(TBKTSG) - Giá dầu đang giảm mạnh, tính từ giữa tháng 6-2014 đến giữa tháng 10-2014 đã giảm trên 25 đô la/thùng.
Chỉ đến khi giá dầu xuống mức xấp xỉ 80 đô la Mỹ/thùng, người ta mới
sực nghĩ đến cuộc cách mạng dầu đá phiến đang diễn ra, có tiềm năng thay
đổi tận gốc rễ tình hình địa chính trị, kinh tế cũng như cán cân quyền
lực trên toàn thế giới.
Thế nhưng cuộc cách mạng dầu khí đá phiến là gì? Và nó có ảnh hưởng thế nào đến giá dầu thô trên thế giới?
Một chút lịch sử
Xưa nay nói đến dầu, người ta chỉ nghĩ đến dầu thô khai thác từ những
giếng dầu truyền thống trên đất liền hay ngoài biển. Và nói đến dầu thô,
nhiều người cũng nhớ ngay đến dự báo của King Hubbert từ năm 1956 rằng
lượng dầu khai thác được sẽ đạt đỉnh vào thập niên 1970 rồi giảm dần đến
chỗ cạn kiệt. Trong nhiều năm người ta tin vào tiên đoán này, nhất là
khi giá dầu ngày càng tăng vì chi phí khai thác cao, xung đột tranh
giành ảnh hưởng lên các vùng nhiều dầu làm dầu mang tính địa chính trị
đậm nét. Chỉ mới cách đây một thập niên, người Mỹ cũng nghĩ rằng nguồn
cung dầu thô của họ sẽ cạn kiệt dần nên mọi chính sách đối ngoại dường
như tập trung vào “lợi ích của Hoa Kỳ” mà nói trắng ra là các giếng dầu ở
Trung Đông.
Thế rồi mọi chuyện thay đổi khi Mỹ hoàn thiện công nghệ khai thác dầu
khí đá phiến trong đầu thập niên 2000. Nói ngắn gọn, nhờ vào sự phát
triển của hai công nghệ ép vỉa thủy lực (hydraulic fracturing, còn được
dịch thành nứt vỡ thủy lực) và khoan ngang, Mỹ đã vượt qua các nước
khác, đi tiên phong trong lĩnh vực khai thác dầu khí đá phiến. (Xem thêm
bài Cuộc cách mạng dầu khí đá phiến).
Trong khi trữ lượng dầu thô truyền thống của Mỹ là 164 tỉ thùng thì trữ
lượng dầu đá phiến cũng lên đến 58 tỉ thùng, nâng tổng trữ lượng dầu
thô của Mỹ vào khoảng 222 tỉ thùng. Để so sánh, các con số này của toàn
thế giới lần lượt là 3.012 tỉ thùng dầu truyền thống, 345 tỉ thùng dầu
đá phiến và tổng trữ lượng là 3.357 tỉ thùng. Tính ra thì trữ lượng dầu
đá phiến của Mỹ chiếm đến một phần tư tổng trữ lượng dầu mỏ của nước
này; trong khi trên thế giới, dầu đá phiến chỉ chiếm một phần mười tổng
trữ lượng.
Từ năm 2005-2013, sản lượng khai thác dầu và khí đá phiến ở Mỹ tăng từ
5% lên đến 35% tổng lượng dầu khí khai thác ở nước này. Hiện Mỹ đã vượt
Nga, trở thành nước sản xuất khí đốt lớn nhất thế giới. Còn dầu thì từ
năm 2008 đến nay, sản lượng Mỹ khai thác đã tăng đến 70%, lên mức 8,7
triệu thùng/ngày. Theo nhiều dự đoán đáng tin cậy, trong vòng vài năm
tới lượng dầu thô khai thác ở Mỹ sẽ vượt mức đỉnh 10 triệu thùng/ngày
từng đạt được vào thập niên 1970, và tiếp tục có cơ qua mặt cả Nga và
Ảrập Saudi thành nước sản xuất dầu thô lớn nhất thế giới. Còn nếu tính
tổng sản lượng dầu thô quy đổi - bao gồm dầu thô và các loại khí thiên
nhiên dạng lỏng (natural gas liquids - NGL) - thì Mỹ đã đạt mức 11,5
triệu thùng/ngày và đã vượt qua cả Nga lẫn Ảrập Saudi lên hàng đầu thế
giới vào tháng 7-2014 vừa qua, theo thống kê chính thức của Cơ quan Năng
lượng quốc tế IEA.
Tại sao giá dầu thô giảm mạnh
Gần như ngay tức thì khi cuộc cách mạng dầu khí đá phiến bùng nổ, nhu
cầu nhập khẩu dầu thô của Mỹ giảm xuống rõ rệt. Nên nhớ cách đây khoảng
10 năm Mỹ còn phải nhập gần 11 triệu thùng dầu thô mỗi ngày để đáp ứng
nhu cầu trong nước và chỉ xuất khẩu khoảng 1,5 triệu thùng dầu thành
phẩm (mà ta có thể gọi nôm na là xăng dầu). Nhưng tính đến cuối năm
2013, Mỹ chỉ còn phải nhập 7 triệu thùng dầu thô mỗi ngày và xuất khẩu
đến gần 4 triệu thùng dầu thành phẩm. Ở quốc gia tiêu thụ dầu hàng đầu
thế giới mà cầu giảm trong khi cung lại tăng nên chẳng lạ gì giá dầu thế
giới có thể coi là bình ổn trong vài năm gần đây và giảm mạnh trong
thời gian mấy tháng vừa qua. Bất kể các cuộc khủng hoảng xung đột xảy ra
tại các khu vực xuất khẩu dầu thô như Libya (vụ chính quyền Tổng thống
Gaddafi bị lật đổ), tại Trung Đông (với việc Nhà nước Hồi giáo (IS)
tuyên bố thành lập), hay vụ xung đột giữa Nga và Ukraine, giá dầu thô
trên thế giới không hề tăng như xưa nữa.
Khi giá dầu giảm dưới mức 80 đô la/thùng, nhiều nước sản xuất dầu thô
nếu tính toán không khéo sẽ bị lỗ nặng. Thế nhưng chi phí sản xuất dầu
đá phiến thì ngày càng giảm. Nhờ liên tục cải tiến công nghệ và sự cạnh
tranh giữa các công ty cung cấp dịch vụ khoan, chi phí khai thác mỗi
thùng dầu đá phiến ở nhiều nơi trên nước Mỹ chỉ còn khoảng 30 đô
la/thùng từ năm 2012, theo một báo cáo của Morgan Stanley. Như vậy nhiều
nhà sản xuất dầu ở Mỹ còn có thể chịu được dù giá rớt xuống mức 50 đô
la/thùng.
Tất cả những yếu tố đề cập trên đang được đặt lên bàn cân của các nước trong một ván cờ hoàn toàn mới lạ so với trước.
Kẻ cười người khóc
Hiện tượng giá dầu giảm lần này không phải do biến động chính trị mà do
cung tăng bền vững, đều đặn nên chắc chắn mức giá giảm sẽ còn tiếp tục
cho đến chừng nào các nước sản xuất dầu thô truyền thống như Ảrập Saudi
(đại diện tiêu biểu của khối OPEC) hay Nga chịu không nổi phải giảm sản
lượng để giữ giá dầu, tránh sự thâm hụt ngân sách thêm trầm trọng. Có vẻ
như Ảrập Saudi và cả Nga đang muốn chơi trò “cù cưa” với Mỹ nhằm đo
lường xem Mỹ trụ lại được bao lâu khi giá dầu giảm. Tuy nhiên, có thể
thấy ngay là “trò chơi nguy hiểm” này cũng sẽ chẳng làm Mỹ suy yếu đi
bao nhiêu mà ngược lại, có thể rơi vào trường hợp “gậy ông đập lưng
ông”.
Lý do dự đoán Mỹ không suy yếu bao nhiêu là vì: Mỹ vẫn chưa bỏ lệnh cấm
xuất khẩu dầu thô cho nên sản lượng dầu đá phiến tăng đều đặn hoàn toàn
được cung cấp cho thị trường nội địa. Giá dầu giảm có chăng sẽ làm giảm
mức tăng sản lượng dầu thô của quốc gia này (vì nguồn đầu tư vào hoạt
động khai thác dầu sẽ giảm) chứ không thể ảnh hưởng tiêu cực lên nền
kinh tế đa dạng và đang trên đà hồi phục. Đó là chưa kể nguồn cung khí
đốt khai thác từ đá phiến dồi dào dẫn đến giá khí đốt tại Mỹ vẫn rất rẻ
so với bình diện chung kéo theo hàng loạt ngành công nghiệp khác phát
triển và thu hút nhiều đầu tư từ nước ngoài. Giá khí đốt tại Mỹ hiện nay
vào khoảng 4 đô la trên một đơn vị năng lượng BTU so với 11-12 đô la ở
thị trường châu Âu và 16-17 đô la tại thị trường châu Á.
Một vấn đề nữa cần chú ý là loại dầu khai thác từ đá phiến là dầu ngọt
và nhẹ trong khi dầu của Ảrập Saudi là loại nặng và chua (vì chứa nhiều
lưu huỳnh) nên dù Ảrập Saudi có “đổi ý” muốn giảm sản lượng hòng bình ổn
giá dầu cũng không thay đổi được mức cung ngày càng tăng cao của loại
dầu ngọt và nhẹ. Nghĩa là họ cũng chẳng còn khả năng xoay chuyển, thao
túng tình hình như những thập kỷ trước.
Nền kinh tế thế giới cũng chưa có biến chuyển gì mới nên phía cầu xem
như sẽ không tăng mạnh như những năm trước cuộc khủng hoảng tài chính
2008.
Trước mắt những nước nhập khẩu dầu nhiều như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật
Bản, Hàn Quốc sẽ có lợi; các nước xuất khẩu dầu mạnh như Nga và Trung
Đông thì đang rầu thúi ruột bởi những khía cạnh vừa được phân tích.
Chính vì giá dầu giảm mạnh đã đẩy nền kinh tế Nga rơi vào khó khăn, đồng
rúp mất giá chứ chưa hẳn là kết quả của lệnh cấm vận do Mỹ và châu Âu
áp đặt. Và chính giá dầu làm xung đột ở Trung Đông, bất kể các tít báo
IS chặt đầu, đốt phá khắp nơi, đã không bùng phát lên dữ dội như ngày
xưa. Vai trò Trung Đông như một nguồn cung dầu quan trọng cho thế giới
vẫn còn đó nhưng một khi giá dầu không còn bị giữ làm con tin để mặc cả
nữa thì nơi này không còn là điểm nóng địa chính trị.
Nếu giá dầu Brent rơi xuống mức 80 đô la/thùng thì theo tính toán của
tờ Financial Times, các nước OPEC sẽ hụt mất 200 tỉ đô la trong 1.000 tỉ
đô la doanh thu từ dầu thô.
Trên bình diện cả thế giới thì giá dầu giảm như hiện nay là một cú hích
theo dạng kích cầu quan trọng, trị giá chừng 1,8 tỉ đô la mỗi ngày, hay
600 tỉ đô la tính theo năm. Ví dụ, mỗi gia đình Mỹ hiện đang xài bình
quân 2.900 đô la/năm tiền xăng dầu và khí đốt thì mức giảm tương đương
khoản tiền tiết kiệm chừng 600 đô la để chi tiêu vào việc khác.
Tóm lại, nhờ vào cuộc cách mạng dầu khí đá phiến đang diễn ra mạnh mẽ
tại Hoa Kỳ mà các nước OPEC không còn có thể thao túng thị trường dầu mỏ
của thế giới như trước đây. Cuộc diện địa chính trị thế giới có thể còn
nhiều biến đổi trong thời gian tới.
|
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire