Phải tự hào về những khoa học gia người Việt, vì một số người đã vượt bao nhiêu khó khăn trở ngại về vật chất để mang công sức ra học hành và đã thành đạt.
Nếu đất nước ta là một nước không bao giờ có chiến tranh, một nước giàu có, và họ, những người Việt Nam này sinh ra trong những hoàn cảnh thuận lợi nhất thì có thể là chuyện rất tự nhiên.
Riêng chị Nguyễn Thục Quyên là một bằng chứng đáng ghi nhớ để giúp cho những ai thấy khó mà không nên sờn lòng.
Caroline Thanh Hương
Nhà khoa học nữ gốc Việt trong top ảnh hưởng nhất thế giới
Tuổi
thơ theo mẹ đi khắp nơi để kiếm sống, sang Mỹ thì bị bạn bè chê cười vì
không biết tiếng Anh, nhưng Nguyễn Thục Quyên đã vượt qua tất cả và trở
thành một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới.
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên sinh ra ở Buôn Ma Thuật
(Đắk Lắk) trong một gia đình thượng lưu gồm 5 anh chị em. Sau năm 1975,
cha đi cải tạo, mẹ chị - một cô giáo dạy toán cấp 2, dẫn dắt đàn con đến
các vùng kinh tế mới như Phước Lâm, Long Điền, Đất Đỏ, Phước Tỉnh và
Vũng Tàu để sinh nhai.
Lúc 5-6 tuổi, cô bé Quyên phải phụ giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa, kiếm củi
nấu cơm, đào khoai, câu cá, gánh nước... Cuộc sống cơm áo, gạo tiền cứ
đeo bám cho đến năm 1986 khi gia đình mở tiệm phở ở Bến Đá - Vũng Tàu,
Quyên mới được đi học ở trường Trung học Trần Nguyên Hãn.
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên. Ảnh do nhân vật cung cấp.
|
Nhọc nhằn nơi xứ người
Tháng 7/1991, chị cùng bố mẹ và 5 anh chị đến Mỹ định cư. Hai năm đầu,
các anh chị em của chị Quyên cứ đòi về Việt Nam vì không biết tiếng Anh
và phong tục tập quán Mỹ. Nhưng chị thấy ổn vì được làm điều mình thích
mà không sợ người khác dị nghị.
"Khi còn ở Việt Nam, gia đình đã vất vả rồi, nên khi sang Mỹ tôi phải
cố gắng hơn rất nhiều để có được cuộc sống tốt hơn", chị Quyên chia sẻ.
Để tự khẳng định bản thân nơi đất khách quê người, chị đã quyết tâm học
tiếng Anh thật nhanh bằng cách đăng ký ở ba trường trung học tại ba
thành phố. Ở Mỹ, tiếng Anh được học miễn phí.
Vất vả với bao tủi nhục khi bị nhiều người coi thường càng khiến chị có
thêm động lực vươn lên. "Có giáo viên chế nhạo tôi trước cả lớp vì khả
năng nói tiếng Anh kém. Một ông người Mỹ còn nói thẳng với tôi hãy về
nước của cô đi", chị nhớ lại và cho biết ở Mỹ vẫn còn một số người phân
biệt kỳ thị như vậy. "Thậm chí có đồng nghiệp lúc ở trường không bao giờ
nói chuyện với tôi mặc dù tôi đã cố gắng để nói chuyện với anh ta vài
lần", nữ giáo sư nói.
Tháng 9/1993, người cô họ cho chị ở cùng nhà, nhưng chị phải dọn dẹp,
nấu nướng, đi chợ và chạy việc vặt cho cô. Thời gian này, chị xin học ở
Đại học Santa Monica nhưng không được nhận vì tiếng Anh kém. Chị đã năn
nỉ nhà trường cho học thử một kỳ và hứa nếu không học được sẽ trở về
trường trung học để học thêm tiếng Anh. Ban ngày đi học, ban đêm chị tìm
lớp học thêm ở trung tâm dạy tiếng Anh miễn phí. Với sự nỗ lực không
ngừng nghỉ, cuối cùng chị cũng được nhận vào học.
