Caroline Thanh Hương
Các thuộc địa ở Mỹ giành lại độc lập như thế nào?
Danh Nguyễn, chuyển ngữ
Vào năm 1778, quân đội Hoàng gia bao gồm
gần 50.000 quân thường trực kết hợp với hơn 30.000 lính đánh thuê người
Đức (Hessian). Ngược lại, Goerge Washington chưa từng có hơn 20.000
quân dưới quyền chỉ huy ở bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc chiến.
Hầu hết những người lính Mỹ khi đó còn rất trẻ (trong độ tuổi từ 10 đến
gần 20 tuổi) không đất đai, không kỹ năng và đói nghèo. Phần còn lại là
những đối tượng làm thuê lưu vong từ nơi khác đến Mỹ và nô lệ đi lính
thay chủ, với lời hứa được trả tự do sau chiến tranh. Thời điểm đó, đội
quân Giải phóng nước Mỹ còn bao gồm nhiều người phụ nữ ở hậu phương đảm
nhận chăm lo bệnh binh, thương binh, nấu ăn, may vá, chôn cất người
chết, và những người này đôi khi còn ra trận.
In 1778, the royal army consisted of nearly 50,000 regular troops combined with over 30,000 German (Hessian) mercenaries. George Washington, in contrast, never had more than 20,000 troops under his command at any one time. Most of these American soldiers were young (ranging in age from their early teens to their mid-20s), landless, unskilled, and poor. Others were indentured servants and slaves who were serving as substitutes for their masters and had been promised freedom at the war's end. Also in the Continental army were many women who cared for the sick and wounded, cooked, mended clothes, buried the dead, and sometimes served in combat.
What made American victory possible? For one thing, conquering the colonies was an almost impossible task. The sheer geographical size of the colonies made it impossible for British forces to occupy the countryside. Because of their inability to control the countryside, the British found it difficult to protect Loyalists from the fury of patriots, who sometimes tarred and feathered and even murdered those who remained loyal to the Crown. The colonies also lacked a single national capital, which, if captured, might end the conflict. A major British mistake was failing to take sufficient advantage of Loyalists. Before the Revolutionary War began, some 50,000 Loyalists formed nearly 70 regiments to help the British maintain control the colonies. But British commanders did not trust the loyalists or respect their fighting ability. As a result, the British alienated many potential supporters. The guerrilla tactics that Americans had learned during Indian wars proved very effective in fighting the British army. Militia men struck quickly, often from behind trees or fences, then disappeared into the forests. Because many Americans wore ordinary clothing, it was difficult for the British to distinguish rebels and loyalists. Washington's strategy of avoiding large-scale confrontations with the royal army made it impossible for the British to deliver a knock-out blow. Only once during the Revolution (at Charleston, S.C. in 1780) did an American army surrender to British forces. The intervention of France, Spain, and the Netherlands in the conflict made a crucial difference in the Revolution's outcome. It is highly improbable that the United States could have won its independence without the assistance of France, Spain, and Holland. Fearful of losing its sugar colonies in the West Indies, Britain was unable to concentrate its military forces in the American colonies. All slave societies are highly vulnerable during wartime, and the British recognized that slaves might help them suppress the Revolution. In November 1775, Lord Dunmore, Virginia's royal governor, issued an emancipation proclamation, freeing any slaves or indentured servants willing to serve in the royal army. At least 800 slaves joined Lord Dunmore's forces. But the threat of slave emancipation led many southern slaveholders to support the patriot cause. Perhaps the single most important reason for the patriot victory was the breadth of popular support for the Revolution. The Revolution would have failed miserably without the participation of thousands of ordinary farmers, artisans, and laborers who put themselves into the line of fire. The Revolution's support cut across region, religion, and social rank. Common farmers, artisans, shopkeepers, petty merchants were major actors during the Revolution. Ex-servants, uneducated farmers, immigrants, and slaves emerged into prominence in the Continental Army. The growth of popular participation in politics began even before the Revolution. In the years preceding the war, thousands of ordinary Americans began to participate in politics--in non-importation and non-exportation campaigns, in anti-Tory mobs, and in committees of correspondence linking inland villages and seaports. Many men joined groups like the Sons of Liberty to protest British encroachments on American liberties. Many women took the lead in boycotts of British goods; they also took up the spinning wheel to produce homespun clothes. During the Revolution itself, some 400,000 Americans, including at least 5,000 African Americans, served in the fighting for at least some time. How was the war paid for? Congress was reluctant to levy taxes. Instead, it borrowed money by issuing bonds. It also printed money, resulting in terrible inflation. The worthlessness of Continental currency inspired the phrase, "not worth a Continental." It became more difficult to get people to lend money. By 1779 and 1780, Washington's army had to confiscate supplies in order to feed and clothe itself.
Vậy điều gì đã tạo ra chiến thắng của người Mỹ?
Trên hết, việc nước Anh chinh phục tất
cả các thuộc địa gần như là bất khả thi. Kích thước địa lý lớn đã khiến
cho quân đội Anh không thể kiểm soát hết các vùng nông thôn; do đó,
người Anh gặp khó khăn trong việc bảo vệ người của họ khỏi sự phẫn nộ
đến từ những kẻ yêu nước, những kẻ đôi khi chỉ trích, trừng phạt hay cả
ám sát những ai trung thành với nước Anh. Các thuộc địa cũng thiếu đi
một thủ đô thống nhất, nơi này nếu bị phong tỏa sẽ chấm dứt cuộc xung
đột.
Một sai lầm lớn nữa của nước Anh là đã
không tận dụng hết lợi thế của những bề tôi trung thành. Trước khi bắt
đầu cuộc chiến Cách mạng này, khoảng 50.000 người trung thành với nước
Anh đã hình thành gần 70 trung đoàn để hỗ trợ lực lượng Hoàng gia Anh
kiểm soát các vùng thuộc địa. Tuy nhiên, những chỉ huy người Anh lại
không tin tưởng hay tôn trọng khả năng chiến đấu của họ. Kết quả là,
càng lúc người Anh càng mất đi nhiều đồng minh tiềm năng của mình.
Các chiến thuật du kích mà lính Mỹ học
hỏi được từ cuộc chiến Ấn Độ đã tỏ ra rất hiệu quả trong việc chống lại
quân đội Anh. Lực lượng dân quân nấp phía sau cây và rào chắn, nhanh
chóng chấm dứt chiến đấu sau đó biến mất vào rừng. Bởi vì trang phục
chiến đấu của nhiều lính Mỹ khá phổ thông, nên người Anh khó thể phân
biệt đâu là phiến quân hay những người trung thành của nước mình.
Chiến lược tránh đối đầu quy mô lớn với
quân đội Hoàng gia của Washington đã biến những điều không tưởng trở
thành cú đánh nốc ao quân đội Anh. Trong suốt cuộc Cách mạng, chỉ duy
nhất một lần lính Mỹ đã đầu hàng quân đội Anh (tại Charleston, S.C. vào
năm 1780).
Sự can thiệp của Pháp, Tây Ban Nha, và
Hà Lan trong cuộc xung đột tạo nên một khác biệt quan trọng dẫn đến kết
quả của cuộc Cách mạng. Rất có khả năng hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã không
thể giành được độc lập mà không có sự hỗ trợ của Pháp, Tây Ban Nha, và
Hà Lan. Lo sợ đánh mất thuộc địa ở vùng Tây Ấn, Anh đã không thể tập
trung lực lượng của mình tại các thuộc địa Mỹ.
Tất cả xã hội có tồn tại chế độ nô lệ
đều trở nên rất nhạy cảm trong chiến tranh, và người Anh đã nhận ra rằng
các nô lệ có thể giúp họ ngăn chặn cuộc Cách mạng. Trong tháng 11 năm
1775, Lãnh chúa Dunmore, thống đốc bang Virginia – lúc này đang thuộc về
Hoàng gia Anh, đã ra tuyên bố trả tự do bất kỳ nô lệ hay kẻ làm thuê
lưu vong nào sẵn sàng phục vụ Hoàng gia. Có ít nhất 800 nô lệ đã tham
gia lực lượng của lãnh chúa Dunmore. Nhưng nhiều chủ nô miền Nam lo sợ
rằng nô lệ sau khi giải phóng sẽ quay sang hỗ trợ cho đội quân yêu nước.
Có lẽ lý do quan trọng nhất của chiến
thắng của đội quân yêu nước chính là sự hỗ trợ từ rất nhiều phía dành
cho Cách mạng. Cuộc Cách mạng đã thất bại thảm hại nếu không có sự tham
gia của hàng ngàn nông dân phổ thông, nghệ nhân, người lao động đã ném
mình vào ngọn lửa cách mạng. Việc hưởng ứng Cách mạng vượt lên những
phân biệt vùng miền, tôn giáo hay địa vị xã hội. Nông dân phổ thông,
nghệ nhân, chủ cửa hàng, và tiểu thương đóng các vai diễn chính trong
cuộc nổi dậy. Những kẻ lưu vong làm thuê trước nay, nông dân thất học,
người nhập cư và nô lệ trở nên nổi tiếng trong đội quân Giải phóng nước
Mỹ.
Sự gia tăng hoạt động chính trị phổ
thông được bắt đầu ngay trước cả cuộc Cách mạng. Trong những năm trước
chiến tranh, hàng ngàn người Mỹ đã bắt đầu tham gia chính trị – trong
các chiến dịch phi nhập khẩu và phi xuất khẩu, cuộc hỗn loạn chống lại
Tory, và trong các ủy ban tương ứng liên nội địa – cảng biển. Nhiều
người đàn ông đã tham gia các nhóm như Sons of Liberty để phản đối các
vi phạm quyền tự do của Anh trên đất Mỹ. Nhiều phụ nữ đã dẫn đầu các
cuộc tẩy chay hàng hóa Anh, và họ cũng đã đảm nhận việc vận hành các máy
móc sản xuất quần áo tại nhà. Chỉ riêng trong cuộc Cách mạng, khoảng
400.000 người Mỹ, trong đó có ít nhất 5.000 người Mỹ gốc Phi, đã từng
phục vụ trong chiến tranh ít nhất một quãng thời gian.
Chi phí cho chiến tranh đến từ đâu?
Quốc hội Mỹ đã rất miễn cưỡng trong việc
đánh thuế. Thay vào đó, họ đã vay tiền bằng cách phát hành trái phiếu.
Họ cũng in tiền, và hậu quả là đất nước chìm trong lạm phát khủng khiếp.
Sự bất lực của đồng tiền của đội quân Giải phóng đã trở thành cảm hứng
cho câu nói: “không đáng một đồng Giải phóng.” Việc vay tiền trở nên khó
khăn hơn. Từ năm 1779 đến năm 1780, quân đội của Washington đã sung
công vật tư để nuôi lấy chính họ.
Ai là trung thành với Hoàng gia ?
John Adams từng ước tính rằng khoản một
phần ba dân số Mỹ ủng hộ Cách mạng, một phần ba vẫn trung thành với
Hoàng gia, một phần ba còn lại trung lập. Nghiên cứu gần đây cho thấy
rằng có lẽ 20% dân số là những kẻ trung thành. Những người trung thành
đặc biệt nhiều tại New Jersey và Nam Carolina.
Một trong những hậu quả của cuộc Cách
mạng là việc hình thành nên không chỉ Hoa kỳ, mà còn thêm một quốc gia
hiện đại Canada. Sau cuộc chiến, có khoảng 80.000 người trung thành –
bao gồm một số lượng đáng kể những cựu nô lệ – đã di cư khỏi Hoa Kỳ, và
chủ yếu đến Canada.
Những kẻ trung thành (với chế độ cũ) đã
không còn xứng được bước vào hàng ngũ những người có khả năng ảnh hưởng,
hàng ngũ quan chức và hàng ngũ thượng lưu. Người nào trong số họ chọn ở
lại vùng đất thuộc địa đều bị buộc rời đi khỏi các vị trí quan trọng.
Tính chất cách mạng của Cách mạng Mỹ
Richard Price, một tướng người Anh tin
theo Thuyết nhất thể Cơ đốc giáo, đã gọi cuộc Cách mạng Mỹ là sự kiện
quan trọng nhất của lịch sử thế giới kể từ ngày Chúa Giáng thế. Thoạt
nhìn, điều này dường như là một nhận xét thiển cận.
Cuộc cách mạng Mỹ không phải là cuộc
cách mạng xã hội lớn như cuộc cách mạng xảy ra ở Pháp năm 1789, ở Nga
năm 1917 hoặc ở Trung Quốc năm 1949. Một cuộc cách mạng xã hội thực sự
sẽ phá hủy các nền tảng thể chế của trật tự cũ và chuyển giao quyền lực
từ tầng lớp nắm quyền đến các nhóm xã hội mới.
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng đã mang lại
những kết quả quan trọng. Nó tạo ra Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nó đã biến
đổi một xã hội quân chủ, nơi mà người dân thuộc địa sống dưới sự cai trị
của Hoàng gia, trở thành một nền cộng hòa, ở đó có thị dân và những
người tham gia vào các hoạt động chính trị. Cuộc Cách mạng cũng đã đem
lại vai trò chính trị mới cho tầng lớp trung lưu gồm các nghệ nhân, chủ
cửa hàng, nông dân, và thương nhân – và khiến cho giới tinh hoa không
thể công khai ức hiếp những người dân thường.
Trong thời kỳ thuộc địa, tỷ lệ những
người da trắng đã đi bỏ phiếu, hoặc tham gia chính trị rất thấp. Không
có đảng phái nào được tổ chức, và những người đàn ông da trắng trưởng
thành có khuynh hướng trì hoãn việc trở thành một quý ông. Những thương
nhân, luật sư giàu có, và những nhà nông nghiệp có quy mô ra đời nắm
phần lớn các cơ quan chính phủ. Tuy nhiên trong quãng thời gian dẫn đến
cuộc Cách mạng, việc tham gia chính trị ngày càng trở nên phổ biến. Số
cử tri đi bầu leo thang cùng với số lượng các cuộc bầu cử cạnh tranh.
Cẩm nang tuyên truyền chính trị cũng trở nên phổ biến hơn. Vào thời điểm
mà cuộc Cách mạng đã qua, những người dân ngày càng hăng hái tham gia
các hoạt động chính trị.
Cuộc cách mạng cũng thay đổi kỳ vọng của
xã hội một cách cực kỳ sâu sắc. Nó đã dẫn đến việc đòi hỏi bỏ phiếu
phải được mở rộng tới phần đông dân cư và cơ quan nhà nước phải do người
dân bầu ra. Xuyên suốt và sau cuộc Cách mạng, nông dân, nghệ nhân, và
người lao động tham dự ngày càng nhiều vào các cuộc bầu cử vào các cơ
quan lập pháp của tiểu bang. Họ tuyên bố rằng họ sẽ đại diện cho lợi ích
của mình để giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử và giành lại quyền
lực. Các nhà lãnh đạo trong chính quyền tiểu bang mới ít giàu có hơn
nhưng linh hoạt hơn, và ít có quan hệ họ hàng với nhau hơn so với trước
cuộc Cách mạng. Lần đầu tiên, cơ quan nhà nước các bang đã tiến hành
công khai các cuộc thảo luận về chính sách.
Sau cùng, cuộc Cách mạng đã phổ biến
những tư tưởng cấp tiến – đặc biệt là cam kết tự do, bình đẳng, chính
phủ của dân, và quy tắc pháp quyền. Dù trong thực tế có bị xâm hại,
những lý tưởng bình đẳng đã truyền cảm hứng cho tinh thần cải cách. Chế
độ nô lệ, sự phụ thuộc của phụ nữ, và sự độc tài của tôn giáo – tất cả
trở thành những vấn đề với cách thức mới mà họ chưa bao giờ thấy trước
đây.
Cuộc Cách mạng đã thay đổi lối sống của
người dân Mỹ. Nó đã khiến người Mỹ cố gắng hơn trong việc xây dựng xã
hội của chính họ, gắn liền với những đặc trưng của thể chế cộng hòa.
Cuộc Cách mạng thúc đẩy người Mỹ chất vấn chế độ nô lệ và những hình
thức lệ thuộc khác, cũng như chế độ làm thuê không công của người lưu
vong và việc học nghề. Đầu thế kỷ 19, các bang miền Bắc đã bãi bỏ chế độ
nô lệ, hoặc thông qua các kế hoạch giải phóng từng bước. Trong khi đó,
chế độ làm thuê không công của những người da trắng lưu vong hầu như
biến mất.
Cuộc Cách mạng cũng đã dẫn tới những
thay đổi đáng kể trong đời sống phụ nữ. Trước Cách mạng, nhiều phụ nữ đã
tham gia vào các chiến dịch phản đối hoạt động xâm nhập của người Anh.
Trong suốt cuộc chiến, rất nhiều phụ nữ đã sản xuất đồ dùng cho chiến
tranh, trồng trọt và quản lý công việc làm ăn thay chồng. Sau Cách mạng,
lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Mỹ lên tiếng phản đối tư tưởng
“trọng nam khinh nữ” và yêu cầu được tôn trọng hơn bên trong và ngoài
gia đình. Lucy Knox, vợ General Knox, viết cho chồng mình vào năm 1777
như sau: “Tôi hi vọng anh không tự xem mình như người ra lệnh trong nhà –
để thuyết phục hơn… hãy hiểu điều này như mệnh lệnh đối với anh.” Sau
cuộc Cách mạng, những cây bút đầu tiên về nữ quyền, như Judith Sargent
Murray, đã đòi hỏi quyền được đối xử bình đẳng cho phụ nữ.
Chính quyền liên bang mới được thành lập
Trong tất cả những thành tựu của Cách
mạng thời đó, điều có ảnh lớn nhất và lâu dài là sự ra đời của một văn
bản hiến pháp. Đây là tài liệu quy định, và hạn chế quyền lực của chính
phủ, và bảo vệ quyền lợi của người dân.
Người Mỹ là dân tộc hiện đại đầu tiên
xem xét hiến pháp như một điều gì đó riêng biệt và vượt trội so với các
quy phạm pháp luật thông thường. Như vậy, hiến pháp không chỉ được soạn
thảo bởi một cơ quan lập pháp. Nó phải được tạo ra bởi chính người dân.
Một bản hiến pháp phải được viết trong một hội nghị đặc biệt, và được
phê chuẩn dưới hình thức phổ thông đầu phiếu. Hiến pháp tiểu bang
Massachusetts, được viết bởi John Adams năm 1780, là văn bản hiến pháp
lâu đời nhất đến nay còn hiệu lực.
Vào đầu những năm 1780, các thẩm phán
liên bang bắt đầu ra các phán quyết bác bỏ hiệu lực của các đạo luật vi
hiến, bởi các hành vi này trái với hiến pháp liên bang. Tòa án Bang
Massachussetts ra phán quyết rằng chế độ nô lệ là bất hợp pháp trong
bang vì vi phạm chính hiến pháp của bang mình
Các bản hiến pháp tiểu bang mới được
soạn thảo đều thể hiện đặc trưng của thể chế Cộng hòa. Hiến pháp tiểu
bang mới đã giúp tăng độ lớn của cơ quan lập pháp bang (nhằm tăng thêm
tính đại biểu). Trong nhiều bang, các đại biểu được bầu hàng năm. Dựa
trên kinh nghiệm với chức quan Thống đốc bang của hoàng gia Anh, hiến
pháp mới đã tăng cường quyền lực của các cơ quan lập pháp và làm suy yếu
quyền hạn của các thống đốc. Bang Pennsylvania còn hoàn toàn loại bỏ
chức danh này và thay vào đó một ủy ban điều hành.
Hiến pháp mới cũng tìm cách để xóa bỏ
các tàn tích của xã hội quân chủ. Chính sách thuế đã tiến bộ hơn và độc
quyền chuyên chế chính thức bị cấm. Hiến pháp mới cũng cải cách luật
thừa kế. Tập tục để con trưởng thừa kế – khi đó người cha sẽ để lại tài
sản của mình cho con trưởng – và theo đó – tài sản sẽ được kế thừa và
tiếp nối bởi con cháu dòng chính.
