồi sực nhớ
ra, bà nói: “Chúa ơi! Tao quên nói cám ơn ông ta!”. Vậy là bà cụ bắt người con
hôm sau ra lối đi tắt chận hỏi từng người Á Đông để tìm ngưởi Việt Nam đã đỡ bà
chỗ “khoảng trống có bốn trụ đèn”, tìm để chỉ nói lời cám ơn mà bà đã quên nói
hôm qua!
Kể xong, ông
nắm tay tôi siết nhẹ. Rồi ông nhìn tôi, mắt đầy thiện cảm, nói: “Cám ơn!”. Tôi
bước đi, lòng lâng lâng hãnh diện, mặc dầu tôi biết rằng lời cám ơn đó không phải
cho tôi mà là cho chung hai chữ “Việt Nam” …
2-
Năm 2006, vợ
tôi về Việt Nam lo ma chay cho má tôi. Sau đó, bả được mấy đứa cháu chở đi Châu
Đốc viếng Chùa Bà.
Cúng vái
xong, ra đến cổng chùa thì có một đám bé gái độ mười hai mười ba tuổi bu lại
chen lấn nhau xin tiền. Một đứa đứng gần vợ tôi, có vẻ lanh lợi nhứt, xè tay
nói một hơi có ca có kệ: “Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con cầu nguyện
Bà cho con gái ngoại lấy được chồng Đài Loan! Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con
5000 đồng, con ... ”
Trên đường về,
vợ tôi miên man suy nghĩ về mấy đứa nhỏ đó: Không có tiền để đi học, còn quá nhỏ
để có một cái nghề, và chắc nhiều đứa - rất nhiều đứa - chỉ ước ao lấy được chồng
Đài Loan khi mình lớn lên một chút! Rồi vợ tôi thở dài...
Nghe kể mà
tôi thấy thương quê hương tôi vô cùng. Trước đây, dù có nghèo đi mấy cũng chưa
bao giờ tệ đến như vậy! Viết lại chuyện này mà tôi nghe rát từ đáy lòng rát lên
khóe mắt ...
ĐẠP XÍCH LÔ
Trung đã cao
lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh ta rất “đô” con. Đi với
tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da đen, Trung là người Việt Nam mà vóc
dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa nói giỡn: “Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn
con như vậy. Nếu nó ăn bánh mì “xúc xích - phô mai” như mình chắc nó thành ông
khổng lồ quá!”.
Cách đây hai
năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về. Tôi không có dịp gặp
anh để hỏi thăm. Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới kể
cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau
đây ...
... Con qua
Pháp với ba mẹ hồi con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy cái gì cũng lạ! Cho nên
con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài Gòn. Con nhờ anh tiếp viên của
khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao chạy một ngày. Vậy là sáng hôm sau,
đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy bằng điện thoại cho hay xích
lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số tiền thuê bao. Con đếm số tiền rồi để
riêng vào một túi quần, con muốn tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ
bọn lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía
trước. Con cám ơn rồi bước ra ngoài. Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm
trên vỉa hè vội vã đứng lên chấp tay chào. Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông
ta đang đón con bằng một nụ cười rạng rỡ. Bác biết không? Ổng già khú, ốm nhom,
nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con
không biết tả làm sao cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp
và không còn hai ống tay! Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai
khúc ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp. Đó! Ông xích lô của con
đó! Bác coi: Con như vầy thì nỡ lòng nào lên ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe
đưa con đi. Mà liệu ổng có đạp nổi một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không?
Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng
cho thấy là ổng đang “trúng mối lớn”. Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền,
nói: “Đây, tiền công của bác trọn ngày nay đây!”. Ổng mừng rỡ, móc trong lưng
ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào. Con hỏi: “Bác
không đếm sao?”. Ổng cười, nhìn con: “Khỏi! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian
tui sao?”. Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời: “Cậu lên ngồi, đi!”.
Con lắc đầu: “Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!”. Nụ cười của ổng tắt mất: “Ủa!
Gì kỳ vậy?”. Con giải thích: “Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!”. Ổng
vỗ vỗ lên yên xe: “Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi! ”. Con
nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói:
“Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ”. Ổng
bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng. Để khỏi cù cưa, con bước lại đưa
hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi của khách. Ổng nhẹ đến
nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp đi. Ông già cứ nhìn ngược về
phía sau, lo lắng: “Cậu liệu được không cậu?”. Con vui vẻ trả lời cho ông yên
tâm: “Được mà... Dễ ợt hà!”. Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng
xe chạy ồ ạt trên lòng đường. Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ.
Ông già ngồi không yên, lâu lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng
nên không nghe ổng nói gì hết. Một lúc sau bỗng ổng la lớn: “Quẹo mặt! Quẹo mặt!
Khúc này cấm xe xích lô!”. Từ đó, ổng chỉ cho con chạy: “Từ từ... Đằng trước có
xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đít... .” Có lúc
thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên: “Đừng! Đừng!
Đường cấm xe xích lô!”... Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn
ngửa, yên chí có ông già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì... làm
gì... Gần trưa, con tấp vô một quán phở, nói: “Mình vô ăn cái gì đi”. Ổng nói:
“Cậu vô ăn đi, tôi không đói”. Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại:
“Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu! Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!”. Rồi ổng gỡ
tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh xe xích lô, vấn thuốc hút.
Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô
cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở, con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra.
Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên: “Ăn gì mau vậy cậu?”.
Con nói trớ: “Thấy không ngon nên không ăn”. Rồi con nói tiếp: “Bây giờ, tôi trả
xe lại cho bác đó! Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc mắc.
Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi”. Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa
hàng này cửa hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe
Honda ôm đang đợi khách ở ngã tư đường, trèo lên “ôm” đi thẳng!
Kể xong,
Trung hỏi: “Nhà nước đang có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết
bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?”. Tôi nói: “Ờ...”. Rồi nín
luôn. Một cách trả lời để không trả lời!
-3
Một ông bạn ở
Paris cho tôi uống một thứ trà Tàu đặc biệt ổng đem từ bên Mỹ về. Ổng cầm cái hộp
vuông màu xanh ve chai đưa lên khoe: “Trà này bên nây chưa có. Nó tên là Trà
Vương. Hộp 150 gr này tôi mua bên Mỹ giá là 15 đô đó!”.
Trà ngon thiệt!
Vị ngọt phớt chớ không đắng hay chát như loại trà Tàu khác và nhứt là mùi thơm
rất “vương giả” chớ không phải mùi lài hay sói hay sen như thường thấy. Uống cạn
chén trà, hương trà còn đọng lại trong đáy chén phất lên mũi gợi thèm mùi vị đặc
biệt này! Ông bạn tôi nói Trà Vương có nhiều số, nhưng số 103 là ngon nhứt!.
Tôi đã đi
lùng sục ở Paris nhưng không thấy bán loại Trà Vương này. Một hôm, đi với vợ
tôi ở khu 13 chợ Tàu, tôi chợt thấy một bà Á đông cầm một hộp vuông màu ve chai
vừa quơ quơ ra dấu vừa nói chuyện với hai bà khác cùng ngồi trên băng gỗ vỉa
hè. Tôi bước lại nhìn: Thì ra đúng là hộp Trà Vương! Mừng quá! Nghe mấy bà đó
nói tiếng Việt Nam nên tôi hỏi ngay: “Phải Trà Vương không bà?”. Bả quay qua
tôi, trả lời cụt ngủn: “Ờ! Mà hết rồi!”. Rồi quay về tiếp tục nói chuyện với
hai bà kia. Tôi chen vào: “Xin lỗi! Bà mua ở đâu vậy?”. Lần này, không quay lại
nhìn tôi nhưng bả vẫn trả lời: “Mà tôi nói hết rồi!”. Tôi không dám cười, sợ bả
bị chạm tự ái. Tôi vẫn ôn tồn hỏi: “Dạ! Nhưng xin bà làm ơn cho tôi biết bà mua
ở đâu vậy?”. Bả nhìn tôi, chắc coi tôi có... khùng không mà cứ lải nhải hỏi
hoài. Rồi bả cầm cái hộp lia lia về hướng phía dưới con đường một chiều: “Dưới
kia kìa”. Tiếp theo là bả gằn từng tiếng: “Tôi-nói-hết-rồi!”. Tôi cám ơn rồi
kéo vợ tôi đi “mò” dài dài xuống “dưới kia kìa”, tiệm nào cũng vô kiếm Trà
Vương! Khi đi gần ... rã chân thì vào một siêu thị lớn. Họ nói: “Có!. Nhưng mà
hết rồi!”. Hỏi chừng nào có nữa, họ trả lời không biết! Thì ra bà già hồi nãy
nói đúng. Bả đã tốt bụng “nói cho thằng chả biết là hết rồi để thằng chả khỏi
phải lội xuống tuốt dưới kia xa thấy mồ chớ bộ”!
Các bạn có
thấy chuyện nhỏ này dễ thương không? Bà già đó, cho dầu có lưu vong ở chân trời
góc biển nào đi nữa, bà vẫn giữ nguyên phong cách Việt Nam. Trân quý lắm, các bạn
à !
-3
Má tôi mất
vào ngày đưa Ông Táo. Thằng con lớn của tôi đi với má nó về Việt Nam lo ma
chay. Ông thầy làm đám (phái Cổ Sơn Môn thường gọi là thầy cúng) là ông thầy
Non. Cái tên này do má tôi đặt ra để tránh gọi “Thầy Con” vì ổng là con ông thầy
Cả, ông này là bà con kêu má tôi bằng cô và là bạn học của tôi từ thời tiểu học
ở trong làng. Kể như vậy để thấy thầy Non đối với gia đình tôi không phải là
ngưởi xa lạ.
Sau đám ma,
thầy Non lấy Honda chở con tôi đi đầu trên xóm dưới thăm bà con và cũng để xem
vùng quê ăn Tết. Đang chạy trên đường xóm Nhà Máy, thấy một ông lái mô tô đi
cùng chiều chở phía sau một chậu mai. Thầy Non nói với con tôi: “Coi kìa! Cây
Mai đẹp quá kìa!”. Rồi thầy chạy kè theo để con tôi thấy rõ hơn. Ông chở mai
quay qua nhìn, con tôi nói lớn cho ổng nghe: “Cây Mai đẹp quá!”. Ông đó nói: “Ờ!
Mà không có bán!”. Vì tiếng máy mô tô ồn quá nên con tôi phải nói lớn hơn cho ổng
nghe: “Không! Tôi chỉ muốn nói là cây Mai của ông đẹp quá hà!”. Ổng có vẻ bực
mình: “Ờ! Người ta nói không có bán là không có bán!”. Rồi ổng vọt ga chạy thẳng,
làm thầy Non phải ngừng xe lại để cả hai cùng ôm bụng cười! Sau đó, lại tiếp tục
đi. Một lúc, thấy một ông chạy Honda chở thằng nhỏ ngồi phía sau đâu lưng với ổng,
ôm trong lòng một quày dừa tươi. Con tôi, nhớ lại vụ cây Mai, muốn phá chơi nên
hỏi chọc: “Dừa có bán không vậy?”. Thằng nhỏ thúc cùi chỏ vào lưng người lái
xe: “Ba! Ba! Thằng chả hỏi có bán dừa không kìa!”. Người đàn ông làm thinh
nhưng có vẻ suy nghĩ. Bỗng, ông ta la lên “Ừa! Bán!” rồi tấp xe vào lề ngừng lại.
Thầy Non nói: “Ở chùa thiếu gì dừa! Mua chi vậy?”. Hỏi chơi mà đâu có dè ổng
bán nên con tôi đành mua một trái. Ông đó nói: “Dừa tôi mua cho vợ tôi kho thịt
ăn Tết. Thấy cậu hỏi mua, tôi nhường một trái cho cậu uống chơi!”. Con tôi nói
cám ơn mà không dám cười!...
Sau hơn ba
mươi năm “đổi đời”, cái thật thà chân chất của quê tôi, may quá, vẫn còn nguyên
như cũ !
-4
Trên chiếc bắc
Mỹ Thuận. Chiếc bắc chở đầy nhóc xe và người, ùng ục qua sông. Mấy người bán dạo
rao hàng inh ỏi. Vợ chồng tôi đứng ở khoảng trống phía đầu chiếc bắc, nhìn sông
nước minh mông với những về lục bình xanh biếc nhấp nhô trên sóng nước. Mùa
này, lục bình bắt đầu nở bông nên thấy có màu tim tím e ấp lấp ló giữa những bựng
lá to láng mướt. Đẹp quá! Sau hăm mấy năm xa xứ, bây giờ có dịp về thăm, chúng
tôi thấy cái gì cũng đẹp! Nước sông đục ngầu phù sa... cũng đẹp! Chiếc ghe bầu
phình bụng chở lúa khẳm lừ tưởng chừng như sắp chìm.... cũng đẹp! Chiếc đò
ngang hay đò dọc gì đó dài thòn có cái mui bằng phẳng thấp lè tè, hai bên hông
trống trơn không có gì che chắn, lướt sóng chạy bắn nước như giành sông với những
ghe thuyền khác... cũng đẹp!
Bỗng, một bé
gái cỡ 10 tuổi đến gần vợ tôi, tay chìa một tấm vé số, năn nỉ bằng một giọng
trong trẻo nhưng nói khá to để át tiếng những người bán dạo chung quanh: “Ngoại
ơi ngoại! Con còn có một vé số này thôi, ngoại mua dùm con để con còn về phụ má
con lo việc nhà”. Con bé mặt mũi sáng sủa dễ thương. Vợ tôi lấy tiền mua vé số
rồi vuốt đầu nó, hỏi: “Nhà con ở đâu lận?”. Chắc bả thấy tội cho con nhỏ, mới
có bây lớn tuổi đầu mà bán xong còn phải lội bộ về nhà giúp mẹ! Nó nhìn vợ tôi,
mỉm cười rồi mới trả lời: “Dạ! Ở xóm rạch Ngo gần đây hà!”. Cái cười của nó có
duyên vô cùng. Trước khi đi, nó còn biết nói: “Cám ơn nghe ngoại!”. Tôi nhìn
theo mà thấy mến cái dáng nho nhỏ thon thon của nó trong bộ đồ bà ba vải trắng
đã ngả màu bùn non lờn lợt ...
Một lúc sau,
tôi nghe ở hành lang phía bên kia vang lên tiếng lảnh lót của con bé: “Ngoại ơi
ngoại! Con còn có một vé số này thôi, ngoại mua dùm con để con còn về phụ má
con lo việc nhà”. Tôi nhón gót nhìn sang: Đúng là nó! Vợ tôi hỏi: “Nó hả ?”.
Tôi gật đầu mà không nén được tiếng thở dài ...
Tôi nhìn ra
sông nước với vài chiếc ghe thuyền đi lại, nghĩ mà thương cho thân phận người
dân bây giờ... Tôi buột miệng nói: “Bây giớ... sao thấy nhiều lục bình quá hổng
biết ” ...
Chiếc bắc vẫn
ùng ục nhả khói qua sông... ráng nhả khói mà qua sông...
TIỂU TỬ
Mời quý anh chị đọc những bài viết khác của Tiểu Tử và đọc qua phần tiểu sử của ông.
Caroline Thanh Hương
Tiểu sử nhà văn Tiểu Tử :
Mời quý anh chị đọc những bài viết khác của Tiểu Tử và đọc qua phần tiểu sử của ông.
Caroline Thanh Hương
Nhà văn Tiểu Tử Võ Hoài Nam
Tiểu sử nhà văn Tiểu Tử :
Nhà
văn Tiểu Tử, tên thật là Võ Hoài Nam. Ông là con trai duy nhứt của giáo
sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài
Gòn. Ông sanh ngày 19 tháng 7 năm 1930 tại quận Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh,
Việt Nam. Ông tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, Pháp quốc năm 1955. Ông về
Việt Nam, dạy tại trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký niên khóa
1955-1956. Tháng 10 năm 1956, ông vào làm việc tại hãng xăng Shell Việt
Nam cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Năm 1979, ông vượt biên và định cư
tại Pháp. Sau đó, ông nhận làm việc cho công ty Đường Mía của nhà nước
tại Côte d’Ivoire, Phi Châu, từ 1979 đến 1982. Ông qua làm hãng xăng
Shell Côte d’Ivoire cho đến khi về hưu (1982-1991). Hiện ông đang nghỉ
hưu tại Paris, Pháp quốc.
Trước
1975, ông phụ trách mục biếm văn “Trò đời” trên nhựt báo Tiến, với bút
hiệu Tiểu Tử. Bút hiệu nầy ông vẫn dùng cho những bài tạp văn và truyện
ngắn của ông tại hải ngoại, sau 1975.
Ông đã xuất bản tập truyện ngắn “Những mảnh vụn” năm 2004 và “Bài ca vọng cổ” năm 2006.
Ngoài “Bài ca vọng cổ” ông đặt tựa cho tập truyện ngắn, còn các truyện ngắn khác mà ông rất tâm đắc, như “Nội”, “Thằng chó đẻ của má”.
Thật vậy, đọc truyện ngắn “Nội”, “Thằng chó đẻ của má”, độc giả có cảm
giác như lãng đãng hình bóng của bà mẹ quê của mình trong đó. Nó gần gủi
và thân thương. Độc giả có cảm tưởng như tác giả nói giùm hoàn cảnh
thương tâm của chính gia đình mình: Mẹ già gần tám mươi tuổi, mà cam tâm
chịu đựng nỗi đau cắt ruột để khuyên con, cháu mình vượt biên. Tiểu Tử
tâm sự:
“Và
tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi
vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng! Thật là ngược đời: có
người mẹ nào lại muốn xa con? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới xảy
ra những chuyện “đổi đời” như vậy!”
Sau khi định cư ở xứ người, Tiểu Tử trông ngóng về người mẹ già ở tại quê nhà hiu quạnh, luôn nhớ mong con và cháu ở phương xa:
“Tôi
biết: Má tôi là cây cau già – quá già, quá cỗi – nhưng vẫn cố bám lấy
đất, chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu… Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa
nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của
tôi, mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn
quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những
gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi
đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng
sống thêm vài ba năm nữa! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn
lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng
hai mưa. Tôi biết! Má ơi! Con biết: Cây cau già bây giờ đang nhớ thắt
thẻo mấy dây trầu non…”
Tiểu
Tử có văn phong đặc biệt “miền Nam”. Ông xử dụng một bút pháp rất tài
tình, ngắn gọn, nhưng cô đọng, ý xúc tích mà gợi hình. Từ ngữ ông dùng
rất gần gủi với nguời miền Nam, một thứ từ ngữ đi thẳng vào lòng người,
đem đến cho người đọc cảm xúc trọn vẹn và mãnh liệt, nhưng thân quen….
……….
Truyện
của Tiểu Tử càng đọc càng thích thú, say mê, dìu độc giả về những kỷ
niệm thân yêu của một thời trên quê hương Tây Ninh yêu dấu. Ông Vương
Văn Ký, người cùng sanh trưởng tại quận Gò Dầu với Tiểu Tử, đã viết tặng
ông câu đối, như sau:
“Cố quốc đậm đà tình Tiểu Tử,
Trời tây thắm thía điệu Hoài Nam”
Trời tây thắm thía điệu Hoài Nam”
Trích: Giới Thiệu Truyện ngắn “Nội” Cuả Tiểu Tử Võ Hoài Nam
Tác giả: Lê Tấn Tài
Nguồn: http://www.dongnaicuulongucchau.org.au/tapsan03/
Tác giả: Lê Tấn Tài
Nguồn: http://www.dongnaicuulongucchau.org.au/tapsan03/
Dưới đây là những truyện ngắn và phiếm luận của nhà văn Tiểu Tử do BVCV sưu tầm. Kính mời qúy độc giả và các bạn thưởng thức:
- Bài ca vọng cổ
- Cái loa
- Cái mặt (Phiếm luận)
- Cái miệng (Phiếm luận)
- Chuyện bình thường (Phiếm luận)
- Chị Tư Ù
- Chiếc Khăn Mu-soa
- Chợ trời
- Chuyện chẳng có gì hết
- Chuyện di tản 1975
- Chuyện giả tưởng
- Chuyện thuở giao thời
- Cơm nguội
- Con mẹ hàng xóm
- Con Mén
- Con rạch nhỏ quê mình
- Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
- Đạp Xích-lô
- Đèn trung thu
- Đi xe đò, đi xe ôm
- Giọt mưa trên tóc
- Làm thinh
- Lẫn
- Made in Việtnam
- Mài dao, Mài kéo
- Mũ Bảo-hiểm(Phiếm luận)
- Mùa thu cuộc tình
- Ngụy
- Người viết mướn
- NGÀY NẦY, NĂM 1975. .Mỹ thật..đểu…
- Những hình ảnh đẹp
- Người bán liêm sỉ
- Nội
- Ông già ngồi bươi đống rác
- Ông Năm Từ
- Tấm vạc giường
- Thầy Năm Chén
- Thằng chó đẻ của má
- Thằng dân (Phiếm luận)
- Thằng khùng
- “Thằng đi mất biệt”
- Thèm
- Tiết Nhơn Quý
- Tô cháo huyết
- Tôi đi bầu
- Tôi nằm gác tay lên trán
- Viết một chuyện tình
- Xíu
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire