Caroline Thanh Hương
Khác biệt văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc nhìn từ góc độ lịch sử
Trên
diễn trình lịch sử, nước Việt, dân Việt nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa –
chính trị Trung Hoa Đông Á song vẫn luôn luôn duy trì nền tảng văn hóa,
môi cảnh địa – nhân văn Đông Nam Á của chính mình.
Văn hóa Việt Nam khác văn hóa Trung
Quốc, từ trong cội nguồn của nó, tuy cả hai nền văn hóa cổ truyền này
đều thuộc phạm trù văn minh nông nghiệp.
Trên bình diện ý thức, nhận ra sự khác nhau này là từ các vua đời Trần. Minh Tông nói:
“Nước ta đã có phép tắc nhất định: vả lại Nam Bắc phong tục khác nhau”.
Nghệ Tông cũng nói:
“Triều đình dựng nước, tự có phép độ
riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình,
không cần phải bắt chước nhau.
Đến Nguyễn Trãi, nhận thức đó được thể hiện rạch ròi, trong Bình Ngô đại cáo:
“Như nước Đại Việt ta
Thật là một nước văn hiến!
Cõi bờ sông núi đã riêng.
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu Đinh Lý Trần đời đời dựng nước.
Cùng Hán Đường Tống Nguyên làm đế một phương.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt bao giờ cũng có”
Nhận thức ấy, sở dĩ được nói ra, là để
chống với một khuynh hướng tư tưởng nảy sinh từ đời Trần và phát triển
mạnh từ thời Lê, muốn cải biến văn hóa Việt Nam theo văn hóa Trung Quốc.
Đó là khuynh hướng tư tưởng của Nho gia. Đại đa số các nhà Nho Việt Nam
dù là các bậc đại Nho như Phạm Sư Mạnh đời Trần thịnh hay Lê Quý Đôn
đời Lê suy, khi suy tư về văn hóa, tư tưởng… vẫn lấy văn hóa, văn minh
Trung Quốc làm hệ thống qui chiếu. Đây là cái mặc cảm tự ti dân tộc, cái
phong thái “Nam nhân Bắc hướng”. Dù là những người yêu nước, yêu nước
kiểu nhà Nho, khi muốn chứng minh rằng nước ta là nước “văn hiến” thì họ
cũng chỉ biết nói rằng “Hồ Việt đồng phong các đệ huynh” (Nguyễn Trung
Ngạn), rằng văn hiến Việt Nam “bất dị Trung Quốc” “vô tốn Trung Quốc”
(Lê Quý Đôn) (không khác không thua kém Trung Quốc). Như Hồ Quý Ly,
người đã biết chê bai nhiều nhà Nho, từ Khổng Tử đến Trình Chu, có nhiều
cái nhìn độc đáo về học thuật, văn hóa nhưng khi trả lời người Bắc hỏi
về phong tục nước ta cũng chỉ đành nói:
“Dục vấn An Nam sự
An Nam phong tục thuần.
Y quan đường chế độ
Lễ nhạc Hán quân thần”.
“Lễ nhạc như Tiền Hán, y quan giống Thịnh Đường” được coi là tiêu chuẩn của một nước “văn hiến”.
Các nhà Nho yêu nước Việt Nam thường
nhận thức được rõ “Thổ hữu chủ” (Lê Văn Thịnh), “Địa phận Nam Bắc (Phạm
Sư Mạnh) “Giang sơn hữu hạn phân Nam Bắc” (Nguyễn Trung Ngạn) “Sóc Nam
giới hạn tự an bài” (Ngô Thì Nhậm)… Nghĩa là có ý thức rõ về độc lập
chính trị và chủ quyền lãnh thổ, nhưng lại khác mơ hồ trong ý thức độc
lập về văn hóa. Mà văn hóa tức là lối sống, là tâm hồn dân tộc. Độc lập về văn hóa mới độc lập sâu sắc, vững chắc…
Dễ hiểu, khi một nhà trí thức “thấm
nhuần” văn hóa Trung Quốc thì thậm chí “quên” cả thiên nhiên Việt Nam.
Những câu thơ tả cảnh thu chẳng hạn, từ đời Lê về sau này đều chịu ảnh
hưởng của Trung Hoa. Mùa thu trong “truyện Hoa tiên” của Nguyễn Huy Tự
chẳng hạn, giống như mùa thu của Đỗ Phủ.
“Lác đác rừng phòng hạt móc sa
Ngàn lau hiu hắt khi thu mờ
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùm cửa ải xa”!
(Phan Huy Vịnh dịch)
Đến như Nguyễn Du mà cũng thế:
“Rừng phong khi lá rủ vàng”
Phải tới Nguyễn Khuyến mới tái tạo một mùa thu thuần túy Việt Nam (xem: Thu vịnh, Thu điếu..)
Tâm thức Việt Nam thời Lý Trần, chừng nào đó, đã có sự suy tư hồi cố (pensée rétra spective) về thời trước Bắc thuộc (Sử ký Đỗ Thiện. Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái…)
“Lô Thủy phiên ly, Thao tụ lạc
Văn Lang nhật nguyệt, Thục sơn hà”
(Sông Lô phên giậu, Thao dân họp
Văn Lang ngày tháng, Thục non sông).
(Hành quân, Phạm Sư Mạnh).
Song nói chung, nhận thức về một nền văn
minh Việt Nam đặc sắc, khác cách mạng Trung Hoa, tồn tạo hàng ngàn năm
trước thời Bắc thuộc của giới trí thức phong kiến Việt Nam (sư tăng, đạo
sĩ, nho sĩ…) còn mơ hồ lắm. Bảo là về cơ bản họ không biết gì thì e
quá, song cũng không hoàn toàn là nói ngoa…
***
Giới trí thức mác-xít Việt Nam bắt đầu
đem lại một nhận thức ngày càng rõ ràng và đầy đủ về một nền văn hóa,
văn minh Việt Nam buổi đầu dựng nước và giữ nước, trước thời Bắc thuộc.
Đó là cáigốc của văn hóa Việt Nam. Đó là văn minh Đông Sơn hay có người muốn gọi, là văn minh sông Hồng (để đối sánh với văn minh Hoàng Hà, văn minh sông Nin, văn minh Lưỡng Hà v.v… Quả thật, những nền văn minh đầu tiên của thế giới, có thể gọi là “văn minh của những dòng sông lớn”, về thực chất, là văn minh nông nghiệp
(civilisationagncole). Qua thời đại chống Bắc thuộc và qua kỷ nguyên
Đại Việt, cái gốc đó không hề bị trốc rễ, tuy, sự thực “cây văn hóa Việt
Nam” bị chặt trụi khá nhiều cành, bị (và được) lắp ghép nhiều cành
nhánh mới…
Nghĩa là, tuy có sự giao tiếp và hỗn
dung văn hóa Việt Hoa, thì khuynh hướng giao tiếp và hỗn dung vẫn là
Việt Hóa chứ không phải là Hoa hoá; và văn hóa Việt Nam không bao giờ là một bản sao chép của văn hóa Trung Hoa.
Khi tình trạng nhị nguyên văn hóa diễn ra mạnh mẽ (chủ yếu là từ thời Lê Thánh Tông trở về sau, chứ ở thời đại Lý Trần thì văn hóa cung đình vẫn gần gũi với văn hóa làng xóm) thì tất cả những đặc điểm độc đáo và ưu tú của văn hóa Việt Nam vẫn kết tinh ở văn hóa làng xóm, tức là nền văn hóa dân gian. Do nhiều nguyên nhân và điều kiện lịch sử, cái nói lên bản sắc và văn hóa dân tộcViệt Nam là văn hóa dân gian Việt Nam.
Văn hóa dân gian không ra đời một sớm
một chiều. Cái gốc của nó là nền văn hóa dân tộc trước thời Bắc thuộc.
Và theo tôi, không nên chỉ ngược lên đến thời đại Đông Sơn (đồng thau
muộn – sắt sớm) mà phải ngược lên đến tận thời đại ĐÁ MỚI (Hòa Bình –
Bắc Sơn), thời đại nẩy sinh NÔNG NGHIỆP và LÀNG XÓM, khi tim hiểu cội
nguồn đặc điểm văn hóa Việt Nam.
Có lẽ chưa chắc ai trong chúng ta cũng
tán thành cái quan điểm của Claude-Lévi-Strauss khi ông cho rằng “Con
người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong
bất cứ lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai
đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những giai đoạn đã qua”
Những điều ông nói sau đây, theo tôi, là đúng:
“Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào thời đại đá mớivới
sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi… Muốn đạt đến những thành quả vĩ
đại này, không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể
loài người bé nhỏ lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng mấy nghìn năm quan
sát, thí nghiệm và truyền đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự
nghiệp vĩ đại này đã diễn ra một cách tốt đẹp, liên tục và thành công…”
Bất cứ nhà khảo cổ học, dân tộc học và
sử học nào cũng biết rằng nếp sống thời đá mới, trên cơ bản, vẫn được
duy trì trong nếp sống nông thôn của nhân loại, thậm chí cho mãi đến thế
kỷ XVIII, XIX.
Nói đến nông nghiệp, làng xóm… là phải
nói đến THIÊN NHIÊN, TỰ NHIÊN, mà thực ra, nói rộng hơn, đã nói đến VĂN
HÓA là phải nói đến TỰ NHIÊN, vì xét cho cùng, cái VĂN HÓA chỉ là cái TỰ
NHIÊN, được thích ứng và biến đổi bởi con người, để thỏa mãn những NHU
CẦU về mọi mặt của con người.
Có người đã và sẽ bảo
tôi là không mác-xít, là nghiêng theo “quyết đinh luận địa lý” khi xem
xét những đặc điểm của văn hóa Việt Nam trong sự đối sánh với văn hóa
Trung Quốc:
Việt Nam (lưu vực sông Hồng) | Trung Quốc ban đầu (lưu vực sông Hoàng Hà) |
- Khí hậu nhiệt đới, gió mùa ẩm ướt | - Khí hậu đại lục, mùa đông băng giá, lượng mưa chỉ tập trung vào cuối mùa hè, độ bốc hơi cao. |
- Đất phù sa nâu, do sông bồi | Hoàng thổ, do gió cuốn |
- Nông nghiệp tưới nước (nước mưa, nước tát, từ hệ thống tưới nước) | - Đất phát sinh nông nghiệp là vùng hoàng thổ nửa khô hạn. Nông nghiệp trồng khô. |
- Cây lương thực: cây có củ, mía, rau, dưa bầu bí, và đặc biệt cây lúa. | - Cây lương thực: túc tức tiểu mễ (kê), cao lương, sau nữa là mạch cho đến trước đời Tần vẫn chưa chiếm địa vị chủ đạo |
- Ăn cơm, xôi: đôi đũa | - Ăn bánh, cháo |
Trong văn hóa Viễn Đông là xuất phát từ đất Việt trồng lúa nước | |
- Ở nhà sàn: nhà mái cong của văn hóa Viễn Đông là một thành tựu văn hóa gốc Việt… | - Ở nhà hầm và nửa hầm |
- Đi lại: chủ yếu dùng đường nước: thuyền mảng. Trên bộ dùng voi. Thủy binh, bộ và tượng binh | - Đi lại trên bộ: ngựa, xe, bộ và kỵ binh. Lấy xe, ngựa làm độ số sức mạnh quyền lực (bánh xa quốc, thiên xa quốc…) (xem: Luận ngữ, Xuân Thu) |