Một cam kết về tự do tôn giáo được xem
như một nguyên tố thiết yếu dưới thể chế cộng hòa tự do. Bất kỳ bản hiến
pháp bang nào được viết giữa những năm 1776 tới 1880 đều bảo vệ cho tự
do tôn giáo.
How were the colonies able to win independence? | Previous | Next |
Digital History ID 3220 |
In 1778, the royal army consisted of nearly 50,000 regular troops combined with over 30,000 German (Hessian) mercenaries. George Washington, in contrast, never had more than 20,000 troops under his command at any one time. Most of these American soldiers were young (ranging in age from their early teens to their mid-20s), landless, unskilled, and poor. Others were indentured servants and slaves who were serving as substitutes for their masters and had been promised freedom at the war's end. Also in the Continental army were many women who cared for the sick and wounded, cooked, mended clothes, buried the dead, and sometimes served in combat.
What made American victory possible? For one thing, conquering the colonies was an almost impossible task. The sheer geographical size of the colonies made it impossible for British forces to occupy the countryside. Because of their inability to control the countryside, the British found it difficult to protect Loyalists from the fury of patriots, who sometimes tarred and feathered and even murdered those who remained loyal to the Crown. The colonies also lacked a single national capital, which, if captured, might end the conflict. A major British mistake was failing to take sufficient advantage of Loyalists. Before the Revolutionary War began, some 50,000 Loyalists formed nearly 70 regiments to help the British maintain control the colonies. But British commanders did not trust the loyalists or respect their fighting ability. As a result, the British alienated many potential supporters. The guerrilla tactics that Americans had learned during Indian wars proved very effective in fighting the British army. Militia men struck quickly, often from behind trees or fences, then disappeared into the forests. Because many Americans wore ordinary clothing, it was difficult for the British to distinguish rebels and loyalists. Washington's strategy of avoiding large-scale confrontations with the royal army made it impossible for the British to deliver a knock-out blow. Only once during the Revolution (at Charleston, S.C. in 1780) did an American army surrender to British forces. The intervention of France, Spain, and the Netherlands in the conflict made a crucial difference in the Revolution's outcome. It is highly improbable that the United States could have won its independence without the assistance of France, Spain, and Holland. Fearful of losing its sugar colonies in the West Indies, Britain was unable to concentrate its military forces in the American colonies. All slave societies are highly vulnerable during wartime, and the British recognized that slaves might help them suppress the Revolution. In November 1775, Lord Dunmore, Virginia's royal governor, issued an emancipation proclamation, freeing any slaves or indentured servants willing to serve in the royal army. At least 800 slaves joined Lord Dunmore's forces. But the threat of slave emancipation led many southern slaveholders to support the patriot cause. Perhaps the single most important reason for the patriot victory was the breadth of popular support for the Revolution. The Revolution would have failed miserably without the participation of thousands of ordinary farmers, artisans, and laborers who put themselves into the line of fire. The Revolution's support cut across region, religion, and social rank. Common farmers, artisans, shopkeepers, petty merchants were major actors during the Revolution. Ex-servants, uneducated farmers, immigrants, and slaves emerged into prominence in the Continental Army. The growth of popular participation in politics began even before the Revolution. In the years preceding the war, thousands of ordinary Americans began to participate in politics--in non-importation and non-exportation campaigns, in anti-Tory mobs, and in committees of correspondence linking inland villages and seaports. Many men joined groups like the Sons of Liberty to protest British encroachments on American liberties. Many women took the lead in boycotts of British goods; they also took up the spinning wheel to produce homespun clothes. During the Revolution itself, some 400,000 Americans, including at least 5,000 African Americans, served in the fighting for at least some time. How was the war paid for? Congress was reluctant to levy taxes. Instead, it borrowed money by issuing bonds. It also printed money, resulting in terrible inflation. The worthlessness of Continental currency inspired the phrase, "not worth a Continental." It became more difficult to get people to lend money. By 1779 and 1780, Washington's army had to confiscate supplies in order to feed and clothe itself.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire