Năm nay là năm 2015, có ai còn nhớ những bài thơ xưa, những bài thơ vương vấn, trữ tình nhưng nhẹ nhàng ... và xa xôi.
Người ta muốn gì? hay chỉ hỏi thăm thế thôi.
Có ai biết gì, có ai chưa biết gì?
Có ai yêu người con gái kia chưa?
Người con gái trong trắng đó chưa có một lần yêu hay chưa biết có ai yêu mình thì... người đã rời bỏ cõi đời.
Cái lãng mạn của thế kỷ trước với câu chuyện hỏi thăm về một người con gái, hỏi thăm thôi, sao lòng ta lại lưu luyến?
Kính mời quý anh chị theo dỏi bài viết của tác giả Văn Nguyên Dưỡng.
Ở đây, các anh chị có thể thử thả hồn mình vào bối cảnh ngày hôm ấy và xin đừng quan tâm đến những gì không thuộc về văn chương.
Caroline Thanh Hương
Thưa Cô Caroline Thanh Hương,
Tôi hân hạnh được đọc một ít tác phẩm thi ca tiếng Việt, Pháp và Anh của Cô và nhiều nhà thơ khác do Cô đăng trên Diễn đàn của NHÓM TỨ HẢI. Tôi xin gởi đến hai bản phỏng dịch một bài thơ của Thi sĩ Huyền Kiêu. Bài thơ nầy tam sao thất bổn, mỗi người sau ông hay đồng thời, đều ghi chép lại mỗi thi ngữ khác nhau, nhưng nội dung đều giữ đúng sự yểu mệnh của cô gái đẹp như người xưa đã nói: "Giai nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu". Đến cái tựa nguyên bản của bài thơ cũng bị thay đổi, tôi không biết tựa nào đúng, nên tạm dùng một tựa đúng với nội dung, trong bản tiếng Việt và trong hai bản phỏng dịch Pháp và Anh ngữ. VND
BẢN VIỆT NGỮ CỦA THI SI HUYỀN KIÊU:
TÌNH SẦU
Xuân hồng có chàng đến hỏi:
- Em thơ chị đẹp em đâu?
-Chị em hoa trắng cài đầu,
Đi hái hoa tươi ngoài nội.
Hạ đỏ có chàng tới hỏi:
-Em thơ chị đẹp em đâu?
-Chị em khăn thắm quấn ̣đầu,
Đi vớt rong vàng trên suối.
Thu biếc có chàng đến hỏi:
-Em thơ chị đẹp em đâu?
-Chị em lược vắt ngang đầu,
Đi hát tình sầu trong núi.
Đông xám có chàng đến hỏi:
-Em thơ, chị đẹp em đâu?
-Chi ̣ em khăn trắng quàng đầu,
Ngủ sâu trong lòng mộ tối...
ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ:
Thi sĩ Huyền Kiêu sinh năm 1915 tại Hà Tây, Bắc Việt. Theo kháng chiến, là hội viên hội Văn nghệ của CSVN. Trước năm 1945 viết văn làm thơ. Có những tác phẩm thi ca SANG XUÂN, MÙA CÀY, BẦU TRỜI. Trước năm 1945 là bạn văn chương của Vũ Hoàng Chương, Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách. Sau năm 1975 vào Sài-Gòn và mất ở đó năm 1995. Ngoài bài thơ trên đây, những tác phẩm thi ca khác của ông ít người biết đến.
BẢN PHỎNG DỊCH PHÁP VĂN CỦA VĂN NGUYÊN DƯỠNG:
OÙ EST-ELLE?
Printemps ravissant,
Un jour, un jeune homme vient et demande:
-Sage petit enfant, où est ta soeur -la belle?
-Ma soeur, la belle
Avec une fleur blanche aux cheveux,
S'en va aux plaines
Pour recueillir les belles roses parfumées.
Été éclatant
Un jour, le jeune homme revient et demande:
-Sage petit enfant, où est ta soeur -la belle?
-Ma soeur, la belle
Avec un turban coloré aux cheveux,
S'en va aux ruisseaux
Pour ramasser les élodées des eaux.
Automne éblouissant,
Un jour, le jeune homme revient et demande:
-Sage petit enfant, où est ta soeur -la belle?
-Ma soeur, la belle
Avec un beau peigne aux cheveux,
S'en va aux montagnes
Pour chanter les chansons amoureuses.
Hiver palpitant
Un jour, le jeune homme revient et demande:
-Sage petit enfant, où est ta soeur -la belle?
-Ma soeur, la belle
Avec un châle de neige aux cheveux,
S'endort profondément
Dans sa tombre obscure pour...jamais.
VND
****
BẢN PHÓNG DỊCH CANH TÂN BẰNG ANH NGỮ CỦA VĂN NGUYÊN DƯỠNG:
THE FOUR SEASONS
In bloomy spring,
A young gentleman comes and asks:
-Dear handsome, where is your beautiful sister?
-With a colorful garland on her hair,
She went to pick pretty flowers in the open air.
In radiant summer,
The young gentleman comes back and asks:
-Dear handsome, where is your pretty sister?
-With a slander scarf about her shoulders
She went to a rocky stream to enjoy its musical waters.
In gold-foil autumn,
The young gentleman comes again and asks:
-Dear handsome, where is your charming sister?
-With a yellow shirt and a blue jeans pant, at her will
She went to sing amorous songs on the height of a hill.
In snowfall winter,
The young gentleman returns and asks:
-Dear handsome, where is she going, your lovely sister?
The boy whispers:
-With a darn ribbon around her head,
She is sleeping profoundly in her tomb, ewer...
VND
****
XIN CHÚC BỐN MUÀ YÊN VUI VÀ HẠNH PHÚC.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Huyền Kiêu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Huyền Kiêu tên thật: Bùi Lão Kiều (1915 - 1995), bút hiệu: Huyền Kiêu (do Kiều mà ra), là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.
Mục lục
Tiểu sử sơ lược
Huyền Kiêu sinh năm Ất Mão (1915) tại Hà Tây, nhưng cư ngụ ở Hà Nội.
Vào những năm 40 của thế kỷ 20, ông viết văn, làm thơ, cộng tác với các báo ở Hà Nội, và nổi tiếng từ đó.
Trong cuộc chiến tranh chống Pháp (1945 - 1954), ông tản cư ra chiến khu, công tác ở chi hội Văn nghệ Liên khu III.
Sau hiệp định Genève (1954), ông hồi cư về Hà Nội, công tác ở tạp chí Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho đến năm 1975.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông vào sống ở Thành phố Hồ Chí Minh và mất ở nơi đó vào ngày 8 tháng 1 năm 1995 (Ất Hợi), thọ 80 tuổi.
Tác phẩm
Tác phẩm của Huyền Kiêu, gồm:
- Hồ Chí Minh, tinh hoa dân tộc (trường ca, 1944).
- Sang xuân (thơ, 1960)
- Mùa cày (thơ, 1965)
- Bầu trời (thơ, 1976)
Ngoài ra, ông còn dịch tiểu thuyết Gió Đông, gió Tây của Pearl S. Buck (NXB Hàn Mặc-1945; 1964 in lại).
Thơ Huyền Kiêu
Nhìn chung, những bài thơ hay của Huyền Kiêu đều là thơ buồn. Ở đây, giới thiệu hai bài thơ đã từng được thi sĩ Đinh Hùng và nhiều người yêu thơ khen ngợi:
|
|
Thông tin thêm
Lúc ở Hà Nội, Huyền Kiêu với thi sĩ Đinh Hùng vốn là bạn thân từ thuở nhỏ. Cho nên khi bắt đầu gia nhập làng báo, làng văn; nhờ người bạn này, mà Huyền Kiêu sớm trở thành bạn thân thiết của Vũ Hoàng Chương, Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách...
Năm 1954, Đinh Hùng vào sống ở Sài Gòn, làm báo và phụ trách chương trình "Tao Đàn trên Đài phát thanh Sài Gòn". Trong một lần trò chuyện với bạn (Quốc Nam) về những văn nhân thời tiền chiến, thi sĩ có nhắc đến hai bài thơ của Huyền Kiêu, đó là "Tình sầu" và "Tương biệt dạ". Và theo Đinh Hùng, thì câu thơ đầu của bài "Tương biệt dạ", là của nhà văn Thạch Lam.
Lược lại lời kể của thi sĩ Đinh Hùng:
- Bên Hồ Tây, một đêm chớm thu năm Canh Thìn (1940), chúng tôi cùng kéo nhau ra vườn của Thạch Lam, ngồi nghe cá quẫy, nhìn trăng vời vợi...Một lát sau, Thế Lữ đã về nhà gần đấy rồi, quanh quẩn chỉ còn lại Huyền Kiêu, Thạch Lam và tôi thôi. Đang buồn vì đôi bạn thân là Khái Hưng và Nhất Linh sắp sửa xa nhau, thì bỗng dưng Thạch Lam khơi mào bằng câu thơ: "Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề...", rồi xui Huyền Kiêu hãy làm tiếp đi!...Huyền Kiêu và tôi đều ngơ ngác, vì không hiểu sao hôm nay Thạch Lam lại nhiều... thi hứng đến thế.
- Suy nghĩ một hồi lâu, Huyền Kiêu nói:
- -Tôi thử đọc cho các anh nghe. Bài thơ nhan đề "Tương biệt dạ". Hay, dở tùy nghi Thạch Lam và Đinh Hùng giúp sửa lại. Và anh khe khẽ ngâm sau khi giục Thạch Lam vào nhà lấy giấy bút ghi tốc ký...Vậy là bài thơ "Tương biệt dạ", với đầy hình ảnh của Khái Hưng cùng Nhất Linh, đã được chính Thạch Lam mở đầu và do Huyền Kiêu sáng tác. Tình bạn thơ văn giữa chúng tôi thắm thiết là thế đó.
- Chỉ mấy tháng sau, bài thơ trên được nhà xuất bản Đời Nay của Tự Lực văn đoàn tuyển in trong Giai Phẩm Đời Nay Xuân 1941, cùng với bài thơ "Bài ca man rợ" của Đinh Hùng. Đặc biệt, bài "Tương biệt dạ" còn được họa sĩ Đông Sơn (tức Nhất Linh) vẽ tranh minh họa.[2]
Còn bài thơ "Tình sầu" của ông cũng rất nổi tiếng. Trước 1975, nhà văn Viên Linh đã dùng câu Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi, làm nhan đề cho quyển tiểu thuyết của mình. Gần đây hơn, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng đã dùng hai chữ Hạ đỏ làm tên cho một quyển tiểu truyết và còn trích dẫn mấy câu thơ đề ở bên trong. Ngoài ra, bài thơ này cũng đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc với tựa đề "Ngày xưa một chuyện tình buồn" và nhạc sĩ Việt Dzũng phổ nhạc với tựa đề "Thu vàng có chàng tới hỏi" [1].
Chú thích
- ^ Mấy đoạn thơ trích chép theo quyển Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, do Nguyễn Hùng Trương (tức Giám đốc nhà sách Khai Trí, Sài Gòn) tuyển chọn, Nxb Thanh Niên, 1998, tr. 144-145. Bạn đọc yêu thơ có thể tìm đọc trọn vẹn cả hai bài trên internet.
- ^ Lược theo bài viết của Quốc Nam
Tình sầu
Tác giả: Huyền Kiêu
Xuân hồng có chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu ?
– Chị tôi tóc xoã ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội
Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu ?
– Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối
Thu biếc cũng chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu ?
– Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi
Đông xám lại chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu ?
– Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối
Tương biệt dạ
Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề
Ý sầu lên vụt đến sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Vương vấn người đi với kẻ về.
Ngồi suốt đêm trường chẳng nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vần trăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ?
Có giống như mình lưu luyến chăng?
Đã tắt lò hương, lặng phím đàn
Thư phòng sắp sằn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải vương theo mấy dặm buồn.
Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng nhiên sầu
Trăng mùa xuân đó ai tâm sự?
Anh đã xa rồi. Anh biết đâu?
– Em thơ, chị đẹp em đâu ?
– Chị tôi tóc xoã ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội
Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu ?
– Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối
Thu biếc cũng chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu ?
– Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi
Đông xám lại chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu ?
– Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối
Tương biệt dạ
Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề
Ý sầu lên vụt đến sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Vương vấn người đi với kẻ về.
Ngồi suốt đêm trường chẳng nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vần trăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ?
Có giống như mình lưu luyến chăng?
Đã tắt lò hương, lặng phím đàn
Thư phòng sắp sằn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải vương theo mấy dặm buồn.
Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng nhiên sầu
Trăng mùa xuân đó ai tâm sự?
Anh đã xa rồi. Anh biết đâu?
Thanh Hương mến,
RépondreSupprimerBài thơ Tương biệt dạ của thi sĩ Huyền Kiều còn thêm 4 câu nữa, vì chị thích bài thơ đó mà thuộc lòng luôn, tiếp theo của câu:
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ?
Có giống như mình lưu luyến chăng?
4 câu kế tiếp là:
Đã tắt lò hương lạnh phím đờn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải sương theo vạn dặm buồn.
Merci những vần thơ thật hay mà Thanh Hương đã post.
Cathy
Có một buổi họp mặt với bạn văn Lê Diễm, con gái thi sĩ Huyền Kiêu tôi hỏi nàng :
RépondreSupprimerCó bao giờ nghe thi bá Vũ Hoàng Chương vui viết tặng Thi sĩ HK Chưa ?
Cô cười ..Tôi bèn đọc :
Một trong nhóm Tây Hồ Dật Sĩ
Cao ngạo trong nách đĩ (*) Huyền Kiêu
Gió trăng phỏng được bao nhiêu ?
Tênh hênh Ngưng Bích giam Kiều tu mi
(*)Nách đĩ là cái gác xép xát với mái nhà , chật hẹp (Mansarde. roof- window ,attic)
trong Nam gọi tục là cál L. M. (Lơ Mơ chăng ? Hồi có một nhó thi văn sĩ Đinh Hùng ,Vũ Hoàng Chương
,Huyền Kiêu ...,(THDS) thường tụ họp với Nàng Tiên Nâu trên đó để đi mây về gió
VHC
Chi Thanh Hưong có biết thi thoại này không ?
Ma Nữ