Đây là bài sưu tầm về lịch sử đã ghi lại trên net một thời kỳ với tên những nhân vật có liên quan trong thời cuộc lúc đó.
Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử, có thể đây chỉ là một khía cạnh hay quan điểm của 1 người, 1 nhóm người hay thời thế lúc đó, ai đã làm gì và tại sao thì chúng ta cứ làm chứng nhân thời đại.
Sử sách có thể không còn nhà trường nào trung thực hơn những tài liệu quý báu này.
Hãy đọc, nhận xét và tự tìm cho mình câu trả lời thỏa đáng nhất về thời thế những năm tháng ghi lại dưới đây.
Caroline Thanh Hương
NGÀN NĂM SOI MẶT:
Cái Chết Của Một Hàng Tướng: DƯƠNG VĂN MINH : (1916-2001)
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem:
18679)
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 9/8/2001, vài bằng
hữu điện thoại, e-mail hay fax cho tôi bản tin ngắn về cái chết của cựu Đại tướng
Dương Văn Minh (1916-2001). Tại Pasadena, tiểu bang California, mà không phải
Việt Nam như nhiều người tưởng nghĩ. Theo báo chí Mỹ, Tướng Minh, 86 tuổi, chết
tại bệnh viện Huntington Memorial Hospital tối ngày Thứ Hai
8/8/2001, sau khi bị té từ xe lăn xuống đất trong một phòng cho mướn (apartment)
chiều ngày hôm trước, Chủ Nhật, 7/8/2001. (Theo một nguồn tin khác, ông Minh chết
ngày Thứ Bảy, 6/8/2001. Tin này có lẽ chính xác hơn).
Còn nhớ năm 1982, khi
sang Pháp nghiên cứu lần đầu tiên để sửa soạn viết luận án, tôi được tin Tướng
Minh mới từ Sài Gòn qua Pháp chữa bệnh. Người cho biết tin này là ký giả Nguyễn
Ang Ca, ngày ấy định cư ở Belgium (Bỉ). Anh Ca tiết lộ thêm rằng theo lời thân
nhân Tướng Minh, ông ta đã hoàn tất một tập hồi ký dành riêng cho cháu ngoại
(con ông bà Nguyễn Hồng Đài và Dương [Thị?] Mai), sẽ được ấn hành sau khi Tướng
Minh chết. Trong thời gian nghiên cứu lần thứ hai ở Pháp, từ 1985 tới 1988, được
tin Tướng Minh đã biến mất ở Paris, “nghe đâu trở lại Việt Nam.” Bây giờ mới rõ
tin ấy sai lầm. Tướng Minh đã âm thầm qua Mỹ định cư, sống với vợ chồng người
con gái.
Việc Tướng Minh “tuyệt
tích giang hồ” cũng dễ hiểu. Từ năm 1963, ông Minh trở thành kẻ thù
của nhiều hơn một thế lực chính trị tại Việt Nam.
Nhóm kẻ
thù hằn học nhất là những người ủng hộ và còn tưởng nhớ Tổng thống Ngô Đình Diệm
(1955-1963). Cuộc đảo chính 1/11/1963 không những chỉ mang lại cái chết cho ba
anh em nhà họ Ngô, mà còn khiến nhiều cộng sự viên và nha trảo của chế độ bị tử
hình (Phan Quang Đông, đồ tể miền Trung), tù đày (Dương Văn Hiếu, Nguyễn Văn Y,
Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Hay), tịch thu tài sản, truy nã, săn đuổi, v.. v...
Trong khi đó, Giám mục Nguyễn Văn Thuận, cháu ngoại ông Ngô Đình Khả—hiện đã trở
thành Hồng Y ở Vatican—cũng muốn khôi phục lại thế giá cho các bậc trưởng thượng
của mình, qui tụ tàn dư đảng Cần Lao làm hậu thuẫn chính trị. Tướng Minh, người
đào mộ vùi chôn nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam và gây nên cảnh tang tóc thê
lương của họ Ngô, khó thể được yên lành.
Ngay trong hàng ngũ
quân đội nhiều người cũng không muốn “huynh đệ chi binh” (đúng ra có lẽ
phải là “binh chi huynh đệ”) với Tướng Minh. Trung tướng Nguyễn Khánh tìm mọi
cách triệt hạ, khiến Tướng Minh phải lưu vong qua Thái Lan khá lâu. Thủ lãnh
nhóm Young Turks là Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) cùng những
Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên nhất quyết không cho Tướng Minh hồi hương để tranh
cử Tổng thống năm 1967.
Mãi tới năm 1968, do
sự can thiệp của Thủ tướng Trần Văn Hương (1904-1982?), và giữa cao trào thanh
toán phe “Bắc Kỳ” Nguyễn Cao Kỳ-Nguyễn Ngọc Loan, Tướng Minh mới được về nước.
Phía sau đặc ân của ông Hương này là kế hoạch vận động tinh thần bài Bắc Kỳ từ
thời Nam Kỳ tự trị của Nguyễn Văn Thinh-Lê Văn Hoạch-Nguyễn Văn Tâm-Trần Văn Hữu
(1946-1947), đồng thời chuẩn bị dùng ông Minh làm con cờ thí cho cuộc tranh cử
Tổng thống vào năm 1971 của liên danh Thiệu-Hương. Nhưng giờ chót, sau khi Tướng
Kỳ bị loại bỏ vì thiếu người giới thiệu, Tướng Minh đột ngột rút lui. Cuộc bầu
cử Tổng thống nhiệm kỳ 1971-1975, đứa con “hợp hiến” thứ hai của Đại sứ “Tủ lạnh”
Ellsworth Bunker, bỗng trở thành “cậu con nuôi” “trưng cầu dân ý” của liên danh
“mồ côi” Thiệu-Hương.
Rồi đến cuộc sụp
đổ của miền Nam mùa Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40 tiếng đồng hồ
của Tướng Minh. Lệnh buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày 30/4/1975 khiến
nhiều người, vốn chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu trường sân khấu
chính trị, trút mọi trách nhiệm việc “mất nước” (sic) lên đầu
ông “hàng Tướng” này.
[Những lời
thở than, khóc lóc “mất nước” cũng chẳng khác gì việc đồng hoá một chế độ
chính trị với “Tổ Quốc” trên trình độ hiểu biết chữ Việt!]
Cho tới ngày Tướng
Minh nhắm mắt, chẳng mấy ai được nghe Big Minh tâm sự về những tao ngộ đời ông.
Tập hồi ký mà anh Nguyễn Ang Ca “tiết lộ” với tôi thực chăng hiện hữu và bao giờ
sẽ được ấn hành? Tư liệu văn khố Mỹ, Pháp, Nga, Trung cộng cũng chưa mở ra đầy
đủ, nhất là việc Tướng Minh được Quốc Hội cử làm Tổng thống ngày Chủ Nhật,
27/4/1975. Đại sứ Pháp Jean-Marie Mérillon đã thủ diễn vai trò nào trong màn bi
kịch chính trị và ngoại giao này? Việc phán định công và tội của Tướng Minh hẳn
còn nhiều năm nữa mới đủ sử liệu để suy xét.
Bài này không
có ý định phê bình hay đánh giá Tướng Minh. Chỉ ghi lại những dữ kiện lịch sử
tương đối khả tín nhất để những người nghiên cứu sau này đỡ mất công tra cứu.
PHÂN ĐOẠN I: Tướng Dương
Văn Minh và Đệ Nhất Cộng Hòa
Tướng Dương Văn Minh
sinh năm 1916 tại Vĩnh Long (lại có tin sinh ngày 19/2/1916 ở Mỹ Tho). Thường
được biết như "Big" Minh, để phân biệt với Minh "nhỏ"
(Sylvain Trần Văn Minh, Ki-tô giáo). Ông Minh thuộc loại to lớn so với người Việt
bình thường, cao hơn 1 mét 80 (6 feet), và nặng hơn 90 ki-lô.
Năm 1940, ông Minh gia nhập
quân đội Pháp, tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bị Thủ Dầu Một. Nổi danh là một lực
sĩ chạy đua nước rút, nên được thăng cấp Thượng sĩ. Năm 1946, lên cấp Thiếu úy.
Hai năm sau, lên Trung úy, rồi chuyển qua Quân đội Quốc Gia Việt Nam. Từ đó,
thăng tiến rất nhanh vì Quân đội Quốc Gia đang thành lập, thiếu cấp chỉ huy.
Trong hai năm
1954-1955, khi chỉ huy Phân Khu Sài Gòn/Chợ Lớn, Đại tá Minh "lớn"
đã giúp Thủ tướng Ngô Đình Diệm bẻ gẫy được cuộc đảo chính của Trung Tướng Nguyễn
Văn Hinh cùng các tổ chức vũ trang Bình Xuyên và Hòa Hảo (qua các chiến dịch Hoàng
Diệu, Nguyễn Huệ, Thoại Ngọc Hầu). Nhờ vậy, ông Minh từng được ca ngợi là
“anh hùng rừng Sát [Sác],” và vài năm sau đã lên tới chức Trung tướng.
Nhưng sau khi
đã dẹp xong mối hiểm họa giáo phái, Tướng Minh bị thất sủng. Có tin hai anh em
ông Diệm-Nhu nghi Tướng Minh dấu đi một phuy (fut hay thùng) vàng
cùng quí kim tịch thu được của Lê Văn “Bảy” Viễn, thủ lĩnh Bình Xuyên, ở mật
khu Rừng Sác mà không giao nạp cho chính phủ. Nguyên cớ chính là Tướng Minh chống
việc chính trị hóa quân đội theo kiểu Cộng Sản Bắc Việt (hay, Đài Loan, nếu muốn)—tức
bắt các cấp chỉ huy quân đội phải gia nhập Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng,
thường gọi tắt làCần Lao. Bởi thế ông Minh chỉ được giao nắm những chức
vị không có quân như Thanh tra quân đoàn, rồi Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân, v..
v... Lòng ghét bỏ ông Minh của anh em ông Diệm-Nhu càng tăng lên khi Tướng Minh
giữ lập trường “trung lập” trong cuộc đảo chính hụt 11/11/1960 của nhóm Đại tá
Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Nguyễn Triệu Hồng, v.. v... (Xem Chính Đạo [ed.], et
al., Nhìn lại biến cố 11/11/1960 [Houston: Văn Hóa, 1996]) Uy
tín Tướng Minh với chế độ cũng khó thể gia tăng khi Trung tá Vương Văn
Đông đề nghị Tướng Lê Văn Tỵ rồi đến Tướng Minh làm Bộ trưởng
Quốc Phòng chính phủ quân sự chuyển tiếp.(Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu,
I-C: 1955-1963, tr. 202)
Từ tháng
10/1961, Tướng Minh được một số viên chức ngoại giao Mỹ đánh giá như
có khả năng tạm thay Tổng thống Diệm, hoặc phụ giúp Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc
Thơ nắm quyền miền Nam nếu xảy ra việc gì chẳng may cho ông Diệm.(FRUS,
1961-1963, I:409-10) Nhưng ông Minh cũng có khá nhiều kẻ thù. Tướng Raymond
Nguyễn Khánh, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, nuôi hiềm khích cá nhân với ông Minh từ
lâu.(Ibid., I:710) Hiềm khích này có thể bắt nguồn từ xuất thân binh nghiệp,
danh lợi, và sự chia chác không đều chiến lợi phẩm, khi ông Khánh làm Chỉ huy
phó cho ông Minh trong chiến dịch đánh Bình Xuyên. (Xem Phạm Văn Liễu, Trả
Ta Sông Núi, [Văn Hóa: 2002] tập I, chương IX) Bộ trưởng Quốc Phòng Nguyễn
Đình Thuần thì cho rằng Tướng Minh “chỉ ưa than phiền,” bỏ qua nhiều cơ hội chiến
thắng, hoặc làm những việc kỳ quái như đưa Nhảy dù vào mặt trận bằng quân xa
thay vì thả máy bay, v.. v... (FRUS, 1961-1963, I:530)
Sau khi tuyên bố
tình trạng “lâm nguy” vào mùa Thu 1961, ông Diệm không thay đổi thái độ với Tướng
Minh. Khi một số viên chức Mỹ, kể cả Tướng Maxwell D. Taylor, Tổng Tham Mưu trưởng
Liên Quân, muốn đề nghị Tướng Minh lên chỉ huy quân đội (Ibid., I:80,
372), Tướng Edward G. Lansdale cực lực phản đối. Theo Lansdale—người nhiệt
thành ủng hộ họ Ngô từ năm 1954, và mùa Thu 1961 được ông Diệm xin đích danh
làm cố vấn riêng, nhưng Tổng thống John F. Kennedy (1961-1963) không chấp thuận—Tướng
Minh từng tuyên bố muốn đảo chính.(Báo cáo ngày 27/12/1961; US-Vietnam
Relations, 1945-1967, Bk 11, tr. 427; FRUS, 1961-1963, I:719n2)
Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần hay Tướng Paul Harkins, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Quân Viện
[MACV], cũng nghi ông Minh mưu làm đảo chính từ năm 1960.
Ông Diệm luôn
luôn nghi ngờ Tướng Minh. Khi người Mỹ yêu cầu Tướng Minh soạn thảo kế hoạch tấn
công chiến khu D (ở Tây Ninh) để tạo một chiến thắng nào đó, hầu vận động dư luận
Mỹ, ông Diệm ra sức bắt bẻ từng chi tiết. Thí dụ như ông Minh muốn thành lập
các chiến đoàn với cấp tiểu đoàn, ông Diệm chẳng những không chấp thuận mà còn
cho người điều tra phải chăng ông Minh muốn đảo chính. Rồi sai Tướng Lê Văn Tỵ Tổng
Tham Mưu trưởng, thông báo cho ông Minh biết chỉ đồng ý việc sử dụng các đơn vị
cấp đại đội.(FRUS, 1961-1963, II:9-10, 24-5) Cuối cùng, ngày 18/7/1962,
ông Diệm tiết lộ với Tướng Harkins quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh
Hành quân của Tướng Minh vì “thiếu khả năng.”(Ibid., II:536) Chẳng hiểu
quyết định này liên hệ gì đến kế hoạch tìm giải-pháp-khác-Diệm bắt
đầu manh nha từ năm 1960, và được nghiên cứu ở Oat-shinh-tân từ cuối năm 1961
hay chăng.(Ibid., II:64, 232, 459-60, 598-600) Do áp lực của Mỹ, Tướng Minh vẫn
còn được tước “Cố vấn quân sự.”
I. Cuộc Đảo Chính
1/11/1963:
Năm 1963, ông
Minh cùng một số tướng tá làm đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Vài ba người
cho rằng ông Minh đã “nhận lệnh Mỹ để làm đảo chính.” Tướng Minh còn bị cáo buộc
đã ra lệnh thảm sát anh em ông Diệm-Nhu vào sáng ngày 2/11, trên đường dẫn giải
từ nhà thờ “cha Tam,” Chợ Lớn, về Bộ Tổng Tham Mưu, sau khi họ đã xin đầu hàng.
Tôi sẽ tự hạn
chế trong hai vấn đề trên; và, tránh thảo luận nên hay không
nên đảo chính, đảo chính hay cách mạng, vì những
tra vấn này khó vượt qua khuôn khổ suy luận và phê phán, thuần là trò chơi của
trí tuệ và xúc động.
A. “Big” Minh có nhận
lệnh người Mỹ để đảo chính hay không?
Để tìm hiểu thực
chăng Tướng Minh nhận lệnh Mỹ lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, cần lược xét vài dữ
kiện sau:
(1) “Big” Minh thù
ghét chế độ từ lâu:
Trước hết, từ
lâu, “Big” Minh hơn một lần muốn giết hai ông Nhu-Cẩn hoặc đảo chính
ông Diệm. Không đợi tới ngày Ngoại trưởng Dean Rusk muốn vợ chồng ông Nhu, và nếu
cần, chính ông Diệm, “đi nghỉ mát dài hạn” (từ khoảng ngày 13/7/1963; VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 298, 315), hoặc Đại sứ Henri Cabot-Lodge nhận lệnh Tổng
thống Kennedy giải quyết cuộc khủng hoảng Phật Giáo ở Nam Việt Nam (tháng
6/1963). Từ tháng 11/1961, ông Minh cùng các Tướng Lê Văn Kim, Lê Văn Nghiêm và Đại
tá Phạm Văn Đổng ít nhiều dính líu đến một dự định đảo chính.(FRUS,
1961-1963, I:682; Báo cáo ngày 27/12/1961; US-Vietnam Relations,
1945-1967, Bk 11, tr. 427) Chính anh em ông Diệm cũng biết điều này, và cử người
điều tra, theo dõi, rồi tước đoạt binh quyền của ông Minh.
Cho tới năm
1963, sở dĩ ông Minh chưa ra tay vì màng lưới bảo vệ ông Diệm của người Mỹ—sự bảo
vệ mà cựu hoàng Bảo Đại từng cay đắng gọi là “mù lòa.” Tướng Minh và các chiến
hữu chỉ muốn người Mỹ đừng ngăn cản, hay không mật
báo cho anh em ông Diệm-Nhu biết kế hoạch đảo chính của mình. Việc
Kennedy cho phép Đại sứ Cabot-Lodge toàn quyền hành động, và ông Lodge (cũng một
giáo dân Ki-tô Vatican như Kennedy và anh em ông Diệm) quyết định
không thể làm việc với ông Diệm được nữa, chỉ mở ra cho Tướng Minh và những người
muốn thay đổi chế độ cơ hội để hành động.
Hơn nữa, là một
Phật tử, Tướng Minh (cũng như các ông Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, v.. v...) không thể
buông xuôi hai tay làm ngơ trước cảnh anh em ông Diệm ngược đãi Phật Giáo, lùng
bắt sinh viên học sinh, vu cáo đối lập là Cộng Sản. Bề ngoài, ông Diệm ra vẻ rất
công bình, tuyên bố “sau lưng Hiến Pháp còn có tôi,” đồng ý thỏa đáp các nguyện
vọng của Phật giáo (Tuyên cáo chung ngày 16/6/1963 giữa ông Diệm và Hòa thượng
Thích Tịnh Khiết), nhưng không thực thi những điều hứa hẹn. Ngược lại, ngầm thả
lỏng cho (hoặc không kiểm soát nổi) hai vợ chồng Ngô Đình Nhu-Trần Thị Lệ Xuân
đẩy Phật Giáo đến chân tường. Trong những buổi đàm thoại với viên chức Mỹ và
Pháp thì đặt điều vu cáo Phật giáo bằng những luận cứ mà một người có
óc suy luận trung bình và lương thiện tối thiểu cũng không dám phát biểu.(VNNB,
I-C: 1955-1963) Nên chẳng phải ngẫu nhiên mà đầu năm 1973, khi sắp
lìa đời tại bệnh viện Grall, Thượng tọa Thích Thiện Hoa ân cần trối trăng với
hàng tăng lữ đừng bao giờ quên công đức của Đại tướng Minh với Phật giáo
trong mùa pháp nạn 1963! (Tôi nghĩ Hòa thượng Thích Tâm Châu, một lãnh
tụ tranh đấu đầu tiên ở Sài Gòn, cũng đồng ý với nhận xét trên).
Tóm lại, ghép tội
(đúng hơn là vu cáo) ông Minh “nhận lệnh Mỹ” để làm đảo chính không đúng, hoặc
do thiếu hiểu biết, hoặc, bất chấp sự thực lịch sử: Giữa anh em ông Diệm-Nhu
và Tướng Minh chẳng còn chút thiện cảm nào để mất.
(2) Liên hệ giữa Tướng
Minh và ông Diệm:
Có người còn
lên án ông Minh và phe nhóm đã “phản bội” ông Diệm. Cáo buộc này quá vội
vã, không đúng sự thực, nếu chẳng phải bất chấp sự thực. Giữa ông Diệm và ông
Minh chẳng hề có tình đồng chí cũ, hay nghĩa thày-trò, hiểu theo nghĩa cấp chỉ
huy và thuộc hạ. Liên hệ giữa Thủ tướng Diệm và Tướng Minh chỉ khởi sự từ ngày
ông Diệm về nước vào hạ tuần tháng 6/1954. Nó là sự nối kết quyền lợi, do Mỹ
dàn xếp, để loại bỏ Tướng Nguyễn Văn Hinh cùng phe thân Pháp. Hai người là cộng
sự viên, hơn cấp chỉ huy và người tùy tùng. Ông Diệm là lá bài chính trị của
người Mỹ, trong khi Tướng Minh là một trong những lá bài quân sự. Nói cách
khác, hai ông Diệm và Minh cùng “làm quan” cho người Mỹ, hầu
biến miền Nam vĩ tuyến 17 thành một “nước” (không hề qui định hay dự trù
trong Hiệp ước Geneva ngày 20-21/7/1954). Văn hoa hơn, miền Nam trở thành “tiền
đồn chống Cộng của Thế giới Tự do,” dù dân miền Nam (cũng như miền Bắc) chỉ có
quyền “tự do” duy nhất là được đói khổ, đàn áp, tù đầy, tra tấn dã man, đẩy ra
mặt trận, và chết chóc.
Bản hiệu triệu
của ba ký giả Chu Tử, Hiếu Chân và Từ Chung trên tờ Ngôn Luận, số đặc
biệt chào mừng cách mạng thành công ra ngày 4/11/1963—trích lại trên bán nguyệt
san Bách Khoa (số 165, ngày 15/11/1963, tr. 93) của ông Huỳnh
Văn Lang, một cựu lãnh tụ Cần Lao—phần nào nói lên sự thực này: Ba nhà báo Chu
Tử, Hiếu Chân và Từ Chung tự trách đã “đánh đĩ tâm hồn, cam tâm làm gia nô
cho họ Ngô trong chín năm qua.” Ngay đến báo Sài Gòn Mới của Bà
Bút Trà, có liên hệ với Bộ trưởng Canh Nông Lê Văn Đồng, cũng than phiền rằng “luôn
luôn bị áp bức, khủng bố,” “[h]àng ngày phải chịu trăm chiều tủi nhục, bắt
buộc phải viết những điều trái ngược với lòng mình, để hoan hô những cái điêu
ngoa, giả dối, tàn ác, bất nhơn của gia đình họ Ngô.” (Bách Khoa, số
165 [15/11/1963], tr. 93-4; trích trong VNNB, IC: 1955-1963 [2000],
tr. 391)
(3) Bản chất sự liên
hệ giữa Mỹ và chế độ Ngô Đình Diệm.
Cho tới hiện
nay, vì lý do nào đó, vẫn chưa ai nói lên được bản chất sự liên hệ giữa Mỹ và
chế độ Ngô Đình Diệm. Sự im lặng hay thiếu hiểu biết này gây ra nhiều ngộ nhận
trong việc diễn giải các biến cố lịch sử. Phe Cộng Sản thường dùng chiêu bài
tuyên truyền quen thuộc, lên án chính sách Mỹ ở Việt Nam là “tân thực dân” [Neo-colonialism],
và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là “bù nhìn” [puppet regime]. Lối gọi tên
này không chỉnh. Tài liệu Liên sô Nga, Trung Cộng, và ngay chính tài liệu Cộng
Sản Việt Nam đã tiết lộ rằng vị thế chiến lược quốc tế của chế độ “cách mạng xã
hội chủ nghĩa” tại miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975 chẳng sáng sủa
gì hơn miền Nam. Thực ra, Hà Nội còn chịu cảnh một cổ hai tròng: chẳng những nằm
trong quĩ đạo quốc tế Cộng Sản của Nga, mà còn bị bóp cổ, chẹn họng bởi điều mà
sử quan Cộng Sản Việt Nam có thời gian gọi là “chủ nghĩa bành trướng
và bá quyền nước lớn” của Trung Cộng.
[Xem, chẳng hạn, “Sách Trắng”
ngày 25/9/1979 của Hà Nội; Trung Quốc từ Mao đến Đặng, Văn Trọng chủ
biên (Hà Nội: 1984); Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền
nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh, do Phạm Như Cương chủ biên
(Hà Nội: 1979); Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn (Hà
Nội: Tạp chí Cộng Sản, 1982); hay, những tựa sách khác in trong thập
niên 1980.
Nực cười là một
thời các tư tưởng gia Việt Cộng như Hồ Chí Minh, Trường Chinh hay Tố Hữu, đích
thân hay chỉ thị thuộc hạ “gân cổ bắc loa mồm” ca tụng thứ liên hệ quốc tế vĩ đại
này bằng những danh từ thống thiết nhất như “môi hở, răng lạnh,” “đời
đời nhớ ơn,” v.. v... Phía sau hậu trường thì cắt đất xin quân viện để đánh
chiếm miền Nam.]
Phần Việt Nam Cộng
Hòa thích gọi Liên bang Mỹ là “Đồng Minh” và ngược lại. Nhưng danh xưng chính
xác hơn là quốc gia bảo trợ và chế độ vệ tinh. Mối
liên hệ ông chủ- đầy tớ này phản ảnh rõ ràng qua tài liệu văn
khố Mỹ, hàng trăm tác phẩm nghiên cứu và hàng ngàn bài báo xuất bản tại Mỹ từ
năm 1956 tới 1975, nếu chẳng phải còn kéo dài tới ngày nay. Người Mỹ, và cả người
Pháp trước đó, chỉ coi người bản xứ Đông Dương như công cụ chống Cộng hay lính
đánh thuê, trong một cuộc chiến “ủy thác” [proxy wars] để tiết kiệm
xương máu công dân Mỹ.
Với vị thế bảo
trợ, từng khai sinh và nuôi dưỡng chế
độ Việt Nam Cộng Hòa, chính phủ Mỹ thường bị kết tội, dù đúng hay sai, là đã đứng
sau mọi biến cố quan trọng tại Việt Nam, từ những cuộc tranh đấu của các đảng
phái, tôn giáo, phe nhóm, tới “thay ngựa giữa dòng” v.. v... Thực ra,
người nghiên cứu sử nghiêm túc về sự can thiệp của Mỹ không thể không liên tưởng
đến chính sách “cơ mi” mà các triều đình phong kiến Trung Quốc
khi xưa đã áp dụng: Cho tới năm 1960, người Mỹ chỉ muốn đưa ra những
chính sách đại cương, và cử cố vấn theo dõi việc thực hành của giai tầng trung
gian bản xứ. Bởi thế, người Pháp và rồi anh em ông Diệm được chính phủ
Dwight D. “Ike” Eisenhower (1953-1961) cho hưởng những quyền hành rộng rãi
trong khi thực thi chiến lược hoàn cầu chống Cộng và ngăn chặn sự bành trướng ảnh
hưởng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam á. Nhưng cơ quan tuyên truyền của Mỹ,
do nhu cầu chính trị, tô hồng chuốt lục cho ông Diệm thành Chí Sĩ, lãnh tụ,
“bao năm từng lê gót quê người” nên ông Diệm ngỡ tưởng mình quả thực là Chí Sĩ,
lãnh tụ vĩ đại—quên đi cái dĩ vãng của một gia đình ba thế hệ trung gian bản xứ
phục vụ quân xâm lược Pháp từ buổi đầu cho tới phút chót; bản thân từng man
khai lý lịch để làm quan cho Pháp càng sớm càng tốt (nếu tin được lời ông Ngô Đình
Luyện giải thích với tác giả); ngoài mặt “chống Pháp” mà bề trong thú nhận Bảo
hộ Pháp là “bát cơm dòng họ Ngô”; ngụy tạo thành tích “từ quan chống Pháp” mà
thực chất chỉ là cuộc tranh giành quyền lực với nhóm trung gian bản xứ khác,
đang lên, tiêu biểu bằng ông Phạm Quỳnh.(Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối
nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập [Houston: Văn Hóa, 1999-2000], tập III).
[Tôi vẫn nghĩ nếu
gọi ông Diệm là người yêu nước, phải tôn xưng ông Phạm Quỳnh làm nhà đại ái quốc.
Sự đóng góp của ông Phạm Quỳnh cho đất nước Việt Nam về giáo dục và văn học vượt
xa tội hợp tác với Pháp. Riêng gia đình họ Ngô, ngoài các tội hình sự của Ngô
Đình Khả, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, còn vi phạm
nhiều tội ác chống nhân quyền, mà chẳng có đóng góp gì ngoài hành động biến
Ki-tô giáo thành kẻ thù của các tôn giáo khác như Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài,
v.. v... trong một thời gian dài. (Xem, chẳng hạn, Nguyễn Mạnh Quang, Việt
Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, tái bản lần 1 (Houston: Văn Hóa, 2000).]
Nhưng từ năm
1957, chế độ Diệm bắt đầu bộc lộ nhược điểm căn bản của nó. Chống đối
nổi lên khắp nơi, trong mọi giai tầng xã hội. Cuộc ám sát hụt ông Diệm tại Hội
chợ Ban Mê Thuột năm 1957 mới chỉ là dấu hiệu tiên khởi. Trong khi đó, anh em
ông Diệm ngày thêm kiêu ngạo, tự cô lập với quần chúng, xa lánh dần cộng sự
viên cũ. Bất cứ một chống đối nào—dù chỉ trong khuôn khổ muốn chân thành hợp
tác—đều bị coi như nguy hiểm cho chế độ, và bị anh em ông Diệm-Nhu coi như chống
đối chính cá nhân mình. Trường hợp Y sĩ Trần Văn Đỗ (chú ruột Trần Thị Lệ Xuân,
vợ ông Nhu), Nguyễn Tăng Nguyên (người theo ông Diệm về nước năm 1954), Luật sư
Nguyễn Hữu Châu (anh rể Lệ Xuân), hay ông Vũ Văn Thái (Tổng Giám đốc Ngoại viện),
cựu Thủ hiến Trần Văn Lý, Luật sư Lê Quang Luật, Y sĩ Phạm Hữu Chương chỉ là
dăm thí dụ được nhiều người biết đến. Bản tuyên cáo tháng 4/1960 của 18 trí thức,
nhân sĩ (thường được biết như Tuyên cáo Caravelle; Gravel, I:316-21),
hay cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960 của nhóm Đại tá Nguyễn Chánh Thi cho thấy
sự bất mãn chế độ đã lan tràn từ giới trí thức thành thị tới hàng ngũ quân đội,
xương sống của chế độ.
Trong khi đó, Cộng
Sản Bắc Việt ngày một ưu thắng trong kế hoạch nhuộm đỏ miền Nam. Nguyên từ năm
1956, dưới áp lực của chiến dịch Diệt Cọng và Tố Cọng,
nhiều cán bộ Cộng Sản được gài lại miền Nam đã phải rút ra chiến khu, công khai
chống lại chế độ Diệm bằng vũ lực. Do nhu cầu sinh tồn, cán bộ Cộng Sản liên
kết với một số tàn quân giáo phái và Bình Xuyên—với sự trợ giúp của vài tổ chức
lưu vong ở Pháp như Trần Văn Hữu, Trần Đình Lan, Lê Văn Thu, Hồ Thông Minh, Phạm
Huy Cơ, v.. v...—dưới chiêu bài giải phóng miền Nam. Tới năm 1959, sau khi đã đồng
ý cắt đất cho Bắc Kinh để xin quân viện, Hồ Chí Minh và Lê Duẩn gửi quân xâm nhập
miền Nam. Khởi đầu là tái tổ chức căn cứ, rồi khủng bố, ám sát ở vùng nông thôn
hẻo lánh, sau đó tiến lên cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh.
[Năm 1958, 193 viên chức
hành chính và cảm tình viên bị VC giết hại; năm 1959, 239 nạn nhân; trong sáu
tháng đầu năm 1960, tổng số nạn nhân lên tới 780 người. Số người bị bắt cóc
tăng từ 236 người năm 1958, lên 344 người năm 1959, và 282 người trong 6 tháng
đầu năm 1960. (FRUS, 1958-1960, I:539n5). Nhưng nhiều chuyên viên thế giới
vẫn khẳng quyết rằng cuộc chiến tại miền Nam là “nội chiến” giữa các phe phái đối
nghịch nhau].
Mùa Thu năm
1961—phần vì tình hình hỗn loạn ở Lào, quân CSBV chiếm cứ Tchépone; phần vì một
chuỗi thiệt hại về quân sự trong hai tháng 9-10/1961, đặc biệt là cuộc thất thủ
tỉnh ly Phước Thành ngày 18/9/1961 (khiến tỉnh trưởng bị bêu đầu, phó tỉnh trưởng
và 10 công chức khác thiệt mạng); tiếp nối bằng cái chết bí mật ngày 1/10/1961
của Đại tá Hoàng Thụy Năm, đại diện VNCH trong ổy Ban Quốc tế Kiểm soát Đình
chiến [ICC]—ông Diệm ban hành tình trạng “lâm nguy” (Luật 54/21 ngày
18/10/1961), tập trung mọi quyền hành còn sót lại vào dinh Độc Lập, biến cơ
quan dân cử và tư pháp thành vật trang sức cho chế độ.
Nhưng
tình hình chẳng khả quan hơn. Ngoài mặt trận, vào giữa năm 1962, an ninh đã ở mức
báo động đỏ. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam [MT/GPMN]
chính thức hoạt động từ khoảng mùa Xuân 1962, như một cánh tay chính trị ngoại
vi của Bắc Việt, để cuộc chiến có cái bề ngoài “nội chiến” mà các chuyên viên
thế giới ưa thích diễn tả.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 248-50) Trong nội bộ,
tin đồn đảo chính lưu truyền khắp nơi. Ngày 27/2/1962, hai phi công Phạm Phú Quốc
và Nguyễn Văn Cử đánh bom Dinh Độc Lập, nhưng không thành công trong việc tiêu
diệt họ Ngô.
Nguy hiểm hơn nữa là giao
tình giữa ông Diệm và Mỹ ngày một xấu đi. Những lời khen ngợi ông Diệm như “người
của phép lạ” đã lạnh tắt dư âm. Từ năm 1957-1958, viên chức Mỹ bắt đầu tố
cáo chế độ “Cảnh sát trị” [police state], cùng những vi phạm nhân quyền khác ở
miền Nam —những cáo buộc với chứng cớ quá hiển nhiên đến độ Lansdale phải vụng
về bào chữa: Đảng Cần Lao cũng như chế độ miền Nam là sản phẩm
của Mỹ; tự lúc khai sinh nó đã độc tài, cách nào trách nó không dân chủ! Trong
khi đó, anh em ông Diệm không còn hoàn toàn tin tưởng vào Mỹ nữa. Những lời chỉ
trích trên báo chí Tây phương, rồi đến lời bàn tán “Họ Ngô phải ra đi” [The
Ngos must go] của các viên chức Mỹ trẻ, và nhất là cuộc đảo chính hụt ngày
11/11/1960 khiến anh em ông Diệm hoài nghi sự ủng hộ của Mỹ. Chỉ một việc xin
đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào chiếm phi trường Tân Sơn Nhất để dẹp đảo chính
mà Đại sứ Elridge Durbrow cũng không chấp thuận. Lại còn áp lực hai bên phải
hòa giải, thương thuyết. Nên ông Diệm chẳng cần bận tâm đến công lao của
Durbrow và trưởng lưới CIA “Bill” Colby—ngăn chặn quân Nhảy Dù đánh thẳng vào
Dinh Độc Lập, hay pháo của phe đảo chính nã vào Dinh Độc Lập và thành Cộng
Hòa—mà chúi mũi dùi vào những nhân vật như Miller, Carver, v.. v... bên cạnh
nhóm đảo chính. Họ Ngô công khai tuyên bố “có bàn tay lông lá” phía sau cuộc đảo
chính trên. (Theo tin đồn của chế độ Diệm, Luật sư Hoàng Cơ Thụy được Mỹ cho
vào bao đựng văn thư đưa trốn khỏi nước)
Thực ra, từ năm 1959 người
Mỹ mới bắt đầu chú ý nhiều hơn đến Việt Nam. Một trong những lý do là tình hình
Lào ngày thêm rối loạn. Trong khi đó, Hà Nội công khai tuyên bố chủ trương “thống
nhất đất nước” bằng võ lực. Dẫu vậy, phải tới thời Kennedy, Mỹ mới bắt đầu leo
thang sự can thiệp. Chiến lược hoàn cầu của Kennedy phần nào thay đổi so với
chính sách của người tiền nhiệm: Kennedy muốn giành lại ưu thế về quân sự,
chính trị và ngoại giao với Liên Sô Nga sau các biến cố phi thuyền Sputnik, phi
cơ thám thính U-2, hay Cuba. Kennedy quyết định đương đầu với sách lược “chiến
tranh giải phóng quốc gia” của điện Krem-li bằng mọi giá. Xương sống của chủ
thuyết Kennedy là kế hoạch chống phản loạn (Counter-Insurgency Plan, viết
tắt là CIP; thường được các tác giả Cộng Sản gọi là chiến tranh đặc biệt).
Trước viễn ảnh
suy sụp của chế độ Diệm-Nhu, chính phủ Kennedy bỏ chính sách cơ mi cũ, muốn can
thiệp mạnh hơn. Chưa làm lễ nhiệm chức, Kennedy đã phái Tướng Lansdale qua Sài
Gòn từ ngày 2 tới 14/1/1961 để dò xét tâm ý ông Diệm hầu thiết lập một kế hoạch
riêng cho Việt Nam. Tiếp đó là các chuyến viếng thăm của Phó Tổng thống Lyndon
B. Johnson, Tướng Maxwell D. Taylor, kinh tế gia Eugene E. Staley. Ngày
22/11/1961, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia [HĐ/ANQG] Mỹ phê chuẩn Nghị quyết NSAM
111 về Việt Nam. Nghị quyết mang tên “Giai đoạn đầu của Kế hoạch Việt Nam” này
dựa trên tờ trình của Bộ trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara và Ngoại trưởng
Dean Rusk ngày 11/11/1961—chỉ gạch bỏ lời cam đoan rằng Mỹ sẽ can thiệp cho tới
chiến thắng cuối cùng. Mỹ quyết định sẽ giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cuộc nổi
dạy của “Việt Cộng” bằng mọi cách, ngoại trừ việc đưa quân chiến đấu
vào đây. Kế hoạch này gồm nhiều điểm, từ quân sự tới kinh tế, chính trị, và
bình định. Về quân sự, Mỹ sẽ tăng cường số cố vấn, thử nghiệm những kỹ thuật
chiến tranh mới (như trực thăng vận, thiết vận xa, thuốc khai quang), v.. v...
Sau đó sẽ nghiên cứu việc đưa quân chiến đấu vào miền Nam, nếu cần.
[Tháng 9/1963,
Ngoại trưởng Rusk vẫn khẳng định Mỹ không muốn đưa quân chiến đấu vào miền Nam
để tránh rơi vào tình trạng tương tự như Pháp trước đó, dù Mỹ cũng không muốn bỏ
rơi miền Nam.(FRUS, 1961-1963, IV:185)]
Về phương diện hành chính
và chính trị, Mỹ ra sức khuyến khích ông Diệm thay đổi lề lối cai trị, cho phép
những người ngoài đảng Cần Lao tham gia sinh hoạt chính trị để
tạo thế đoàn kết quốc gia.
Về phương diện
quân sự, ông Diệm rất vui vẻ đón nhận quân viện và chính sách mới của
Mỹ. Chẳng hạn như từ ngày 15/6/1961, ông Diệm luôn thúc dục Mỹ phải thực hiện
càng sớm càng tốt việc sử dụng thuốc khai quang để phá hoại mùa màng trong mật
khu Việt Cộng. Chỉ có hai trở ngại là vấn đề lập một Bộ Tư lệnh hỗn hợp Mỹ-Việt
(sau Mỹ bỏ qua); và vấn đề cho quân đội được quyền tự trị.
Về phương diện
chính trị, anh em ông Diệm-Nhu cương quyết chống việc mở rộng chính phủ. Thái độ
ông Diệm với cố vấn dân sự Mỹ ở các tỉnh cũng rất lạnh nhạt (như không cho cố vấn
ở chung với Tỉnh trưởng; ngầm khuyến khích bất hợp tác).
Về phương diện
bình định nông thôn—một lãnh vực ông Diệm không mấy chú tâm trước
năm 1960—ông Nhu đưa ra hai kế hoạch Khu Trù Mật và ấp Chiến lược. Tự hào đây
là quốc sách cứu vãn miền Nam, anh em ông Diệm-Nhu thường không hài lòng khi thấy
báo chí Mỹ chỉ trích chiến lược này nói riêng, và chế độ độc tài, gia đình trị
của họ Ngô nói chung. (Báo chí và chuyên viên về Việt Nam thỉnh thoảng nhắc đến
hai tiếng “giáo phiệt Ki-tô”—tức dùng thiểu số Ki-tô cai trị một quốc gia đại
đa số dân chúng không theo đạo này)
(4) “Phiến Cộng”
trong Dinh Gia Long:
Đáng ngại hơn nữa,
và đây là thảm kịch của họ Ngô nói riêng, toàn dân quân miền Nam nói chung, qua
kế hoạch “chiêu hồi,” anh em ông Diệm bị lôi cuốn dần vào cái bẫy sập “hòa
bình, thống nhất, trung lập” của Hà Nội, với sự cổ võ của chính phủ Charles de
Gaulle. Bẫy sập này bắt đầu mở ra trước hoặc sau bài chúc Tết của Hồ Chí Minh
vào dịp đầu năm 1962—Hồ ngỏ ý mong mỏi thương thuyết “để hòa bình thống nhất Tổ
quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ [Geneva,
20-21/7/1954] qui định.” (Báo cáo số 41/AS, Roger Lalouette gửi Couve de
Murville; AMAE [Paris], CLV, SVN, hộp 91; Nhân Dân, 1/1/1962; Hồ Chí
Minh Toàn Tập, 1989, 9:272) Vì thế, có tin ông Hồ đã gửi cho ông Diệm một
chậu đào “vui Xuân” Nhâm Dần (1962)—chậu đào rồi sẽ tưới bằng máu họ Ngô.
[Theo Tướng Đỗ Mậu, ông Diệm
khoe chậu đào này do bà con ngoài Bắc gửi tặng. Một nhân chứng khác, ông Cao
Xuân Vỹ, cho rằng Hồ gửi chậu đào trên vào dịp Tết Quí Mão, 1963]
Trọn năm 1962
và đầu năm 1963, Hà Nội tiếp tục tung ra những màn hỏa mù ngoại giao “hòa bình,
thống nhất trên cơ sở Hiệp định Geneva,” qua bài viết của Thiếu tướng Nguyễn
Văn Vịnh, chuyến viếng thăm India của Y sĩ Phạm Ngọc Thạch, và đặc biệt, những
cuộc tiếp xúc bí mật với anh em ông Diệm-Nhu. Vào tháng 5/1963, trong bài phỏng
vấn của Alfred Burchett trên tờ báo chuyên về ngoại giao của Liên Sô Nga, New
Times [Tân Thời Báo], Hồ còn lập lại đề nghị này như để khuyến khích họ
Ngô.
Đại sứ Pháp
Roger Lalouette—qua thư riêng của ông Diệm xin Paris cứu nguy vào mùa Thu 1961,
và kế hoạch “trung lập hóa” Đông Dương của Tổng thống de Gaulle—đã hướng dẫn
anh em ông Diệm lạc dần khỏi vòng quĩ đạo che chở và dung dưỡng của Mỹ. Giáo
hoàng John XXIII (1958-1963), người từng trao đổi quà tặng với Nikita Khruschev
nhân dịp Giáng Sinh, cũng ít nhiều tiếp tay anh em ông Diệm-Nhu trong việc “ve
vãn” [flirting] Cộng Sản này (với niềm tin rằng Hồ Chí Minh chủ hòa, và
Trung Cộng chủ chiến). Ngoài ra, cũng cần đề cập đến không khí hòa hoãn đặc biệt
giữa Mỹ và Nga vào cuối năm 1962, đầu năm 1963. Tháng 12/1962, Khruschev đề nghị
hai siêu cường nên hạn chế cuộc chạy đua vũ trang nguyên tử. Ngày 10/6/1963,
Kennedy đáp ứng bằng bài diễn văn tại Đại học American ở Kentucky, kêu gọi tiến
về một nền hòa bình thế giới. Khruschev hết lời ca ngợi, và ngay sau đó, đại diện
Mỹ, Bri-tên cùng Nga bắt đầu thương thuyết về vấn đề hạn chế thí nghiệm bom
nguyên tử. Ngày 5/8/1963, Hiệp ước ngưng thí nghiệm nguyên tử trên không gian,
trong khí quyển và dưới nước ký tại Mat-scơ-va.
Chính ông Nhu
không dấu diếm người Mỹ những cuộc tiếp xúc bí mật với cán bộ Cộng Sản trong
khuôn khổ quốc sách “chiêu hồi” (như ý định xin về hàng của một Đại tá Cộng Sản
và 3 tiểu đoàn ở Lào). Có lần, ông Nhu đã kiêu hãnh chỉ vào chiếc ghế trước mặt,
khoe với viên chức tình báo Mỹ rằng một cán bộ cao cấp Việt Cộng vừa ngồi ở đó.
[Cho tới nay vẫn chưa có
tài liệu rõ ràng về những đầu mối bản xứ giúp ông Nhu ve vãn Việt Cộng. Có người
cho rằng Mã Tuyên, một lãnh tụ Hoa kiều ở Chợ Lớn, là đầu mối quan trọng. Lại
có tin Albert Phạm Ngọc Thuần [sau đổi thành Thảo], cựu Giám đốc Mật vụ của Ủy
Ban Hành Chính Kháng chiến Nam Bộ (1947-1949), và lúc đó giữ chức Thanh tra ấp
Chiến lược, với cấp Trung tá, là đầu mối khác. Ngoài ra, phải kể Vũ Ngọc Nhạ của
cụm tình báo chiến lược A-22, và các ổ trí vận ở Sài Gòn dưới quyền Trần Bạch Đằng,
kể cả em gái Bộ trưởng Trần Lê Quang, v.. v...]
Đây có lẽ là lỗi
lầm chiến lược lớn nhất của anh em ông Diệm. Sở dĩ ông Diệm được đưa về làm Thủ
tướng vào tháng 6/1954, hay viện trợ và ảnh hưởng chính trị Mỹ giúp khai sinh
và dung dưỡng chế độ Việt Nam Cộng Hòa suốt hơn 8 năm sau Hiệp định Geneva, không
nhắm mục đích cho ông Nhu bắt tay với Cộng Sản Hà Nội, hoặc, theo lời Ngoại trưởng
Rusk, không để bà Nhu “vỗ tay reo hò” khuyến khích việc “nướng thịt sư.” Dù Đại
sứ Frederick E. Nolting và Trưởng lưới Tình báo Trung ương (CIA) tại Sài Gòn,
John H. Richardson, ngoảnh mặt làm ngơ—với hy vọng ông Nhu không bán đứng miền
Nam cho Hồ—nhiều viên chức ở Oat-shinh-tân không dấu bất bình. Họ lo ngại rằng
một ngày nào đó vợ chồng ông Nhu, mà ảnh hưởng đang khiến ông Diệm lu mờ dần, sẽ
đòi hỏi Mỹ triệt thoái khỏi miền Nam, thành lập một chính phủ liên hiệp với Hà
Nội hay MT/GPMN. Hai viên chức ngoại giao có tiếng nói mạnh nhất là W. Averell
Harriman và George W. Ball của Bộ Ngoại Giao, từng nổi danh về lập trường chống
Cộng. Họ nỗ lực vận động bắt vợ chồng ông Nhu cùng Tổng Giám mục Thục rời nước.
(5) Thái độ giới
truyền thông Mỹ:
Trong khi đó một
nhóm ký giả trẻ như Neil Sheehan, Malcom Brown, David Halberstam, v.. v... được
Trung tá Paul Vann, cùng viên chức trong Dinh Gia Long (Trần Kim Tuyến, Nguyễn
Đình Thuần), và cán bộ tình báo chiến lược Bắc Việt (như Vũ Ngọc Nhạ, Pham
Xuân ẩn) cung cấp tin tức mật—do những lý do và mục đích khác nhau—tìm cách
trình bày chiến cuộc ở miền Nam và gia đình họ Ngô dưới những góc cạnh bi quan
nhất. Sợi giây xuyên suốt qua những bài tường thuật của họ là trận chiến đang
thua và Mỹ không thể thắng trận với anh em họ Ngô. Theo họ, Nam Việt Nam đang
trở thành một thứ “bãi lầy” hay “cát lún,” nghĩa địa của uy tín và danh dự của
siêu cường Mỹ. (“Chiến thắng” Ấp Bắc vào đầu năm 1963 chỉ là một thí dụ) Qua
những cuộc phỏng vấn Ngô Đình Nhu và nhất là Lệ Xuân, họ biến vợ chồng Nhu-Lệ
Xuân thành một thứ quái vật đen của chế độ. Vì không thích bị chỉ trích, họ Ngô
tìm đủ cách phản ứng. Từ áp lực Tòa Đại sứ Mỹ can thiệp, tới sử dụng tờ nhật
báo Mỹ ngữ ở Sài Gòn, Times of Vietnam [Việt Nam Thời Báo],
hay vài ký giả nổi danh như Margueritte Higgins, Joseph Alsop, v.. v... để trả
đũa. Rồi dần dần đến những biện pháp kiểm duyệt, trục xuất, và ngay cả bạo động.
(Xem David Halberstam, The Making of A Quagmire (New York:
Random House, 1965; Neil Sheehan, The Bright Shining Lie (New
York: Vintage Books, 1988), tr. 269-371)
(6) Ông Diệm mất dần
bạn cũ:
Từ năm 1962, nếu
không phải sớm hơn, người Mỹ bắt đầu nghiên cứu một giải-pháp-khác-Diệm.(VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 256-8) Ngay những người thân cận cũ của ông Diệm trong nhóm
Bạn Mỹ của Việt Nam [American Friends of Vietnam] như Giáo sư Wesley
Fishel, Joseph Buttinger, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield (1903-2001), Lãnh tụ Khối
đa số Thượng viện, không dấu sự hoài nghi khả năng của anh em ông Diệm. Cuối
năm 1962, Mansfield còn yêu cầu Kennedy tái duyệt xét chính sách của Mỹ, tức
nghiên cứu việc rút khỏi miền Nam trước khi quá trễ. (Báo cáo ngày 18/12/1962, FRUS,
1961-1963, II:Tài liệu 330; VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 239-40,
268-9)
(7) Chiến dịch chống
Mỹ của Ngô Đình Nhu:
Như một phản ứng
dây chuyền, hai anh em ông Diệm-Nhu bèn vận hết sức lực tự cứu. Một mặt, ông
Nhu xúc tiến mạnh hơn việc móc nối Cộng Sản, qua trung gian của Pháp và Khâm sứ
Vatican Salvadore d’ Asta. Trong bóng tối, ông Nhu bí mật gặp Phạm Hùng, Phó Thủ
tướng đặc trách vấn đề thống nhất, ở vùng Bà Rịa.(William Colby, Lost
Victory, 1989, tr.103; Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật
Giáo, 1963-1967 [1994], tr. 50-3) Mặt khác, ông Nhu và vợ (Lệ Xuân) mở chiến
dịch bài Mỹ. Chua ngoa nhất, dĩ nhiên, là Lệ Xuân. Ngay Đại sứ Nolting—người
nhiệt thành ủng hộ ông Diệm—từng đe dọa sẽ rời khán đài danh dự trong Lễ Hai Bà
Trưng năm 1963, nếu Lệ Xuân đả kích Mansfield. Hoặc, từ chối lên Đà Lạt nghỉ
mát với Bà Nhu vào dịp cuối tuần vì những lời tuyên bố vô trách nhiệm của Phong
Trào Phụ Nữ Liên Đới do Lệ Xuân làm chủ tịch.
(8) Mùa Phật Đản đẫm
máu:
Tiếp đó, một
chuỗi biến cố trầm trọng xảy ra. Nẩy lửa nhất là cuộc nổi dạy của Phật giáo
trong dịp lễ Phật đản 8/5/1963. Khởi đi từ “khẩu lệnh” cấm treo cờ Phật giáo của
ông Diệm, cuộc chống đối của tăng ni, Phật tử và quyết định đàn áp của chế độ
đưa đến cuộc thảm sát man rợ trước đài phát thanh Huế (khiến 9 người thiệt mạng,
kể cả hai thiếu nhi—một thứ tội sát nhân (murder), vi phạm luật chiến
tranh (war crimes) và vi phạm nhân quyền (crimes against human rights)
mà Liên Hiệp Quốc lên án.
[Thoạt tiên ông Diệm biện bạch
với viên chức Mỹ rằng có bàn tay khủng bố của Cộng Sản ném lựu đạn.(Chính Đạo, VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 285, 286) Mãi đến chiều ngày 8/6/1963, ông Diệm mới chịu
nhìn nhận rằng cấp dưới đã báo cáo sai lạc là Cộng Sản ném lựu
đạn.(Ibid., tr. 293) Nhưng những người tưởng nhớ họ Ngô vẫn khăng khăng
rằng các nạn nhân đã chết vì một trái lựu đạn “bí mật” của Cộng Sản. Tác giả
Cao Thế Dung thì nói đến một trái mìn đặc biệt của nhân viên tình báo Mỹ Scott
nào đó.
Cho tới năm
2002, vài người còn nhắm mắt lại mà nguyền rủa quả lựu đạn hay trái mìn của “Cộng
Sản” hoặc “tình báo Mỹ” không hề hiện hữu trên!]
Dù biết và thú nhận thuộc hạ
báo cáo sai lạc, ông Diệm vẫn cho lệnh Đại tá Đỗ Cao Trí “tái lập trật tự” ở Huế,
và Đại tá Lâm Văn Phát “ổn định tình hình” ở Đà Nẵng. Sau đó, phong tướng cho Đại
tá Trí để thay Tướng Lê Văn Nghiêm chỉ huy vùng I. Thuộc hạ các ông Cẩn-Thục tự
do sử dụng cảnh sát, công an, mật vụ, Nhảy Dù, cảnh sát, xe tăng, khói độc (blister
gas) và quân khuyển để đàn áp biểu tình. Họ bắt giữ bừa bãi (arbitrary
detention) và tra tấn (torture) hàng ngàn người vô tội theo phương cách
Trung cổ.
Tại Sài Gòn,
các lãnh tụ Phật giáo nổi danh chống Cộng như Thượng tọa Thích Tâm Châu, Thích
Quảng Độ đều đứng lên bảo vệ Phật giáo. Điều khiến đại đa số thầm lặng và ngay
cả người thân cận với ông Diệm xa lánh dần chế độ là phe tranh đấu Phật giáo chỉ
đưa ra những nguyện vọng rất ôn hòa—bình đẳng tôn giáo và hủy bỏ Dụ số 10 đặt
Ki-tô giáo lên hàng tôn giáo duy nhất được công nhận.(Phỏng vấn điện thoại ông
Đỗ Mậu, 1/2002)
Không muốn làm
mất vui ngày lễ mừng 25 năm thụ phong Giám mục (Tae Deum) của ông Thục
(từ 25 tới 27/6/1963), ông Diệm lại ra tay “tái lập trật tự” theo đúng phương
cách ở miền Trung. Dùi cui, vòi rồng, khói ngạt, quân khuyển, mật vụ, công an,
rồi đến Lực lượng Đặc biệt, Nhảy Dù. Thái độ cứng rắn của anh em ông Diệm-Nhu,
với nữ phát ngôn viên bán chính thức Lệ Xuân, đưa đến cuộc tự thiêu vì đạo pháp
của Thượng tọa Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963, mồi lửa đầu tiên thiêu hủy chế độ.
Rồi đến cuộc tự sát bằng thuốc độc của nhà văn Nhất Linh ngày 6/7/1963—để phản
đối thứ “cong lý” của chế độ, khi ông Diệm đưa nhóm liên hệ đến cuộc đảo
chính 11/11/1960 ra tòa xét xử hầu răn đe những người chống đối—cái chết đẩy giới
trí thức, học sinh, sinh viên nhập cuộc.
Nhưng đáng sợ
hơn là hậu quả của chính sách bàn tay sắt trên, tức sự bất mãn trong giới quân
đội và công chức. Ngay những người thân thiết với chế độ cũng xa lánh, hay tích
cực hơn, tìm cách tổ chức lật đổ họ Ngô. Quân đội có các Tướng Nguyễn Khánh, Trần
Thiện Khiêm, Trần Văn Đôn, Lê Văn Nghiêm, Phạm Xuân Chiểu, v.. v... Dân sự có Y
sĩ Trần Kim Tuyến (với sự yểm trợ của Thượng tọa Tâm Châu, Thiện Minh, Tổng
Giám mục Nguyễn Văn Bình). Ngoài ra, còn nhóm Ki-tô miền Nam, cựu Cần
Lao, của các ông Huỳnh Văn Lang, Phạm Ngọc Thảo, v.. v...
Như đổ dầu vào
lửa, suốt mùa Hè 1963, thái độ vợ chồng Nhu-Lệ Xuân thêm hung hăng, khiêu
khích. Hai vợ chồng Nhu công khai vu cáo cuộc tranh đấu của Phật giáo do “Cộng
Sản” chủ trương hay xúi dục (trong khi chính ông Nhu đang móc nối với Cộng Sản);
nhục mạ những cuộc tự thiêu là “nướng thịt sư”; v.. v... Ngày Thứ Năm, 1/8,
trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Mỹ CBS, Lệ Xuân tố cáo các lãnh tụ Phật
giáo đang âm mưu lật đổ chính phủ. Theo Lệ Xuân, tất cả những gì Phật tử đã làm
chỉ có "nướng thịt sư" (barbecue a bonze) với xăng nhập cảng. Hai
ngày sau, 3/8, trong lễ mãn khóa huấn luyện bán quân sự cho Thanh Nữ Cộng Hoà,
Lệ Xuân lên án Phật tử là phản loạn đang sử dụng các thủ thuật Cộng sản phá hoại
quốc gia. Đại sứ Trần Văn Chương, cha của Lệ Xuân, mượn đài V.O.A. [Đài Tiếng
nói Hoa Kỳ] lên án con gái là vô lễ và hỗn láo [impertinent
and disrespectful] trong buổi phát thanh ngày Thứ Ba, 6/8/1963. Lệ Xuân bèn
sai báo Times of Vietnam (số ra ngày Thứ Năm, 8/8/1963) phỏng
vấn để trả lời, khẳng định chỉ nói lên sự thực, và các lãnh tụ tranh đấu không
đại diện cho Phật giáo hay dân tộc Việt Nam.
Để trả lời Lệ
Xuân, ngày Chủ Nhật, 4/8, Đại Đức Nguyên Hương (Huỳnh Văn Lễ) tự thiêu trước
Dinh Tỉnh trưởng Phan Thiết. Sau đó Phật tử tranh đấu biểu tình đòi lại
xác. Hôm sau, 5/8, một tăng sĩ khác tự thiêu ở Sài-Gòn để đòi bình quyền tôn
giáo.
Ông Nhu ra sức bênh vực Lệ
Xuân. Khi Đại sứ Nolting than phiền, Nhu biện hộ rằng Lệ Xuân có quyền phát biểu
ý kiến riêng của một công dân. Cá nhân ông Nhu cũng tuyên bố với hãng thông tấn Reuters rằng
sẽ xuống tay với chùa Xá Lợi vì các tăng sĩ đang âm mưu đảo chính. Rồi đe dọa rằng
nếu không giải quyết được vấn đề Phật giáo, sẽ có một cuộc đảo chính chống Mỹ
và Phật giáo.(Ngày 5/8, New York Timesđăng lại tin này của
Reuters).
Lối chụp mũ “Cộng
Sản” và “âm mưu lật đổ chính quyền hợp pháp” này, được ông Diệm và Bộ trưởng Nội
vụ Bùi Văn Lương “làm phép lành,” không chỉ có tính cách mạ lỵ vu vơ như ở hải
ngoại hiện nay. Chúng mang sức mạnh của bạo lực man rợ hôn ám các ngục tù và cơ
quan cảnh sát, an ninh của chế độ: Đêm đêm, mật vụ lùng bắt học sinh, sinh
viên, cùng Phật tử, và đối xử với họ như những nghi can Cộng Sản khác. Nước
xà-phòng (còn gọi là sà-bông, do chữ savon) đổ vào cuống
họng, rồi cho đi “tàu ngầm,” “tàu bay;” quay điện vào tai, hay bộ phận sinh dục;
dùng đèn tụ quang hàng ngàn watts (oắt) chiếu vào mắt;
học sinh, sinh viên bị nhốt vào những phuy [fut] chứa
nước phơi giữa trời nắng, cho điều tra viên cầm dùi cui gõ bên ngoài. Và bất cứ
thứ đòn tra tấn dã man nào khác mà nha trảo chế độ có thể sáng chế ra. Hai chữ
“dã man” phải dùng vì không còn tĩnh từ nào đủ diễn tả cảnh người hành hạ người
như nha trảo chế độ Diệm khủng bố dân chúng miền Nam, chỉ vì quyết
tâm đòi hỏi tự do, dân chủ hay khác niềm tin tôn giáo. (Trong số thân hữu của
tôi có quí ông Phạm Mộng Chương, Vũ Văn Lê, Nguyễn Văn Năng, hiện đang cư ngụ tại
Houston, từng nếm mùi ngục tù và tra tấn của chế độ họ Ngô) Phần những lời đả
kích Mỹ của vợ chồng Nhu-Lệ Xuân—chẳng hiểu do muốn chứng minh với Bắc Việt
thành tâm hòa hợp, hòa giải, hay để trả đũa báo chí Mỹ—biến thành những chiếc
đinh, từng chiếc, từng chiếc, đóng dần lên quan tài của chế độ.
Ngày Thứ Năm,
8/8, báo New York Times đăng trên trang nhất bài của ký giả
David Halberstam, từ Sài-Gòn, với tựa "Bà Nhu Tố Cáo Mỹ Bắt Chẹt ở Việt
Nam" [Mrs. Nhu Denounces U.S. for "Blackmail" in Vietnam].
Theo Halberstam, Lệ Xuân tuyên bố rằng Tổng thống Diệm không có dân chúng ủng hộ,
phải dựa vào vợ chồng Nhu. Song song với bài trên có bài của Tad Szulc ở
Oat-shinh-tân, tiết lộ mối quan tâm ngày một gia tăng của chính phủ Kennedy về
việc chính phủ Diệm khó sống còn nếu không hòa hoãn với Phật giáo. Trong khi
đó, tuần báo Newsweek, số đề ngày 9/8/1963, đăng một bài đặc biệt về
“Rồng Cái” [Dragon Lady] Lệ Xuân.
Tại
Oat-shinh-tân, ngày 9/8, Michael Forrestal thuộc Ban Tham mưu HĐ/ANQG làm phiếu
trình lên Kennedy về thái độ của vợ chồng Nhu. Báo cáo này cũng nhắc đến việc
ba quốc gia Cao Miên, Ceylon [Sri Lanka ngày nay], Nepal đã đưa vấn đề Phật
giáo ra trước văn phòng Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc; và, Liên Hiệp Quốc có thể sẽ
họp Đại Hội Đồng để thảo luận.
Ngày 10/8,
Nolting gặp ông Diệm về Lệ Xuân. Khi ông Diệm lập lại lối biện hộ rằng Lệ Xuân
có quyền phát biểu ý kiến riêng, Nolting bảo thẳng Diệm rằng nếu không đích
thân giải quyết, ủng hộ Đại sứ Trần Văn Chương, và chấm dứt tình trạng “động
kinh” [schizophrenia] hiện tại, thì đừng trông đợi sẽ duy trì được liên
hệ tốt với chính phủ Mỹ. Ông Diệm đành hứa là sẽ cứu xét các biện pháp đối với
Lệ Xuân, và đã nghĩ đến việc cho Lệ Xuân "nghỉ." Trong báo cáo về
Oat-shinh-tân, Nolting đề nghị cho Lệ Xuân đi "nghỉ dài hạn" vì vượt
ngoài sự kiểm soát của cha mẹ và anh chồng. Tổng Giám Mục Thục cũng được thăng
cấp [về Vatican]. Phó Tổng thống Thơ, Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần, Ngoại trưởng
Vũ Văn Mẫu, Bửu Hội, và chính Ngô Đình Nhu đều đồng ý.(FRUS, 1961-1963,
III:560-1)
Ngày Thứ Hai,
12/8—sau khi được chỉ thị phải áp lực ông Diệm tái xác định chủ trương hòa hoãn
với Phật Giáo (FRUS, 1961-1963, III:537-8)—Nolting lại gặp ông Diệm. Vì
họ Ngô đã có quyết tâm từ sau buổi họp mật tại Huế vào cuối tháng 6/1963, ông
Diệm trút tội cho các tăng ni thiếu thành thực, và trách thế giới không biết đến
việc các sư giả muốn lật đổ chế độ.
[“Sư giả” là sáng chế của họ
Ngô—mùa Hè 1963, người ta thấy xuất hiện trên đường phố, rạp hát, tiệm ăn nhiều
thanh niên cạo đầu trọc, mặc áo tu sĩ Phật Giáo, chửi thề, ăn nói tục tĩu. Ai
cũng biết đây là sáng kiến của nha trảo họ Ngô].
Ông Diệm cũng
phủ nhận nguồn tin mật mà Bộ trưởng Thuần tiết lộ với viên chức Mỹ tối hôm trước
là Lệ Xuân cùng em ruột, Trần Văn Khiêm, với sự quay mặt làm ngơ của Nhu, đang
tổ chức một toán cảnh sát đặc biệt để bắt cóc đối thủ. (ít tuần sau, Khiêm khoe
với một ký giả Aus-tra-li-a [Australia] danh sách những người cần bị tiêu diệt)
Nhưng vì
Nolting sắp hết nhiệm kỳ, ông Diệm hứa sẽ cho Nolting biết quyết định vào tối
đó, khi gặp nhau tại dạ tiệc tiễn biệt—lời hứa ông Diệm không giữ. Câu trả
lời đích thực của ông Diệm được Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phát biểu trong
buổi họp báo ngày hôm sau, 13/8. Ông Thơ tuyên bố sẽ truy tố một số người tham
dự biểu tình ngày 8/5/1963; và những người bị bắt sau ngày ra Tuyên cáo chung
16/6/1963 có thể không được khoan hồng. Trong phần hỏi đáp, ông Thơ so
sánh trường hợp Lệ Xuân với những lời chỉ trích chính phủ VNCH của TNS
Mansfield. Ngày này, như để trả lời ông Thơ, Đại đức Thanh Tuệ, 17 tuổi, tự
thiêu tại chùa Phước Duyên.
Bạch Cung và Bộ
Ngoại Giao Mỹ không dấu được bực dọc. Trong công điện ngày 13/8 gửi Nolting, Bộ
Ngoại Giao Mỹ cho rằng buổi họp báo của Thơ khó thể kết luận là "hoà
hoãn." Và đặt câu hỏi liệu ông Diệm có chịu đi nghỉ mát chung với vợ
chồng Nhu một thời gian, để Phó Tổng thống Thơ làm Quyền Tổng thống, và ông Ngô
Đình Luyện làm cố vấn hay Thủ tướng?(FRUS, 1961-1963, III:564-5)
Trọn ngày Thứ
Tư, 14/8, Nolting cố thuyết phục, nhưng ông Diệm quyết không chịu ra thêm một bản
tuyên bố nào về chính sách hòa hoãn với Phật Giáo. Khi vào chào từ biệt lúc
11G00, Nolting chỉ được nghe ông Diệm ca ngợi công lao ông Nhu đóng góp vào quốc
sách chống Cộng. Tới phút chót, sau khi Nolting lại đe rằng liên hệ giữa Mỹ
và VNCH sẽ bị tổn thương nếu Diệm không tuyên bố rõ ràng ai đang thực sự cai trị
miền Nam, cải thiện dư luận về những lời tuyên bố của Lệ Xuân, ông Diệm mới hứa
sẽ ra tuyên cáo trước khi Nolting rời Sài Gòn.(FRUS, 1961-1963,
III:565-6)
“Tuyên cáo” của
ông Diệm thực ra là bài phỏng vấn của Marguerite Higgins đăng trên The
New York Herald Tribune ngày 15/8. Ông Diệm tuyên bố vẫn theo chính
sách ôn hoà với Phật giáo, và ngầm đả kích những lời tuyên bố lỗ mãng của vợ
Nhu. Ông Diệm và gia đình cũng rất vui lòng về việc bổ nhiệm tân Đại sứ
Henri Cabot-Lodge. Nhưng đây chỉ là món quà chia tay với Nolting, và để trấn an
dư luận Mỹ. Các viên chức Mỹ không thỏa mãn với thứ “Tuyên ngôn” qua phỏng vấn
báo chí này: Nó không những bán chính thức mà Diệm có thể phủ nhận hay cải
chính bất cứ lúc nào.
Trong khi đó,
phong trào tranh đấu của Phật Giáo ngày một lớn mạnh. Tại Huế, ngày Thứ Tư,
14/8, một thợ mộc Phật tử phụ trách việc treo biểu ngữ và cờ bị bắn chết. Hôm
sau, 15/8, ni cô Diệu Quang tự thiêu tại chùa Ninh Hoà. Sinh viên Huế cũng bắt
đầu xao động. Từ giữa tháng 8/1963, họ công khai chống đối việc thay thế Viện
trưởng Đại học Huế Linh mục Cao Văn Luận bằng Giáo sư Nguyễn Hữu Thế.
Giọt nước làm tràn ly, và cũng
chiếc đinh đầu tiên đóng lên nắp quan tài VNCH, là cuộc tấn công hầu hết các
chùa chiền trên toàn quốc vào nửa đêm ngày 20, rạng ngày 21/8/1963.
Đây là một tội
ác vi phạm nhân quyền khác, nặng nề gấp trăm lần cách dùng đèn cầy [nến] đốt hậu
môn tù nhân mà có nhân chứng tiết lộ rằng Tri huyện Ngô Đình Diệm sính dùng để
khảo cung nghi can ngày còn làm quan cho Pháp hơn 30 năm trước. Cuộc tấn công
này và những thủ thuật bưng bít, xuyên tạc của anh em ông Diệm-Nhu trong những
ngày kế tiếp—như ông Diệm cả quyết rằng chỉ lục soát vài chục ngôi chùa lớn
trong số 4,700 chùa khắp miền Nam—gỡ xuống chiếc mặt nạ “tiết trực tâm hư”
của ông Diệm, và gột sạch bất cứ thiện cảm nào còn sót lại với ông ta trong đám
đông thầm lặng cũng như viên chức Mỹ.
Cho đến nay, vẫn
còn người cố tình xuyên tạc về biến cố tấn công các chùa chiền đêm 20 rạng
21/8. Bởi thế tưởng nên thuật lại tóm lược biến cố trên.
(9) Cuộc tảo thanh
chùa chiền:
Ý định tấn
công các chùa chiền và ban hành thiết quân luật từ nửa đêm ngày 20/8 không được
giữ bí mật hoàn toàn như người ta thường nghĩ. Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần đã
cho nhân viên Tòa Đại sứ Mỹ biết về Thiết quân luật trước nhiều giờ.(FRUS,
1961-1963, III:595n2) Một ký giả Mỹ cũng tự nhận được “mật báo” từ một viên
chức nào đó tại Dinh Gia Long, nên đã tới chùa Xá Lợi trước
khi xảy ra cuộc tấn công. Và, thực ra, từ hơn nửa tháng trước, đích thân ông
Nhu đã răn đe trong cuộc phỏng vấn của hãng thông tấn Reuters là sẽ phá tan
chùa Xá Lợi, nhưng khi bị Nolting chất vấn đã qui trách cho ký giả
Mỹ dẫn không đúng lời mình.
Người đưa ra đề
nghị thiết quân luật là các Tướng, do André Đôn cầm đầu. Nhưng không hiểu các
Tướng có biết đến kế hoạch mật của ông Nhu. Người được giao trách nhiệm tổng
quát ở Sài Gòn là Trung tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân Đoàn III, kiêm Tổng
trấn thủ đô. Đại tá Lê Quang Tung chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt, và
Nguyễn Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô thành, chỉ huy Cảnh sát mặc giả quân phục.
Tại chùa Xá Lợi (Sài-gòn), cuộc tấn công khởi sự vào khoảng 1
giờ sáng. Binh sĩ LLĐB và Cảnh Sát sử dụng cả lựu đạn khi lục
soát. Hòa thượng Tịnh Khiết và Thượng tọa Tâm Châu cùng Ủy ban Liên
Phái Bảo Vệ Phật Giáo đều bị bắt. Hơn 30 người bị thương. Chỉ có hai
tăng sĩ chạy được qua cơ quan USOM, gần chùa Xá Lợi xin tị nạn (Thượng tọa Trí
Quang xin tị nạn vài ngày sau). Mặc dù các giới chức Việt Nam áp lực phải trao
trả hai tăng sĩ trên, nhưng XLTV Đại sứ Trueheart từ chối. Ông Nhu bèn cho lệnh
đặt kẽm gai cô lập cơ sở USOM, ngoại bất nhập, nội bất xuất. (Gravel,
II:210; Tâm Châu 1994:19;FRUS, 1961-1963, III:595-7; Xem
thêm Phạm Trọng Nhân, "Cuốn sổ tay của một nhân viên ngoại giao nhân vụ
tấn công chùa Xá Lợi;" Bách Khoa, số 169 (15/1/1964), tr.
31-43, và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31).
Chỉ riêng tại
Sài-gòn, 2,000 tăng ni Phật tử bị bắt. Ngoại trừ Hòa thượng Tịnh Khiết được
phóng thích ngay, hầu hết các lãnh tụ tăng ni tranh đấu đều bị giam giữ. Nhiều
người bị tạm giam trên những sà-lan nổi trên sông Sài-gòn. (Giống như chế độ
Decoux giam giữ tù binh Cộng Sản trong cuộc nổi dạy ở miền Nam vào tháng
11/1940)
Tại Huế, khoảng
3 giờ đêm tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kêu cứu vang lên khắp nơi. Đồng bào
quanh chùa đánh mõ, gõ thùng thiếc báo nguy. Đợt tấn công đầu, Cảnh sát
Dã chiến bị đẩy lui. Sau đó, Đỗ Cao Trí cho lệnh nổ súng. Giáo sư,
sinh viên và học sinh tranh đấu trong vụ cách chức Linh mục Viện trưởng Cao Văn
Luận trong hai ngày 17-18/8 cũng bị bắt giữ tại tư gia.
Theo Đại sứ
Pháp, người có mặt bên ông Nhu suốt thời gian tấn công chùa chiền, viên chức Việt
còn bỏ vũ khí, truyền đơn vào các chùa để vu cáo Phật giáo âm mưu lật đổ chính
phủ. Anh em ông Diệm-Nhu cũng cắt hết điện thoại của các cơ quan Mỹ hầu mong
bưng bít sự thực. Các phi vụ bị tạm ngưng. Báo chí bị kiểm duyệt gắt gao.(CLV,
SV, 17:28; FRUS, 1961-1963, III:598-9)
Ngày 6/9, ông
Nhu biện bạch với một viên chức CIA Mỹ rằng ngày 8/5 đang đi nghỉ mát với gia
đình. Nhu cũng không liên quan gì đến việc ban hành thiết quân luật hay tấn
công chùa chiền. Tối ngày 18/8, các Tướng đã yêu cầu Diệm ban hành thiết quân
luật. Ngày 19 hay 20/8, Đỗ Cao Trí cũng vào gặp Nhu trình bày một kế hoạch tấn
công các chùa và danh sách những người cần bắt mà Trí đã chuẩn bị từ một tháng
trước. Nhu chỉ là con dê tế thần trong cuộc khủng hoảng này. Từ sau ngày 21/8,
Nhu vẫn theo đuổi chính sách hòa hoãn. Nhân viên CIA có cảm tưởng Nhu dấu diếm
sự thực [deception]. (FRUS, 1961-1963, IV, Tài liệu 69)
Để che đậy cho
tội ác có thể bị truy tố ra trước Tòa Hình sự Quốc tế này, trong buổi họp chính
phủ đặc biệt vào 5 giờ rưỡi sáng ngày 21/8, ông Diệm hoàn toàn im lặng về cuộc
đánh chùa, bắt tăng ni, mà chỉ nói nhiều đơn vị Cộng Sản đang xâm nhập một số tỉnh
lﬠquận lần thủ đô nên phải thiết quân luật để tảo thanh theo điều 44
Hiến pháp. Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ phản đối
nhưng không kết quả.
Đúng 6G00 sáng,
Tổng thống Diệm chính thức tuyên bố thiết quân luật qua đài phát thanh. Đồng thời
tiết lộ vì Tướng Lê Văn Tị bệnh nặng đã cử Trung tướng Trần Văn Đôn làm Quyền
Tổng Tham Mưu Trưởng, và Tướng Tôn Thất Đính được phong làm Tổng trấn. Sau
đó, ra lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng.(AFP) Đài phát thanh quân đội
cũng đọc một nhật lệnh dài của ông Nhu, kêu gọi Thanh Niên Cộng Hòa phải ủng hộ
chính quyền.
Ngay trong ngày
21/8, Tướng Đôn báo cáo qua điện thoại với Tướng Harkins rằng chính ông Diệm ra
lệnh Thiết quân luật để chống lại Phật giáo. Hiện mới chỉ sử dụng một tiểu
đoàn Dù, 1 tiểu đoàn TQLC, và quân cảnh ở Sài-gòn. Tuy nhiên, các đơn vị ven đô
đều đặt trong tình trạng báo động. Thiết giáp cũng xuất hiện trên đường phố
Sài-gòn, Chợ-lớn và Huế.
Cuộc tổng tấn
công chùa chiền xảy ra khi Đại sứ Henri Cabot-Lodge mới từ Honolulu qua Tokyo,
và dự định ghé thăm Hong kong ít ngày, trước khi tới Sài Gòn để trình ủy nhiệm
thư vào ngày 26/8. Oat-shinh-tân vội gửi một chuyến phi cơ quân sự đặc biệt cho
Lodge tới ngay Sài Gòn. Khoảng 21G30 ngày 22/8, Lodge mới có mặt tại thủ đô miền
Nam.
Đại sứ
Cabot-Lodge là một lãnh tụ quan trọng của Đảng Cộng Hòa Mỹ. Năm 1960, Lodge từng
đứng chung liên danh với Richard M. Nixon, nhưng bị liên danh Kennedy-Johnson của
đảng Dân Chủ đả bại khít khao. Từ tháng 6/1963, khi
Oat-shinh-tân hỏi ý kiến về việc đề cử Lodge, ông Diệm không phản đối, nhưng
không dấu sự bất mãn và lo ngại. Ông Nhu mỉa mai Lodge là Toàn quyền [Gouverneur
General], trong khi ông Diệm tuyên bố dù có gửi 10 Lodge qua Việt Nam, Mỹ vẫn
phải huấn luyện người bắn pháo binh vào Dinh Gia Long.
Trong buổi tiếp
kiến Kennedy vào trưa ngày 15/8, Cabot-Lodge có cảm tưởng rằng Kennedy đặc biệt
lo ngại về tình hình Việt Nam, và hàm ý rằng chế độ Diệm đang đi vào đoạn kết.
Cuộc tấn công chùa chiền ngày 21/8 đặt Lodge trước một việc đã rồi. Một cái tát
xiếc, như một ký giả Mỹ nhận định, nếu xét kỹ những áp lực và đòi hỏi “hòa hoãn
với Phật giáo” của Oat-shinh-tân.
Ngay trong ngày
23/4, Cabot-Lodge cho nhân viên đi tiếp xúc hầu hết các nhân vật cao cấp Việt để
có được một hình ảnh rõ ràng về tình hình. Lodge còn mời các ký giả Mỹ tới tham
khảo hầu cải thiện liên hệ giữa Tòa Đại sứ với các ký giả. Không kém quan trọng,
Lodge cho người đi tháo gỡ dây kẽm gai mà Cảnh sát giăng kín trụ sở USOM, đích
thân tiếp xúc hai nhà sư xin tị nạn, và gặp đại diện nhóm Caravelle.Lodge
còn tiếp xúc với Đại sứ Italia Giovanni d’Orlandi và Khâm sứ Vatican Salvadore
d’Asta. Chỉ trong vòng 24 giờ, Lodge đã nắm vững được tình hình. Trước hết,
quân đội không dính líu gì đến cuộc tấn công chùa chiền, và nhóm Tướng Dương
Văn Minh, André Đôn, Lê Văn Kim muốn làm đảo chính.
Hai biến cố
khác chấn động dư luận là việc Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đột ngột từ chức chiều
ngày 22/8, và cạo đầu phản đối chính sách đàn áp Phật giáo. Hôm sau, ông Diệm
không chấp thuận cho ông Mẫu từ chức, chỉ cho nghỉ dài hạn ba tháng, qua Nepal
hành hương. Ngày Thứ Bảy, 24/8, ông Mẫu tới đại học Luật khoa nói chuyện với
sinh viên, và trước khi ra về hẹn sẽ gặp lại vào ngày hôm sau. Nhưng từ
ngày này, ông Mẫu bị giam lỏng tại gia. Hai ngày sau, 26/8, trên đường ra phi
trường để qua India, ông Mẫu bị Tướng Tôn Thất Đính cản lại tịch thu thông hành
theo lệnh của ông Diệm. (Nhân 1964 a:39) Mãi tới ngày 29/8,
ông Mẫu mới được rời nước.
Biến cố thứ hai
là ngày 23/8 sinh viên Y-Dược Sài Gòn xuống đường ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật
tử và sinh viên, giáo chức tại miền Trung. Việc sinh viên Y-Dược, được coi là cốt
cán của chế độ và những thành phần bảo thủ nhất trong xã hội, nghiêng về phe Phật
Giáo cho thấy uy tín chế độ đã suy tàn. Anh em ông Diệm-Nhu tìm cách vuốt ve,
nhưng không thành công. Sáng Chủ Nhật 25/8, hàng chục ngàn sinh viên học sinh
biểu tình tại Chợ Bến Thành và nhiều địa điểm khác trong thủ đô. Hai anh em ông
Diệm-Nhu thẳng tay đàn áp. Nhiều người chết, bị thương, hay bị bắt giữ. Vì dám
chống đối chế độ, sinh viên, học sinh được chụp ngay cho cái mũ “Cộng Sản.”
Chưa hết. Cuộc
tấn công chùa chiền ngày 21/8 gây nên những phản ứng sâu đậm khắp thế giới. Từ
ngày 11/6, bức hình tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức đã trở thành biểu tượng của
cuộc tranh đấu của Phật giáo và chính sách giáo phiệt Ki-tô của anh em ông Diệm.
Vào thượng tuần tháng 8/1963, một số nước Phật giáo chính thức yêu cầu
triệu tập Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thảo luận. Ngày 22/8, từ Nam Vang, chính
phủ Hoàng Gia Cao Miên ra tuyên cáo:
“Chính phủ Hoàng gia
Căm-bốt kinh hoàng đón nhận tin chính phủ Sài-gòn đàn áp man rợ các tăng ni và
Phật tử Nam Việt Nam vào rạng sáng ngày 21/8/1963. Việc tấn công các chùa bằng
lực lượng tinh nhuệ của chính phủ, việc tàn sát tăng ni, việc bắt giữ, việc
phong tỏa các nơi thờ tự đang diễn ra tại thủ đô Việt Nam là một thách thức thế
giới văn minh. Trong lịch sử hiện đại chỉ có chế độ Hitler mới dám vi phạm những
tội ác chống lại quyền tối thượng của con người như thế.”
Tiếp đó, chính
phủ Sihanouk kêu gọi các quốc gia tố cáo và ngăn chặn tội ác đàn áp Phật giáo của
chính phủ Diệm. Nam Vang còn kêu gọi Vatican cho lệnh chính quyền Diệm và tín đồ
Ki-tô phải theo đúng nguyên tắc cao cả của Ki-tô giáo. (CĐ số 896, ngày
23/8/1963, Phnom Penh gửi Paris; CLV, SV, d. 17)
Ngay đến
Vatican, điểm tựa vững chắc nhất của chế độ Diệm, cũng bất bình. Khâm sứ
Vatican d’Asta từng bảo thẳng ông Diệm rằng việc tấn công chùa chiền và đàn áp
Phật Giáo làm hại cho uy tín Vatican và đi ngược lại quyền lợi của quốc gia Việt
Nam.
Tại Mỹ, dư luận
báo chí cực kỳ sôi nổi. Hầu hết các cơ quan ngôn luận đều yêu cầu chính phủ Mỹ
có thái độ tức khắc. Tờ New York Times kịch liệt lên án chính
phủ Diệm, mà sự mất lòng dân, độc tài và tàn bạo biểu lộ qua cuộc đàn áp Phật
giáo. Báo này cũng chỉ trích chính phủ Kennedy đã không sử dụng áp lực thích
đáng với ông Diệm và chậm trễ trong việc minh định thái độ. (CĐ số 4879/83, Đại
sứ ở Mỹ gửi BNG; CLV, SV, 17:29) Những báo khác gọi chế độ Diệm là độc
tài, cảnh sát trị, làm mất giá trị sự tham chiến của lính Mỹ trong cuộc chiến
chống Cộng. (CLV, SV, 17:33) Chỉ riêng tờ New York Herald Tribune muốn
chính phủ Kennedy tiếp tục yểm trợ chính phủ Diệm trước hiểm họa Cộng Sản.
Marguerite Higgins, trong loạt bài viết về chế độ Diệm trên New York
Herald Tribune, lập lại hầu như nguyên văn lời tuyên truyền của chế độ Diệm:
không hề có kỳ thị tôn giáo mà những biến động ở Việt Nam thuần có tính cách
chính trị, do Cộng Sản giật dây, với sự hỗ trợ của báo chí ngoại quốc, đặc biệt
là Mỹ.
Trong khi đó,
việc Đại sứ Trần Văn Chương từ chức (hoặc bị ông Diệm cách chức, nếu muốn)
cũng gây bối rối cho chế độ. Rồi ngày 24/8/1963, ông Vũ Văn Thái—cựu Giám đốc
Ngân sách và Ngoại viện, hiện đang làm cho cơ quan LHQ tại Lome, Togo— cũng viết
thư cho Harriman, đề nghị Tổng thống Diệm và gia đình phải ra đi. Nội dung thư
ông Thái cũng tương tự như thư riêng của ông Vũ Văn Mẫu gửi Chester Bowles từ
New Dehli.(FRUS, 1961-1963, IV:114-5. Ngày 5/9/1963, Harriman mới
chuyển thư này cho Bundy, Cố vấn ANQG của Kennedy).
Chính phủ
Kennedy bồn chồn theo dõi những phản ứng bất lợi này. Các viên chức cao cấp Mỹ
không muốn cuộc tranh đấu của Phật Giáo khiến tình hình quân sự và chính trị miền
Nam thêm suy thoái. Bởi thế, Oat-shinh-tân đẩy mạnh kế hoạch bắt vợ chồng ông
Nhu và Tổng Giám Mục Thục ra đi. Mối quan tâm duy nhất của người Mỹ chỉ còn là
số phận ông Diệm. Đa số vẫn muốn giữ ông Diệm; nhưng vấn nạn là thật khó tách rời
ông Diệm khỏi các anh em. [Tối ngày 22/8/1963, tức khoảng 8G56 ngày
23/8/1963, Roger Hilsman chỉ thị cho Lodge: Chính sách về Phật giáo không thay
đổi; tìm cách giảm quyền lực Nhu]. (FRUS, 1961-1963, III:605)
Vận mệnh nhà
Ngô rơi gọn vào bàn tay tân Đại sứ Cabot-Lodge. Những tiết lộ của Tướng André
Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu trưởng, trong buổi nói chuyện với Trung tá Lucien
Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu ngày Thứ Sáu, 23/8, cung cấp cho Lodge những viên đạn
đầu tiên để bắn vào phe bênh vực ông Diệm quanh Kennedy. Trước hết, André Đôn
yêu cầu đài V.O.A. cải chính là Cảnh sát đặc biệt của ông Nhu mà không phải
quân đội đã tham gia cuộc đàn áp, tấn công chùa chiền. Tướng Đôn cũng khẳng
định khoảng 1,420 tăng ni bị bắt giữ khắp miền Nam trong đêm 21/8 không phải
cán binh Cộng Sản.
Nhận định về
anh em họ Ngô, Tướng Đôn cho rằng ông Nhu là "khối óc" [thinker]
của ông Diệm; nhưng ông Diệm có quyền quyết định tối hậu. Vẫn theo Tướng Đôn, Lệ
Xuân hành xử như "vợ" [platonic wife] của ông Diệm. Ông Diệm
chưa bao giờ lấy vợ và không quen có đàn bà bao quanh. Chín năm qua, Lệ Xuân lo
chăm sóc ông Diệm sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân săn sóc, nói chuyện,
giúp ông Diệm giải tỏa áp lực, và giống như bất cứ người vợ Việt Nam nào, thống
trị gia đình. Giữa ông Diệm và Lệ Xuân không có liên hệ tình dục. Ông Diệm
chưa hề trải qua mùi vị tình dục. Tình trạng giữa ông Diệm và Lệ Xuân, theo Tướng
Đôn, giống như Hitler và Eva Braun.
Tướng Đôn còn
tiết lộ ông Diệm rất thích những thanh niên đẹp trai. Một Trung sĩ làm vườn, nhờ
đẹp trai, đã được ông Diệm cất nhắc lên hàng Trung tá, trông coi dinh điền quân
đội. Theo Tướng Đôn, không thể tách rời ông Diệm với vợ chồng Nhu. Nếu phải chọn
giữa hai anh em ông Diệm và Nhu, Đôn muốn thấy ông Nhu ra đi. (FRUS,
1961-1963, III, tài liệu 275)
[Xin đừng vội
trách ông Đôn bịa đặt. Tối ngày 26/8, ông Diệm (dù đã 66 tuổi) nói với Đại
sứ Lodge là ông ta từng cảnh cáo Lệ Xuân rằng “sẽ lấy vợ,” nếu Lệ Xuân
không ngừng phát ngôn bừa bãi.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 326) Trong hồi ký của
McNamara, đoạn nói về Lệ Xuân, cũng tương tự như nhận định này. McNamara còn gọi
Lệ Xuân là "một mụ phù thủy."
Vài Tướng lãnh
Việt còn đi xa hơn, cả quyết từng thấy bà Lệ Xuân lả lơi, tình tứ bên ông Diệm.
Tướng Nguyễn Chánh Thi thường gọi Lệ Xuân là “đĩ điếm,” làm ô uế Dinh Độc
Lập.]
Đêm Thứ Bảy
24/8, sau khi nhân viên Mỹ tiếp xúc với các Tướng Lê Văn Kim, Nguyễn Khánh, v..
v... Cabot-Lodge gửi công điện báo cáo về những Tướng muốn xin yểm trợ làm đảo
chính. Tuy nhiên, theo Lodge, thực trạng Sài-gòn cho thấy một âm mưu đảo
chính chẳng khác gì "viên đạn bắn trong đêm."
Tại
Oat-shinh-tân, tối ngày 24/8 [sáng Chủ Nhật, 25/8 VN], XLTV Ngoại trưởng George
W. Ball chỉ thị cho Cabot-Lodge:
Phải áp lực cho vợ
chồng Nhu ra đi; nếu Diệm không đồng ý, sẽ phải tái xét lại vấn đề ủng hộ Diệm.
Lodge được quyền nói với các Tướng đang âm mưu đảo chính rằng Mỹ sẽ tuyên bố cắt
quân và kinh viện để chứng tỏ việc ngưng yểm trợ Diệm. Ngoài ra, Lodge cũng được
quyền cho VOA cải chính rằng quân đội không dính líu gì đến cuộc tấn công các
chùa chiền. (CĐ số 243; FRUS,
1961-1963, III, Tài liệu 281).
Xin mở dấu ngoặc nhỏ để bàn
thêm về công điện số 243 của Ball vào tối 24/8 nói trên. Công điện này chấp thuận
trên nguyên tắc đề nghị của Lodge: Phải áp lực vợ chồng Nhu-Lệ Xuân ra đi, nếu
ông Diệm không đồng ý, sẽ phải tái xét lại việc ủng hộ ông Diệm. Thật ra, kế hoạch
bắt ông Thục và vợ chồng ông Nhu ra đi đã được cựu Đại sứ Nolting dàn xếp từ
thượng tuần tháng 8/1963. Nhưng công điện 243 gửi đi khi TT Kennedy, McNamara,
Rusk cùng Giám đốc CIA John McCone đều không có mặt tại Oat-shinh-tân. Bởi
thế, mặc dù được Kennedy phê chuẩn trước khi gửi đi (Roger
Hilsman, To Move A Nation, tr.487-8), có người chê trách
Ball vượt quá quyền hạn. (dựa theo luận cứ của Tướng Taylor; Swords
and Plowshares, tr. 292-4) Thứ nữa, nếu Ball vượt quá quyền hạn, trong các
phiên họp HĐ/ANQG Mỹ kế tiếp phải có ai đó chống lại. Sự thực hoàn toàn trái
ngược: Khi được Kennedy hỏi ý kiến, không một ai bài bác công điện tối ngày
24/8 của Ball. Cuối cùng, sau một loạt những cuộc hội họp sôi nổi, ngày 30/8
HĐ/ANQG Mỹ quyết định quay mặt cho các Tướng làm đảo chính (tức rút lại sự bảo
vệ chế độ Diệm). Ngoài ra, nếu ông Ball vượt quá quyền
hạn, hẳn không thể tiếp tục ngồi ở Bộ Ngoại Giao, và dưới thời chính phủ
Johnson (1963-1969) còn được giao trách nhiệm tìm hòa bình cho miền Nam.
Công điện 243
là hậu quả trực tiếp đầu tiên của cuộc tấn công các chùa chiền. Trước ngày này,
cố vấn của Kennedy chia làm hai phe về vấn đề Việt Nam. Phe quân đội, kể cả Bộ
trưởng Quốc Phòng McNamara, và CIA muốn tiếp tục ủng hộ ông Diệm. Trong
khi đó, phe dân sự, gồm Bộ Ngoại Giao và Cố vấn An Ninh Quốc Gia, muốn tách rời
ông Diệm khỏi ảnh hưởng các anh em, nghĩa là phải đưa ông Thục, Nhu và bà Lệ
Xuân rời nước. Người đứng sau chủ trương “Diem must go” hay “không thể
chiến thắng với anh em ông Diệm” này là Tướng Roger Hilsman, Phụ tá Bộ trưởng
Ngoại giao đặc trách Viễn Đông vụ (mới thay W. Averell Harriman vì Harriman được
thăng chức Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách Chính trị vụ). Hilsman là một cựu
chiến binh Thế chiến thứ hai, chuyên viên về du kích chiến. Hilsman đã thảo
công điện số 243 nói trên, và được Harriman chấp thuận. Mike Forrestal, một
nhân viên Ban Tham mưu HĐ/ANQG tại Bạch Cung, gửi cho Kennedy, đang nghỉ cuối
tuần ở Hyannis Port. Trong khi đó, XLTV Ngoại trưởng Ball gọi điện thoại cho
Kennedy, trình bày về công điện trên. Kennedy chấp thuận cho gửi qua Sài Gòn nếu
các cố vấn cao cấp đồng ý. Ball gọi Rusk ở New York, Rusk đồng ý dù
không thích lắm. Harriman gọi CIA, John McCone không có mặt, nên Richard Helms,
Phó Giám đốc đặc trách kế hoạch, đồng ý. Forrestal gọi Thứ trưởng Quốc Phòng
Gilpatric, cả Gilpatric và McNamara chấp thuận. Gilpatric gửi một bản sao công
điện cho Maxwell Taylor, cố vấn quân sự của Kennedy. Taylor chống lại, nhưng
McNamara không đồng ý với Taylor. Theo Robert Kennedy, em trai Tổng thống
Kennedy, sau này Kennedy hối tiếc, và cho việc gửi công điện trên là một sai lầm.(McNamara, In
Retrospect, 52-5)
Ngay trong ngày
Chủ Nhật, 25/8, tại Sài Gòn, Cabot-Lodge triệu tập một phiên họp đặc biệt với
Tướng Harkins, Tư lệnh MACV, và John H. Richardson, trưởng lưới CIA. Sau đó, điện
về Oat-shinh-tân, đề nghị cho các Tướng xúc tiến việc đảo chính. Lodge cũng tiết
lộ đã thông báo cho các Tướng biết rằng Mỹ chỉ muốn loại Nhu, vẫn giữ Diệm;
nhưng về ông Diệm, tùy thuộc ở quyết định của các Tướng. (FRUS, 1961-1963,
III, tài liệu 285)
Mặc dù các cố vấn
của Kennedy không nhất trí về đảo chính, và chính Kennedy không muốn thay ngựa,
cuối cùng Oat-shinh-tân cho Cabot-Lodge toàn quyền quyết định. (Ibid.,
III: tài liệu 286)]
Tóm lại, cuộc tấn
công các chùa chiền đêm 20 rạng 21/8 là một dấu mốc cực kỳ quan trọng trong
liên hệ giữa anh em ông Diệm và chính phủ Kennedy. Mặc dù tự nó—và toàn bộ cuộc
tranh đấu của Phật giáo nói chung—chưa đủ lật đổ chế độ Diệm, cuộc tấn công đêm
20 rạng 21/8 này chặt đứt mối liên hệ thiết thân suốt hơn 9 năm trời giữa ông
Diệm và nước Mỹ. Phản ứng của anh em ông Diệm và Lệ Xuân—qua cách chụp mũ Cộng
Sản để đàn áp, chống Mỹ để tự vệ (đồng hóa tham vọng cá nhân và gia đình với chủ
quyền “quốc gia”), hoặc móc ngoặc Hà Nội—đã tạo phản ứng nghịch chiều. Trên con
đường độc đạo của mình, anh em ông Diệm sống sót thêm được hơn hai tháng nữa phải
được coi như một phép lạ.
Khi không còn thể lấy giấy
gói lửa được nữa, trong tháng 10/1963, anh em ông Diệm-Nhu sai
thủ hạ (Trần Hữu Duệ, một tay chơi nổi danh Sài Gòn) dùng nữ sắc và rượu thịt
gài bẫy quay phim con heo các đại diện “khả kính” trong phái đoàn điều tra Liên
Hiệp Quốc. Hành động này không những tự nó là một hình tội cản trở công lý, mà
còn bộc lộ rõ “đạo đức” của anh em ông Diệm-Nhu.
[Cuốn Nhật ký Đỗ Thọ nhắc
đến màn gài bẫy này từ nhiều thập niên trước. Mới đây cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ,
Tham Mưu trưởng Lữ Đoàn Phòng vệ phủ Tổng thống, cũng thú nhận trên
báo Văn Nghệ Tiền Phong tiểu xảo trên. Một cựu sĩ quan thông dịch
cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc hồi đó, hiện ngụ tại Houston, Texas, đã tiết lộ với
tác giả thủ đoạn này từ lâu. Vậy mà nhũng người muốn che đậy tội ác cho họ
Ngô—dù biết rõ hơn ai hết vụ dàn cảnh quay phim con heo trên—vẫn cố vin vào
“báo cáo” của phái đoàn LHQ (danh số A/5360, sau khi các thành viên được trao tặng
những tấm hình một đời khó quên ô nhục của mình) để ngụy biện cho chính sách kỳ
thị tôn giáo của anh em ông Diệm hay vụ tấn công rạng sáng ngày 21/8/1963. Tội
nghiệp cho bốn chữ “lương thiện trí thức!”].
PHÂN ĐOẠN II: Chính các Tướng
đề nghị đảo chính
Cuộc đảo chính 1/11/1963 tiến
triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là kế hoạch đảo chính ngày
1/9/1963, và rồi mới tới cuộc đảo chính ngày 1/11/1963.
1. Kế hoạch đảo
chính ngày 1/9/1963:
Kế hoạch đảo
chính do chính các Tướng đề nghị với viên chức Mỹ từ tháng
6/1963. Người đứng ra tiếp xúc với tình báo Mỹ là Trung tướng André Đôn. Tháng
6/1963, giữa cao trào tranh đấu Phật Giáo, Tướng Đôn cùng em rể là Lê Văn Kim
(lấy Gabrielle Trần Văn Đôn) đã yêu cầu đại sứ Nolting cho phép làm đảo chính,
nhưng Nolting giận dữ từ chối. Ngày 8/7/1963, ông Đôn lại tiết lộ ý định với một
sĩ quan CIA.
Khoảng đầu tháng 8/1963,
André Đôn gia nhập nhóm Tướng Minh, qua đường dây Tướng Kim. Từ vài năm trước,
hai Tướng Minh và Kim đã tìm cách đảo chính. Những ngày kế tiếp, nhiều người
tham gia, ngoại trừ Huỳnh Văn Cao (vì là thành phần tín cẩn của chế độ) và Tư lệnh
Hải Quân. Tại QĐ IV, dù Tướng Cao không được tiếp xúc, Tư lệnh Phó đồng ý. Tướng
Nguyễn Khánh, Tư lệnh QĐ II, đồng ý nhưng vẫn ở Pleiku, có lẽ để nếu cần sẽ phản
lại.
Ngày Thứ Sáu
23/8, nhân dịp anh em ông Diệm-Nhu tấn công chùa và bắt giữ tăng ni trên toàn
quốc, Tướng Đôn lại than phiền với nhân viên tình báo Mỹ, và hỏi ý kiến về việc
lật đổ chế độ. Tướng Kim, với cương vị phụ tá báo chí của Tướng Đôn, cũng nối lại
liên hệ với tình báo Mỹ. Gặp Rufus Phillips, Giám đốc Phòng Cải Cách Điền
Địa của cơ quan USOM, ngày 23/8, Kim than phiền quân đội đã trở thành "tay
sai" của Nhu: Chính ông Nhu đã mưu mẹo để các Tướng yêu cầu ban hành thiết
quân luật. Tướng Kim còn tiết lộ ông Nhu đã cho lệnh Cao Xuân Vỹ dùng Thanh
Niên Cộng Hòa tổ chức phản biểu tình các học sinh, sinh viên dự trù vào ngày
25/8. (FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 174)
Việc công khai
đàn áp Phật giáo ngày 21/8 không chỉ tạo cho nhóm Tướng Minh thêm một lý do để
đảo chính mà còn khiến rất nhiều người thân cận chế độ xa lánh anh em Diệm. Sáng
Thứ Bảy 24/8, khi Phillips đến nhà Bộ trưởng Phụ tá An Ninh Nguyễn Đình Thuần
ăn sáng, ông Thuần nói đến lúc vợ chồng Nhu phải ra đi. Theo Thuần, ngày
23/8, ông Diệm viết thư cho Lệ Xuân, yêu cầu từ nay đừng tuyên bố gì
nữa. Đồng thời, cho Tướng Bénoit Trần Tử Oai, Cục trưởng Tâm Lý Chiến, và Tổng
Giám đốc Thông Tin biết lệnh này. Theo Thuần, nếu Mỹ cả quyết, các Tướng sẽ
hành động.(FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 273)
Đại tá Đỗ Mậu
(Giám đốc An Ninh Quân Đội), Tướng Nguyễn Khánh (Tư lệnh Quân đoàn II), Trần
Thiện Khiêm (Tham Mưu trưởng Liên quân), hay Nguyễn Văn Thiệu (Tư lệnh Sư đoàn
5 Bộ binh, từng “rửa tội” để mua chuộc lòng tin của anh em ông Diệm-Nhu) đều
thay đổi thái độ. Ngày 22/8, Đại tá Đỗ Mậu gặp Tướng Đôn, xin gia nhập tổ
chức đảo chính. (Mậu 1993, tr. 614) Trưa ngày 24/8, Thiếu tướng Khánh yêu cầu
được gặp một nhân viên CIA để minh định không yểm trợ ông Nhu. Theo Khánh,
các tướng đã chán nhận lệnh của họ Ngô, và muốn biết Mỹ có yểm trợ hay chăng. Nếu
các nhà chính trị, trong trường hợp bị cắt viện trợ, muốn ngả theo Cộng sản hay
chủ trương trung lập, quân đội sẽ nổi dậy. Theo Khánh, Trần Thiện Khiêm là đồng
minh chắc chắn nhất của Khánh. (Ibid., III, tài liệu 284)
Trung tá Phạm
Ngọc Thảo—người thân của Tổng Giám Mục Thục, từng cứu giá chế độ trong cuộc đảo
chính hụt 11/11/1960, và đang giữ chức Thanh tra Ấp Chiến Lược, nhưng sau này
được Cộng Sản truy tặng chức liệt sĩ—cầm đầu một nhóm đảo chính khác. Albert Thảo
hợp tác với nhóm ông Huỳnh Văn Lang và cựu đảng viên Cần Lao trong Liên Kỳ
Nam-Bắc Việt cũ. Hai Tướng Khiêm và Raymond Khánh cũng có liên hệ; nhưng cả hai
lại nghi Albert Thảo là Cộng Sản nằm vùng, hoặc vì một lý do nào đó, chỉ ậm ừ
cho qua.
[Theo tài liệu
Mỹ, Albert Thảo đã vận động đảo chính từ nhiều tháng trước ngày 30/8, và cũng
báo cáo với cơ quan CIA tại Sài-gòn (CAS) về âm mưu đảo chính của hai nhóm Trần
Kim Tuyến, Huỳnh Văn Lang.(FRUS, 1961-1963, IV:40) Ngày Thứ Sáu, 30/8,
cơ quan CIA báo cáo rằng có 3 tới 5 tiểu đoàn theo Thảo. Lực lượng này đủ
sức duy trì tình thế từ 3 tới 4 tiếng đồng hồ, trong khi chờ đợi các Tướng nhập
cuộc. Thảo muốn đảo chính trong vòng 1 tháng, hoặc sớm hơn. Thảo muốn
mời Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Chương, Trần Lê Quang, Vũ Văn Thái, Huỳnh Văn Lang,
Nguyễn Hữu Châu. Thảo cũng liên lạc với các lãnh tụ Đại Việt. Thảo nói muốn cầm
đầu ngành An ninh quân đội, tham gia chính phủ.(FRUS, 1961-1963, IV, tài
liệu 22)
Mới đây, hồi ký Nhân
chứng một chế độ của ông Huỳnh Văn Lang, nhất là tập III, đã trình bày
khá đầy đủ về liên hệ giữa ông và Phạm Ngọc Thảo. (Xem thêm Chính Đạo, VNNB,
I-C: 1955-1963, tr. 307, 325). Tuy nhiên, trường hợp Albert Thảo khá phức tạp.
Albert Thảo là loại tình báo tam tứ trùng, vừa liên lạc với Mỹ, Dinh Gia Long,
các phe đảo chính, vừa có thể cung cấp tin tình báo cho Cộng Sản. Không phải vô
tình mà sau này Cộng Sản phong Albert Thảo làm liệt sĩ.]
Ít ai ngờ nhất
là ngay Trần Kim Tuyến—người thân cận của ông Nhu, vừa nắm cơ quan Mật vụ của
chế độ, vừa lo kinh tài cho đảng Cần Lao—cũng mưu đảo chính từ
tháng 7/1963. Vì việc này, ông Tuyến bị đầy đi làm Tổng Lãnh sự ở Phi Châu (Cộng
Hòa Arab, rồi Morocco), nhưng vì gốc an ninh tình báo nên các quốc gia trên
không nhận, phải tạm lưu trú ở Hong Kong.
Tóm lại, muốn đảo
chính ông Diệm không chỉ có Tướng Minh, người nổi danh chống đối chế độ. Hầu
hết các Tướng và Tư lệnh đơn vị, cùng những người “thân tín” của họ Ngô đều muốn
ra tay.
Nhiệt thành, hăng say
nhất trong việc lật đổ chế độ Diệm là lực lượng sinh viên, học sinh. Như đã lược
thuật, sinh viên học sinh bắt đầu chú tâm đến thời sự sau cái chết của nhà văn
Nhất Linh vào tháng 7/1963. Tới tháng 8/1963, họ mới tìm được cơ hội nhập cuộc.
Ngọn lửa tranh đấu đầu tiên được thắp lên ở Huế, khi ông Diệm cách chức Viện
trưởng Đại học của Linh mục Cao Văn Luận. Ngày 15/8, sinh viên và học sinh Huế
biểu tình, chính quyền thả cả quân khuyển để đàn áp. Xô xát dữ dội. Một số
bị bắt. (Nguyễn Ngu Í 1964a:43) Hai ngày sau, trong lễ bàn giao giữa
Linh mục Luận và ông Nguyễn Hữu Thế, đến lượt các Giáo sư từ chức tập thể: Lê
Khắc Quyến, Khoa trưởng Y khoa (người đã từ chối chứng nhận các nạn nhân cuộc
thảm sát tối 8/5 trước Đài Phát Thanh Huế là do mảnh lựu đạn gây nên); Bùi Tường
Huân, Khoa trưởng Luật khoa; Tôn Thất Hanh, Khoa trưởng Khoa học; Nguyễn Văn
Trường, Ban Khoa học Sư phạm; Lê Tuyên. Tân Viện trưởng Thế phải vào Sài-gòn
báo cáo. Linh mục Luận cũng bỏ vào Đà-nẵng. Các giáo sư lại ký kiến nghị yêu cầu
đưa Linh mục Luận trở lại. (Nguyễn Ngu Í 1964b:28)
Chiều đó, sinh viên
Huế cản đường Bộ trưởng Giáo dục Trình khi ông Trình ra phi trường vào Đà-nẵng.Ngày
Thứ Ba, 20/8, Viện trưởng Thế cho lệnh những buổi hội họp trong khuôn viên trường
phải xin phép trước.
[Thứ Hai, 19/8/1963: Sinh
viên Huế hủy bỏ một cuộc biểu tình vì sợ bị chụp mũ Cộng Sản (ngày kỷ niệm Cách
Mạng tháng 8/1945)].
Tại Sài Gòn,
ngày 23/8—sau cuộc tổng tấn công chùa chiền và nhất là việc tân Đại sứ
Cabot-Lodge đến nhận nhiệm sở sớm hơn hạn định—sinh viên Y-Dược khoa biểu tình
đòi trả tự do cho Phật tử. Hai ngày sau, Chủ Nhật 25/8, hàng ngàn sinh
viên học sinh tụ họp trước chợ Bến Thành, Sở Thú, bến Bạch Đằng v.. v... Một
nữ học sinh tên Quách Thị Trang bị bắn trọng thương, rồi qua đời trong Tổng Y
viện Cộng Hoà. Theo kết quả sơ khởi khoảng 500 sinh viên, học sinh bị bắt. Quân
đội và Cảnh sát thẳng tay đàn áp. Hơn 200 xe đạp và xe gắn máy mà học
sinh, sinh viên sử dụng để kéo đến chỗ biểu tình bị bỏ rơi gần các khuôn viên đại
học vào xế trưa. Từ đêm trước các đơn vị quân đội, có cả tuần thám xa, đã kéo về
thành phố ngăn chặn các ngả đường. Các công sự phòng thủ, kẽm gai được giăng ra
tại nhiều ngã tư và dọc đường từ Bộ Ngoại Giao tới trường Luật, nơi cựu Ngoại
trưởng Mẫu dự định đến hội thảo. Theo tin ngoại giao Pháp những cuộc truy lùng,
bắt giữ tiếp tục khắp nơi. Các trường học phải đóng cửa để đề phòng bạo động.(CLV,
SV, 17:84)
Mật Vụ Miền
Trung của Dương Văn Hiếu truy tầm và bắt giữ bất cứ ai bị nghi ngờ tham dự đảo
chính hay biểu tình. Các trại tù lớn nhất là trại Lê Văn Duyệt (nằm
trong Quân trấn Sài-gòn, do Thái đen cầm đầu), Võ Tánh (Chợ Bà Chiểu, do Nguyễn
Thiện Giai cầm đầu), Sở Thú, bến Bạch Đằng. (Ngày 18/9/1963, Tướng Minh khẳng định
với quan chức Mỹ là trong trại Lê Văn Duyệt có tới hai trại tù giam giữ người
chống chế độ; FRUS, 1961-1963, IV:272-3) Theo các nhân chứng, Mật vụ
miền Trung tra tấn nạn nhân tàn nhẫn hơn cả VC hay Mật thám Pháp. Có người chỉ
vì ngồi chung xe một đồng nghiệp trùng tên với một nghi can mà ông ta không hề
quen biết, cũng bị bắt giam, lấy cung và tra tấn hơn ba tháng. Nhiều nhân viên
MACV và Tòa Đi sứ Mỹ cũng bị bắt vì tình nghi liên hệ vào việc tổ chức đảo
chính. (Phỏng vấn ông Phạm Chung, một nhân chứng từng đi tù cả thời Việt
Minh lẫn Diệm, năm 1999-2000)
Không khí Sài Gòn ngột ngạt
kinh hoàng.
Tối Chủ Nhật
25/8 ấy, thêm một biến cố khác xảy ra trong hậu trường chính trị. Nhân dạ tiệc
chào mừng Đại sứ Lodge tại tư dinh Quyền Ngoại trưởng Trương Công Cừu, ông Nhu
chính thức gặp mặt một sứ giả của Hà Nội. Đó là Mieczylslaw Maneli, Trưởng đoàn
Poland [Ba Lan] trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. (Maneli 1971,
tr. 137-9). Theo Maneli, từ mùa Xuân 1963, nhiều nhân vật ngoại giao đã
yêu cầu Maneli gặp Nhu. Trong số này có Đại sứ Pháp Lalouette, Đại sứ India Ram
Goburdhun, Đại sứ Italia d’Orlandi và Khâm sứ Vatican d'Asta. Họ cho biết đã
nói với Nhu về Maneli, và Nhu ngỏ ý muốn gặp. Ngay sau buổi gặp sơ khởi, Maneli
vội báo cáo về Warsaw, đồng thời thông báo với Đại sứ Liên Sô Tovmassian ở Hà-nội
và Hà Văn Lâu. Lâu và Đại sứ Liên Sô tán thành.
Tình hình
nghiêm trọng hơn khi trong bản tin phát thanh của đài V.O.A. vào lúc 8 giờ sáng
địa phương ngày Thứ Hai, 26/8, phát ngôn viên BNG Mỹ khẳng định quân đội VNCH
không đánh chiếm chùa chiền, mà chỉ có các lực lượng trực thuộc Phủ Tổng thống,
không thuộc quyền Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ra còn bình luận rằng viện trợ Mỹ
có thể bị cắt.(Lodge không hài lòng về bản tin này; FRUS, 1961-1963,
III, tài liệu 287)
Bài phát thanh
này khiến ông Nhu tin rằng Cabot-Lodge quyết định loại bỏ mình. Nhu bèn hạ lệnh
bắt giữ tất cả những người chống đối. (Ibid., III:637n2)
Ngày 27/8/1963, Đại sứ
Lalouette báo cáo về Paris rằng André Đôn tuyên bố Diệm đã lợi dụng và phản bội
lòng tin của quân đội, cuộc tấn công chùa và bắt giữ tăng ni Phật tử làm hoen ố
danh dự quân đội. Lực lượng tấn công chùa là LLĐB của Lê
Quang Tung và Cảnh sát của Cò Túc [Tư?], dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Đính.
Tung, Tư và Đính là ba trụ cột của cuộc đảo chính do Ngô Đình Nhu cầm đầu.
Hiện nay Nhu
quyền thế nhất nước. Diệm chỉ còn là lãnh tụ thứ hai. Chân dung Diệm bị Thanh
Niên Cộng Hòa gỡ bỏ tại công sở trong vài quận đô thành. Chính Đính
cho lệnh bắt giữ Vũ Văn Mẫu ngày hôm qua. Cũng có tin Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải
quân, đã bị bắt. (CLV, SV, 17:42)
Sau một buổi họp
mật, Lodge, Harkins cùng Richardson quyết định tạm thời không cho Harkins tiếp
xúc với các Tướng, để Conein và nhân viên CIA khác lo việc liên lạc. Nhóm
ông Đôn-Minh sẽ được lưu ý là Mỹ không nhúng tay vào đảo chính; và khuyến cáo
ông Đôn tránh đổ máu, hoặc giảm thiểu đổ máu tối đa.
Tối đó, Đại sứ
Cabot-Lodge trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống Diệm. Theo Lodge, ông ta bảo
thẳng ông Diệm rằng tại Massachusetts người ta nghĩ Lệ Xuân là Quốc trưởng
VNCH, và dân chúng đọc những bài báo mà Lệ Xuân gọi những vụ tự thiêu là nướng
thịt sư. Ông Diệm trả lời rằng đã nói với Lệ Xuân vài lần, nhưng Lệ Xuân
khẳng định là một Dân biểu có quyền phát biểu ý kiến.
Khi Lodge nêu vấn
đề phóng thích những người bị bắt, ông Diệm nói đã thả gần hết. Để chứng tỏ Phật
tử là thiểu số trong nước, ông Diệm trưng dẫn một tài liệu do chùa Xá Lợi xuất
bản; theo đó, tại Việt Nam chỉ có hơn 1 triệu tăng ni, Phật tử, và khoảng 2 triệu
người liên hệ. Trước khi cáo từ, ông Diệm nhắc nhở Lodge rằng Mỹ kiều phải biết
giữ trật tự. (FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 292, 296)
Buổi gặp mặt
này chẳng có gì vui vẻ. Hôm sau, 27/8, Cabot-Lodge gặp ông Nhu. Ông Nhu yêu cầu
Mỹ phải ngưng những lời tuyên bố làm tổn hại quốc thể VNCH. Người Mỹ nói quá
nhiều, trong khi tại Việt Nam người ta nói quá ít. Về những lời tuyên bố của Lệ
Xuân trên báo Life ngày 16/8, ông Nhu nói vợ mình là một Dân
biểu, có quyền tự do phát biểu ý kiến. Ông Nhu còn tuyên bố đã chỉnh đốn lại
tình hình trước ngày Lodge tới Sài-gòn (dự trù vào 26/8). Nhờ vậy, không còn cuộc
tự thiêu nào.
Những lời biện bạch của ông
Diệm về Phật giáo trong buổi sơ kiến trình ủy nhiệm thư—như Phật giáo chỉ là
thiểu số ở Việt Nam, hay Phật giáo đã bị Cộng Sản xâm nhập—và giọng điệu khiêu
khích của ông Nhu trong buổi gặp mặt ngày 27/8, đẩy Lodge vào vị thế khó thể
dung thứ ngay cả với ông Diệm. Rồi đến buổi họp báo cùng ngày 27/8 của Tướng
Tôn Thất Đính để giải thích lý do tấn công các chùa chiền, huênh hoang tự nhận
mình là “anh hùng quốc gia,” đã bẻ gãy được âm mưu của Cộng Sản, Phật Giáo và
“bọn phiêu lưu quốc tế.” Ngoài ra, còn tin đồn tòa Đại sứ sẽ bị tấn công, chiếm
đóng, âm mưu ám sát cá nhân Cabot-Lodge, v.. v... Không còn là cái tát xiếc nữa
mà đã trở thành công khai thách đố, khiêu khích.
Thời gian này,
Oat-shinh-tân cũng cử Paul Kattenburg, Trưởng đoàn Việt Nam, qua Sài Gòn thị
sát tình hình. Khi tiếp Kattenburg ngày 28/8, ông Diệm ra sức biện minh việc
đàn áp Phật giáo. Trước khi từ biệt, ông Diệm nói với người bạn quen biết
đã 10 năm: "Cố giúp chúng tôi." Kattenburg chua chát đáp:
"Xin giúp chúng tôi nữa."
Trong khi đó,
nhân viên Tòa Đại sứ tiếp tục liên hệ với các Tướng làm đảo chính. Ngày 26/8,
Conein gặp Tướng Khiêm, và một nhân viên CIA khác (Spera) gặp Tướng Khánh, hứa
Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ sau khi thành lập chính phủ mới. Ngày 27/8, Conein hứa
với Khiêm sẽ cho gia đình các Tướng an toàn ra ngoại quốc trong trường hợp đảo
chính thất bại, và sẽ cung cấp sơ đồ phòng thủ trại Long Thành của LLĐB.
Hôm sau, 28/8, Conein giao cho Khiêm sơ đồ phòng thủ nói trên. Ngày 29/8, một
nhân viên CIA gặp cả hai Tướng Minh và Khiêm. Để trấn an các Tướng, Phillips
tìm gặp riêng Tướng Kim, xác định rằng Lodge đã phái nhân viên CIA trên đến gặp
Minh và Khiêm, và còn thêm rằng chính Tổng thống Kennedy cho lệnh. Khi Kim muốn
người Mỹ tiếp tay thảo kế hoạch, Lodge cũng đồng ý.(FRUS, 1961-1963,
IV:79-80) Viên chức Mỹ còn thu xếp để các nhóm và cá nhân chống chế độ hợp tác
với các Tướng.
Nhưng nhóm Tướng
Minh vẫn còn nghi ngại bị người Mỹ gài bẫy. Ngày 29/8, khi Trung tá Conein tiếp
xúc, ông Minh nói không tin Kennedy đồng ý cho làm đảo chính; ngoại trừ trường
hợp Mỹ tuyên bố ngưng viện trợ kinh tế cho chế độ Diệm. Lodge vội gửi điện văn
về Oat-shinh-tân, và ngày 30/8, Hội đồng ANQG Mỹ chấp thuận yêu cầu của Tướng
Minh.(Gravel, II: 238-239, 738-739; FRUS, 1961-1963, IV:21,
32-3) Ngày 29/8 [30/8 VN], HĐ/ANQG Mỹ còn cho lệnh Tướng Harkins tiếp xúc với
các Tướng để họ hết hoài nghi, đồng thời nhấn mạnh Mỹ muốn loại bỏ vợ chồng
Nhu, nhưng không đề cập gì đến số phận ông Diệm.
Anh em ông Diệm-Nhu
đã đoán biết âm mưu của các Tướng nên điều động Lực Lượng Đặc Biệt [LLĐB] của
Lê Quang Tung vào thủ đô, chốt chặn các vị trí bằng thiết giáp. Tối ngày 29/8,
có tin ông Nhu sẽ bắt giữ các Tướng chủ chốt trong vòng 24 giờ. Nhân viên CIA cấp
tốc báo động cho Tướng Kim, nhưng việc này không xảy ra.
[Người báo tin có thể là ký
giả Mỹ, hay một nhân viên thân cận với Dinh Gia Long, vì nhân vật mà tên họ
chưa được giải mật này đã từng tiết lộ trước tin các chùa chiền sẽ bị tấn công
đêm 20 rạng 21/8]
Ngày 30/8, ông
Nhu triệu tập các Tướng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tuyên bố vụ rắc rối với Phật giáo
đã qua, nhưng những kẻ đứng sau lưng chưa bỏ cuộc. Nhiệm vụ của quân đội là phải
nghe lệnh chính phủ. CIA muốn Nhu ra đi. Có nỗ lực vận động báo chí quốc tế chống
lại VNCH. Nhiều viên chức Mỹ tại Sài-gòn xúi dục và cổ võ các phóng viên, ký giả
chống lại chính phủ Việt Nam. Đại sứ Lodge đã hiểu rõ tình thế hơn, và Nhu có
thể lèo lái ông ta. Theo Tướng Khiêm, ông Nhu còn tâm sự sẽ theo bất cứ điều gì
người Mỹ muốn và được Tổng thống Kennedy ủng hộ. Nhu nói thân với Richardson,
Trưởng sở CIA.(FRUS, 1961-1963, IV:90-2) Những lời tuyên bố của ông Nhu
ít nữa cũng có một tác dụng tâm lý: Những người âm mưu đảo chính không khỏi lo
âu về tâm ý thực sự của người Mỹ. Các Tướng còn phân vân chẳng hiểu vợ chồng
Nhu có ăn lương CIA hay chăng.
15 Tướng tham dự,
kể cả Trần Văn Đôn, Dương văn Minh, Trần Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Lê Văn
Nghiêm, Lê Văn Kim, Phạm Xuân Chiểu, Trần Tử Oai, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Là,
Trần Ngọc Tám, Nguyễn Giác Ngộ, Văn Thành Cao, Mai Hữu Xuân, Huỳnh Văn Cao.
Quan trọng hơn nữa, nhóm
Big Minh cảm thấy chưa có đủ lực lượng, vì chưa thuyết phục được Tướng Tôn Thất
Đính, Tư lệnh Vùng III kiêm Tổng trấn Sài Gòn.
[Nỗ lực thuyết phục Đính đã
bắt đầu sau cuộc họp báo ngày 27/8 của Đính. Phe đảo chính dùng kế khích tướng,
dèm pha rằng Đính đã bị Nhu lừa, và chính phủ Diệm phải chịu ơn Đính mới đúng.
Rồi xúi Đính vào gặp Diệm, yêu cầu Diệm phong mình làm Bộ trưởng Nội Vụ. Diệm
giận dữ từ chối, bắt Đính lên Đà-lạt "nghỉ phép." Lợi dụng cơ hội,
nhóm đảo chính thuyết phục Đính ngả theo. Tuy nhiên, Đính chưa quyết định dứt
khoát].
[Theo Dương Văn Minh, mãi tới
tháng 10/1963, Tôn Thất Đính mới đi tìm ông Minh. Sau một hồi chuyện vãn, Đính
đột ngột nói: “Đại ca, quê hương chúng ta đang bị nguy hiểm. Đại ca bảo tôi phải
làm gì?” Ông Minh ra chỉ thị cho Tướng Đính về đảo chính. Những ngày kế tiếp,
ông Minh tìm cách hòa giải giữa Tướng Đính và Kim vì sau cuộc đảo chính hụt
11/11/1960, Đính đã cho lệnh bắt giữ Kim, lúc ấy đang là Chỉ Huy trưởng trường Đà-lạt.
(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 361-2) Ngày 26/5/1964, ông Khánh nói với
Cabot-Lodge rằng sau khi nghiên cứu hồ sơ của Ngô Đình Diệm về cuộc đảo chính
11/11/1960, những người chủ mưu có liên hệ chặt chẽ với Pháp và muốn ủng hộ Kim
làm Thủ tướng.(FRUS, 1964-1968, I:381)].
Cuối cùng, sau
hơn 24 giờ cắt liên lạc với tình báo Mỹ, sáng Thứ Bảy, 31/8, ông Khiêm mới báo
cho Tướng Harkins biết rằng kế hoạch đảo chính vào ngày hôm sau, 1/9, bị tạm
gác. Theo Khiêm, Big Minh vẫn chưa thực sự tin chính phủ Mỹ đồng ý cho đảo
chính vì cấp bậc của Conein quá nhỏ; cần những người như Harkins hay Lodge xác
định. Do đề nghị của Harkins, Khiêm hứa sẽ dàn xếp cho Harkins gặp Tướng Minh.
Đồng thời tiết lộ rằng André Đôn có kế hoạch yêu cầu ông Diệm cải tổ chính phủ,
đưa ba Tướng nắm các bộ Quốc Phòng, Nội Vụ và Tổng Nha Thông Tin; Ngô Đình Nhu
sẽ làm Thủ tướng hoặc điều hợp tổng quát.(Gravel, II:265; FRUS,
1961-1963, IV: Tài liệu 32, 33 [tr.65-6])
Chiều đó, khi gặp
Phillips, Lê Văn Kim nói Nhu và LLĐB của Lê Quang Tung phòng thủ kỹ càng, khó
thể hành động. Sẽ tiếp tục chuẩn bị, nhưng cần bí mật. Khi Phillips nói
Khiêm đã gặp Tướng Harkins và tuyên bố các Tướng đồng ý cho Nhu làm Thủ tướng;
đổi lại, quân đội được nhiều quyền hơn, Kim rất giận dữ. Kim hẹn gặp lại vào buổi
tối. Khi gặp lại, Kim nói Khiêm không báo cáo gì cho Minh về buổi gặp Harkins.
Các Tướng không bao giờ chấp nhận Nhu; họ chưa thể ra tay vì Nhu và Tung đã chuẩn
bị, và các Tướng thiếu phương tiện. (FRUS, 1961-1963, IV:64-6)
Lý do nào đi nữa, âm mưu đảo
chính ngày 1/9 phải đình hoãn. Lúc 18G00 ngày 31/8, Lodge báo cáo về
Oat-shinh-tân là các Tướng chẳng có tinh thần hay tổ chức để thực hiện.
[Theo tờ Times
of Viet-Nam, cơ quan ngôn luận bán chính thức của vợ chồng ông Nhu, cuộc đảo
chính này dự trù vào ngày 28/8, nhưng bị ông Nhu bẻ gãy bằng cách tuyên bố Thiết
quân luật ngày 21/8; Times of Viet-Nam, 2/9/1963; Công điện số 747,
ngày 2/9/1963, Saigon gửi Paris; CLV, SV, 17:51]
Ngày 4/9, cơ
quan CIA Sài-gòn nhận định về âm mưu đảo chính thất bại trên như sau: Hai
bên “không thắng, không bại.” Diệm-Nhu biết rằng Mỹ khuyến khích các Tướng làm
đảo chính, và CIA nhúng tay vào vụ này. Có thể họ biết gần hết những phương
cách CIA đã thực hiện. Có thể chính phủ VNCH nhận hiểu họ còn gặp khó khăn với
các lãnh đạo quân đội, đa số dân chúng, và chính phủ Mỹ. Diệm-Nhu đang thẩm giá
sự kiện chính phủ Mỹ yểm trợ một lãnh đạo khác và sẽ đi đường xa để khuyến khích,
và yểm trợ lãnh đạo mới ấy. Bước sắp tới, cả hai chính phủ VNCH và Mỹ phải đạt
được thỏa thuận để Mỹ có thể tiếp tục viện trợ, dù thay đổi đôi chút về hình thức
cũng như việc thực thi. (FRUS, 1961-1963, IV:92-3)
2. Cuộc đảo chính ngày
1/11/1963:
Sau khi các Tướng
tạm ngừng đảo chính, người Mỹ chẳng có lựa chọn nào khác hơn tiếp tục
liên hệ với chính phủ Diệm. Một mặt, Oat-shinh-tân thực hiện kế hoạch “áp lực
và thuyết phục” [Pressures and Pursuasion Track].(Hilsman, To Move A
Nation, tr. 508) để loại anh em ông Diệm. Mặt khác, Cabot-Lodge vẫn mở cửa
cho một giải pháp đảo chính.
a. Thục và Lệ Xuân
ra đi:
Ngay trong ngày
31/8, Cabot-Lodge điện về Oat-shinh-tân, yêu cầu chuyển sang áp lực ông Diệm
thay đổi nhân sự và chính sách Phật Giáo qua phương thức “áp lực và thuyết phục.”
Về nhân sự, cần ông Thục và bà Lệ Xuân rời nước; ông Nhu sẽ lo kế hoạch ấp Chiến
lược; và lập thêm chức Thủ tướng, giao cho ông Nguyễn Đình Thuần phụ
trách. Về chính sách, cần phóng thích sinh viên, học sinh, tăng sĩ và Phật tử,
hủy bỏ Luật số 10, các chùa chiền phải được giải tỏa và trùng tu, và chính phủ
tỏ thái độ hòa hoãn với Phật Giáo. Lodge yêu cầu đích thân Kennedy tuyên bố những
điều kiện trên tại Oat-shinh-tân.(FRUS, 1961-1963, IV:66-7) Lodge cũng
thêm rằng có tin Nhu đang bí mật tiếp xúc với Cộng Sản qua trung gian hai đại sứ
Pháp và Poland [Ba Lan], vì hai chính phủ này muốn một giải pháp trung lập giữa
Bắc và Nam Việt Nam. (Maneli đã tiết lộ với CIA việc tiếp xúc với ông Nhu; rồi
ngày 30/8, Đại sứ Lalouette cũng xác nhận với Lodge về việc Nhu móc nối với Cộng
Sản). Để tạo áp lực tâm lý, từ nay, Lodge không nói chuyện với anh em ông
Diệm-Nhu nữa nếu chưa tham khảo Bộ Ngoại Giao. Chính phủ Việt Nam, theo Lodge,
đã hành xử như “những kẻ dối trá và tội phạm” [has acted both as liars
and criminals].
Trong buổi họp
tại Bộ Ngoại Giao sáng Chủ Nhật, 31/8 (khoảng nửa đêm cùng ngày tại Sài Gòn),
Phó Tổng thống Johnson và các cố vấn của Kennedy không đi đến quyết định rõ
ràng nào. Đa số muốn cho ông Diệm cơ hội chót, tức vẫn giữ ông Diệm, chỉ
đưa ông Thục, và bà Lệ Xuân rời nước; riêng ông Nhu sẽ chỉ còn lo kế hoạch ấp
Chiến lược.(FRUS, 1961-1963, IV:69-74, 80-1) Oat-shinh-tân chỉ thị Lodge
tiếp xúc lại với ông Diệm, và Kennedy sẽ dùng buổi họp báo ngày 2/9 tại Mỹ để
áp lực (như Lodge đã đề nghị). Nếu không thể dùng đường lối ngoại giao và chính
trị để thuyết phục, Mỹ sẽ tạm ngưng viện trợ. Ngoại trưởng Rusk còn cho lệnh
Lodge, nếu cần, bảo thẳng ông Diệm phải chứng tỏ cho người Mỹ thấy rằng chính
phủ Kennedy “không thể đòi hỏi quốc dân Mỹ bị giết để yểm trợ Bà Nhu trong khát
vọng nướng thịt sư.”(Ibid., IV:76-9)
Ông Nhu dường
như bất chấp áp lực của Mỹ. Ngày 1/9, các báo thủ đô chạy tin lớn trên trang nhất
lời tuyên bố ngày 29/8 của Tổng thống Pháp de Gaulle—đề nghị hai miền Bắc và
Nam tham dự một hội nghị hoà bình, thống nhất, và trung lập hoá miền Nam.(CLV,
SV, 91:156) Thực ra, de Gaulle chỉ lập lại những gì đã từng nói với Kennedy
trong chuyến thăm Pháp từ 31/5 tới 2/6/1961. Nhưng ở thời điểm liên hệ Mỹ-Việt
đang căng thẳng này, đề nghị của de Gaulle mang một ý nghĩa đặc biệt. Nói
theo Bộ trưởng Văn hóa Trương Công Cừu, chính phủ Diệm “hiểu rõ mọi hàm ý của
Paris.” Ông Nhu cũng đã cho Bản tin Việt Tấn Xã ngày 30/8 đăng trên trang nhất
trọn bài diễn văn của de Gaulle.
Thật khó đoán
de Gaulle có hàm ý gì. (Thời gian này, Trần Văn Hữu cũng chủ trương trung lập,
và có liên hệ với Bộ Ngoại Giao Pháp. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng
cổ võ trung lập.) Chỉ biết lời tuyên bố trên gây sôi nổi dư luận Mỹ. Ngày 30/8, New
York Herald Tribune nhận định rằng de Gaulle muốn yểm trợ Diệm, gây ảnh
hưởng ở Việt Nam. Tờ New York Times cho rằng de
Gaulle bày tỏ sự bất mãn với chính sách Mỹ. Tờ Washington Post nghĩ
de Gaulle muốn Pháp sẽ thay thế Mỹ. Phía sau hậu trường, ngày 30/8 [31/8 tại Việt
Nam], Đại sứ Pháp Hervé Alphand giải thích với Ngoại trưởng Rusk rằng giải pháp
trung lập có thể thực hiện được vì hiện nay Mao Trạch Đông muốn chiến tranh,
trong khi Hồ Chí Minh muốn hòa bình, và Hồ vốn chống Trung Hoa. Rusk không
đồng ý, coi nền trung lập giả hiệu ở Việt Nam là điều nguy hiểm nhất, sẽ tạo
nên những khó khăn cho các nước lân bang, kể cả Indonesia. Alphand hứa sẽ tuyên
bố với báo chí rằng Pháp không có ý định dàn xếp với Diệm hay bành trướng ảnh
hưởng và làm hại Mỹ. Rusk đề nghị Alphand giải thích rằng lời tuyên bố của de
Gaulle phản ảnh quan điểm dài hạn của Pháp. Alphand cũng hết sức bệnh vực ông
Diệm. Theo Alphand, mặc dù Diệm không được ưa thích, nhưng chưa tìm được ai
thay. Rusk xác nhận không chống ông Diệm mà khó khăn chính là Nhu. Rồi hỏi ý
Alphand về việc cho Nhu qua Pháp; Alphand đáp không hiểu Nhu có chịu qua Pháp
nghỉ hưu hay chăng. (FRUS, 1961-1963, IV:59-61)
Tại Sài Gòn, Đại
sứ Lalouette cũng muốn hòa giải giữa ông Diệm và Cabot-Lodge. Nhân dịp Lodge đến
thăm xã giao, ngày 31/8, Đại sứ Pháp ca ngợi ông Diệm là quốc trưởng có khả
năng nhất ở Đông Nam á; nhưng không là một nhà chính trị, không biết ăn nói,
không biết cách gây thiện cảm với báo chí, v.. v... Phần Nhu rất thông minh, phụ
giúp Diệm đắc lực. Theo Lalouette, ông Diệm có thể chiến thắng CS. Hiện trạng
tại Việt Nam là do giới truyền thông tạo nên. Báo chí đã tạo nên sự xúc động
quá mức ở hải ngoại hơn trong nước. Trong thời Pháp thuộc, nhiều sư tự thiêu
nhưng chẳng gây nên phản ứng gì trong dân chúng. Tình hình đã êm dịu dần.
Phật tử được phóng thích, Luật số 10 sẽ bị rút lại. Các chùa sẽ được sửa chữa
do chính phủ chịu phí tổn. Một lễ sẽ được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Lệ Xuân sắp
rời nước trong vài tháng để thăm India và Mỹ. Lalouette thêm rằng các viên chức
Việt muốn được nói chuyện với Lodge, nhưng Lodge đứng xa, nên họ lùi lại. Rồi
Lalouette đi thẳng vào vấn đề, hỏi: “Cần làm gì để hài lòng Mỹ?” Lodge
đáp: “Loại bỏ vợ chồng Nhu.” Lalouette nghĩ rằng chuyện này không
được, và đề nghị đưa một ai đó lên làm Thủ tướng, giảm bớt trách nhiệm của Nhu.
Vẫn theo Lalouette, trong một hai năm nữa, chiến tranh du kích sẽ tàn đi. Việt
Cộng đang thất vọng, và tinh thần xuống rất thấp ở miền Bắc. Khi cuộc chiến
tranh du kích chấm dứt, sẽ có thể giao thương, gạo miền Nam, than miền Bắc. Sau
đó sẽ đi đến thống nhất. Khi Lodge từ biệt, Lalouette nói: Hãy trấn an dư luận
Mỹ và đừng đảo chính. (FRUS, 1961-1963, IV:58-9)
Lời khuyên của
Lalouette khó thay đổi định kiến của Lodge với chế độ Diệm, những người mà
Lodge đánh giá như “dối trá và tội phạm.” Chiều Thứ Hai, 1/9, Cabot-Lodge
áp lực ông Nhu phải thực hiện ngay lời hứa với Đại sứ Nolting từ ngày 10/8: Đó
là bắt Tổng Giám Mục Thục rời nước và Lệ Xuân ra đi. Phần ông Nhu cũng đồng ý
rút lên Đà Lạt.(VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 288, 325-6, 336-7, 339-41)
Ông Nhu chưa chịu buông
xuôi, quyết đổ thêm dầu vào lửa. Sáng ngày 2/9, ông Nhu tiếp Maneli ngay tại
Dinh Gia Long. Trưa đó, tờ Times of Vietnam đi một
bản tin nẩy lửa, 8 cột, với tựa "CIA Financing Planned Coup d' état"
[CIA tài trợ kế hoạch đảo chính], lên án Mỹ và CIA đã âm mưu tổ chức cuộc đảo
chính vào ngày 28/8 nhưng không bị Nhu bẻ gãy. Theo báo này, từ tháng 1/1963,
các chuyên viên đảo chính Mỹ—từng thành công ở Turkey, Guatemala, Đại Hàn,
nhưng thất bại ở Iran và Cuba—lũ lượt kéo tới Việt Nam. Mỹ đã tiêu
từ 10 tới 24 triệu MK để thực hiện đảo chính, và quĩ mật này Quốc hội
Mỹ không hề hay biết. Kế hoạch đảo chính thoạt tiên dự trù vào ngày 28/8, nhưng
phải ngưng lại vì Việt Nam đã ra tay trước, thiết quân luật từ ngày 21/8. Các
ký giả quốc tế ở Manila đã được “tin mật” rằng Diệm sẽ dừng lại ở Manila vào
ngày 29/8, trên đường lưu vong. Giờ mưu định đảo chính là 11 giờ tối ngày 28/8,
nhưng sau đó phải hoãn lại vì chính phủ Việt Nam biết rõ mọi chi tiết, và cương
quyết chống đến cùng, cho dẫu phải tử chiến trên đường phố Sài-gòn. Tổng thống
de Gaulle, vẫn theo báo này, tỏ ra rất bất mãn (indignant) vì một cuộc đảo
chính tương tự không dễ dàng thành công, chỉ làm lợi cho Cộng Sản. Với cuộc
tranh đấu của Phật Giáo, tờ báo Mỹ ngữ của ông Nhu thách đố các tu sĩ tiếp tục
tự thiêu. (CĐ số 747, ngày 2/9/1963, Sài-gòn gửi Paris; CLV, SV,
17:51)
Sự khiêu khích
mới này khiến Cabot-Lodge khó tha thứ cho ông Nhu. Nhưng người Mỹ thường tự hào
họ là người của hành động [doers]; và, chẳng mấy quan tâm đến những lời sỉ vả,
nhục mạ thô tục mà người Á Đông ưa thích (kiểu Mao Trạch Đông cho quân lính xếp
hàng dài theo biên giới Nga, đồng loạt tụt quần trận, chổng mông về phía phòng
tuyến Nga).
Bởi thế,
Cabot-Lodge đẩy mạnh hơn kế hoạch “chuyển tiếp” của mình. Để tạo thêm áp lực,
Lodge khai thác tối đa hành động ve vãn Cộng Sản của ông Nhu, với sự tiếp tay của
Pháp.
Như đã lược nhắc,
từ đầu năm 1963, nếu không phải sớm hơn, ông Nhu đã tìm cách tiếp xúc Cộng Sản
(kể cả Phạm Hùng, đặc phái viên miền Bắc). Môi giới của ông Nhu là Đại sứ
Lalouette và có thể ngay chính Giáo hoàng John XXIII (1958-1963). Nhân vật
Maneli, Đại diện Ba Lan (Poland) trong Ủy Ban Quốc tế Kiểm soát Đình Chiến
(ICC), chỉ là mặt nổi phụ thuộc, để ông Nhu dằn mặt người Mỹ về khả năng “ve
vãn Cộng Sản” của mình. Nhưng đây lại là bằng chứng hiển nhiên duy nhất Lodge
có trong tay về sự “phản bội” [chiến lược chống Cộng] của ông Nhu.
[Sau khi gặp
ông Nhu ngày 25/8, Maneli thú nhận với Sở CIA Sài-gòn rằng Đại sứ Pháp làm
trung gian cho Nhu tiếp xúc Phạm Văn Đồng. (Ngày 30/8, nhân viên CIA tiết lộ
tin trên). Cabot-Lodge bèn nhờ một người bạn tiếp xúc với Maneli để khai thác
thêm tin tức. Theo nhân vật còn dấu tên này, từ nhiều tháng trước, Nhu đã chủ
trương trung lập hóa và thống nhất Việt Nam. Maneli yêu cầu một người
[chưa rõ tên] làm trung gian để gặp Nhu, nói Maneli sẵn sàng làm chim xanh giữa
Nhu với Đồng. Nhu đồng ý cho vợ đi dự Hội nghị Dân biểu Quốc tế để giữ sĩ diện.
Trong khi đó, Nhu tuyên bố với các Tướng rằng đừng sợ Mỹ cắt viện trợ, vì nếu
thế, sẽ có những nguồn tài trợ khác. Nhu cũng có thể liên lạc với Hà-nội, yêu cầu
giảm bớt cường độ chiến tranh, trong khi thương thuyết một thỏa ước vĩnh viễn.
Mật báo viên
trên thêm rằng Nhu muốn thương thuyết với Mỹ. Nếu Cố vấn chính trị Trueheart của
Tòa Đại sứ gặp Nhu, có thể có giải pháp.] (FRUS, 1961-1963, IV:89-90)
Bởi thế, sau khi ông Nhu tiếp
Maneli ngay tại Dinh Gia Long vào sáng ngày 2/9 để nhờ bàn việc hiệp thương, thống
nhất với Phạm Văn Đồng, Lodge báo ngay về Oat-shinh-tân xin lệnh. (FRUS,
1961-1963, IV:84-5) Chiều ngày 2/9 đó, Lodge đích thân vào Dinh Gia Long gặp
ông Nhu. Để tăng cường áp lực, Lodge mang theo cả Đại sứ Italia d’Orlandi
và Khâm sứ Vatican d’Asta, vì hai người này là nhân chứng trong các âm mưu “ve
vãn Cộng Sản” của ông Nhu (mà theo hình luật đương thời như Sắc Luật 47 ngày
21/8/1956 và 10/59 ngày 6/5/1959), sẽ bị kết án từ chung thân khổ sai tới tử
hình). (VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 340-1, 102, 151).
Khó thể chối
cãi việc ve vãn Cộng Sản, và trước đề nghị của Mỹ, Nhu đồng ý sẽ từ chức, rút
lên Đà-lạt sau khi bãi bỏ Thiết quân luật, tức sau khi số nhân viên Mỹ tổ chức
đảo chính đã rời Việt Nam. Nhu cũng muốn đài phát thanh Mỹ ở Việt Nam ngừng đả
kích chính phủ; và tuyên bố từ nay người Mỹ nào vào Việt Nam cũng cần chiếu
khán [visas]. Lệ Xuân sẽ rời Sài-Gòn ngày 17/9 để dự Hội nghị các Dân biểu tại
Yugoslavia. Thục sẽ rời nước trong một tương lai gần. Nhu cũng đồng ý chính phủ
sẽ có một Thủ tướng. Về kinh viện, Nhu muốn được vay dài hạn, với lãi xuất thấp,
hơn là viện trợ. Như thế người Mỹ tránh được trách nhiệm về những gì người Việt
làm.
Nhu nói không
thể rời nước vì lý do tiếp xúc với Việt Cọng; những cán bộ VC này đã rất chán nản
và muốn ngừng hoạt động (?). Sáu tháng trước, một Đại tá VC muốn đào ngũ với 3
tiểu đoàn, nhưng Nhu khuyên ông ta ở lại biên giới Lào chờ cơ hội
thuận tiện. Một Tướng VC ở Miên cũng muốn gặp Nhu. Không những VC
đang thất vọng mà còn cảm thấy đang bị Bắc Việt lợi dụng. Nhu tiên đoán trong
tương lai BV phải tiếp tế bằng không quân. Tiếp vận đường biển đã bị ngăn cản,
và đường bộ cũng hầu như bất khả.(sic) Nếu tiếp tế bằng phi cơ, sẽ bị
phòng không bắn hạ.
Về cuộc gặp gỡ
Maneli, Nhu nói Maneli đã yêu cầu Nhu chú ý đến tuyên bố của de Gaulle [ngày
29/8] và Hồ Chí Minh [ngày 29/5], rồi hỏi Nhu muốn chuyển lời gì cho Phạm Văn Đồng.
Nhu trả lời “Chẳng có gì cả.”
Nhu cũng nói Trung Cộng đề
nghị bán 2 phi cơ U-40.
Theo đúng lớp
lang dự trù, tại Mỹ, trong buổi phỏng vấn truyền hình với Walter Cronkite trên
đài CBS ngày 2/9, Kennedy tuyên bố chính phủ Diệm đã "xa rời quần
chúng," cần thu phục lại sự yểm trợ của mọi người, và thay đổi về chính
sách cùng nhân sự. Cuộc chiến Việt Nam là của chính người Việt, Mỹ chỉ có
thể tiếp sức. Diệm không thể chiến thắng nếu tình trạng hiện tại không thay đổi.
Việc đàn áp Phật tử, Kennedy tiếp, rất không khôn ngoan. Không thể chiến thắng
bằng đường lối này. Kennedy hy vọng chính phủ [Diệm] phải thấy rõ rằng họ cần
thực hiện những bước để lôi kéo lại sự yểm trợ của đám đông trong cuộc chiến tối
thiết này. Được hỏi liệu chính phủ [Diệm] còn thời gian để lấy lại sự ủng hộ của
đám đông, Kennedy nói nếu thay đổi chính sách, và có lẽ với thay đổi nhân sự, vẫn
có thể lôi kéo được sự ủng hộ của quần chúng. Nếu chính phủ [Diệm] không thay đổi,
cơ hội để chiến thắng không được tốt. Về bài diễn văn của de Gaulle, Kennedy
tuyên bố không hiểu de Gaulle muốn gì. Tuy nhiên, cần lắng nghe những gì de
Gaulle tuyên bố vì de Gaulle không phải là kẻ thù của Mỹ. Kennedy cũng khen ngợi
Cabot-Lodge đã đặt quyền lợi quốc gia Mỹ lên trên sự nghiệp chính trị khi nhận
chức Đại sứ ở Việt Nam. (FRUS, 1961-1963, IV:tài liệu 50)
Trưa hôm sau,
3/9, Kennedy phê chuẩn công điện chỉ thị cho Lodge gặp lại Diệm. Đồng thời cho
phép Lodge và Harkins, nếu các Tướng tiếp xúc trở lại, cần khẳng định Mỹ không
thay đổi lập trường.(FRUS, 1961-1963, IV:100-3) Tối đó [10G35 ngày
4/9 VN], McNamara, Rusk và Bundy vội chỉ thị Lodge nối lại liên lạc trực
tiếp với Diệm mà không cần qua trung gian Nhu, vì mặc cả với Nhu chẳng khác nào
nhìn nhận sự thăng tiến của Nhu. Trong buổi gặp Diệm lần đầu, Lodge phải giải
thích về ý định của Kennedy qua bài diễn văn trên CBS: Kennedy rất mong chiến
thắng và hy vọng rằng chính phủ VNCH hiểu được tầm quan trọng của sự thay đổi
nhân sự. Lodge cần chứng tỏ sự bất bình của Mỹ về vấn đề đàn áp Phật giáo, vì sẽ
làm hại nỗ lực chiến thắng CS. Mỹ không muốn lật đổ chính phủ, nhưng sẽ tìm
cách cải thiện nó. Sau khi Lodge gặp Diệm, Harkins sẽ lại gặp Diệm và Thuần như
thường lệ để lo việc chiến tranh. (FRUS, 1961-1963, IV:104-6)
Như để trả lời
Kennedy và Lodge, ngày 4/9 Nhu sai Đính họp báo lần thứ hai. “Anh hùng quốc
gia” Đính giải thích về danh từ "aventurier internationaux"
bị vấp mắc trong tuần trước, và khẳng định tất cả các tướng lãnh Việt coi Ngô
Đình Nhu như lãnh tụ, và tất cả đều tin cậy Nhu sẽ mang đến chiến thắng CS.(Báo
cáo ngày 5/9/1963, Lalouette gửi Couve de Murville; CLV, 17:7; Đính
1998, tr. 418-20)
Trong khi đó,
khi Lalouette vào gặp, ông Diệm nói tình hình nghiêm trọng vì các sư trẻ cực
đoan đã thay thế những nhà sư lớn tuổi, khả kính cũ. (CLV, SV, d. 18) Nhu
thì tiết lộ với Lalouette là có thể dàn xếp với Việt Cọng để chấm dứt
chiến tranh, và để thực hiện việc này, Nhu sẽ yêu cầu Mỹ triệt thoái một số
quân. Thuật lại với Lodge chuyện này xong, Lalouette nhấn mạnh rằng
không thể thay Diệm-Nhu, và Mỹ phải hợp tác với họ. (FRUS, 1961-1963,
IV:111) Bởi thế, ngày 4/9, Lodge xin phép được giải quyết mọi việc với Nhu trước
khi gặp Diệm. Rusk đồng ý.(FRUS, 1961-1963, IV:111)
Việc này chưa
xong, việc khác đã xảy ra. Ngày Thứ Năm, 5/9, nhân viên ngoại giao Tây Germany
trao cho sứ quán Mỹ bài phỏng vấn Lệ Xuân trên báo Der Spiegel. Theo Lệ
Xuân, Lodge đang âm mưu loại bỏ hoặc ám sát Lệ Xuân. Tổng thống Diệm quá yếu,
cần sự yểm trợ của Lệ Xuân. Những khó khăn hiện nay là do báo chí bịa đặt và sự
can thiệp của Mỹ. (Lệ Xuân nhìn nhận với một nhân viên Mỹ là đã viết phần lớn
bài phỏng vấn này; FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 68)
Tối 5/9 [09G42
ngày 6/9 VN], Hilsman cho Lodge một vũ khí áp lực mới: Tiểu ban Viễn Đông của ổy
Ban Ngoại Giao Thượng viện tỏ ý nghi hoặc về khả năng lãnh đạo của Diệm-Nhu, và
sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Tiểu ủy ban muốn có một giải pháp cho cuộc khủng
hoảng hiện tại để có thể duy trì viện trợ. Thượng viện Mỹ nghĩ
rằng dân chúng Mỹ không muốn yểm trợ một chính phủ đàn áp dân chúng và các tổ
chức tôn giáo. Tiếp tục yểm trợ một chế độ như thế đi ngược lại nguyên tắc căn
bản dân chủ. Các vấn đề khiến Thượng viện lưu tâm nhất là đường lối nguy hại
của Diệm-Nhu, những nguy hiểm Mỹ bị đồng hóa với những chế độ đàn áp dân chúng
tại Việt Nam và các nơi khác, những bài tường thuật trên báo chí về việc Nhu
móc nối với Cộng Sản, sự thất bại của Mỹ khi không thể thay thế Diệm-Nhu, sự vắng
thiếu định hướng của Mỹ. (FRUS, 1961-1963, IV:113) Ngay sau khi được
công điện của Hilsman, Lodge trao cho đại sứ Italia và đại diện Vatican đọc, nhờ
họ gặp Nhu, bảo thẳng Nhu rằng vợ chồng Nhu phải rời Sài Gòn trong 6 tháng. (Ibid.)
Sáng ngày 6/9,
trong khi chờ d’Orlandi và d’Asta chuyển lời của mình, Cabot-Lodge sai nhân
viên CIA vào gặp Nhu. ìng Nhu tuyên bố chẳng dính líu gì đến bài báo trên Times
of Vietnam ngày 2/9; và ông Diệm không ưa Trần Văn Khiêm, nên không hề
có việc cho Khiêm tái lập Sở Nghiên Cứu (Mật vụ). Đồng thời, Nhu chỉ trích một
số nhân viên Mỹ cấp thấp tung tin chống chính phủ. Được hỏi về việc liên lạc với
Hà-nội, Nhu nói Đại sứ Italia d'Orlandi và đại diện India tại Ủy Ban Quốc tế Kiểm
Soát Đình Chiến, Goburdhun, đã yêu cầu Nhu gặp Maneli. Maneli khuyên Nhu nên lợi
dụng những lời tuyên bố của de Gaulle và Hồ Chí Minh để thương thuyết với Hà-nội,
và tự nhận đại diện cho Phạm Văn Đồng. Đề nghị miền Nam bán gạo và bia cho miền
Bắc, đổi lấy than đá. Tuy nhiên, Nhu chối việc thương thuyết với Hà-nội, nói chỉ
tiếp xúc Việt Cọng ở miền Nam. Nhu cũng hoàn toàn chống lại trung lập.
Về cuộc khủng
hoảng Phật giáo, Nhu cho rằng mình bị biến thành dê tế thần. Từ sau ngày 21/8,
Nhu vẫn theo đuổi chính sách hòa hoãn. Nhu cũng tuyên bố không chống Mỹ. Nhân
viên CIA không tin lời Nhu, cho rằng Nhu dối trá. (FRUS, 1961-1963, IV,
Tài liệu 69)
Tối đó, 6/9,
d'Orlandi và d'Asta gặp Nhu, chuyển chỉ thị ngày 5/9 của Hilsman là vợ chồng
Nhu phải ra đi. Nhu bị xúc động mãnh liệt, nói muốn thảo luận với Lodge. Hai đại
diện của Lodge trả lời rằng không còn gì để “mặc cả.” Nhu chỉ có một lựa chọn:
Rời khỏi Việt Nam trong 6 tháng. Tùy Nhu muốn nhận hay chối từ. (FRUS,
1961-1963, IV, Tài liệu 63)
Ông Nhu mất hẳn bình tĩnh,
tuyên bố:
Tôi là con ngựa thắng
cuộc. Họ phải bắt độ (bet) trên tôi. Tại sao họ muốn chấm dứt tôi? Tôi không muốn
chỉ làm cố vấn cho Tổng thống Diệm, mà cho cả Cabot-Lodge. Tôi có thể
rời Việt Nam một tháng, nhưng chuyện gì xảy ra cho 100 ấp chiến lược. Tôi đã biết
chuyện gì xảy ra trong giới nhà binh. Nếu tôi rời nước, họ sẽ cướp chính quyền.
Bọn cóc nhái [grenouillards] của CIA và USIS sẽ phá hoại nỗ lực chiến tranh.
Nhu nói thêm Lệ Xuân sẽ rời
nước ngày 9/9 để nghỉ hè ở ẽu Châu trong hai hay ba tháng. Nhu không rời nước,
chỉ từ chức, không dính líu gì đến ấp chiến lược nữa. Một thời gian sau, sẽ xuất
ngoại ba bốn tháng. Khi từ chức Nhu sẽ nói thẳng ra là bị đuổi đi [kicked
out]. (Ibid., Tài liệu 72)
Tại
Oat-shinh-tân, HĐ/ANQG họp liên tiếp trong ngày 6/9 [chiều và khuya ngày 6/9 tại
Việt Nam] về chính sách đối với chế độ Diệm. Ai nấy đều đồng ý vợ chồng Nhu phải
ra đi. Kennedy cũng muốn Lodge liên lạc trực tiếp với ông Diệm, không nên quá
tin tưởng ở các trung gian. Để có nhiều yếu tố hơn trước khi quyết định số phận
chế độ Diệm—tức duy trì ông Diệm hay thay bằng một lãnh đạo mới, như Nguyễn Ngọc
Thơ, Dương Văn Minh, v.. v...—Kennedy gửi Tướng Victor Krulak và Joseph
Mendenhall qua Việt Nam để nghiên cứu tình hình tại chỗ từ ngày 6 tới 9/9/1963. (FRUS,
1961-1963, IV:117-20)
Chiều đó [8G42
ngày 7/9 tại VN], Rusk chỉ thị Lodge mở lại liên lạc với ông Diệm, yêu cầu giải
quyết ngay các vấn đề khẩn thiết như bãi bỏ Thiết quân luật, phóng thích Phật tử
và học sinh, sinh viên, bỏ kiểm duyệt báo chí, giải tỏa các chùa chiền, v.. v...
Thời gian là yếu tố cực kỳ quan trọng. Rusk cũng yêu cầu Lodge nên cố tránh một
cuộc đương đầu hay giao tối hậu thư, mà phải giải thích cho ông Diệm biết nước
Mỹ đang hoạch định chính sách mới, trong khi chịu nhiều áp lực của báo chí, dư
luận và Quốc Hội. (FRUS, 1961-1963, IV:128-9) Tuy nhiên, Lodge chưa gặp
ngay ông Diệm mà có ý chờ ông Nhu thực hiện những gì đã hứa.
Hôm sau, 7/9,
do áp lực của Khâm sứ d’Asta và Cabot-Lodge, Tổng Giám Mục Thục lên đường qua
Roma cùng Giám mục Picquet. Có lẽ chẳng vui vẻ gì, ông Thục tuyên bố ở Roma rằng
CIA Mỹ đang bỏ ra 20 triệu Mỹ Kim để âm mưu đảo chính vào ngày 21/9 sắp tới. Thục
còn khẳng định các sư không tự thiêu mà bị giết bằng búa. Chẳng hiểu vì những lời
tuyên bố này, hay một lý do nào đó, Giáo Hoàng Paul VI hủy bỏ buổi triều kiến dự
trù, mà cũng chẳng đề cập gì đến việc thăng cấp Hồng Y. Vì mãi cuối tháng đó
Công đồng Vatican II mới tái nhóm, ngày 11/9, ông Thục bay qua New York để vận
động cho Lệ Xuân vào Mỹ “giải độc”—đòi hỏi “công lý,” như ông Diệm nói với
Lodge; nhưng dưới mắt Cố vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy là một hành động
biểu lộ “sự điên rồ tập thể của một gia đình cai trị” [collective madness in
a ruling family] chưa hề thấy sau thời các Nga hoàng. (FRUS, 1961-1963,
IV:175) Hồng y Spellman không chịu tiếp, nên chính phủ Mỹ phải can thiệp cho
Spellman gặp mặt ông Thục.
Bà Lệ Xuân cũng
rời Sài Gòn ngày 9/9 như ông Nhu đã hứa, để tham dự Đại hội nghị sĩ quốc tế
Yugoslavia và “giải độc.” Vì sứ mệnh nặng nề, Lệ Xuân mang theo một đoàn tùy
tùng, kể cả con gái là Lệ Thủy và một nữ bí thư. Nhưng ai nấy đều đoán biết
tham vọng chính trị của Lệ Xuân bắt đầu đi vào đoạn kết. Những lời nhục mạ Phật
giáo cùng cuộc tranh đấu bình quyền tôn giáo, xen kẽ với những lời đả kích cá
nhân Kennedy cùng viên chức Mỹ [“pinks”] của “Rồng Cái” trong những tuần
lễ kế tiếp chỉ mang lại sự bẽ bàng cá nhân và lòng khinh miệt, giận dữ với họ
Ngô. Phật tử trên thế giới và tình báo Mỹ cùng cha mẹ ruột Lệ Xuân sẽ dạy bảo
“Rồng Cái” thế nào là mặt trái của quyền lực—tức nỗi cay đắng, bẽ bàng của những
con sô cẩu [chó rơm] của Lão tử khi cuộc cúng tế đã qua.
[Thời gian này,
Mỹ bỗng mất một lá bài chính trị nuôi dưỡng bấy lâu. Tối Thứ Bảy, 7/9, Bộ trưởng
Thuần gặp Rufus Phillips (nhân viên cao cấp USOM), tiết lộ ông Nhu đang nắm hết
quyền lực trong nước. Thuần muốn từ chức, nhưng không dám vì sợ Nhu giết—ông
Nhu nghi rằng Thuần đã bị Mỹ mua.(FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 76) Hôm
sau, khi Trueheart đến thăm, Thuần lập lại những điều đã nói với Phillips và tỏ
ý không tin các Tướng dám hành động. [Theo ông Thuần, Trần Thiện Khiêm
trung thành với ông Diệm, nhưng có thể đang làm việc với Phạm Ngọc Thảo]. Thuần
rất lo ngại cho tính mạng mình vì trên danh sách thủ tiêu của Trần Văn Khiêm có
tên Thuần. Trong tổ chức của Khiêm có cả Đại tá Phước, tỉnh trưởng Vĩnh-long.
Thuần đặc biệt quan tâm đến việc Đại sứ Italia, d' Orlandi, tuyên bố rằng Thuần
sẽ làm Thủ tướng. "Bộ ông ta muốn tôi bị giết sao," Thuần than thở. Theo
Thuần, Nhu đang muốn tiêu diệt Thuần, nói với ông Diệm rằng Thuần là nhân viên
của Mỹ; bởi thế Diệm thay đổi thái độ với Thuần. LLĐB đã tung
truyền đơn nói Thuần và Bộ trưởng Tư pháp Bùi Văn Lương lĩnh của Mỹ hàng trăm
ngàn Mỹ kim. Thuần đã mang truyền đơn này vào than phiền với Diệm. Nhu
cũng tung tin đang được Lodge yểm trợ, và sẽ trở thành cố vấn chính trị của
Lodge. (FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 75) Trueheart nghĩ rằng Thuần đã bỏ
hết mọi hy vọng, chỉ lo toan cho tính mạng sống và sự an toàn của gia đình. Lá
bài Nguyễn Đình Thuần cũng chấm dứt từ đó.]
Chính sách “áp
lực và thuyết phục” của Mỹ vẫn tiếp tục. Ngày 8/9, David E. Bell,
Giám đốc chương trình viện trợ Mỹ, tuyên bố trong một buổi trực tiếp truyền
hình rằng Quốc Hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Diệm không thay đổi chính sách. Trong
khi đó Thượng Nghị sĩ Frank Church và một số người khác chuẩn bị nạp các dự thảo
luật đòi cắt viện trợ cho Việt Nam.
b. áp lực Nhu rời nước:
Ngày 9/9, sau
khi Lệ Xuân ra đi, Lodge mới gặp ông Diệm lần thứ hai sau ngày nhậm chức. Hai
người thảo luận nhiều vấn đề, đặc biệt là Lệ Xuân và Thục. (Lệ Xuân từng đe dọa
sẽ đưa vấn đề ra trước LHQ, và Nhu muốn yêu cầu Quốc Hội Mỹ điều tra chính sách
của Kennedy. Thục thì tuyên bố Mỹ đã trả 20 triệu MK để lật đổ chế độ Diệm).
Khi Lodge nói cần thay đổi nhân sự, như Nhu phải đi xa, ít nhất đến cuối năm
1963, ông Diệm hỏi ngược lại tại sao Nhu phải đi khi cần người trông coi ấp chiến
lược.
Về vấn đề Phật
giáo và những người bị bắt giữ, ông Diệm nói hiện chỉ còn giữ 70 tù nhân tham dự
biểu tình. Ông Diệm cũng nói đại diện Việt Nam tại LHQ sẽ chứng minh nhiều ngôi
chùa đã biến thành "nhà chứa" [bordellos], cảnh sát tìm thấy quần áo
lót đàn bà, hình ảnh khiêu dâm, một nhà sư đã phá trinh tới 13 thiếu nữ. Chính
phủ chỉ tảo thanh vài ba chục chùa trên tổng số 4,700 chùa. Tại chùa Xá Lợi, những
thành phần khiêu khích đã ném đồ vật lên đầu khách đi đường, nên phải có thái độ.
Học sinh, sinh viên bãi khoá vì chúng là Cộng sản. Khi Lodge đọc cho ông Diệm một
bản tin của Reuters, dẫn lời tuyên bố của Tổng Giám Mục Thục rằng các
tăng sĩ không tự tử mà họ đã bị giết bằng búa, ông Diệm chỉ im lặng. Trong
báo cáo về Oat-shinh-tân, Lodge nhận xét ông Diệm nặng mang tinh thần Trung cổ.(FRUS,
1961-1963, IV:Tài liệu 77)
[Ngày Thứ Năm, 5/9, khi trả
lời thư ngày 31/8/1963 của Tổng thư ký LHQ U Thant, ông Diệm cho rằng không hề
có việc đàn áp Phật giáo tại Việt Nam. Những cáo buộc trên thuần là “sản
phẩm tưởng tượng của thực dân.” Các nước Phi và á châu đã bị “đầu độc bởi
âm mưu quốc tế của phương Đông hoặc phương Tây chống lại VNCH.” Diệm cũng
khẳng định đã tìm ra một giải pháp cho vấn đề Phật giáo. (American Foreign
Policy: Current Documents, 1963, pp. 869-70; FRUS, 1961-1963,
IV:112)
Ngày này, phái
đoàn Krulak và Mendenhall vừa hoàn tất chuyến tham quan (khoảng 24 giờ) Việt Nam.
Họ được Lodge trình bày tóm lược buổi đối thoại với ông Diệm, và ý định muốn bắt
ông Nhu rời nước càng sớm càng tốt.
Trong phiên họp
ngày 10/9 tại Bạch Cung, hai bản báo cáo của Krulak và Mendenhall khiến Kennedy
và các cố vấn nhức đầu. Hai báo cáo này khác nhau như ngày với đêm, bộc lộ rõ
đường ranh phân chia trong giới cố vấn thân cận của Kennedy. Tướng Krulak cho rằng
cuộc chiến vẫn tiến triển tốt đẹp, và cuộc khủng hoảng chính trị hiện tại không
ảnh hưởng gì đến quân nhân hay vùng nông thôn. Mendenhall kết luận rằng không
thể thắng với anh em ông Diệm-Nhu, và người Việt bắt đầu thiếu lòng tin cả
chính phủ Mỹ.Nhiều người tại Huế và Sài-gòn nói Cộng Sản còn [tốt] hơn cả chế độ
Diệm. Nhiều người Việt không dám nói chuyện với Mỹ kiều, lo sợ bị bắt giam. Tại
sáu tỉnh miền Trung Mendenhall đi qua, các sĩ quan cao cấp yểm trợ
ông Diệm, nhưng sĩ quan cấp dưới bất mãn. Các cấp tỉnh trưởng, quận trưởng còn
trung thành, nhưng mọi công chức cấp dưới chống đối. Tình hình quân sự có vẻ
suy thoái trong tháng 8/1963. (FRUS, 1961-1963, IV:144-5)
Kennedy phải
chua chát hỏi Krulak và Mendenhall rằng thực chăng hai người cùng thăm một xứ.
Sau khi nghe thêm thuyết trình của Rufus C. Phillips và John Mecklin mới từ Sài
Gòn về, Kennedy tạm thời chưa có quyết định rõ ràng về ông Diệm, dù số phận ông
Nhu đã được định đoạt.
[Mecklin đề nghị nếu muốn
làm đảo chính, cần chuẩn bị trước để đưa quân chiến đấu vào miền Nam, vì các
chính phủ kế tiếp có thể suy yếu hơn Diệm. Phillips không đồng ý, vì sức mạnh của
Nhu đã được phóng đại quá mức, trong khi đánh giá thấp những người chống đối.
Nhu khiến người ta sợ và trọng, nhưng không trung thành. Hơn nữa,
dùng lời không đủ thuyết phục họ Ngô. Không cần phải cắt hẳn viện trợ mà cắt những
chương trình nào đó có hậu quả tâm lý nhắm vào Tung và Nhu. Phải sẵn sàng đương
đầu những khó khăn do Nhu gây ra, và trút trách nhiệm sự thoái hóa trong cuộc
chiến chống Cộng, nếu xảy ra, lên đầu Nhu. Không nên nghi ngờ các Tướng. Các Tướng
chưa làm đảo chính vì họ không có lính trong tay, chưa có kế hoạch và chưa tin
tưởng ở sự yểm trợ của Mỹ. Có thể dùng quân Mỹ trong trường hợp khẩn cấp như bảo
vệ thân nhân Mỹ, nhưng dùng quân Mỹ để đánh VC là một lầm lẫn nghiêm trọng;
IV:249-51]
Ngày 11/9/1963,
ông Nhu lại thả thêm một quả bom khiêu khích Cabot-Lodge: Times of
Vietnamloan tin bọn phiêu lưu quốc tế sắp chuẩn bị vòng thứ 2. Trong
khi đó, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình của giáo phận Sài Gòn ra thư luân lưu nói
về thông điệp ngày 26/8/1963 của Paul VI (Paulius P.P. VI): Người giáo dân
lương thiện phải trung thành với chế độ đang cầm quyền, bất kể sự chính thống của
chế độ.(CLV 46:292-7)
Chẳng hiểu có bị ảnh
hưởng bởi hai biến cố trên hay không, lúc 14G00 ngày 11/9, Lodge gửi công điện
yêu cầu có biện pháp mạnh với chính phủ Diệm. Đã đến lúc phải dùng biện pháp trừng
phạt [effective sanctions] hữu hiệu để lật đổ Diệm và thành lập chính phủ
mới; và yêu cầu nghiên cứu gấp việc ngưng viện trợ, di tản thân nhân viên chức
Mỹ để tránh rắc rối.
Là một cựu chiến
binh Thế chiến thứ hai, Lodge cho rằng các sĩ quan trẻ không báo cáo hết sự thực
về ảnh hưởng của biến cố Phật giáo đối với quân đội—họ không muốn làm thượng cấp
phật ý. Đa số sĩ quan trẻ đều xuất thân từ thành phố, nói chung là có học,
không thể dửng dưng nhìn hay nồng nhiệt ủng hộ chính phủ bắt giữ cha, chú, anh
chị em họ. Ngay các binh sĩ cũng vậy. Mức độ đàn áp học sinh, sinh viên rất thô
bạo. Có thể vài ba cán bộ Cộng Sản đã xâm nhập, nhưng sinh viên, học sinh không
phải là Cộng Sản. Tin đồn mới nhất là các công chức cũng sắp xuống đường. Và chắc
chắn các đoàn biểu tình sẽ chúi mũi dùi vào Mỹ nếu Mỹ không có thái độ. Con
thuyền quốc gia miền Nam đang chìm đắm, và để cứu vãn tình thế, bất cứ biện
pháp trừng phạt nào có thể sử dụng phải được thực thi, như tạm ngưng viện trợ.
Nếu muốn loại bỏ [get rid of] Nhu, nên lấy việc ngưng viện trợ để đạt mục
tiêu này. Lodge cũng đề nghị phải lôi cuốn [induce] những người muốn cầm
quyền, như Big Minh; và chấm dứt ngay tình trạng “chờ đợi” vì thành phần ưu tú
trong xã hội sẽ hết ý chí nếu chưa bị chế độ thủ tiêu. (FRUS, 1961-1963,
IV:171-4)
Ngay chiều 11/9
[rạng sáng 12/9 tại Việt Nam] Kennedy triệu tập một phiên họp tại Bạch Cung để
thảo luận về công điện của Lodge. Đa số ủng hộ việc cô lập Nhu. Tuy nhiên,
Kennedy chưa có quyết định rõ ràng về việc thay đổi chính phủ cùng những biện
pháp răn đe như ngưng viện trợ, di tản Mỹ kiều. Bộ Ngoại Giao Mỹ cho Lodge biết
quyết định trên, nhưng giải thích thêm rằng đang chuẩn bị kế hoạch di tản thân
nhân viên chức Mỹ, cô lập Nhu dần dần kể cả việc cung cấp viện trợ trực tiếp
cho các địa phương và đơn vị.
Rusk còn chỉ thị
Lodge gặp Diệm trình bày về thái độ của Quốc Hội Mỹ và nhất là những lời phát
biểu của Lệ Xuân. Tại Belgrade, Lệ Xuân tuyên bố rằng Kennedy là một chính
khách, nên thường hòa phục dư luận. Theo Lệ Xuân, nếu những dư luận đó
không đúng, giải pháp đứng đắn nhất không phải là đầu hàng mà phải nói lên sự
thực. Lời tuyên bố này khiến Kennedy muốn tìm cách bắt Lệ Xuân im lặng.(IV:
195-6) Hôm sau, 13/9, Lodge đề nghị chẳng cần gặp Diệm thường xuyên khi không
có đề nghị mới. Đồng thời xin nghiên cứu phản ứng trong trường hợp Ngô Đình Nhu
yêu cầu Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam như Lalouette và Thompson đã tiết lộ.(IV:205-6)
Ngày 14/9, Lodge vẫn chưa muốn gặp Diệm về Lệ Xuân vì, theo Lodge, khi gặp nhau
ngày 9/9, Diệm nói Lệ Xuân sẽ họp báo ở New York để đòi công lý, và có vẻ ủng hộ
Lệ Xuân.
Ngày
12/9, Lodge cũng viết thư riêng cho Rusk, yêu cầu chuyển thẳng cho
Kennedy, xin Lansdale thay Richardson. Theo Lodge, người Việt vẫn nghĩ rằng
Richardson thân thiết với Nhu, dù thực tế Richardson là một viên chức Mỹ xuất sắc,
tận tụy. (IV:205) Nhưng ngày 24/9, Lodge cho Rusk biết McCone không
đồng ý.
Ngày 12/9,
McCone cũng đưa ra một kế hoạch, theo đó tiếp tục yểm trợ Phó TT Thơ để đạt một
thỏa ước với Phật giáo, bãi bỏ thiết quân luật, cách chức Ngô Trọng Hiếu, thay
Nhu bằng một ủy ban tư vấn gồm những người như Trần Quốc Bửu, Trương Vĩnh Lễ,
Trần Ngọc Liễn. Đặt LLĐB dưới sự chỉ huy của Bộ TTM.
Trong khi đó,
ngày 12/9, Harkins báo cáo Cộng Sản đã xâm nhập vào phong trào tranh đấu Phật
Giáo. Và bây giờ, tới sinh viên. Harkins cũng tin rằng đang thắng trận.
(IV:194-5) Ngay chiều đó [6G00 ngày 13/9 VN], HĐ/ANQG thảo luận về công điện của
Harkins. McCone khẳng định cơ quan CIA không có tin tức nào về việc này.
(IV:199) McNamara muốn Harkins báo cáo chi tiết rõ ràng hơn. (Ibid)
Harriman, Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách chính trị vụ, cũng viết thư cho
Lodge, yêu cầu phê bình về công điện của Harkins. (IV:209)
Ngày Thứ Bảy,
14/9, Oat-shinh-tân chỉ thị cho Lodge tạm thời đình hoãn tiền viện trợ kinh tế
$18.6 triệu MK cho Nam Việt Nam.
Ngày 16/9, Lodge biện minh
về việc dùng áp lực viện trợ như sau: Mỗi ngày người Mỹ chi tiêu 1.5 triệu Mỹ
kim ở Việt Nam. Lodge muốn rằng viện trợ đó không tự động được giao cho Việt
Nam, bất kể thái độ của Việt Nam đối với Lodge, người đại diện Tổng thống Mỹ tại
địa phương. Lodge muốn anh em ông Diệm phải hiểu rằng mỗi lần gặp Lodge, anh em
họ Ngô phải mang mặc cảm xin ân huệ của Lodge. Với ông Diệm, thuyết phục vô giá
trị, vì đưa ra ý kiến gì, ông Diệm lập tức bị ông Nhu tẩy não. (IV:215-6)
Ngày 15/9, Rusk
cho lệnh Lodge phải tạm ngưng đảo chính trước khi Oat-shinh-tân có quyết định
rõ ràng. (IV:212)
Cơ quan CIA cũng trình lên
Kennedy một báo cáo về “Vấn đề Nhu” [Problem of Nhu]. Theo trưởng phòng
sưu tầm và nghiên cứu CIA, Nhu giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi cuộc
chiến chống Cộng; nhưng từ ngày 8/5, Nhu khiến cuộc tranh đấu của Phật giáo
bùng nổ lớn, và có khả năng tạo nên một cuộc khủng hoảng chính phủ. Nhu là vật
cản trở bất cứ giải pháp nào vì Nhu có ảnh hưởng lớn trên ông Diệm, Nhu nắm Mật
vụ và Lực lượng Đặc biệt, Nhu chống Mỹ, liên hệ với Cộng Sản Bắc Việt, và dân
chúng muốn Nhu phải ra đi. Ngay các Tướng Harkins và Krulak cũng muốn thấy Nhu
ra đi. Theo Krulak nhiều sĩ quan cao cấp sẽ ngả theo Hà Nội nếu Nhu lên cầm quyền.
Nhu đã loại bỏ
dần những nhân vật ảnh hưởng quanh Diệm, như Nguyễn Đình Thuần, Võ Văn Hải, v.
v.. Vì thế Diệm tin rằng cuộc tranh đấu của Phật giáo do VC xen vào. Điều này
khiến Diệm bị mất giá trị dưới mắt những người như Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu, Tướng
Lê Văn Kim, v.. v...
Nhu có tinh thần chống Mỹ,
cáo buộc Mỹ là thực dân, phong kiến, đang muốn biến Nam Việt Nam thành chư hầu.
Nhu tung tin một số viên chức Mỹ nằm trên danh sách sẽ bị thủ tiêu. Nhu nói rằng
Mỹ phải giảm áp lực vì đang đe dọa nền độc lập của Nam VN. Nhu liên tục nói dối
với Lodge và chánh sở CIA Sài-gòn về vai trò của mình trong cuộc tấn công chùa
chiền.
Nhu thường nói nếu Mỹ cắt
viện trợ sẽ có nguồn viện trợ khác. Nếu không có viện trợ, Nhu sẽ tìm cách
thương thuyết với Hà-nội. Tin Nhu bắt đầu thương thuyết với Hà-nội lan truyền rộng
rãi, khiến tinh thần binh sĩ hoang mang. Nhu tin rằng chỉ có Nhu mới cứu được
Việt Nam. Cả Thuần và Hải đều nói Nhu nghiện thuốc phiện từ hai năm qua.
Tướng Harkins tin rằng nếu
Nhu ra đi, tình hình Việt Nam sẽ sáng sủa hơn. Tướng Krulak tường thuật rằng
các sĩ quan sẽ hân hoan thấy Nhu ra đi. Liên đoàn trưởng Nhảy Dù [Cao Văn Viên]
rất muốn thấy Nhu ra đi. Đại tá Hoàng Văn Lạc nói Nhu không thể tồn tại quá 24
giờ nếu Mỹ tuyên bố ngưng yểm trợ. Trần Quốc Bửu cũng nghĩ rằng Nhu phải ra đi.
Theo Võ Văn Hải, Diệm khó thể phục hồi được lòng tin của dân chúng nếu
Nhu còn ở trong nước.
Trưởng Sở Sưu Tầm
đồng ý với Tòa Đại sứ Sài-gòn rằng Nhu không được ưa thích, bị ghét bỏ, sợ hãi
và không được tin cậy trong mọi giai tầng công chức, quân đội, trí thức thành
phố. Sự thù ghét Nhu bấy lâu ngày một gia tăng khiến người ta chỉ trích chế độ
đàn áp. Hughes cũng đồng ý với MACV rằng Nhu có thể thương thuyết với Hà-nội và
đại đa số quân đội không chấp nhận Nhu. (FRUS, 1961-1963, IV:212-5)
Trong khi đó,
phe đảo chính cũng bắt đầu nối lại liên lạc. Ngày Thứ Hai, 16/9, Trần Thiện
Khiêm mời một nhân viên CIA tới gặp, tuyên bố vẫn tiếp tục dự định đảo chính.
Theo Khiêm, các Tướng nóng lòng hơn khi thấy thêm nhiều chứng cớ về việc Nhu
móc nối Cộng Sản. Tuần lễ thứ hai của tháng 9, các Tướng đòi Diệm nhường cho 4
ghế Bộ trưởng Quốc Phòng, Nội Vụ, Chiến tranh Chính trị, và Giáo dục. Các Tướng
đề nghị Big Minh, André Đôn hay Raymond Khánh làm Bộ trưởng Quốc Phòng (hy vọng
là André Đôn sẽ được nhận), Tôn Thất Đính nắm Bộ Nội vụ (để Diệm dễ chấp nhận),
Trần Tử Oai hay Lê Văn Kim nắm Bộ Chiến tranh Tâm lý, và Trần Văn Minh (nhỏ)
hay Phạm Xuân Chiểu nắm bộ Giáo Dục. Ông Diệm tuyên bố sẽ cứu xét, nhưng
chưa quyết định, chờ tới sau ngày bầu cử Quốc Hội [27/9/1963]. Khiêm còn
tiết lộ Nhu nói với một số Tướng (như Big Minh, Lê Văn Nghiêm) về những cuộc tiếp
xúc với Maneli. Theo Nhu, Maneli đã mang tới đề nghị của Phạm Văn Đồng về việc
hiệp thương giữa Bắc và Nam; và Nhu đang nghiên cứu đề nghị trên, sẽ thông báo
cho các Tướng biết thêm những bước kế tiếp. Nhu còn nói Lalouette từng đề nghị
tương tự.
Ba Tướng chủ
mưu đảo chính là Minh, Khiêm và Khánh. Các Tướng Kim, Chiểu và những người khác
chỉ được tham khảo, nhưng không thiết lập kế hoạch. Cho tới hiện tại, kế hoạch
của họ chưa bị lộ. Phần Tôn Thất Đính đã được Nhu chỉ thị chĩa súng vào Conein
để dọa Conein. Đính tuyên bố đã được Mỹ cho 20 triệu đồng để làm đảo chính,
nhưng Đính từ chối, và báo cáo với Nhu. [Hồi ký Tướng Đính không nói đến việc
này] Khiêm cũng khẳng định các Tướng không theo Nhu nếu Nhu ngả theo Bắc Việt
hay muốn trung lập. ( FRUS, 1961-1963, IV:239-40)
Hai ngày sau,
Thứ Tư 18/9, một sĩ quan Mỹ đến gặp Tướng Minh tại trại Lê Văn Duyệt.
Ông Minh tuyên bố VC tiếp tục đoạt tiên cơ, kiểm soát nhiều dân chúng hơn chính
phủ. 80 phần trăm dân chúng không hiểu nên theo chính phủ hay VC. Diệm-Nhu
tiếp tục bắt giữ đối lập, học sinh, Phật tử, các nhà giam chật ních. Hai doanh
trại trong căn cứ Lê Văn Duyệt đầy tù nhân. Học sinh, sinh
viên đang ngả theo VC. Tham nhũng, hối mại quyền thế tràn lan. Hầu hết tỉnh trưởng
và quận trưởng là đảng viên Cần Lao, họ bắt dân phải hối lộ khi nhận
được viện trợ Mỹ. Tiền này chuyển vào quĩ đảng Cần Lao. Tổng Giám Mục
Thục nhúng tay vào “bất cứ việc gì ngoại trừ việc đạo.” Trái tim của binh sĩ
không dồn vào chiến tranh, Tướng Minh nhấn mạnh. Các sĩ quan trung cấp đều
trông đợi đảo chính. (FRUS, 1961-1963, IV:272-3; VNNB,I-C:
1955-1963, tr. 353-5).
Được hỏi ý kiến
về nhận xét của Tướng Minh, Harkins không đồng ý. Theo Harkins, Big Minh đã bị
nghi ngờ từ năm 1960, và không được nắm binh quyền. Minh không làm gì cho nỗ lực
chiến tranh mà chỉ than phiền, và tìm cách đảo chính. Những lời nhận xét của
Minh khó thể kiểm chứng. (FRUS, 1961-1963, IV:274-5, tài liệu 139)
Như để chứng tỏ thiện chí,
ngày Thứ Hai, 16/9, Diệm hủy bỏ lệnh thiết quân luật.
Trong khi đó, tại
Oat-shinh-tân, ngày Thứ Ba, 17/9, HĐ/ANQG Mỹ quyết áp lực Diệm phải tuân theo
chính sách của Mỹ. (Phillips chống lại việc đưa quân Mỹ vào Việt Nam để thực hiện
đảo chính). Kennedy chỉ thị cho Lodge là đã chấp thuận một kế hoạch tổng
quát để thực hiện những cải cách về nhân sự và chính sách tại Nam Việt Nam,
nhưng chưa thấy cơ hội tốt để loại bỏ chính quyền hiện tại. Dẫu vậy, Kennedy đồng
ý cho Lodge quyền được tạm ngưng giao viện trợ để tăng cường áp lực khi thương
thuyết, miễn hồ không cắt hoàn toàn viện trợ. Đồng thời, Oat-shinh-tân tham khảo
Lodge về 13 điểm cần làm ngay, như tạo tinh thần hòa giải, phóng thích Phật tử
và sinh viên học sinh, kiểm duyệt báo chí, việc sử dụng Lực lượng Đặc Biệt. Ngoài
ra, tìm cách đưa vợ chồng Nhu khỏi nước, thí dụ như đi nghỉ dài hạn khoảng 6
tháng. Kennedy còn thông báo sẽ gửi McNamara và Taylor qua Việt Nam để thị sát
tình hình. Kennedy nhấn mạnh rằng cần ý kiến của Lodge trước khi những
sách lược trên được thực thi. (CAP 63516 ngày 17/9; FRUS, 1961-1963,
IV:252-4) Lodge phản đối việc cử phái đoàn McNamara và Taylor, sợ rằng dư luận nghĩ
Mỹ tiếp tục yểm trợ Diệm. (Ibid., IV:255) Nhưng thực ra, có lẽ vì
McNamara và Taylor là hai người chống lại kế hoạch thay anh em ông Diệm-Nhu mà
nhóm Harriman và Forrestal cùng Bộ Ngoại Giao chủ trương. (Ibid.,
IV:251, 256) Hôm sau, 18/9, Rusk cho Lodge biết chuyến đi của McNamara cần thiết
để các chuyên viên quân sự nhận định tình hình tại chỗ. (Ibid., IV:Tài
liệu 128)
Tối 18/9, ông
Nhu dàn xếp mời vợ chồng Cabot-Lodge dự dạ tiệc, cùng Goburdhun (đại diện India
trong UBKSQT), và XLTV Ngoại trưởng Cừu. Ông Nhu lập lại nhiều lần rằng
các Phật tử đã bị giết mà không phải tự tử. Ngoại trưởng Cừu cùng một luận
điệu. Khi ông Nhu đề cập đến vấn đề dự thảo Nghị quyết của TNS Church, Lodge
nói đã có thêm 4 Nghị sĩ bảo trợ dự thảo này. Nhu vừa nói nói sẽ có hành động
“vì sĩ diện của Kennedy,” thì bị Lodge ngắt lời, nói vấn đề không phải là sĩ diện
của Kennedy mà là khả năng chung của Mỹ và VNCH để thực thi chính sách chống Cộng.
Từ tháng 5/1963, điều gây nguy hiểm cho chính sách chống Cộng ấy là dư luận xấu,
khiến tạo nên những mối nghi ngờ như thực chăng chính sách ấy xứng đáng để yểm
trợ. Rồi Lodge đề nghị Nhu nên rời nước một thời gian, ít nữa cho tới tháng 12,
sau khi việc chuẩn chi [cho tài khóa] đã hoàn tất. Ông Nhu cố biện bạch rằng
nếu ra đi, không ai trông coiThanh Niên Cộng Hòa, một lực lượng cần thiết
cho chiến thắng. Khi chia tay, Lodge lập lại nhiều lần là muốn Nhu trả lời càng
sớm càng tốt. Theo Lodge, Nhu là “một tâm hồn lạc lõng, một con người bị ma ám,
kẹt giữa cái vòng quái ác. Những Cơn Giận Dữ đang săn đuổi ông ta.” (Ibid.,
IV, Tài liệu 129)
Trưa hôm sau,
19/9, Times of Vietnam lại tố cáo những kẻ muốn
giao số mệnh Việt Nam vào bàn tay CIA. Theo báo này, những thành phần chủ
trương đảo chính gồm nhân viên USIS (Sở Thông tin Mỹ), đài Tiếng Nói
Hoa Kỳ (VOA), viên chức trẻ trong Tòa Đại sứ Mỹ và cơ quan USOM (Kinh
tế). Tuy nhiên phe quân sự chống lại. Các nhóm thân đảo chính muốn sử dụng VNQDĐ
và Đại Việt của Nguyễn Tôn Hoàn. Trong khi đó, Ủy ban Tương trợ Phật
giáo tìm cách móc nối với các giáo dân Ki-tô ở Huế. Những cuộc vận động này do
Thích Trí Quang, đang tị nạn tại tòa Đại sứ Mỹ và có liên hệ với Cộng Sản, cùng
sự yểm trợ của những tên "phiêu lưu ngoại quốc." Không
khí thủ đô VNCH trong ngày 19/9 cực kỳ nghiêm trọng. Có tin đồn Nhu ra đi,
Tướng Đính bị thất sủng, và sẽ có đảo chính.
Ngày 19/9 này,
Đại sứ Italia d’ Orlandi mật báo rằng Thuần tuyên bố chiến trường ngày một bất
lợi và Thuần muốn rời nước. Báo cáo tin trên về Oat-shinh-tân, Lodge nhận xét:
Tình hình ngày thêm tồi tệ ở Sài Gòn. Bây giờ chúng ta có cả chứng từ của Bộ
trưởng Quốc phòng và vị Tướng số 1—không phải là sản phẩm của xưởng sản xuất
tin đồn.” (FRUS, 1961-1963, IV:261n5) Lodge còn báo cáo trực tiếp lên
Kennedy rằng anh em ông Diệm-Nhu đang băn khoăn dò đoán thái độ Mỹ, nên Lodge
tiếp tục giữ thái độ xa cách, lạnh nhạt, đồng thời nghiên cứu những biện pháp
“răn đe” [sanctions], nhưng chỉ sử dụng khi đã chắc chắn có kế hoạch đảo
chính. Đại cương có thể tạm ngưng viện trợ về kỹ thuật và giao thông. Mục đích
chính là tập cho viên chức Việt thói quen phải xin Lodge viện trợ, nhờ thế có
thể thực hiện được những việc nhỏ. [Ngày 25/9, Ball đề nghị tạm ngưng chương
trình PL 480. (Ibid., IV:290-1)]
Về dự thảo ngày
17/9 của Kennedy, theo Lodge, Diệm không muốn chứng tỏ tinh thần hòa hoãn. Diệm
muốn khủng bố [terrorize] Phật tử và sinh viên, học sinh. Chắc chắn Diệm
không chịu trả LLĐB về Bộ Tổng Tham Mưu, vì như vậy khác nào tự
trói hai tay. Về thay đổi chính phủ, thực ra dân chúng chỉ oán ghét họ Ngô. Bộ
trưởng thì chỉ có Trương Công Cừu là “gia nô” [the most shameless sycophant
I have ever seen]. Lodge cũng nhắc đến nhận xét của Tướng Minh ngày 18/9,
và đề nghị xin được tiếp tục thúc dục Dương Văn Minh nếu Minh muốn đảo chính. (Ibid.,
IV: Tài liệu 130, 131)
c. Phái đoàn
McNamara-Taylor:
Ngày 17/9,
Kennedy quyết định gửi Bộ trưởng Quốc Phòng McNamara cùng Tướng Taylor, Cố vấn
quân sự, qua thăm Việt Nam để tường trình thêm. Bốn ngày sau, Kennedy gặp riêng
McNamara để thảo luận, rồi ngày 23/9, Kennedy chính thức ký chỉ thị chi tiết những
điểm cần tìm hiểu. Kennedy còn thêm rằng phái đoàn phải gặp Diệm hai lần; đòi hỏi
cải tổ; nhưng đừng đe dọa cắt viện trợ vì sẽ không hữu hiệu. (Ibid.,
IV:280-2) Ngày này, McNamara và Taylor lên đường ngay.
McNamara, tưởng
nên lập lại, không muốn thay đổi chế độ Diệm. Taylor cĩng vậy. Nhưng chuyến viếng
thăm Nam Việt Nam vào hạ tuần tháng 9, đầu tháng 10/1963 của McNamara và Tướng
Taylor đóng chặt hơn những chiếc đinh trên nắp quan tài Đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngày 25/9/1963,
như để chào đón phái đoàn McNamara-Taylor báo Times of Vietnam đả
kích lời phát biểu đòi cắt giảm viện trợ của Nghị sĩ Church và một số dân biểu
khác. Theo báo này khoản tiền viện trợ cần cắt là 1,440,000 Mỹ Kim chi dụng
cho các nhân viên CIA và 360,000 phụ chi khác để chuẩn bị đảo chính. (CLV, SV,
d. 14)
Chưa có tài liệu
nào chứng tỏ McNamara có được đọc bài báo trên hay không, và phản ứng ra sao.
Một trong những người đầu
tiên McNamara gặp ở Sài Gòn là học giả “Smith” [P. J. Honey]. Giáo
sư Honey nói tiếng Việt thành thạo, từng qua Việt Nam năm 1953 và 1960, lúc ấy
là giảng viên Trường Nghiên cứu Đông Phương và Phi Châu ở London. Theo Honey,
khi tới Việt Nam vài tuần trước, ông ta nghĩ rằng người Mỹ có thể tìm cách làm
việc chung với anh em ông Diệm. Nhưng Honey đã lầm. Vài năm qua, ông Diệm đã
già nua và chậm chạp quá mức. Lời chỉ trích chế độ trở thành công khai, từ giới
quân đội tới dân sự. Việc ông Diệm đánh phá Phật Giáo làm cho dân chúng sửng sốt.
Tất cả những yếu tố trên khiến Honey nghĩ rằng không còn cách nào khiến chế độ
cởi mở hay thay đổi quan điểm của ông Diệm. Đã đến lúc nước Mỹ phải quyết định
liệu có thể thắng được với chế độ Diệm hay chăng; riêng Honey cảm thấy câu trả
lời là không.(Ibid., IV:293-5; In Retrospect, tr. 74) Theo William
P. Bundy, người theo McNamara qua Việt Nam, lời chứng của Honey ảnh hưởng lớn
trên McNamara. (Ibid., IV:293n2)
Tại Sài Gòn,
ngày Thứ Sáu, 27/9, Richardson nói với McNamara rằng khủng hoảng Phật
giáo kết tinh những bất bình ngủ yên bấy lâu. Việc bắt giữ tập thể học sinh,
sinh viên (kể cả con em công chức, quân nhân) là điều xấu. Việc lùng bắt trong
đêm khiến dân chúng ghét chế độ hơn. Nguyễn Đình Thuần đã hai lần từ chối chức
Tổng thư ký Hội đồng chính phủ; dù Diệm nói trên thực tế Thuần sẽ hành xử như
Thủ tướng. Vì vậy Thuần đang bị canh chừng—gia đình họ Ngô coi Thuần như người
của Mỹ. Thuần thấy không ai có đạo đức giống Diệm, nhưng nếu họ Ngô tiếp tục cầm
quyền sẽ dẫn đến “đại họa” [disaster]. Muốn cứu đất nước cần áp lực Diệm
cải tổ, với điều kiện tiên quyết Nhu phải ra đi. Nhu khởi xướng cuộc tấn đánh
các chùa. Đừng đánh giá bằng quan sát phiến diện, dân chúng đang tức giận. Hồ Tấn
Quyền cũng không thể thuyết phục được chính cha mình về giá trị của chính phủ.
Dân chúng ghét Lệ Xuân và em Lệ Xuân (Khiêm). Nếu Nhu định lên thay Diệm, chắc
chắn sẽ có chiến tranh. Công An, Mật Vụ không những chỉ bắt giữ mà còn bắt cóc
dân chúng, ngày cũng như đêm, chẳng khác gì Kadar ở Hungary. Quản nhiệm tờTự
Do, tờ báo bị nghi thân Mỹ, cũng đã bị bắt. Các Bộ trưởng đều ứ đến cổ, muốn
từ chức, nhưng sợ hậu quả. Trong nhà cựu Ngoại trưởng Mẫu có tới 36 nhân viên
an ninh khi ông Mẫu sắp rời nước. Thuần có tên trong danh sách bị ám sát của
Khiêm—một tên điên và ẩn ức tình dục. Bộ trưởng Kinh tế, một tín đồ Ki-tô cuồng
tín, nói đêm qua mất ngủ vì những lời tuyên bố chống Mỹ của Nhu. Chỉ có CS hưởng
lợi. (FRUS, 1961-1963, IV:301-3)
Trong thời gian
ở Việt Nam, McNamara cũng được dịp chứng kiến cuộc bầu cử Quốc Hội nhiệm kỳ thứ
ba (1963-1967). Một trong những ứng cử viên độc lập là Nguyễn Trân bị loại.
Không một ứng cử viên đối lập nào được tranh cử. Cũng may, mãi tới ngày 7/10 mới
công bố kết quả, bằng không McNamara sẽ thấy được rõ hơn nền “dân chủ” ở miền
Nam: Trong số 123 người mới đắc cử, có 60 dân biểu đương nhiệm (25 người cũ thất
cử). 96 người được chính quyền ủng hộ đắc cử: 55 người thuộcPhong Trào Cách
Mạng Quốc Gia (CMQG), 19 phụ nữ mà tất cả đều thuộc Phong Trào
Liên Đới Phụ Nữ (LĐPN). Phạm Văn Thùng và Trần Sanh Bửu bị hai người
Việt gốc Hoa đả bại. Đây là hai Dân biểu gốc Hoa đầu tiên. Theo chính phủ Diệm,
92.82% cử tri đi bầu. (IV: Tài liệu 155) Hai vợ chồng ông Nhu đều đắc cử trên
99 phần trăm dân số tại hai tỉnh mà Cộng Sản đã kiểm soát hầu hết vùng nông
thôn.
27/9: CIA báo
cáo rằng anh em họ Ngô không còn biết lý lẽ nữa [no longer
“rational.”](IV:298)
Buổi thảo luận với ông Diệm
tại Dinh Gia Long chiều ngày Chủ Nhật, 29/9, có lẽ là thùng nước đá lạnh đổ lên
thiện cảm của McNamara và Taylor nói riêng, chính phủ Kennedy nói chung.
McNamara cố xen vào những lời độc thoại của ông Diệm về thành quả tốt đẹp của
chế độ mình, nói thẳng rằng những biện pháp đàn áp Phật tử gây trở ngại cho nỗ
lực chiến tranh. McNamara cũng đề cập đến những lời tuyên bố "vô trách nhiệm"
của Lệ Xuân, như gọi quân nhân Mỹ là những tên lính đánh thuê bé nhỏ [little
soldiers of fortune]. Ông Diệm, dĩ nhiên, hết sức bào chữa cho Lệ Xuân,
cũng như việc bắt giữ sinh viên, học sinh và tấn công các chùa đêm 20 rạng
21/8. Lệ Xuân, theo ông Diệm, đã bị đả kích tàn nhẫn mấy tháng qua và có quyền
tự vệ, dù đôi khi quá đáng. Sinh viên học sinh đã bị những tay gây rối xúi dục,
sau khi bị bắt đã hối cải đồng thanh ca tụng chế độ. Về việc đàn áp Phật giáo,
McNamara “lạnh cóng” khi nghe ông Diệm nói rằng “lỗi lầm” của ông trong vụ Phật
giáo là “đã quá tử tế [too kind] với Phật giáo.” (McNamara, In Retrospect, tr.
76) Ông Diệm còn khoe đã giúp đỡ Phật giáo, số chùa tăng gấp đôi dưới chế độ Diệm.
Rồi lập lại những gì báo chí thân chính đã viết: các chùa chiền trở thành chốn
hành lạc tập thể, bất cứ ai cũng có thể trở thành tăng ni nếu cạo đầu và mặc áo
màu vàng; một trong ba nhà sư tị nạn tại USOM là cựu cảnh sát viên đã bị cách
chức vì thiếu khả năng, sống lang thang cho tới hai ba tháng trước rồi tự xưng
là tăng và xin tị nạn. (FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 158; Gravel, II:216).
McNamara hiểu rằng ông Diệm không chịu nhân nhượng điều gì, và hình như nghĩ rằng
cứ giải thích với người khác về những vấn đề tại Việt Nam là mọi chuyện được giải
quyết. (McNamara, In Retrospect, tr. 75-7; FRUS, 1961-1963,
IV:321)
[Sau khi đổ vào miền Nam
hơn 2 tỉ Mỹ kim suốt 9 năm dài để duy trì chế độ họ Ngô, các quan chức Mỹ đang
đối diện chứng nhức đầu quen thuộc của Toàn quyền Pierre Pasquier ba chục năm
trước: Anh em họ Ngô tìm mọi cách bảo vệ quyền lợi của gia đình mình bằng mọi
giá, bất kể thủ đoạn. (Xem Vũ Ngự Chiêu,Các vua cuối nhà Nguyễn, Tập
III)].
McNamara và
Taylor cũng tìm cách gặp nhóm Tướng Minh. Từ ngày 26/9, Trần Thiện Khiêm đã gặp
nhân viên CIA để duy trì đường dây liên lạc. Theo Khiêm, cuộc tiếp xúc này do lệnh
của “Big” Minh. Khiêm nói thêm rằng cũng biết phe dân sự đang âm mưu đảo
chính, và Diệm đã cử Trần Kim Tuyến làm đại diện ở Cộng Hòa Ả Rập. (FRUS,
1961-1963, IV:Tài liệu 149.(IV:291-292)
Buổi tối ngày 29/9, Tướng
Taylor và McNamara “tình cờ” gặp Tướng Minh tại sân quần vợt tại Câu Lạc Bộ Sĩ
Quan, và muốn gợi chuyện vào lúc nghỉ giữa hiệp. Big Minh chỉ trao đổi những
câu xã giao, và hẹn gặp Taylor bất cứ lúc nào tại văn phòng. (Swords and
Plowshares, tr. 297-8) Tuy nhiên, mãi tới ngày 1/10, Taylor mới mượn cơ hội
đến chào từ biệt để nghe Big Minh tâm sự rằng “quê hương đang bị xiềng xích và
chẳng có cách nào tháo ra.”(FRUS, 1961-1963, IV:326-7)
Theo đúng lịch
trình, McNamara và Taylor gặp ông Diệm lần thứ hai trước buổi dạ tiệc tại Dinh
Gia Long.(Swords and Plowshares, tr. 298) Nhưng thái độ ông Diệm đã rõ:
McNamara chẳng thể khuyên bảo ông Diệm được điều gì.
Ngày Thứ Hai 30/9, McNamara
và Taylor gặp Phó Tổng Thống Thơ. Ông Thơ nhận định rằng nỗ lực Mỹ ở Việt Nam cần
có 3 đặc tính: mau chóng, hữu hiệu, và thông minh. Mỹ mới có hai đặc tính đầu,
còn thiếu đặc tính thứ ba—chưa dùng sức mạnh một cách thông minh. Thể chế cảnh
sát trị ở miền Nam tạo nên nhiều bất mãn. Tình trạng bất mãn không chỉ ở thành
thị mà lan tràn ở vùng thôn quê. Chỉ có từ 20 tới 30 ấp chiến lược được an toàn.
Không thể thuyết phục mà cũng không nên cắt viện trợ. Nếu đưa quân Mỹ vào VN để
làm đảo chính thì quá “khờ dại.” Vấn đề này có thể tìm hỏi Vũ Văn Mẫu. (FRUS,
1961-1963, IV:321-3; Gravel, II:249) (ý kiến của ông Thơ, người được Mỹ trù
tính đưa lên thay ông Diệm nếu có đảo chính, rất có ảnh hưởng với McNamara.
Nhưng McNamara không nhắc gì đến cuộc gặp ông Thơ trong hồi ký Inretrospect,
mà chỉ mượn tỉ lệ ước lượng 50-50 chiến thắng Cộng Sản của Honey khi
bàn về việc giữ ông Diệm; tr. 78)
Ngày 30/9 này,
McNamara còn gặp Khâm sứ Vatican d’ Asta, gốc Sicilian, người hiểu biết rõ về
gia đình họ Ngô. Theo d’ Asta, công an-mật vụ tra tấn nạn nhân. Hiện nay ông Diệm
và Giáo hội xa cách nhau dần. Giới trí thức nghĩ rằng ông Diệm vẫn còn chỗ dụng,
nhưng gia đình Diệm phải ra đi. Nhiều người nghiêng về phía trung lập hay ngả
theo VC. Nếu ông Nhu nắm trọn quyền, việc đầu tiên ông Nhu sẽ làm là
yêu cầu Mỹ triệt thoái, rồi thương thuyết với Cộng Sản, vì ông Nhu nghĩ rằng
mình sẽ trở thành lãnh tụ của cả Việt Nam. D’ Asta đề nghị phải thay ông Nhu
ngay. Vẫn theo d’ Asta, không một giáo sĩ nào dám trái ý Tổng Giám Mục Thục. Ông
Thục đã khiến họ sợ hãi. Không thể lý luận với Nhu, Lệ Xuân, hay Thục. Điều duy
nhất phải làm là ép Nhu ra đi. Dân chúng không hiểu thái độ người Mỹ ra sao.
Chính phủ Mỹ không có một chính sách rõ ràng nào. (FRUS, 1961-1963,
IV:tài liệu 160; In Retrospect, tr. 74-5)
Cũng trong ngày
Thứ Hai, 30/9, William H. Sullivan, cố vấn Liên Hiệp Quốc của Bộ Ngoại Giao,
báo cáo về những cuộc tiếp xúc với XLTV Đại sứ Pháp, Trưởng đoàn Canada
trong UBQTKSẦC về vấn đề liên hệ Bắc-Nam. Họ nghĩ rằng việc Ngô Đình Nhu móc nối
với Hà Nội chỉ là tin đồn, tuy nhiên chẳng phải không thể xảy ra. Miền Bắc đang
gặp khó khăn kinh tế, muốn hiệp thương. Ngoài ra họ muốn trục xuất Mỹ để giảm bớt
ảnh hưởng và áp lực của Trung Cộng. Ông Nhu có hai lý do để bắt tay miền Bắc:
Nhu tin đủ khả năng đả bại VC, và muốn đuổi người Mỹ. Nhu đã thảo luận với Đại
sứ Lalouette vấn đề này, hy vọng sẽ thương thuyết vào cuối năm. Tuy nhiên, ông
Nhu lại tiết lộ với ký giả Joseph Alsop, bởi thế người Pháp không còn tin Nhu nữa.
(FRUS, 1961-1963, IV:tài liệu 161)
Ngày 1/10, như
đã lược nhắc, Tướng Taylor đến chào từ biệt Big Minh. Theo ông Minh, cuộc chiến
gặp nhiều khó khăn. Ông Minh ngại rằng chiến thắng cuối cùng chưa có dấu
hiệu gì. Vấn đề Phật giáo, đây là cuộc tranh chấp giữa Phật giáo và Ki-tô. Các
viên chức tỉnh đã nhường cho Ki-tô giáo nhiều đặc ân. Những cuộc biểu tình của
sinh viên, học sinh phản ảnh sự bất bình của cha mẹ. Có thể Cộng Sản đã phần
nào xúi dục, nhưng căn bản là sự bất công thấm nhập mọi giai tầng xã hội. ìng
Minh cảm thấy quê hương bị xiềng xích khó nỗi cựa quậy. Tướng Taylor đề nghị
ông Minh có thể liên lạc với mình qua Tướng Harkins bất cứ lúc nào. (IV:326-7)
Ngày 2/10,
McNamara và Taylor bay về Mỹ, và vắn tắt thuyết trình với Kennedy về chuyến
tham quan Việt Nam. Hai người đề nghị phải áp lực Diệm thay đổi. Quân
lực VNCH phải hoạt động mạnh hơn ở vùng IV để củng cố các ấp chiến lược. Đồng
thời, tuyên bố sẽ rút 1,000 quân vào cuối năm. Về chính trị, ép Diệm phải
cải cách, và sẽ dùng cách ngưng viện trợ vài ba chương trình làm áp lực. Không
đồng ý đảo chính, nhưng đề nghị nên tìm một lãnh đạo mới. (Gravel, II:216; US-Vietnam
Relations, 1945-1967, Bk 12, tr. 554-73; FRUS,
1961-1963, IV:336-46 [tài liệu 167])
Chiều đó,
HĐ/ANQG họp bàn về báo cáo McNamara-Taylor. Kennedy chấp thuận tất cả đề nghị của
McNamara và Taylor, nhất là việc triệt thoái 1,000 quân vào cuối năm 1963. Tuy
nhiên, thời hạn rút quân không được công bố. Bạch Cung ra thông cáo về chuyến
qua Việt Nam của McNamara và Taylor như sau: Tình hình quân sự có tiến triển,
có thế rút 1,000 quân. Tình hình chính trị nghiêm trọng. Mỹ tiếp tục chống lại
những hành động đàn áp tại miền Nam. Nhưng chính sách của Mỹ vẫn là giúp dân
chúng tại đây đả bại xâm lăng và xây dựng một xã hội hoà bình, tự do. (Gravel,
II:188; FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 167, 169, 170 (Record of
Action No. 2472, 2/10/1963); In Retrospect, tr. 79-80) [Sau này là
NSAM 263 ngày 11/10/1963; US-Vietnam Relations, Bk 12, tr. 578]
[Thứ Sáu, 4/10/1963, Đại sứ
Pháp tường trình về báo cáo McNamara-Taylor: Mỹ đang đối diện sự nguy hiểm là,
theo Sullivan, Ngô Đình Nhu sẽ chờ cơ hội mà Mỹ sẽ đặt ở Nam Việt Nam một
guồng máy quân sự đủ mạnh và ông ta đủ quyền lực để đề nghị với Bắc Việt một cuộc
ngưng bắn mà điều kiện sẽ là sự triệt thoái quân Mỹ. (CĐ số 5614-18, 4/10/1963;
CLV)]
Nguyên Vũ Vũ ngự
Chiêu
Houston, 6/10/2001
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire