Kính gửi quý anh chị nào quan tâm đến chuyện lịch sử chưa lâu lắm.
Bài trích từ Web Đỉnh Sóng
Caroline Thanh Hương
9/11: Do Thái là thủ phạm – Kỳ I
Bài trích từ Web Đỉnh Sóng
Caroline Thanh Hương
9/11: Do Thái là thủ phạm – Kỳ I
** Nội dung chính của tài liệu nầy lấy từ Information Underground forum, tháng 5/2009, với tựa đề "Israel did 9/11 - All the proof in the world". Đây chỉ là một trong số vài phiên bản khác nhau về đề tài nầy. – Đỉnh Sóng
Khi một biến cố xảy ra làm thay đổi triệt để động năng của địa chính trị toàn cầu, có một câu hỏi trên tất cả những câu hỏi khác mà câu trả lời hầu như chắc chắn sẽ nêu đích danh các thủ phạm. Câu hỏi là “Cui bono” (Ai được lợi?) Nếu những kẻ bị lên án đồng thời được xem là có cả động cơ lẫn phương tiện thì ở Hoa Kỳ người ta nói chắc chắn những kẻ đó là thủ phạm. Và biến cố 9/11 cũng thế. Những phiên bản chính thức về biến cố 9/11 hiển nhiên là vô lý, vì, cho đến nay, chỉ có hai tổ chức trên toàn thế giới có được kỹ năng, phương tiện, quyền truy cập và bảo vệ chính trị cần thiết để vừa thực hiện vụ 9/11 vừa tiến hành bao che. Hai tổ chức đó là những Cơ Quan Tình Báo – CIA của Hoa Kỳ và Mossad của Israel - cơ quan nầy được xem là có những động cơ thôi thúc nhất. Những động cơ nầy ăn khớp tuyệt vời với nghị trình của nhóm thảo thuyết bảo thủ PNAC (Project for the New American Century), với nhu cầu công khai đặt ra là phải có “một biến cố thảm khốc, và xúc tác – như một tân Trân Châu Cảng” đẻ động viên dư luận cho những cuộc chiến tranh đã hoạch định, với hệ quả là tiêu diệt những kẻ thù của Do Thái.
Ai kiểm soát Tòa Tháp Đôi
Bước thứ nhất để chuẩn bị cho những vụ tấn công 9/11 là nắm quyền kiểm soát Trung Tâm World Trade Center (WTC ). Điều nầy là then chốt vì không nắm được quyền kiểm soát toàn bộ thì việc gài những chất nổ để đánh sập toà nhà sẽ gần như bất khả thi vì rủi ro bị phát hiện rất lớn.
Bốn tay đầu sỏ trong hệ thống Do Thái
Larry Silverstein – Silverstein là một thương gia Mỹ gốc Do Thái ở New York. Vào ngày 24/7/2001, Silverstein có được một hợp đồng thuê toàn bộ WTC 99 năm. Hai tòa tháp thực sự gần như chẳng đáng giá gì vì tràn ngập những amiăng, nhưng Larry “cảm thấy rất muốn có được chúng.” Silverstein thường ăn điểm tâm ở nhà hàng Windows on the World (lầu 107, North Tower) mỗi sáng, nhưng y vắng mặt ở buổi điểm tâm đó vào buổi sáng 11 tháng 9. Hai người con của Silverstein – cùng làm việc trong Tòa Tháp Đôi – cũng quyết định nghỉ việc hôm đó. Silverstein được hảng bảo hiểm trả hơn $4.5 tỉ do tòa nhà bị phá hủy. Silverstein rất thân tình với Rupert Murdoch, một tay trùm truyền thông gốc Do Thái, với Ariel Sharon, cựu tổng thống Do Thái, cũng như với Thủ Tướng Do Thái PM Benjamin Netanyahu. Silverstein thân thiết với Netanyahu đến độ, theo tờ báo Do Thái Haaretz, y thường nói chuyện với ông ta qua điện thoại mỗi chủ nhật.
Frank Lowy – Lowy, một người Do Thái sinh ở Tiệp Khắc, là chủ nhân của Westfield America, một trong những tổ hợp trung tâm thương mại lớn nhất thế giới. Lowy đã thuê khu thương mại trung tâm (Mall) ở WTC , chiếm khoảng 427,000 feet vuông diện tích bán lẻ của lầu. Lowy cũng là bạn bè thân thiết với những viên chức cao cấp Do Thái như Ehud Olmert, Ariel Sharon, Bibi Netanyahu, và Ehud Barak. Frank Lowy không có mặt tại Tòa Tháp Đôi ngày 9/11.
Lewis Eisenberg – Eisenberg là giám đốc của Port Authority of New York và đã chấp thuận hợp đồng thuê phố cho Silverstein và Lowy. Eisenberg là một người cống hiến tiền quan trọng cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Bush-Cheney, cũng như là một đối tác trong ngân hàng Do Thái Goldman-Sachs. Eisenberg từng là một thành viên của Hội Đồng Planning Board của nhóm áp lực chính phủ thân Do Thái mệnh danh là United Jewish Appeal/United Jewish Federation.
Ronald Lauder – Trùm tỉ phú mỹ phẩm Estée Lauder là chủ tịch ủy ban tư hữu hóa của Thống Đốc New York George Pataki. Y là nhân vật then chốt đứng ra vận động hành lang để tư hữu hóa WTC – và y cũng đóng vai trò then chốt trong việc tư hữu hóa căn cứ không quân Stewart Air Force Base. Lạ thay, đường bay của phi vụ 175 và 11 lại trực tiếp gặp nhau trên phi trường nầy. Lauder hoạt động tích cực trong nhiều tổ chức Do Thái và đã thành lập một trung tâm cho cơ quan tình báo Mossad ở Herzliya, Do Thái, mang tên Lauder School of Government Diplomacy and Strategy. Lauder được nghi là tay đầu sỏ trong kế hoạch 9/11.
An ninh của World Trade Center trong tay Do Thái
Yếu tố kiểm soát then chốt thứ nhì là an ninh cho WTC . Yếu tố nầy cần có để cho phép truy cập vào những khu vực chiến lược của trung tâm để đặt chất nổ trong giai đoạn trước khi xảy ra các cuộc tấn công. Hợp đồng điều hành an ninh tại WTC được giao cho Kroll Associates sau vụ đánh bom năm 1993. Kroll còn có biệt hiệu là "Wallstreet's CIA". Hợp đồng nầy do cơ quan Port Authority của New York chấp thuận, và Kroll Associates được trả $2.5 triệu để tăng cường lại hệ thống an ninh cho WTC. Chủ nhân của Kroll Associates là hai tay Do Thái tên là Jules & Jeremy Kroll. Quản đốc của Kroll Associates lúc bấy giờ là Jerome Hauer, và tay nầy cũng được chọn để điều hành cơ quan Office of Emergency Management (OEM) của Thị Trưởng Guiliani từ 1996 đến 2000. Y là nhân vật chủ chốt đã vận động để cơ quan nầy được đặt để trong WTC Building 7 của Silverstein (tòa nhà thứ ba sẽ bị đánh sập trong vụ 9/11). Jerome Hauer cũng là người Do Thái và là một tay Zionist sừng sỏ. Rose Muscatine Hauer, mẹ của Hauer, là chủ tịch danh dự của phong trào Lập Quốc Israel, một trong những tổ chức Zionist trung tâm dính líu trong việc thành lập và hỗ trợ Nhà Nước Israel. Chính Jerome Hauer là người đã khuyến cáo Tòa Bạch Ốc xử dụng "CIPRO," một loại kháng sinh chống Anthrax – một tuần lễ trước vụ tấn công Anthrax qua bưu điện. Hauer là một “chuyên viên” về khủng bố sinh học (Bio-Terrorism), nhưng phản ứng của y trong vụ tấn công Anthrax qua bưu điện lại chậm chạp, và y lợi dụng thời cơ để nhắc đi nhắc lại điệp khúc "Osama Bin Laden."
Ai giết John O'Neil?
John O'Neil, một cựu đặc vụ FBI, trước kia tình cờ lại được giao nhiệm vụ điều tra Bin Laden, và nay được Jerome Hauer thuê làm giám đốc an ninh tại WTC. Quả là ngoạn mục khi O’Neil lại bị giết ngay trong ngày làm việc đầu tiên của ông tại WTC – 9/11. Điều quan trọng cần ghi nhớ là O’Neil đã nghĩ việc ở FBI sau khi cuộc điều tra của ông về vụ tấn công khu trục hạm U.S.S. Cole bị Đại Sứ Mỹ gốc Do Thái ở Yemen là Barbara Bodine cản trở và phá hoại. Lý do là vì vụ tấn công đó có thể không do Al Qaeda thực hiện. Khu trục hạm nầy bị hỏa tiễn Do Thái bắn để chuyển hướng dư luận chống lại người Ả Rập (Al Qaeda), cũng như để trả đũa đảng Dân Chủ đã không xem trọng những đe dọa khủng bố. Kết qua là một George Bush Jr. được phóng lên tổng thống kịp lúc cho vụ 9/11. Tất cả kịch bản nầy được chôn vùi trong khối hỏa mù quan liêu phức tạp.
An ninh phi trường trong tay Do Thái
Yếu tố kiểm soát thứ ba cần được thiết lập là yếu tố an ninh tại tất cả những phi trường từ đó những phi vụ không tặc sẽ xuất phát. Công tác rà soát hành khách cần phải được đảm trách bởi những nhân viên được điều khiển để cho phép một số người hay vật dụng nào đó (như vũ khí, chẳng hạn) được lên máy bay. Công ty phụ trách an ninh phi trường tại ba phi trường xảy ra những vụ mệnh danh là không tặc là Huntsleigh USA, một chi nhánh của ICTS International và do Ezra Harel và Menachem Atzmon làm chủ - cả hai đều là Do Thái. Công ty nầy được điều hành bởi những “chuyên viên” trong lãnh vực an ninh và tình báo – nghĩa là tình báo Do Thái. Đa số nhân viên đều thuộc phong trào Lập Quốc Do Thái (Zionism). Thật khó tin khi công ty an ninh nầy – vốn phụ trách an ninh tại cả hai phi trường Boston Logan và Newark – lại “lơ là” đến nỗi cho phép 19 người Ả Rập lên 4 phi cơ khác nhau với những dụng cụ rạch thùng, gậy, và thậm chí một cây súng nữa.
Menachem Atzmon, nguyên thủ quỹ của đảng Likud trong thập niên 80, đã dính dáng trong một tai tiếng chính trị Do Thái, cùng với Ehud Olmert và những đảng viên Likud khác. Y bị kết án gian lận, giả mạo giấy tờ, và vi phạm luật Party Funding Law.
Công ty ICTS International cũng phụ trách an ninh phi trường khi tên mang bom trong giày (shoe bomber) Richard Reid lên một phi cơ với cái được nói là một quả bom trong giày. Nếu Reid thực sự là một tên khủng bố thay vì một con mòng của Mossad, thì lý ra ICTS đã không để hắn lên máy bay. Một điểm nữa cho thấy sự đồng lõa của ICTS: một vài tiếng trước khi Dự Luật Patriot Act được bỏ phiếu thành luật, nó được sửa đổi để giúp những công ty ngoại quốc phụ trách an ninh trong vụ 9/11 được miễn tố. Điều nầy ngăn chặn những tòa án Hoa Kỳ không được đòi hỏi ICTS ra làm chứng hay trao những băng ghi hình an ninh từ các phi trường.
Umar Farouk Abdulmutallab (được mệnh danh là "Underwear Bomber”) là một người Đạo Hồi ở Nigeria và được nói là một tên khủng bố đã toan châm ngòi những chất nổ giấu trong quần lót khi đang trên chuyến bay Northwest Airlines Flight 253 từ Amsterdam đến Detroit, Michigan, vào ngày Giáng Sinh 25/12/2009. Abdulmutallab đã lên phi cơ đến Mỹ từ phi trường Schiphol Airport ở Amsterdam. Kurt Haskell, một luật sư ở Michigan, cũng đáp cùng chuyến bay đó và nhớ đã nhìn thấy Abdulmutallab và một người đàn ông trông giống người Ấn Độ ăn mặc bảnh bao đã giúp Abdulmutallab lên máy bay. Haskell nói rằng Abdulmutallab đã lên máy bay mà không có thông hành. An ninh tại phi trường Schiphol Airport cũng do công ty Do Thái ICTS International đảm trách.
Biết trước
Vào tháng 10/2000, khoảng 11 tháng trước khi xảy ra vụ 9/11, một sỹ quan Phòng Không Do Thái về hưu và một cựu chiến binh của trận Yom Kippur War (1973), đi thu thập những cành thường xuân Anh (English Ivy Cuttings) tại nghĩa trang Gomel Chesed Cemetery ở McClellan và 245 Mount Olive Avenue, gần ranh giới thành phố Elizabeth và Newark, New Jersey. Gomel Chesed Cemetery là một nghĩa trang Do Thái. Câu chuyện giữa họ và một người thứ ba đến từ một chiếc xe Lincoln đã có người nghe lỏm được:
- “The Americans will learn what it is to live with terrorists after the planes hit the twins in September.” (Người Mỹ sẽ biết thế nào là sồng với bọn khủng bố sau khi những máy bay đánh vào tháp đôi vào tháng Chín).
- “Don’t worry, we have people in high places and no matter who gets elected, they will take care of everything.” (Đừng lo, chúng ta có những người trên chóp bu và bất luận ái đắc cử đi nữa thì họ cũng sẽ lo hết mọi chuyện).
Người nghe được câu chuyện trên đã thuật lại cho FBI nhiều lần chỉ để bị làm ngơ mỗi lần như thế.
Các công dân Do Thái được báo trước
Odigo, một công ty instant messaging (hội thoại trực tuyến) của Do Thái, thú nhận rằng, hai tiếng trước khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào WTC, hai nhân viên của họ đã nhận được những cảnh báo về một vụ tấn công sắp xảy ra. Cảnh báo nầy đã không được chuyển đến các cơ quan hữu trách. Odigo có một qui định trong những dịch vụ của họ cho phép chuyển tiếp những nội dung hội thoại qua một hệ tìm dựa trên quốc tịch. Nếu hai người Do Thái nào đó được cảnh báo thì có thể hai người nầy đã chuyển tiếp cảnh báo đó đến những người Do Thái khác. Có thể là như thế nếu xét rằng, trong số 4000 người Do Thái được nghĩ đã làm việc trong hay chung quanh WTC và Pentagon, chỉ có 5 (năm) người chết – 5/4000 người Do Thái. Theo thống kê, nếu không được cảnh báo, thì khoảng 10% có thể đã chết (nghĩa là 400/4000). Nhưng chỉ có 5 người Do Thái chết và 2 trong số 5 người đó đang bay trên những chuyến bay được nói là bị không tặc! Như thể chỉ có 3 người Do Thái chết tại chính trung tâm WTC vào ngày 9/11 – một con số thống kê đầy ngạc nhiên! Con số đó chỉ áp dụng cho những người dân Do Thái (Israeli nationals), chứ không phải những người Mỹ gốc Do Thái (American Jews) – số người nầy chết khá nhiều tại WTC trong vụ 9/11. Odigo có những văn phòng tại New York, và ở Herzliya, thuộc Israel. Herzliya cũng là địa bàn của những tổng hành dinh Mossad.
Những cảnh báo khác
Vào ngày Sep 10, 2001, chi nhánh Tokyo của Goldman Sachs cảnh báo những nhân viên Mỹ của họ nên lánh xa những buildings Mỹ. ZIM, một công ty Do Thái, đã di tản khỏi văn phòng của họ (10,000 square feet) trên tháp North WTC một tuần trước biến cố 9/11, bỏ ngang hợp đồng thuê phố. 49% của công ty nầy do chính phủ Israel sở hữu. Hợp đồng thuê phố đến cuối năm 2001 mới mãn, và công ty nầy phải chịu phạt $50,000 vì chấm dứt sớm.
Sau nầy, Michael Dick, một nhân viên FBI, người bấy giờ đang điều tra việc gián điệp của Israel trước và sau vụ 9/11 và theo dõi những động thái đáng nghi ngờ, đã bị Michael Chertoff cách chức – tay nầy bấy giờ là giám đốc cơ quan hành sự Bộ Tư Pháp, và là một tay hỗ trợ đắc lực cho chủ nghĩa Zionism (Lập Quốc Do Thái). Theo nguồn tin của một nhân viên chìm CIA từng làm việc bên cạnh Dick, những “dọn nhà Do Thái (Israeli movers)” đã đưa chất nổ vào khi ZIM di tản ra. Như thế chỉ còn một công ty Do Thái trong WTC là Clearforest với 19 nhân viên vào ngày 9/11, nhưng thực sự chỉ có 5 nhân viên có mặt trong tòa nhà hôm đó và tất cả 5 người nầy đều thoát được cả.
Những móc nối của cơ quan tình báo Mossad
Năm 2001, một trung tâm nghiên cứu ưu tú của Quân Đội Hoa Kỳ đã thiết kế một kế hoạch nhằm thực thi một hòa ước quan trọng giữa DoThái – Palestine, một kế hoạch đòi hỏi khoảng 20,000 binh sỹ được trang bị tối tân đồn trú khắp Israel và nhà nước Palestine mới thành lập. Người ta tiên liệu những biến cố trong năm đầu tiên của hoạt động bảo vệ hòa ước, và nhìn thấy những hiểm họa đối với những binh sỹ Hoa Kỳ đến từ cả hai bên. Khi nói về Mossad, cơ quan tình báo Do Thái, các sỹ quan Quân Đội Hoa Kỳ nhận xét: "Wildcard. Ruthless and cunning. Has capability to target U.S. forces and make it look like a Palestinian/Arab act." (Khó lường. Tàn nhẫn và xảo quyệt. Có khả năng nhắm vào lực lượng Hoa Kỳ và xem đó như là một hành động Palestine/Ả Rập). Điều ngạc nhiên là nhận xét trên được tường thuật lại trên tờ Washington Post vào ngày September 10, 2001.
Gián điệp Do Thái quanh vụ 9/11
Trước vụ 9/11 không bao lâu, hơn 140 người Do Thái đã bị bắt vì bị tình nghi gián điệp. Một số trong bọn họ đóng vai những sinh viên nghệ thuật. Những nghi can nầy nhắm vào và thâm nhập những căn cứ quân sự, DEA, FBI, Secret Service, ATF, U.S. Customs, IRS, INS, EPA, Interior Dept., U.S. Marshal’s Service, US Attorneys Offices, những văn phòng bí mật của chính phủ, những tư gia không niêm yết của các viên chức công lực và tình báo. Hầu hết những nghi can đều phục vụ trong ngành tình báo quân sự Do Thái, trong những đơn vị chặn sóng thám sát điện tử hay những đơn vị cài đặt chất nổ. Hàng chục tên Do Thái bị bắt trong những quày (kiosks) của các trung tâm thương mại Hoa Kỳ giả bán đồ chơi để làm bình phong cho các hoạt động gián điệp. 60 nghi can bị bắt đã làm việc cho công ty Do Thái AMDOCS chuyên cung cấp hầu hết những dịch vụ điện thoại qua hổ trợ thư mục (directory assistance calls) và hầu hết những hồ sơ gọi (call records) và dịch vụ hóa đơn cho Hoa Kỳ thông qua những hợp đồng được ký với 25 công ty điện thoại lớn nhất Hoa Kỳ. Tất cả những tên mệnh danh là không tặc 9/11 đều có căn cước giả. Trong một cuộc hành quân hỗn hợp FBI-CIA nhắm vào tên không tặc đầu sỏ Mohammad Atta ở căn cứ Fort Lee, NJ, năm 2001, cuộc hành quân nầy bị những nhân viên Do Thái chụp hình và do đó đã thất bại. Những tên Do Thái nầy được xem như đã tìm cách bao che những toán không tặc tương lai.
Sau vụ 9/11, hơn 60 tên Do Thái đã bị bắt dựa trên Đạo Luật Patriot anti-Terrorism Act hay vì vi phạm nhập cảnh. Một số trong bọn họ là lính hiện dịch Do Thái. Một số bị hỏng trắc nghiệm nói dối khi bị thẩm vấn về những hoạt động thám sát chống Hoa Kỳ. Một số được xác định đã gián điệp chống người Ả Rập. Trong số 90 tên Do Thái bị bắt có một nhóm năm tên, nay được nhiều người biết đến như là những "dancing Israelis," bị nhận điện tại nhiều địa điểm đang quay phim và reo mừng những cuộc tấn công. Những tên nầy bị cảnh sát New York bắt. Những nhân viên cảnh sát và FBI bắt đầu nghi ngờ khi họ tìm thấy những bản đồ của thành phố với một số địa điểm được tô nổi, những dao rạch thùng (những thứ mà các tay không tặc được nói đã xử dụng), $47,000 tiền mặt độn trong một bít tất, và những thông hành ngoại quốc. Cảnh sát cũng nói với một tờ báo địa phương ở New Jersey, những con chó đánh hơi bom đã được đưa đến chiếc xe van và chúng phản ứng giống như đánh hơi được chất nổ. Về sau, FBI xác định rằng ít nhất hai trong số 5 tên Do Thái nêu trên là những nhân viên của Mossad. Năm tên đó là Sivan, Paul Kurzberg, Yaron Schmuel, Oded Ellner, và Omer Marmari.
Xe bom trực chỉ cầu George Washington Bridge
Tờ Jerusalem Post về sau tường thuật rằng một xe van trắng bị chặn lại khi nó đến gần cầu George Washington Bridge, nhưng quốc tịch của những nghi can không được tiết lộ. Nội dung bản tường thuật: “Các cơ quan an ninh Hoa Kỳ trong đêm đã chặn một xe bom trên cầu George Washington Bridge. Chiếc xe van, có chứa thuốc nổ, bị chặn lại trước đầu cầu. Nhà chức trách tình nghi bọn khủng bố dự định cho nổ đoạn giao thông giữa New Jersey và New York. Đoạn băng truyền tin của cảnh sát cho thấy rằng hai nghi can trong chiếc xe bắt đầu bỏ chạy khi xe bị chặn lại và ngay sau đó bị bắt với một số chống cự nào đó. Một trong những biến cố lạ lùng hơn của ngày đến dưới hình thức một chiếc xe van trắng bí ẩn đậu cách WTC vài lốc đường, trên đường 6th và King Street, có một bích họa (mural) bên hông vẽ hình một chiếc phản lực đâm vào tòa tháp đôi và nổ tung. Tất cả những chiếc xe van trắng (white vans) đều thuộc về công ty "Urban Moving Systems" do Dominic Suter làm giám đốc, một điệp viên Do Thái; tên nầy lập tức bay trở lại Israel sau vụ tấn công. Hai cựu viên chức CIA xác nhận rằng công ty Do Thái nầy là một bình phong cho Mossad. Hai viên chức nầy ghi nhận rằng những xe dọn nhà là một một bình phong tình báo thông thường. Những tên Do Thái bị câu lưu 71 ngày trước khi được Michael Chertoff lặng lẽ phóng thích – tay nầy là một thành viên của phong trào lập quốc Do Thái và là giám đốc cơ quan hành sự thuộc Bộ Tư Pháp thời đó.
Tình báo Do Thái và P-Tech, công ty nhu liệu Do Thái
Những hệ thống nhu liệu P-Tech là cửa hậu đột nhập máy tính. Hầu hết những hệ thống vi tính nào có thể liên quan đến quyết định cho cất cánh những phản lực cơ chiến đấu vào ngày 9/11 đều xử dụng nhu liệu P-Tech. Danh sách khách hàng của P-Tech bao gồm FAA (Cơ Quan Quản Trị Hàng Không Liên Bang), N.A.T.O (Tổ chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương), United States Armed Forces (Quân Đội Mỹ), Congress (Quốc Hội HK), Dept. Of Energy (Bô Năng Lượng), Dept. of Justice (Bô Tư Pháp), FBI (Cơ Quan Điều Tra Liên Bang), Customs (Thuế Quan), the IRS (Sở Thuế), the Secret Service (Sở Mật Vụ), và ngay cả Tòa Bạch Ốc.
Michael S. Goff, một Zionist, là quản đốc tiếp thị của P-Tech và cũng đã làm việc cho công ty cơ sở dữ liệu Do Thái, Guardium (Amit Yoran làm giám đốc). Công ty nầy nhận tài trợ của Cedar Fund, Veritas Venture Partners, và StageOne, tất cả đều là những công cụ tài trợ cho Mossad. Do đó, với P-Tech, những gì người Mỹ có, khi cần, cũng chỉ là một điệp viên Mossad mang quốc tịch Mỹ (American "sayan") – tức Michael S. Goff, với những nhân viên Mossad cung cấp thông tin và chỉ huy trong khi y làm việc với những “đối tác” Hồi Giáo người Leban của y ở P-Tech.
Tại sao một luật sư Mỹ trẻ đang làm việc cho một xí nghiệp luật danh tiếng (Sedar & Chandler) tại tỉnh nhà của y bỗng nhiên bỏ nghề luật để làm việc cho một công ty nhu liệu tầm thường mới ra nghề do một người Leban và một người Saudi sở hữu và tài trợ? Gia đình của Goff là một gia đình khả kính và tiếng tăm ở Worcester, Mass. Y có vị thế vững vàng tại một xí nghiệp luật danh tiếng sau khi ra trường luật. Với Goff, nhu liệu P-Tech – được cấy khuẩn trapdoors (cửa hậu) and Trojan Horses (ngựa gỗ) – được bán ra và tải lên hầu hết những hệ thống vi tính nhạy cảm. Cùng những hệ thống đó, nhưng vào ngày 9/11/2011, chúng đã thất bại thê thảm hay hoạt động hữu hiệu là tùy theo quan điểm của bạn.
Tập đoàn nhu liệu vi tính MITRE
MITRE là một tổ chức hợp đồng quốc phòng đứng đầu là cựu Giám Đốc Trung Ương Tình Báo James Schlesinger. Người ta nói Schlesinger là một tín đồ Luther sùng đạo, nhưng biên dạng Wikipedia cho thấy bố mẹ của y là người Nga/Áo gốc Do Thái và do đó chắc chắn y là một Zionist. P-Tech, cùng với tập đoàn MITRE, đã chiếm tầng trệt của FAA trong hai năm trước vụ 9/11. Công việc đặc biệt của họ là tìm hiểu những vấn đề tương tác giữa FAA, NORAD và Không Quân HK trong trường hợp khẩn cấp.
Phi cơ điều khiển tự động
Phi cơ đầu tiên đâm vào WTC (North Tower) và đánh trúng phòng máy điện toán của công ty Marsh & McClennan vừa mới thuê Kroll Associates để phụ trách về an ninh. Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng những phi cơ đâm vào WTC đều được điều khiển chính xác bằng remote control. Mặc dù nghe có vẻ như khoa học giả tưởng, kỹ thuật remote control cho phi cơ đã có từ nhiều thập niên. Tập đoàn SPC Corporation đã cung ứng hệ thống flight termination system (Chấm dứt phi vụ bằng remote control) và hệ thống command transmitter system (hẹ thống điều khiển viễn liên), một kỹ thuật cho phép phi cơ được điều khiển viễn liên trong trường hợp phi công mất khả năng hay phi cơ bị không tặc. Rabbi Dov Zakheim, một công dân Mỹ gốc Do Thái, là giám đốc của công ty Systems Planning Corporation và là Thứ Trưởng Quốc Phòng được bổ nhiệm từ 2001 đến 2004 dưới thời George W. Bush. Zakheim là người chịu trách nhiệm về sự biến mất của $2.6 TRILLION khỏi những sổ sách của Pentagon. Câu chuyện nầy bị chôn vùi dưới đống gạch vụn của vụ 9/11. Đặc khu của Pentagon bị “đánh trúng” hay “nổ tung” có chứa thông tin ngân sách của nhiều năm, cũng như những nhân viên kế toán, lưu trữ hồ sơ – nhiều người trong số họ đã chết trong vụ 9/11. Vào tháng 5/2001, khi Zakheim phục vụ tại Pentagon, chính Tridata Corporation, một chi nhành của công ty SPS của y, giám sát cuộc điều tra về đợt tấn công “khủng bố” đầu tiên vào WTC trong năm 1993. Cơ hội nầy có lẽ đã giúp họ hiểu biết cặn kẻ những hệ thống an ninh và những thiết kế của WTC. Theo trang web SPC, một khách hàng mới nhất thời đó là căn cứ không quân Eglin AFB ở Florida. Eglin rất gần với một căn cứ không quân khác ở Florida – tức căn cứ MacDill AFB, nơi mà Dov Zakheim đã hợp đồng để gởi ít nhất 32 chiếc Boeing 767, như một phần của hợp đồng thuê mướn phi cơ giữa hảng Boeing và Pentagon. Căn cứ trên quyền được truy cập vào những phi cơ Boeing, những hệ thống điều khiển viễn liên, và những quan điểm công khai của y trong tài liệu PNAC, rất có thể y thực sự là một khuôn mặt chủ chốt trong những vụ tấn công 9/11.
Quân Đội Hoa Kỳ biết Israel đã làm chuyện đó
Theo Dr. Alan Sabrosky, cựu Giám Đốc Nghiên Cứu tại Đại Học Chiến Tranh của Quân Đội HK, “Với tư cách một phân tính gia chiến lược, tôi tuyệt đối tin rằng vụ 9/11, từ đâu đến cuối, là một hoạt động cổ điển do Mossad đạo diễn. Nhưng Mossad không hành động một mình…” Ông nói tiếp, “Bin Laden phủ nhận trách nhiệm, do đó nói rằng, mặc dù y cám ơn Allah vì những cuộc tấn công đã xảy ra, nhưng y không làm chuyện đó, nhưng Hoa Kỳ đòi hỏi Afghanistan do Taliban cai trị phải giao nạp y cho Hoa Kỳ. Taliban trả lời rất hợp lý: ‘Hãy cho chúng tôi bằng chứng và chúng tôi sẽ giải giao ông ta cho các ông.’ Nhưng HK phớt lờ và tấn công. Tại sao? Tại vì họ không có bằng chứng thuyết phục, và sẽ không bao giờ có – ngay cả vào đêm trước cái chết công khai của Bin Laden năm 2011, FBI cũng không đề cập gì đến 9/11 trên bố cáo ‘Most Wanted’ liên quan đến y trên Internet.”
Còn tiếp
9/11: Israel did it
9/11: Do Thái là thủ phạm – Kỳ I
Xin xem toàn văn ở địa chỉ:
Caroline Thanh Hương thân mến,
RépondreSupprimerXin cám ơn Thanh Hương đã giúp một tay phổ biến lại phần chuyển ngữ của Đỉnh Sóng liên quan đến biến cố 9/11. Đây quả thực là một chuyện không vui, nesu không nói là đau lòng, khi phải khơi lại, nhưng biết sao? Ngày nay ai đang thực sự cai trị Hoa Kỳ?
Tìm hiểu và suy ngẫm về chuyện lịch sử 9/11 tại Hoa Kỳ với Đỉnh Sóng
Đỉnh Sóng xin trích trước một đoạn trong phần II của loạt bài nầy để mọi người cùng suy ngẫm.
Dr. Alan Sabrosky, cựu Giám Đốc Nghiên Cứu tại Đại Học Chiến Tranh của Quân Đội HK, đặt vấn đề không những đối với âm mưu bao che vụ 9/11 mà còn đi xa hơn thế. Cũng như nhiều người khác, ông cho thấy, về mặt vật lý, vụ tấn công khó có thể thực hiện được. Tuy nhiên, ông thuộc số ít ỏi những người đã đưa ra một kết luận mà nhiều người cho là hiển nhiên nhưng ít ai có can đảm nhìn nhận: không thể tiến hành vụ 9/11 mà không có những tài nguyên đầy đủ của cả CIA lẫn Mossad; và vụ 9/11 đã phục vụ quyền lợi cốt lõi của cả hai cơ quan nầy. Sabrosky gởi lời cảnh cáo dưới đây đến Israel và những người Mỹ gốc Do Thái đang hỗ trợ Israel , những người mà ông xem như là những kẻ phản bội:
“Nếu những người Mỹ nầy và những ai giống họ nhận thức đầy đủ mức độ đau khổ của họ ra sao - và đau khổ mà chúng ta đã giáng xuống người khác ra sao – khi những đau khổ đó được đặt để trên ngưỡng cửa của Israel và những người hỗ trợ Israel ở HK, thì họ sẽ quét sạch hết những tay làm chính trị, báo chí cũng như bọn bồi bút mà những trò nói dối và bất trung đã đưa đến cảnh nầy và che đậy nó với họ. Rất có thể họ sẽ rời bỏ Israel bấy giờ chẳng khác nào Carthage sau khi bị La Mã tiêu diệt. Đó sẽ là sai lầm lớn của chính Israel.”