- Nỏ, rìu chiến | - Cung 2 cánh, qua. |
- Đắp đê | - Giếng, nước ngầm - Khơi sâu và khơi nhiều dòng chảy |
- Cồng, trống | - Chuông, khánh… |
- Khèn | - Tiêu |
- Găn nghề nông với nghề cá | - Cạnh đồng bằng là thảo nguyên, cạnh khu trồng trọt là khu chăn nuôi lớn. Đan xen văn hóa nông nghiệp và văn hóa du mục. Hướng đại lục |
- Chữ viết, đô thị ra đời muộn. Văn hóa xóm l àng. Vai trò phụ nữ cao, gia đình hạt nhân (nhà) ra đời sớm. Làng ra đời sớm. Nhà – Họ – Hàng – Làng – Nước là một thể thống nhất hữu cơ. Nền dân chủ làng mạc (dân chủ dân cày) | - Chũ viết, đô thị ra đời sớm. Văn hóa đế vương, chế độ phụ hệ nghiêm khắc. Khuynh hướng chính trị – xã hội tập quyền, chuyên chế, phục tùng tư tưởng, đặc trị, quân sự. |
Cội nguồn của những đặc điểm văn hóa dân tộc cố nhiên phải tìm trong những điều kiện lịch sử cả dân tộc. Nhưng trước đó, và trong suốt quá trình lịch sử, cũng như phải thấy những điều kiện địa lýtừ đó ảnh hưởng đến phương thức canh tác, đến hình thái kinh tế… và áp lực của chúng lên hình thái xã hội – chính trị. Văn hóa, trước hết, là một sự trả lời, một sự ứng phó của một cộng đồng cư dân, trước những thách thức của
những điều kiện địa lý – khí hậu (géoclimatique), và sau đó là sự trả
lời, ứng phó, trước những thách thức của những điều kiện xã hội – lịch
sử. Tôi muốn nhắc lại ở đây một ý kiến của K. Mác bàn về mối quan hệ
giữa người với thiên nhiên:
“Con người trong sự sản xuất chỉ có thể tiến hành giống như thiên nhiên, tức là nó chỉ có thể biến đổi cái hình thái của các thể chất.
Hơn nữa ngay trong sự lao động biến đổi hình thái như thế, con người
luôn luôn vẫn được sự giúp đỡ của những lực lượng tự nhiên, như thế thì lao động không phải là nguồn gốc duy nhất
của những giá trị sử dụng mà nó sản xuất, không phải là nguồn gốc duy
nhất của những của cải vật chất. Lao động là bố và đất đai là mẹ của
những của cải này, như William Petty đã nói”.
Theo quan điểm duy vật lịch sử mà tôi hiểu, thì nền tảng địa lý và môi trường thiên nhiên không nằm bên ngoài xã hội như ông Mao hiểu (xem Mâu thuẫn luận trong: “Mao Trạch Đông Tuyển tập”,tập I, Nxb Sự thật, 1960. Tr. 434-435) mà nằm ngay trong cơ sở kinh tế của xã hội.
K.Mác nói: “Cái toàn thể những liên hệ
giữa những người sản xuất với thiên nhiên và giữa họ với nhau, cái toàn
thể những sự liên hệ như thế, trong ấy người ta sản xuất, thì chính là
xã hội, xét về cái cơ cấu kinh tế của nó”
P. En-ghen cũng nói: “Bàn về những quan
hệ kinh tế mà chúng tôi gọi là cơ sở quyết định của lao động xã hội, thì
chúng tôi hiểu đấy là cái cách thức và phương thức theo đó người ta sản
xuất những điều kiện sinh sống của mình và trao đổi sản phẩm với nhau.
Tức là trong ấy có bao hàmtoàn bộ kỹ thuật sản xuất và vận tải… trong khái niệm quan hệ kinh tế cũng có bao hàm cái nền tảng địa lý… và lẽ cố nhiên là cả cái môi trường bên ngoài bao bọc cái hình thái xã hội như thế”.
Hiểu như vậy, thì cơ sở kinh tế, nguyên nhân căn bản của sự phát triển của xã hội gồm ba phần:Quan hệ sản xuất, địa lý và môi trường thiên nhiên và kỹ thuật sản xuất.
Vậy thì khi bàn đến những đặc điểm của
văn hóa Việt Nam, phải tìm cội nguồn của nó từ thời đại đá mới, thời đại
phát sinh nông nghiệp và làng xóm, phải chú ý đến những điều kiện nền
tảng địa lý và môi trường thiên nhiên đã sản sinh ra những đặc điểm văn
hóa ấy trước khi xét đến những điều kiện lịch sử của dân tộc đã duy trì
và củng cố những đặc điểm văn hóa ấy. Đừng tách rời văn hóa với thiên
nhiên.
Như vậy, đứng về mặt thiên nhiên, nhân
chủng, văn hóa… Việt Nam thoạt kỳ thủy là một với khu vực Đông Nam Á chứ
không phải là một với Trung Hoa. Cái không gian địa lý thiên nhiên Đông
Nam Á cần phải hiểu rộng hơn cái không gian chính trị Đông Nam Á hiện
nay: Nó bao gồm cả lưu vực Trường Giang trở xuống phía Nam, khu vực phía
Nam dải Tần Lĩnh và bao gồm cả khu vực Átxam hiện tại. Đó là cái không
gian địa lý, cái môi trường thiên nhiên ở đó nảy sinh và phát triểnvăn hóa nông nghiệp lúa nước.
Về mặt nhân chủng, cho tới khoảng giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên (-500), về cơ bản, đó là vùng phi Hoa – phi Ấn,
vùng Việt theo nghĩa rộng (Việt là một tộc danh phiếm xưng, chỉ toàn bộ
các cư dân phi Hoa phi Ấn, thuộc các ngữ hệ Môn-Khơme, Tày – Thái, Mèo –
Dao, Tạng – Miến, Anh-đô-nê- diêng (Mã Lai, Đa Đảo), Việt – Mường. Cho
tới trước khi Trung Quốc bành trướng xuống vùng lưu vực Trường Giang,
thì Việt Nam và Trung Quốc là khác nhau trên căn bản: Việt Nam là vùng
châu Á gió mùa. Trung Quốc là vùng châu Á đại lục; Việt Nam là vùng nông
nghiệpnước (hệ thống ngập nước) (systèmesinnondés), rồi hệ thống tưới nước (systèmes irrgués). Trung Hoa là vùng nông nghiệp khô (culture sèche); Việt Nam là vùng lúa nước, Trung Hoa là vùng kê, cao lương, rồi mạch. Từ
giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên, bành trướng Trung Quốc tràn
xuống lưu vực Trường Giang và xa mãi về phía Nam; vùng “Bách Việt” co
lại dần, tưởng “mất hết” nhưng cuối cùng vẫn còn một Việt Nam, đại biểu
duy nhất còn sót lại của phức hợp Bách Việt ngày xưa, tồn tại vừa với
tính chất Dân tộc – Nhà nước (Nation-Etat) vừa với tính chất Dân tộc –
Nhân dân (Nation – Peuple). Từ đó xuất hiện trên thực tiễn những sự giống nhau, những cái “bất dị” giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Vậy cái khác nhau (dị, thù, theo ngôn từ Nguyễn Trãi) là có trước, cái giống nhau là có sau. Và phải nói ngay là cái giống nhau là văn hóa, vốn về bản chất, là phồn tạp, là đa dạng. Đông
Nam Á là một vùng thiên nhiên phong phú, thống nhất nhưng đa dạng. Cho
nên văn hóa bản địa của vùng này cũng vậy tuy có nhiều hằng số thống
nhất nhưng cũng cực kỳ đa dạng. Với trào lưu lịch sử, những nền văn hóa
vùng này lại tiếp thu, với những phương thế và liều lượng khác nhau, các
nhân tố ngoại sinh (éléments exogènes) khác nhau, từ Ấn Độ, Trung Hoa,
phương Tây… (chỉ kể về mặt tôn giáo, là đạo Phật, đạo Bà La môn, đạo
Nho, đạo Lão, đạo Hồi, đạo Thiên chúa…) nên lại càng đa dạng và càng có
vẻ che lấp cái gốc, những nhân tố văn hóa nội sinh (éléments endogènes)
của chính vùng này.
Hãy nói đến cái giống nhau giữa một Việt Nam và một Trung Quốc cổ truyền (từ giữa thế kỷ XIV trở về trước).
Cái giống nhau đã từng được giới học giả
trong ngoài nước, một thời quá nhấn mạnh khiến thế giới tưởng đâu Việt
Nam là một “vùng phía trước” (Avant Monde) của văn minh Trung Hoa ở khu
vực Đông Nam Á. Chỉ nhấn mạnh đến cái giống nhau và về cái giống nhau,
người ta chỉ nói đến và cắt nghĩa là do Việt Nam học, vay mượn, tiếp thu
của Trung Quốc: một cái khung chính trị, hành chính (armature pol itico
adminisitrative): một nhà nước Hoa hóa (Etat sinisé) với hoàng đế và
một bộ máy quan liêu các cấp, một ý thức hệ: Nho giáo với “kẻ sĩ” v.v…
Cái giống nhau ở kiến trúc thượng tầng ở trên bề mặt – mà cũng không
hoàn toàn như nhau: vua Việt khác hoàng đế Trung Hoa, chức danh
quan lại có thể giống nhau mà chức năng và sự vận hành của bộ máy cũng
có khác. Thời Tống, Trung Quốc theo Tống – Nho (néo – Cofucianisme);
thời Lý Trần, ngang thời Tống, Đại Việt sùng Phật nhưng không bài Nho,
Lão. Luật Hồng Đức soạn ngay dưới thời ông vua sùng Nho, thích mô phỏng
Trung Quốc và Lê Thánh Tông, mà do áp lực của lịch sử – vẫn phải tôn
trọng những nhân tố nội sinh trong nền văn hóa, phong tục dân gian…
Người ta thường “quên” một sự kiện là từ
Tần Hán trở về sau, khi Trung Quốc đã thôn tính xong lưu vực Trường
Giang rồi Châu Giang… thì nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước ở
phương Nam được chồng lên (surimpostion) nền văn hóa nông nghiệp trồng
khô ở Hoa Bắc và hội nhập (intégrer) vào văn minh Trung Quốc. Trung Quốc
đã “chữ nghĩa hoá” (nhờ ưu thế văn tự) nhiều thành tựu văn hóa của
phương nam và nhận làm của mình. Văn hóa phương Bắc là văn hóa chữ nghĩa, văn hóa phương nam là văn hóa truyền miệng.
Qua sách vở Trung Quốc về sau người Việt học lại nhiều điều vốn là kinh
nghiệm, ký ức của tổ tiên mình nhưng đã qua sự sửa đổi “khái niệm hoá”
của học giả Trung Quốc. Sơ nguyên tượng (archétipe) của “Bàn Cổ” vốn là
huyền thoại “Bàn Hồ” của tổ tiên người Dao. “Thần Nông” (theo ngữ pháp
Trung văn thì phải là “Nông thần”) vốn là “anh hùng văn hóa” (héros
culturel) của người Việt). Truyện Ngưu Lang – Chức Nữ gắn với hiện tượng
‘mưa ngâu” ở phương Nam cũng là một tích Việt được ghi lại bằng Hán
văn. Lịch Tầu (âm lịch như đang dùng hiện nay) chỉ mới lưu hành từ thời
Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) và chỉ đúng với khí hậu Hoa Bắc. Các
lễ hội 5-5 âm lịch (lễ hội ngày Hạ chí), 15-7 âm lịch, trung thu 15-8 âm
lịch vốn đều không xuất phát từ Hoa Bắc mà đều có gốc tích ở miền Sở,
Việt… tức vùng trồng lúa nước phương Nam… Còn có thể kể ra nhiều lắm.