Thấy bố mẹ vất vả làm trong nhà hàng và ở hãng may, chị không cho phép
bản thân thất bại mà cố gắng gấp đôi, gấp ba so với những bạn cùng trang
lứa. Để có tiền học, chị xin làm thêm trong thư viện trường từ 17h đến
22h mỗi ngày, nhưng vẫn không đủ nên phải vay thêm tiền của Chính phủ.
Tháng 9/1995, chị xin chuyển lên Đại học Califonia, Los Angeles và làm
thêm trong phòng thí nghiệm với công việc rửa dụng cụ. Chị xin làm
nghiên cứu nhưng không có phòng thí nghiệm nào nhận. Sau khi tốt nghiệp
bằng đại học Hóa năm 1997, chị nộp đơn học cao học. Chỉ trong một năm
chị đã có bằng thạc sĩ ngành Lý - Hóa và quyết định học tiếp tiến sĩ.
Thật bất ngờ, cuối năm của chương trình này chị là một 7 nghiên cứu sinh
xuất sắc của Đại học Califonia, Los Angeles được trao học bổng.
Tháng 6/2001, chị nhận bằng tiến sĩ và ra trường trước cả những sinh
viên chị từng rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ trước đây. Ra trường chị đạt
giải thưởng xuất sắc ngành Lý - Hóa. Tháng 9/2001, được giải
thưởng của liên bang đi tu nghiệp ở phòng thí nghiệm quốc gia nhưng chị
từ chối và đến làm ở Đại học Columbia, New York.
Ba năm sau chị bắt đầu làm việc ở Đại học California, Santa Barbara và
mất hơn hai năm xây dựng hai phòng thí nghiệm riêng. Sau 11 năm, chị đã
có 7 phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu. Chị còn xin hơn 10
triệu USD cho những dự án nghiên cứu, được mời tới hơn 200 địa điểm trên
thế giới để thuyết trình cũng như nhận nhiều giải thưởng lớn cho công
trình nghiên cứu.
"Bạn bè tôi ở Việt Nam vẫn thường bảo hồi ở quê học dốt thế mà sao qua
Mỹ học giỏi ghê thế. Tôi trả lời rằng ngày xưa làm gì có thời gian để
học vì còn phải phụ giúp gia đình", vị giáo sư nói.
Pin năng lượng mặt trời làm từ chất nhựa dẫn điện Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của giáo sư Nguyễn Thục Quyên. Ảnh do nhân vật cung cấp.
|
Những vất vả của phụ nữ khi làm khoa học
Giáo sư Quyên tâm sự, có được ngày hôm nay là nhờ sự dìu dắt của mẹ và
người cậu ruột khi hướng cho chị đi theo con đường tốt nhất có thể.
Trong khi bố cho rằng, con gái thì nên lấy chồng, không cần học, thì mẹ
ngược lại. Chị còn nhớ ngày học xong lớp 12, chị đã xác định sẽ ở
nhà và tính chuyện lấy chồng, nhưng mẹ vẫn đưa chị lên Sài Gòn để thi
đại học. "Mẹ đưa tôi lên Sài Gòn ở nhà bà ngoại để thi đại học, nhưng
tôi không muốn. Lớn lên và học ở trường làng tôi thấy ở tuổi 18 người ta
đã lấy chồng và có con rồi", chị nói.
Người cậu đã gọi chị đến nói chuyện hơn hai giờ, với mục đích khuyên chị đi thi và cố gắng vào đại học. "Tại
sao có cơ hội như vậy mà cháu lại từ chối. Học đại học sau này cháu sẽ
có công ăn việc làm ổn định, có sự nghiệp, nếu lấy được người tốt thì
không sao...", chị kể lại lời ông cậu.
Lớn lên, người chị hâm mộ đó là bà Marie Curie, bởi thời đó khoa học
gia là nữ rất ít. Bà chính là tấm gương vượt khó để chị tiếp tục cố gắng
cho nghiên cứu khoa học.
Hơn 11 năm làm việc ở Đại học California, Santa Barbara, chị làm khoảng
thời gian 15 tiếng mỗi ngày. Bên cạnh việc giảng dạy, chị còn làm nhiều
công việc khác như biên tập báo khoa học, tổ chức hội nghị khoa học
quốc tế, xin tiền dự án nghiên cứu trả lương, học phí, và bảo hiểm y tế
cho sinh viên (mỗi nghiên cứu sinh tốn khoảng 100.000 đôla mỗi năm),
hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu, giúp sinh viên viết bài đăng báo,
làm trong ban xét lên lương và lên chức cho tất cả giáo sư trong trường,
ban tuyển dụng giáo sư...
Chị chia sẻ, làm khoa học đã khó nhưng phụ nữ trong lĩnh vực này càng
vất vả hơn, bởi ngoài sự nghiệp, họ còn phải lo cho gia đình. Ngay bản
thân chị, dù đã cố gắng rất nhiều nhưng đôi khi vẫn không nhận được sự
tôn trọng của đồng nghiệp nam giới. "Cũng may tôi có người chồng tâm lý
và thông cảm, anh dạy hóa hữu cơ cùng trường, luôn hỗ trợ nên tôi có
thêm động lực để giảng dạy và nghiên cứu", nữ giáo sư nói.
"Phần đông mọi người nghĩ con gái thì nên lo cho chồng con, dọn dẹp nhà
cửa và không nên có sự nghiệp riêng. Tôi muốn cho những người phụ nữ
khác biết là họ có thể làm cả hai. Tôi muốn làm những điều hữu ích cho
xã hội", chị nói.
Chị vẫn còn nhớ như in thời điểm bắt đầu vào học trong trường. Lúc đó
chị xin vào phòng thí nghiệm nhưng không được vì nhiều người nghĩ chị
không thể làm được điều gì và khuyên rằng “nghiên cứu không dễ dàng và
không phải ai cũng làm được. Bạn nên tập trung để học tiếng Anh đi”. Mãi
sau này, có vị giáo sư thấy chị có những câu hỏi hay trong lớp nên
khuyến khích theo đường nghiên cứu. Biết được tin này chị rất vui vì từ
bé đã thích tìm tòi những điều mới.
Đầu năm 2004, chị đi phỏng vấn ngành hóa ở một số trường đại học. Chị
cũng rất sợ vì những trường này ngành hóa rất ít hoặc không có nữ giáo
sư. "Con đường đi đến thành công ở Mỹ không phải dễ dàng vì quốc gia này
thường thu hút nhà khoa học hàng đầu trên thế giới nhưng bản chất người
Việt Nam thông minh và chăm chỉ", vị giáo sư nói và cho rằng có công
mai sắt có ngày nên kim.
Thích về Việt Nam
"Tôi nhớ Việt Nam lắm. Nếu có thời gian là tôi về ngay, bởi hiện nay
anh em họ hàng, nhất là ông cậu - người đặt viên gạch đầu tiên trong
cuộc đời khoa học của tôi vẫn ở quê hương", nữ giáo sư tâm sự.
Lần đầu tiên chị và mẹ về Việt Nam là năm 1999 để thăm bà ngoại trong 3
tuần. 9 lần về nước ngoài dự hội nghị khoa học, chị dành thời gian để
thăm gia đình.
Chị cho biết, thời gian 21 năm sống ở Việt Nam, chị nhớ món ăn thuần
túy Việt Nam và các bài hát Việt, nên lần nào về nước chị cũng nhờ cậu
mợ dẫn đi xem ca nhạc. "Tôi thích nhạc dân ca như bài Quê hương, Ai đưa con sáo sang sông", chị nói.
Khi hỏi ý định về Việt Nam sinh sống, chị nói: "Có lẽ khi nào về hưu
tôi mới về nước, vì quê hương vẫn chưa có đủ cơ sở vật chất điều kiện
tốt để tôi có thể nghiên cứu", chị nói và cho biết 7 phòng thí nghiệm
riêng của chị trị giá khoảng 4 triệu đôla.
Bên cạnh giải thưởng là một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới ngành khoa học vật liệu, chị còn nhận nhiều giải thưởng khác như: Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Alexander von Humboldt-Foundation của Đức năm 2015; Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ 2010, Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Alfred P. Sloan Foundation 2009; Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Camille Dreyfus Foundation 2008; Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Harold J. Plous Memorial Award and Lectureship 2007. |
Phạm Hương
4 người Việt nằm trong top 3.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới
Giáo sư Nguyễn Sơn Bình. (Ảnh: packard)
Hơn 3.000 nhà khoa học nằm trong danh sách này được chọn từ 1% số nhà khoa học có trích dẫn cao nhất nằm trong lĩnh vực nghiên cứu chuyên môn của họ. 4 nhà khoa học Việt Nam được vinh danh là Giáo sư Nguyễn Sơn Bình, Giáo sư Nguyễn Thục Quyên, Giáo sư Võ Văn Ánh và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hùng.
Giáo sư Nguyễn Sơn Bình là Giáo sư khoa Hóa trường Đại học Northwestern (Mỹ), thành viên cấp cao tại Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne. Tại Đại học Northwestern, ông Nguyễn Sơn Bình giữ chức vụ giảng viên cao cấp hai chương trình nghiên cứu Dow và McCormick, đồng thời là Giám đốc chương trình khoa học tích hợp.
Các nghiên cứu hiện nay của Giáo sư Nguyễn Sơn Bình chủ yếu xoay quanh thiết kế vật liệu mềm để ứng dụng sản xuất chất xúc tác, dược phẩm, và khoa học vật liệu. Phòng thí nghiệm của giáo sư Nguyễn Sơn Bình hiện điều chế, tổng hợp và ứng dụng sản xuất nhiều loại vật liệu mềm hữu cơ, bao gồm lai ghép các cấu trúc ADN hữu cơ, cấu trúc lipô, vật liệu xốp và nanocomposite hiện đại hàng đầu thế giới như graphene, graphene oxide. Hiện Giáo sư Nguyễn Sơn Bình có 397 công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí quốc tế.
PGS Nguyễn Xuân Hùng (áo trắng, thứ ba từ trái qua). (Ảnh: HUTECH)
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hùng hiện là giảng viên Đại học Công nghệ TP Hồ Chí Minh (HUTECH), Đại học Đông Y Đài Loan. Sinh năm 1976, PGS Nguyễn Xuân Hùng tốt nghiệp cử nhân trường Đại học Khoa học tự nhiên – ĐHQG TP Hồ Chí Minh. Sau đó PGS Hùng theo học thạc sĩ ngành cơ học môi trường liên tục, sau đó bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ngành khoa học máy tính tại Đại học Liège (Bỉ).
Ông hoàn tất chương trình đào tạo sau tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Singapore, nghiên cứu tại Đại học Cincinnati (Mỹ) và hợp tác nghiên cứu tại nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đến tháng 7 năm nay, PGS Nguyễn Xuân Hùng có hơn 80 bài báo quốc tế được đăng trên các tạp chí uy tín về ngành khoa học máy tính, công cụ tính toán composite, toán thực hành và công nghệ sao chép tại Mỹ, Đức, Hà Lan, Singapore… Mới đây, PGS Nguyễn Xuân Hùng đã nhận giải thưởng danh giá Nghiên cứu Georg Forster của Quỹ tài trợ Alexander von Humboldt (Đức).
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên. (Ảnh: Đại học California, Santa Barbara)
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên hiện là Giáo sư chuyên ngành khoa học vật liệu tại Đại học Santa Barbara, ĐH California (Mỹ), chuyên về Hóa – Sinh. Giáo sư Nguyễn Thục Quyên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Hóa – Lý tại Đại học California năm 2001. Bà trở thành Giáo sư chính thức chuyên ngành Hóa và Hóa sinh từ năm 2011. Hiện Giáo sư Nguyễn Thục Quyên có 161 bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín.
Giáo sư Võ Văn Ánh hiện là giảng viên Đại học Công nghệ Queensland, chuyên ngành Toán học. Hiện ông có 41 công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí nước ngoài.
Theo vntinnhanh.vn
Hay quá, người VN có tài trong thế giới quanh ta. Tôi quý nhất là GS Quyên, vì cô đã qua nhiều chông gai chứ có dễ dàng đi tới ngon lành như nhiều nhân tài khác thì có gì mà nói. Tk Caro !
RépondreSupprimer