Nhiều cái giống nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc là do Trung Quốc đã
tích hợp văn hóa lúa nước vào cấu trúc văn hóa Trung Hoa.
Song dù có bao nhiêu sự giống nhau thì cũng không xóa mờ được những sự khác nhau, đặc biệt, ở dưới bề sâu, trong dân gian. Làng Việt
là một cấu trúc xã hội thuần Việt còn bảo lưu đậm nét tính chất công xã
hơn nhiều những tổ chức “lân” “li” “hương”… của Trung Quốc.
Nó dựa trên một cơ sở kinh tế tiểu nông
là phổ biến, trong khi ở Trung Quốc, bên cạnh kinh tế tiểu nông có hẳn
một cơ cấu kinh tế trang viên của một giai cấp đại địa chủ.
Ở Việt Nam, cho đến thế kỷ XVI, chỉ có
một “kẻ chợ”, một đô thị là Thăng Long – Đông Đô (Hà Nội), còn tất cả là
“kẻ quê”, với một hệ thống “chợ quê” và những luồng buôn bán nhỏ chứ
hầu như không có những luồng thương mại lớn.
Trong khí đó, từ Xuân Thu chiến quốc qua
Đường Tống; Minh Thanh… Ở Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều đô thị
vương công với những luồng thương mại lớn (đường lụa, đường trà…) và một
tầng lớp đại thương nhân. Kẻ sĩ Trung Quốc nằm ở các đô thị vương công
này và phục vụ vương công: xuất hiện các “chư tử” với rất nhiều học
thuyết chính trị xã hội – triết học v.v… – Trí thức Việt – phần lớn nằm ở
làng quê, là các sư sãi, thầy đồ, thầy lang, thầy cúng, thầy bói… gắn
với nông dân và không xuất hiện nhiều “tử” lớn. Ít sách vở, ít lý luận
khái quát.
Cơ cấu kinh tế: tiểu nông.
Cơ cấu xã hội: làng xóm
Tính chất xã hội: cộng đồng công xã
Cơ cấu tâm lý dân tộc: tâm lý tiểu nông, hạn hẹp, chủ tình (sentimentalisme), ưa dung hòa(compromis), làm ăn nhỏ, biện pháp nửa vời (demimesure)…
Có đại địa chủ, đại thương nhân, có
nhiều đô thị lớn, có chữ viết sớm, sách vở nhiều, Trung Quốc có cả một
nền văn minh đế chế, một nền văn hóa đế vương, (culture impériale) tách
biệt hẳn và đè nén mạnh dân cày nơi nông trang, với một tâm lý làm lớn, làm lố (chinoiserie démesure) duy ý chí (volontarisme).
… Văn hóa Việt Nam cổ truyền, về bản chất, là một nền văn hóa xóm làng (culturevillageoise). Là sức mạnh (grandeur) vừa là điểm yếu (faiblesse) của Truyền thống Việt Nam cũng là ở đó.
* *
*
Truyền thống văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á và Đông Á
Trước đây và thậm chí gần đây, giới Đông
phương học phương Tây thường xếp Việt Nam hay/và Hàn Quốc vào “Thế giới
văn minh Trung Hoa” hay “Thế giới Hoa hoá” (Xem, chẳng hạn M. Gernet Le
monde chinois, Paris, 1980, L.Vandermeersch Le monde sinisé PUF, Paris,
1986…)
Đối với Đông Nam Á – một khái niệm mới
xuất hiện ở cuối Thế chiến II – thì ngưòi ta xếp vào “các quốc gia Ấn
hóa hay Hindou hoá” (xem chẳng hạn G. Coedès Les états indianisés
(hindouisés) Hà Nội. 1960 bản dịch tiếng Anh The Indianised States of
South east Asia, Honolulu 1968). Thậm chí, cho đến giữa thập kỷ 60, có
học giả Anh còn cho rằng “Đông Nam Á chẳng có sáng tạo gì đáng kể… ngoài
trống đồng và có thể kể thêm cái nơm úp cá”! (Xem anthony Christie
trong Dawn of civilization và bản dịch tiếng Pháp Aux portes de
l’Histoire, Paris, 1964).
Và để đối sánh Việt Nam với các quốc gia
Đông Nam Á khác, người ta mệnh danh Việt Nam là bộ phận tiền đồn (Avant
– Monde) của văn minh Trung Hoa chọc xuống vùng Đông Nam Á (xem, chẳng
hạn Rierie Richand Feraya Le Việt Nam (des arigines lointaines à nos
jours) PUF, coll. Que sais je? Paris, 1984).
Theo tôi hiểu, có lẽ Winlhem G. Solheim II, GS ở đại học Hawai (xem Reworking South east Asian Prehistory Paiderme, Band XV 1969. New light to a fargotten past National Geography, 1972) và Georges. Condominas, nhà dân tộc học nổi tiếng của Pháp về Đông Dương (xem, chẳng hạn“L’Asie du Sud – Est” trong Ethnologie régionale, vol.2, Enoyel.de
la Pléiade, Gallimard, 1978)… là nằm trong số các học giả phương Tâv
sớm thấy rõ và đi sâu tìm hiểu bản sắc các nền văn hóa của Việt Nam và
Đông Nam Á.
Và Paul Mus (xem Traditon et Révolution au VietNam Ed. Anthropas, Paris, 1971) và Pierre Huarde – Maurice Durand (Connaissance du Viet Nam EFEO, Hanoi, 1954) và Pierre Langlet (xem La tradition vietnamienne: un Etatnational au sein de la civilisation – chinoise – Sài Gòn 1970) và gần đây, học giả Hàn Quốc Insun Yu (xem Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century Viet Nam Seoul 1990. Bản dịch tiếng Việt Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, Nxb KHXH Hà Nội 1994)… đã dần dà thấy rõ bản sắc văn hóa Việt Nam và sự khác biệt về văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Không một ai – kể cả chúng tôi – phủ nhận những ảnh hưởng thậm chí trong nhiều thời kỳ là rất quan trọng của các thể chế Trung Hoa (bây giờ giới văn hóa học cũng xem thể chế là văn hóa -xem Đàm Gia Kiện (chủ biên): Lịch sử văn hóa Trung Quốc, bản dịch tiếng Việt Nxb KHXH Hà Nội 1993: cuốn sách này Phần một là Chế độ điển chương qua các đời như Lễ chế, Pháp chế, Quan Chế, Binh chế…, – cũng xem David Marr Institutional Culture (s) in Viet Nam 1945-46 Australian,
National University – 3-1994, ngôn ngữ văn tự Trung Hoa v.v… đối với
Hàn Quốc (và bán đảo Korea nói chung) và Việt Nam trong lịch sử.
Nhưng “trở về cội nguồn” và với cách
nhìn sinh thái – nhân văn (Human ecological point of view) thì nếu văn
hóa – ngôn ngữ Hàn Quốc thuộc về context (bối cảnh – đại đồng văn) Đông Bắc Á (xem Hàn Quốc – đất nước – Con người bản dịch tiếng Việt Seoul, 1993) thì Việt Nam là thuộc vềContext Đông Nam Á.
Dưới đây tôi sẽ giải trình ít nhiều nhận thức của mình về vấn đề Context mà các học giả Việt Nam dịch/dùng theo những từ ngữ khác nhau: Bối cảnh, (Đại) đồng văn, môi cảnh, thể cảnh.v.v…
Tôi nhớ lại, vào đầu thập kỷ 60 của thế
kỷ này – khi tôi bắt đầu nghiên cứu và viết sách về các nền văn hóa –
khảo cổ của Việt Nam, tôi đã nêu lên luận điểm rằng: Khi nghiên cứu văn
hóa nói chung và các nền văn hóa thời tiền sử và sơ sử nói riêng của
Việt Nam thì không nên và không thểchỉ giới hạn ở lãnh thổ Việt Nam hiện tại (Xem Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thủy Việt Nam, Hà Nội 1960, – Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam Hà Nội 1961 v.v…)
Thế rồi, đọc và học các sách của học giả
phương Tây người ta luôn luôn đặt một văn hóa hay một quốc gia vào một
contextes – đồng văn, ví dụ cuốn Le Néolithique Francais dans le comtexte Européen (Thời ĐÁ MỚI Pháp trong bối cảnh – Đồng văn Âu châu) hay ví dụ cuốn Le modèle suédois
(cuối 59, đầu 60) vào thời kỳ Thụy Điển từ tình trạng lạc hậu tìm ra
được mô hình phát triển của mình mà nhanh chóng tiến lên hiện đại, ngay
trong mở đầu đã viết đại ý: Thụy Điển không phải là Mỹ, Thụy Điển cũng
không phải Tây Âu mà Thụy Điển là thuộc contexte Bắc Âu, do vậy không
thể bắt chước mô hình phát triển Mỹ hay Tây Âu mà cần/phải tìm ra mô
hình phát triển cho riêng mình trong bối cảnh đồng văn – Bắc Âu.
Chính vì vậy, khi được biết cấp trên
giao cho tôi nhiệm vụ nghiên cứu đặc điểm – bản sắc dân tộc Việt Nam vào
đầu thập kỷ 70, học giả nổi tiếng Nguyễn Khắc Viện đã hỏi tôi: “Anh sẽ
bắt đầu việc nghiên cứu ấy của anh bằng cái gì?” Không do dự suy nghĩ,
tôi đã trả lời ông ngay rằng: “Tôi sẽ bắt đầu từ Contexte” và ông đã
khen tôi “Rất đúng!”. Đó cũng là thời kỳ vận động để thành lập ban
(ngành) Đông Nam Á ở Việt Nam mà tôi được coi là một thành viên cố vấn.
Tại hội nghị Đông Nam Á học Việt Nam lần thứ nhất (Hà Nội, 1972), tôi đã
cùng PGS, Cao Xuân Phổ đọc bản tham luận về Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á (Báo Nhân Dân
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đăng trọn tham luận này của hai chúng
tôi). Tiếp theo Madeleine Colani, bạn đồng nghiệp và đồng tác giả của
tôi trong nhiều công trình văn hóa – khảo cổ. GS Hà Văn Tấn đã viết Le hoabinhiendans le contexte du Viet Nam (Etudes Vietnamiennes No 46, 1976) và cũng như M. Colani (xem La civilisation hoabmhienney extrême arientale Hà Nội, 1939), khi viết về Không gian văn hóa Hòa Bình (Tạp chí Khảo cổ học 3-1994) tôi cũng luôn luôn đặt nền văn hóa tiền/sơ nông nghiệp nghìn xưa này trong bối cảnh Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
Đôi vối nền văn hóa Đông Sơn nổi tiêng – còn gọi là “văn hóa Trống Đồng”
(giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên) – thì cũng vậy và lại càng là
như vậy. Đọc những tài liệu về các hội nghị về trống đồng của Trung
Quốc, tham gia hội thảo về trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam, tôi có một
phức cảm (complex) về tính “sô vanh” (chauviniste) của một vài học giả
Hoa và Việt cứ cố chứng minh trống đồng khởi nguyên từ Trung Hoa hay từ
Bắc Việt Nam…
Trước hết, khoảng 500 năm trước Công
nguyên trở về trước, Hoa Nam – nơi tìm thấy trống đồng – chưa thuộc về
lãnh thổ của đế chế Trung Hoa – Chu – Tần – Hán… – Tôi rất thích một
khái niệm của GS Mỹ W.Eberhard (Xem Eberhard Wolfram The local cultures of South and, East China Leiden 1968) khi viết về Các nền văn hóa địa phương
ở Nam và Đông Trung Hoa đề cập đến Hoa Nam thời cổ, ông đã gọi là
“Prechinese China (Trung Hoa trước người Hoa). Đấy là vùng Man, Bách
Bộc, Bách Việt… nghĩa là không gian xã hội của các tộc người phi Hoa.
Tôi đã nói đến – từ thập kỷ 70 – về một Đông Nam Á trước 500 năm trước công nguyên – hoặc trước đó chút xíu – phi Hoa phi Ấn rồi mới đến một thời kỳ Đông Nam Á Ấn hóa, Hoa hóa (thiên niên kỷ đầu công nguyên), rồi lại đến một thòi kỳ Đông Nam Á giải Ấn hóa, giải Hoa hóa (De indianisation, De sinisation). Hoa Nam là thuộc Đông Nam Á theo nghĩa sinh thái – nhân văn.
Tôi là người theo chủ thuyết Địa – Văn
hóa (Géo-Culture), Địa – Lịch sử (Géo Histoire). Cũng là Đông Nam Á,
song có Đông Nam Á lục địa, Đông Nam Á hải đảo… Việt Nam năm trong bán
đảo Đông Dương (Indo China), lại chiếm trọn phần Đông của bán đảo này
nên tính chất bán đảo lại càng nổi bật. Về mặt địa – văn hóa,
bản sắc văn hóa Việt là bản sắc bán đảo, tiếp nhận và hội nhập
(integration) cả các ảnh hưởng lục địa lẫn các ảnh hưởng hải đảo. Cái
bản sắc văn hóa ấy được phản ánh rõ nét trong huyền thoại khởi nguyên
luận của người Việt toàn quốc: Mẹ tổ Âu Cơ (Tiên) từ Núi xuống lấy Bố tổ
Lạc Long Quân (Rồng) từ Biển lên, sinh trăm trứng nở trăm con, sau lại
chia đôi, một nửa ở miền đồi núi, một nửa ở miền sông nước… Nó còn được
phản ánh ở 3 cặp vợ(bản địa) chồng (từ biển vào), ở xứ
Bắc là Man Nương – Khâu đà la (Ấn), ở xứ Trung là nàng Trầm Hương Pô
Inư – Nagara (Chàm) – hoàng tử Bắc Hải (Hoa), ở xứ Nam là nàng Liễu Diệp
(Phù Nam) – Kaundinya (Ấn)…
Về mặt địa – văn hóa này, tôi cũng thấy
văn hóa Hàn Quốc có sắc thái bán đảo (tuy contexte là Đông Bắc Á): Ngôn
ngữ Hàn Quốc thuộc hệ Ural – Altaic của vùng Trung Á (bao gồm tiếng Thổ
Nhĩ Kỳ, Hungari, Phần Lan, Mông cổ, Nhật Bản…). Bán đảo Hàn Quốc có Sông
Núi đẹp. Núi có sâm Cao Ly nổi tiếng thế giới. Sông suối số lượng lớn
và cùng với biển – đóng vai trò quan trọng đối với lối sống dân chúng
(xem Hàn Quốc… đã dẫn tr.8, trl4, trõl).
Tôi đã viết và đang còn viết nữa về Tính cách sông nước của văn hóa Việt Nam (Cornell University 1991), về Yếu tố Biển trong lịch sử văn hóa Việt Nam (Tạp chí Đông Nam Á, Hà Nội, 1.93), Hội An và cái nhìn về biển của người Chàm và người Việt (Tập san Khoa học kỹ thuật, Quảng Nam – Đà Nẵng 1986)…
***
Vào trước sau Công nguyên cho đến đầu
thế kỷ X sau công nguyên, đất Việt bị rơi vào ách thống trị của nhiều
triều đại Trung Hoa, từ Hán đến Đường.
Đã xảy ra hiện tượng mà giới văn hóa học gọi là giao thoa văn hóa cưỡng bức.
Giao thoa cưỡng bước Việt – Hoa xảy ra rất dài và không chỉ một lần (thế kỷ I-X, 1407 – 1427). Và cũng có giao thoa tự nguyện.
Đế chế Hán cũng đã lập ra 4 quận ở nửa
Bắc Hàn Quốc và Mãn Châu, đặc biệt là quận Namgang (Lo Lang (tiếng Hoa)
Lạc Lãng (tiếng Hán Việt) ở vùng Bình Nhưỡng ngày nay nhưng, cũng như ở
Bắc Việt Nam, dân chúng và các thủ lĩnh địa phương luôn luôn nổi dậy
chống lại ách đô hộ của Trung Hoa. Quận Lo Lang chỉ tồn tại đến thế kỷ
IV sau Công nguyên. Đế chế Đường đặt An Nam đô hộ phủ ở Bắc Việt Nam cũng như An Đông đô hộ phủ
ở vùng đông bắc Mãn Châu và có tham vọng hợp nhất lãnh thổ Koguryo và
Parkche vào đế chế Đường. Song Shilla đã cầm vũ khí chống lại và chiến
thắng của Shilla năm 676 là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Hàn
Quốc. Shilla đã thành công trong việc đẩy lùi quân nhà Đường ra khỏi bờ
cõi bán đảo và giành được sự thống nhất lãnh thổ đầu tiên của mình (Xem Hàn Quốc…
đã dẫn tr 21). Năm 905 Đại Việt cũng giành được quyền tự chủ và chiến
thắng vĩ đại ở Bạch Đăng năm 938 của Ngô Quyền được coi là sự mở đầu
thời Phục Hưng mới của nước Việt phương Nam thời trung đại.
*
* *
Do hàng ngàn năm Bắc thuộc và do sau đó
Đại Việt – nhất là từ XV-XIX – mô phỏng “mô hình Trung Hoa” (Xem, chẳng
hạn Woodside, Alexander B Việt Nam and the Chinese model Cambridge,
Mars, 1971) nên nhiều học giả Tây phương và Việt Nam cho rằng từ đầu
Công nguyên trở về trước Việt Nam thuộc Contexte Đông Nam Á còn từ đó
trở vể sau (cho đến cuối XIX) Việt Nam thuộc contexte Đông Á hay là
thuộc “thế giới Hoa hoá” “thế giới Trung Hoa” (Xem lại M. Gernet, Léon
Vandermeersch) hay “nằm trong qũy đạo (orbit) của Trung Hoa” (Xem, chẳng
hạn Charles Higham The Archaeology of mainland Sotheast Asia Cambridge Univesity Press, 1988)…
Có lẽ – theo tôi – sự tình không giản
đơn như vậy. Cũng như Hàn Quốc, nước Việt có thời kỳ dài trọng đạo Phật
hơn đạo Nho. Nhiều nhà sư Việt và nhà sư Hàn Quốc đã sang cả Trung Hoa
và Ấn Độ để nghiên cứu và sưu tầm kinh Phật (Xem Cựu, Tân Đường thư, cũng xem Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam
T.I. Nxb Giáo dục Hà Nội, 1961-1964…)- Như trên đã nói, ảnh hưởng văn
hóa Ấn Độ là một “đối trọng” của ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa trên đất
Việt và vùng Đông Nam Á nói chung. Dù đã xâm nhập từ đầu Công nguyên đạo
Nho chỉ trở thành công cụ quyền lực và đời sống tinh thần ở Hàn Quốc
vào thế kỷ XIV cùng với sự khởi đầu triều đại Choson (1392-1910) và ở
Đại Việt từ thế kỷ XV với các triều đại Lê (1427-1786), Nguyễn (1802 –
đầu XX). Trước đó, các triều đại hoàng gia Koryo (918-1392) ở Hàn Quốc
cũng như các triều đại Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lý
(1010-1226) Trần (1226-1400) ở Đại Việt vẫn hết sức coi trọng đạo Phật,
gần như là quốc giáo.
Hàn Quốc cũng như Đại Việt – Việt Nam có quan hệ lâu đời với Trung Quốc và chịu ảnh hưởng rất lớn cả về văn hóa và chính trị của Trung Hoa trong khi cả hai nước láng giềng Đông Bắc Á và Đông Nam Á của Trung Quốc này vẫn duy trì nền Độc lập dân tộc và giữ gìn những bản sắc văn hóa riêng, nói cách khác là giũ gìn bản lĩnh dân tộc (national Identity)
Tôi chỉ muốn dẫn lại ở đây câu nói nổi tiếng của danh nhân văn hóa ức Trai – Nguyễn Trãi:
Như nước Đại Việt ta
Thật là một nước văn hiến!
Tự Triệu Đinh Lý Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên làm đế một phương.
Sơn hà cương vực đã khác biệt
Phong tục Nam Bắc cũng khác nhau!
(Bình Ngô đại cáo, 1428)
Đấy là bản Tuyên ngôn độc lập cả về chính trị và văn hóa. Huống
chi, từ ngàn xưa cho đến hôm nay, nếu Hàn Quốc nằm trong vành đai gió
mùa Đông Á thì Việt Nam thuộc vùng “Châu Á gió mùa (Đông Nam Á)”. (Xem,
chẳng hạn Jules Sion L Asie des moussons T.IX de la Géógraphi générale de p. vidal de la Balche, A, Colin, Faris, 1929) – Pierre Gourou L’Asie, Hachette,
Parism 1953…). Và do môi trường sinh thái như vậy, xã hội Việt Nam và
Đông Nam Á bao giò cũng thuộc phạm trù văn minh – xã hội trồng LÚA (xem
chẳng hạn Yoneo Ishii Thai Land: A rice growing Society, the University Press of Hawaii, Honolulu, 1978. – Shinichi Ichimura (ed) Southeast Asia: Nature, Society and Development,KyotoUniversity, 1977…)
Cuối cùng, cần lưu ý đến một đặc điểm lớn của lịch sử Việt Nam thường được gọi là cuộc Nam tiến(March
to the South) từ thế kỷ XI đến nửa đầu XIX. Tộc Việt, cư dân Việt càng
tiến theo ven biển Đông về phương Nam, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực
sông Cửu Long thì càng xa Trung Hoa hơn và càng gần lại với các nền văn
minh Đông Nam Á cổ truyền hơn. Theo biên niên sử (Annales) Trung Hoa và
Việt Nam, từ đầu công nguyên cho tới XVII-XVIII, các cảng thị nước Việt
vẫn luôn luôn tiếp nhận thuyền – tàu của các nước Chà Và (Java), Thất
Lợi Phật Thệ (Cri Vijaya), Tam Phật Tề (Palembang), La Hộc, Xiêm La
(Thái Lan)…
Tóm một câu, trên diễn trình lịch sử,
nước Việt, dân Việt nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa – chính trị Trung Hoa
Đông Á song vẫn luôn luôn duy trì nền tảng văn hóa, môi cảnh địa – nhân văn Đông Nam Á của chính mình.
Nguồn: VĂN HÓA VIỆT NAM – Tìm tòi và suy ngẫm, nhà xuất bản Văn học, 2003. Tác giả:TRẦN QUỐC VƯỢNG
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire