Nói về ngưạ, có thể văn chương nước tàu đề cập đến nhiều nhất, nhất là giá trị của nó trong lịch sử và văn hoá.
Cuối bài, tôi sẽ trích một bài viết về chủ đề này với bài sưu tầm đầy đủ hơn lời giải thích vắn tắt.
Dùng một con ngựa đất để làm đề tài cho một bài thơ, anh Trần Văn Lương cũng muốn nói lên một tâm sự nào đó.
Những bạ̣n thơ của anh, qua những bài phỏng dịch hay phóng dịch với những thề loại thơ khác nhau gửi đến chúng ta một chút thơ thẩn trong vườn chơi chữ nghĩa.
Riêng tôi, có lẽ vì gần những ngày lễ cuối năm, với một chút ảo giác về những con thú trong bộ truyện phù thủy của nhân vật Harry Potter, tôi đã đem con "vong mã" cho vào bài thơ phóng dịch của mình để tạo ra một không gian nửa thật, nửa hư ảo để quý anh chị có thể lạc vào một không gian có chút kỳ bí như anh Lương đã vẽ ra.
Kính mời quý anh chị bước vào thế giới ảo với vườn văn chương thơ phú của groupe Cát Bụi, Hương Xuân 2016.
Caroline Thanh Hương
Kính gửi quý anh chị con cóc cuối tuần.
Dạo:
Ngựa bùn đưa khách qua sông,
Ngựa
kia tới bến, người không đến bờ.
Cóc
cuối tuần:
泥 馬 涉 江
夜 客 騎 泥 馬 涉 江,
風 狂 浪 怒 水 茫 茫.
求 生 夜 客 江 中 死,
泥 馬 無 心 到 舊 莊.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Nê
Mã Thiệp Giang
Dạ khách kỵ nê mã thiệp giang,
Phong cuồng, lãng nộ, thủy mang mang.
Cầu sinh, dạ khách giang trung tử,
Nê mã vô tâm đáo cựu trang.
Trần Văn Lương
Dịch nghĩa:
Ngựa
Đất Lội Qua Sông
Người khách đêm cưỡi ngựa đất (bùn) qua sông.
Gió nổi điên, sóng nổi giận, nước mênh mông.
(Vì) tham cầu sống (nên) người khách đêm chết giữa
lòng sông. (1)
(Vì) vô tâm nên ngựa đất đã tới (được) ngôi nhà cũ.
(2)(3)
Chú thích:
(1) Phúc Âm Thánh Luca 17:33
Ai tìm cách giữ mạng sống mình thì sẽ mất,
và ai liều bỏ mạng sống mình, thì sẽ giữ được.
(2) Bích Nham Lục tắc 1: Đạt Ma Khoách Nhiên
Cử:
Lương Vũ Đế hỏi Đạt Ma:
- Thế nào là Thánh
Đế Đệ Nhất Nghĩa (chân lý tối thượng)?
Đạt Ma nói:
- Trống không chẳng có gì là thánh cả.
Vũ Đế hỏi:
- Trước mặt Trẫm
là ai?
Đạt Ma nói:
- Không biết.
Đế không hiểu. Đạt Ma bèn sang sông qua Ngụy. Vũ Đế sau đó
hỏi Chí Công.
Chí Công nói:
- Bệ hạ có biết đó
là ai không?
Vũ Đế nói:
- Không biết.
Chí Công nói:
- Đó là Quan Âm Đại
Sĩ đến truyền tâm ấn Phật.
Vũ Đế ân hận, sai sứ đi tìm mời Đạt Ma.
Chí Công nói:
- Đừng nói chuyện
bệ hạ sai sứ đuổi theo, dù cho sai cả nước đi thì người ấy cũng không trở lại.
Trích lời Bình
của Viên Ngộ:
...
Vũ Đế ân hận tiếc nuối, tự soạn bài văn trên bia:
- Than ôi, thấy mà
không thấy, gặp mà không gặp, nay ư xưa ư, oán thay hận thay.
Rồi lại than rằng:
- Tâm
mà không thì trong sát na đến được diệu giác, tâm mà có thì ngàn kiếp đọa
luân hồi.
(3) Bích Nham
Lục tắc 85: Triệu Châu Hài Tử
Cử:
Có ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Trẻ sơ sinh có đầy
đủ sáu thức hay không?
Triệu Châu nói:
- Giống như trên
dòng nước chảy mạnh mà chơi đánh cầu.
Ông tăng hỏi Đầu Tử:
- Trên dòng nước
chảy mạnh mà đánh cầu, thế là nghĩa lý gì?
Đầu Tử nói:
- Niệm niệm không
ngừng chảy.
Trích lời Bình
của Viên Ngộ:
... Không tạo tác, không vọng tưởng. Như mặt trăng mặt trời
vận chuyển trong không, chẳng lúc nào ngưng nghỉ mà cũng chẳng có nói rằng ta
có nhiều danh tướng. Như trời che khắp
cả, như đất gánh đỡ tất cả. Vì vô tâm
cho nên mới nuôi lớn vạn vật mà chẳng nói ta có rất nhiều công hạnh. Trời đất
vì vô tâm nên mới trường cửu, nếu
hữu tâm thì bị giới hạn.
Phỏng dịch thơ:
Ngựa Đất Qua Sông
Khách đêm tối cưỡi ngựa bùn vượt sóng,
Gió giông gào, con nước rộng mênh mông.
Tham sống còn, người chết dưới lòng sông,
Tâm trống rỗng, ngựa thong dong về bến.
Trần Văn Lương
Cali, 12/2016
Lời bàn của Phi Dã Thiền
Sư:
Ngựa bùn đi qua nước mà không rã? Quả có lý
này ư ?
Ngựa vô tâm, ngựa còn. Người tham cầu,
người mất.
Hỡi ơi, đến chỗ này thì lão tăng còn biết
nói gì nữa đây?
Bồi hồi chợt nhớ đến câu "Phật bùn
không qua nước" (*) của lão hán Triệu Châu.
(*) Bích
Nham Lục tắc 96 : Triệu Châu Chuyển Ngữ
Triệu Châu dạy chúng bằng
ba chuyển ngữ: Phật vàng không qua lò, Phật bùn không qua nước, Phật gỗ không
qua lửa.
Nhị vị Thanh Hương cùng Văn Lương quý mến,
Lại thử dùng Lục Ngôn Thi xem anh chi thấy sao ?
ĐÊM CƯỠI NGỰA BÙN QUA SÔNG
Dạo :
Người dong ngựa đất qua sông
Ngựa sang được bến ,người không tới bờ
Phỏng dịch
Đêm người ngựa đất qua sông
Gió mưa cuồng ,nước mênh mông
Người ham sống đành vong mạng
Ngựa vô tư lại thành công
LTĐQB
Bravo anh Bái. Anh đúng là cao thủ về thể thơ 6 chữ này. Đúng là nghề của chàng :-)))
Rất đặc biệt. Hy vọng anh sẽ tiếp tục đều đều. Tôi thích các bài này lắm.
NGỰA ĐẤT QUA SÔNG
Ngựa đất cưỡi qua sông.
Sóng, gió, nước mênh mông.
Tham sống, đêm khách chết.
Vô tâm, ngựa hồi hương.
Mùi Quý Bồng
(phỏng dịch)
12/08/2016
Cám ơn anh MQBồng. Sau lục ngôn tới ngũ ngôn, mỗi người một vẻ.
Bravo quý anh.
Sau khi phóng dịch bài thơ của anh Trần Văn Lương, tôi thấy bài thơ của mình vẫn chưa đủ hết các từ trong bài thơ xướng.
Duy có câu chót đã làm tôi có nhiều suy ngẫm.
"Triệu Châu dạy chúng bằng
ba chuyển ngữ: Phật vàng không qua lò, Phật bùn không qua nước, Phật gỗ không
qua lửa."
Mời đọc thêm bài trong
Ngựa Đất Tất Qua Sông.
Cưỡi con "vong mã"* há qua sông
Sóng cuộn, phong ba nước nước không
Nuốt chửng đại dương người cố sống
Ung dung ngựa đất thoát diệt vong.
Thanh Hương
09 tháng 12 năm 2016
Vong mã
Vong mã có hình dáng giống một con ngựa nhưng không có lông, chúng có cánh như cánh dơi, chúng vô hình với mọi người, chỉ có những ai đã từng chứng kiến cái chết mới có thể nhìn thấy chúng. trường Hogwarts dùng vong mã để kéo xe cho những học sinh năm 2 trở lên
Mời đọc bài viết về chuyện các con ngưạ được sưu tầm trên net của quan thai
CON NGỰA TRONG NỀN VĂN HÓA TRUNG QUỐC
Hiếu Trang Văn Thái hoàng Thái hậu là mẹ của Vua Thế Tổ Thuận
Trị nhà Mãn Thanh, và là bà nội của Vua Thánh Tổ Khang Hi. Bà là người đã trực
tiếp dạy dỗ Vua Khang Hi từ khi ông còn bé. Mặc dù họ là người Mãn tộc và là
dân tộc đi thống trị, bà vẫn khuyến khích nhà Vua trong việc học tập để hấp thu
những tinh hoa của Văn hóa Hán tộc, bởi vì bản thân bà cũng rất chuộng Văn hóa
của người Hán, là dân tộc bị trị. Trước khi mất, Thái hậu dặn dò nhà Vua rằng: “Tổ
tiên chúng ta ngồi trên lưng ngựa mà lấy được thiên hạ, cho nên phải nhất thiết
coi trọng việc võ bị. Nhưng muốn giữ được thiên hạ thì phải chăm lo việc chính
sự và noi theo đạo đức của thánh hiền”. Ở đây, khi nhắc đến cái công
nghiệp khai quốc to lớn của triều đại Mãn Thanh, bà Thái hậu Hiếu Trang đã đề
cao hai yếu tố: thứ nhất là “tổ tiên chúng ta”, và thứ hai
là “ngồi trên lưng ngựa”.
Nhìn vào Lịch sử Trung Quốc, chúng ta thấy hầu hết các vị
Hoàng đế khởi nghiệp của các triều đại lớn như Hán Cao Tổ Lưu Bang, Đường Cao Tổ
Lý Uyển và Đường Thái Tông Lý Thế Dân, như Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn và
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, đều là những bậc anh hùng cái thế. Tất cả những
con người ấy đều đã phải trải qua nhiều năm rong ruổi trên lưng ngựa, xông pha
lằn tên mũi đạn để đi chinh nam phạt bắc, thống nhất thiên hạ, trung hưng đất
nước và lập nên những Triều Đại vô cùng hiển hách. Qua đó, chúng ta thấy con Ngựa
đã đóng một vai trò rất quan trọng, vừa mang tính chiến thuật vừa mang tính chiến
lược, trong sự hình thành và phát triển của nền Văn minh Trung Quốc.
Ngựa đời Tây Hán (Tượng đất nung – Viện bảo tàng Guimet,
Paris)
Con ngựa đã xuất hiện ở Trung Quốc từ bao giờ? Câu hỏi này
đã được nêu ra trong một cuộc hội thảo và triển lãm với chuyên đề “Des Hommes
et des Chevaux” (tôi tạm dịch là “Người và Ngựa trong nền Văn minh Trung Quốc”)
do Viện bảo tàng Mỹ thuật Đông Phương Emile Guimet tổ chức tại Paris (Pháp) vào
mùa thu năm 1996. Thực ra không ai trả lời được một cách chính xác, nhưng phần
đông các học giả đều đồng ý với nhau rằng con ngựa thuần hóa đã xuất hiện ngay
từ buổi đầu của thời kỳ đồ đá ở Trung Quốc cách chúng ta đã hơn 4 nghìn năm,
nghĩa là vào đầu thời kỳ Tam Đại theo cách nhìn của các sử gia Trung Quốc.
Ở Trung Quốc từ xưa đã có 3 giống ngựa chính. Giống thứ nhất
là giống Hoa Hạ, còn gọi là con ngựa thuần Hán, gốc ở vùng Tây Nam Trung Quốc,
thuộc tỉnh Tứ Xuyên hiện nay. Loại ngựa này tuy nhỏ con nhưng thân hình cân đối,
cổ và chân thon gọn, rất nhanh nhẹn và có sức chịu đựng bền bỉ. Giống ngựa thuần
Hán này vốn đã được sử dụng rộng rãi trên đất Trung Nguyên từ các đời Thương,
Chu qua đến Tần, Hán. Khi đến Tây An và đi thăm lăng mộ của Tần Thủy Hoàng,
chúng ta nhìn thấy ở dưới các hầm tùy táng hàng trăm con ngựa bằng đất nung thuộc
giống Hoa Hạ này đứng xếp hàng cùng với hàng nghìn chiến binh trong đội quân
bách chiến bách thắng của vị Hoàng đế nhà Tần. Người ta còn trưng bày cho du
khách xem hai chiếc xe của Tần Thủy Hoàng, một xe mùa hè và một xe mùa đông, đều
do loại ngựa này kéo. Trong các lăng mộ nhà Hán được khai quật gần đây ở trong
vùng Thiểm-Cam-Ninh, các nhà khảo cổ còn tìm thấy rất nhiều tượng ngựa bằng đồng
hoặc bằng đất nung, cũng như rất nhiều tranh bích họa vẽ ngựa, với thần khí
linh hoạt, bay bổng. Tất cả những con ngựa ấy đều thuộc giống thuần Hán nói
trên.
Ngựa của giới quý tộc Bắc Tề (Tranh của Dương Tử Hoa [TK
thứ 5] – Viện bảo tàng Mỹ-thuật Boston)
Giống ngựa thứ hai là giống Kazakh-Fergana, gốc ở miền
Tây Bắc Trung Quốc, thuộc hai tỉnh Cam Túc và Tân Cương. Nhưng “nguyên quán” thật
sự của chúng là ở tận vùng thảo nguyên Trung-Á, phía bắc dãy núi Altai, thuộc
các nước Kazakhstan, Uzbekistan và Tajikistan hiện nay. Nhiều học giả tin rằng
giống ngựa Kazakh này đã du nhập vào đất Trung Nguyên của người Hán bằng “Con
đường Tơ lụa” nổi tiếng do các Vua nhà Tây Hán mở ra từ thế kỷ thứ 2 trước Công
Nguyên để thông thương và giao lưu văn hóa với thế giới Phương Tây. Con ngựa
Kazakh người thấp lùn mà lưng dài, chân thì ngắn, cổ to khỏe với bờm cổ rất
dài, đầu to, trán rộng và đôi mắt xếch (!), tuy không nhanh nhẹn nhưng sức rất
dẻo dai. Giống ngựa này được sử dụng rộng rãi từ đời Ngụy-Tấn, qua các đời
Tùy-Đường cho đến hết thời kỳ Ngũ Đại. Những vị nào đã đi thăm Trung Quốc với
tôi chắc vẫn còn nhớ hình ảnh của những con ngựa tạc bằng đá, có dáng thấp lùn
và chân rất ngắn, đứng chầu ở hai bên đường linh đạo dẫn đến cửa Càn Lăng, nơi
hợp táng của Vua Đường Cao Tông và bà vợ khét tiếng của ông là Võ Tắc Thiên. Những
con ngựa “giữ cửa” ở Càn Lăng ấy chính là giống ngựa Kazakh-Ferghana nổi tiếng,
mà tôi đã có dịp giải thích cho quý vị nghe tại chỗ về lai lịch và vai trò của
nó trong nền Văn hóa rực rỡ của triều đại nhà Đường.
Trong lịch sử nghành chăn nuôi của nhân loại, hầu hết các
loại gia súc đều trải qua hai giai đoạn phát triển để thâm nhập vào đời sống xã
hội loài người: giai đoạn thứ nhất là khi chúng được con người thuần hóa, và
giai đoạn thứ hai là khi chúng được lai tạo để cải thiện giống. Con ngựa ở
Trung Quốc cũng không thoát khỏi cái quy luật ấy, và trong suốt nhiều thế hệ,
hai giống ngựa Hoa Hạ và Kazakh đã được người Hán cho lai tạo với nhau, với mục
đích tạo nên một giống ngựa mới khỏe mạnh hơn và nhanh nhẹn hơn, với sức chịu đựng
bền bỉ hơn, nhằm sử dụng chúng trong nông nghiệp, trong vận tải, cũng như trong
chiến tranh. Đặc biệt là trong chiến tranh, bởi vì lịch sử Trung Quốc, nhìn dưới
một góc độ nhất định, là lịch sử của những cuộc chiến tranh triền miên. Giai cấp
quý tộc nhà Đường, đặc biệt các bà trong giới phi tần, rất ưa chuộng giống ngựa
lai này. Tại hai kinh đô Trường An và Lạc Dương, chúng được sử dụng làm phương
tiện di chuyển trong các sinh hoạt Cung đình, từ nghi lễ cho đến giải trí và thể
thao.
Trong chúng ta không ai là không từng ít nhiều nghe kể về
Đệ nhất Đại-mỹ-nhân Dương Quý Phi, người đàn bà đã làm nghiêng ngửa triều đại
nhà Đường. Bà quý phi họ “dê” này nổi tiếng trước hết là nhờ vào sắc đẹp
“khuynh quốc khuynh thành” (“nghiêng nước đổ thành”) của bà, nhưng bà còn nổi
tiếng do tính khí rất bất thường, thí dụ như cái bệnh đỏng đảnh hay làm nũng với
ông chồng bà là Vua Đường Minh Hoàng. Hàng năm cứ đến cuối mùa xuân là bà lại
lên cơn thèm ăn trái lệ chi (vải). Mà nhất định đòi cho bằng được giống vải
Lĩnh Nam trái to, cùi dày, nhiều nước, vừa chua vừa ngọt trồng ở Quảng Châu thì
mới chịu! Và trái vải đem về phải tươi nguyên và vừa chín tới thì mới chịu! Tội
cho ông chồng già si tình của bà phải cho lập một hệ thống vận chuyển hỏa tốc
đường dài, gọi là “đường giây cống vải”, sử dụng toàn ngựa tốt, giống ngựa lai
Hán-Kazakh khỏe mạnh và dẻo dai, để đem trái vải tươi từ Quảng Châu trong miền
Hoa Nam xa xôi về tận kinh đô Trường An cho bà quý phi vừa đồng bóng vừa tai ác
của ông. Những binh phu phải ngồi ngựa phi nước đại suốt ngày đêm không ngừng
nghỉ, đến mỗi trạm thì đổi cả người lẫn ngựa để chạy tiếp, làm sao để bảo đảm rằng
vải Lĩnh Nam khi về đến Trường An vẫn còn tươi nguyên như vừa mới hái trên cây
xuống! Và mặc dù người ta tuyển chọn toàn ngựa tốt để hàng năm chạy cống vải
cho Dương Quý Phi, nhưng vẫn có những con ngựa không chịu nổi lối chạy tiếp sức
đường dài này nên kiệt sức lăn ra chết ở dọc đường. Nhà thơ Đỗ Mục thời Vãn Đường,
khoảng gần một thế kỷ sau khi Dương Quý Phi mất, đã làm câu thơ trách móc cái
thói đỏng đảnh của bà: “nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu”, ý nói là bao
nhiêu gió bụi từ vó ngựa rong ruổi chỉ cốt để đổi lấy nụ cười của bậc phi tử!
Ai bảo đẹp như Dương Quý Phi là “đẹp chết người”, chứ riêng tôi thì tôi thấy sắc
đẹp ấy rõ ràng là thứ sắc đẹp chết ngựa!
Ngựa Kazakh, trong tỉnh Tân Cương, Trung Quốc (Ảnh của
tác giả, 2003)
Giống thứ ba là giống ngựa Mông Cổ, gốc ở vùng phía Bắc và
Đông Bắc Trung Quốc, thuộc các tỉnh Nội Mông và Hắc Long Giang hiện nay. Giống
ngựa này vốn xuất phát từ miền thảo nguyên rộng lớn mênh mông của Mông Cổ, nơi
có khí hậu và môi trường sinh thái vô cùng khắc nghiệt. Chính các yếu tố ấy đã
hun đúc nên những đặc tính ưu việt của chúng. Con ngựa Mông Cổ, tuy không phải
là giống ngựa lớn, nhưng có hình thể khỏe mạnh và vóc dáng quý phái. Thân của
nó hơi ngắn, vai và ngực rộng, bụng thóp, cổ lớn, hàm vuông, bốn chân thon dài,
lưng và dùi nổi bật những bắp thịt vạm vỡ và rắn chắc. Tôi cho rằng đây là giống
ngựa đẹp nhất trên thế giới. Người Mông Cổ, sau đó là người Mãn tộc đã thuần
hóa giống ngựa này ngay từ buổi đầu của xã hội Công xã-Thị tộc mà họ xây dựng.
Những chiến công hiển hách của họ vào những thời kỳ mà họ tràn xuống phương nam
và lấn chiếm đất đai của người Hán chủ yếu là nhờ vào tính cơ động của giống ngựa
Mông Cổ này. Khi bà Thái hậu Hiếu Trang Văn mẹ Vua Thuận Trị nhà Mãn Thanh trối
trăn với cháu bà là Vua Khang Hi rằng “Tổ tiên chúng ta từng ngồi trên
lưng ngựa mà lấy được thiên hạ...”, thì chính là bà nhắc đến giống ngựa
Mông Cổ nói trên.
Ngựa đời Sơ Đường (Tượng gốm – Sưu tập tư nhân, Hong
Kong)
Từ các đời Tần-Hán đến các đời Tùy-Đường, người Trung Quốc
chưa sử dụng giống ngựa Mông Cổ là bởi vì lúc ấy họ chưa biết đến giống ngựa
này. Chúng chỉ bắt đầu du nhập vào đất Trung Nguyên cùng với đoàn quân viễn
chinh của người Kim, khi nhà Kim đánh nhà Tống vào đầu thế kỷ thứ 12 (người Kim
thuộc Tộc Nữ Chân, một tộc người Mãn). Ngựa Mông Cổ là giống ngựa chiến rất
hung hãn, cho nên chúng đã góp một phần công trạng không nhỏ trong việc người
Kim chiến thắng nhà Bắc Tống và chiếm được một nửa nước Trung Hoa. Về sau, cũng
chính giống ngựa này đã giúp người Mông Cổ diệt cả Kim lẫn Nam Tống để xây dựng
đế quốc Nguyên Mông và thống trị Trung Quốc trong gần một thế kỷ (1280-1368).
Khi con cháu của Thành Cát Tư Hãn vào cai trị Trung Quốc, họ đã tịch biên đất
đai canh tác của người Hán và khoanh vùng tổ chức chăn nuôi các loại gia súc,
trong đó việc chăn nuôi ngựa được họ đặc biệt coi trọng và nâng lên hàng quốc
sách. Việc làm thất nhân tâm này khiến cho người Hán càng tăng thêm lòng oán
ghét đối với chế độ thống trị Nguyên Mông, nhưng mặt khác nó đã giúp cho giống
ngựa Mông Cổ có cơ hội phát triển rất mạnh và dần dần được lai tạo với các giống
ngựa khác ở Trung Quốc.
Tuy nhiên, nếu bảo rằng con ngựa Mông Cổ chỉ mới du nhập vào
đất Trung Nguyên từ thế kỷ thứ 12 với những cuộc chiến tranh xâm lược của người
Kim, thì trước đó 700 năm, vào thời kỳ Nam Bắc Triều, khi các dân tộc du mục ở
phía Bắc sa mạc Gobi tràn xuống xâm chiếm vùng Hoa Bắc và thiết lập những nhà
nước phong kiến hùng mạnh, trong số đó có các nhà Bắc Ngụy và Bắc Tề, thì họ đã
sử dụng giống ngựa gì để tiến hành những cuộc chiến tranh của họ? Câu trả lời,
theo thiển ý của tôi, là những bộ tộc du mục ấy đã sử dụng giống ngựa Kazakh,
hoặc giống ngựa lai Kazakh và Mông Cổ. Sở dĩ tôi nghĩ như vậy là do tôi căn cứ
vào các di chỉ khảo cổ mà Trung Quốc đã tìm thấy trong các cuộc khai quật tiến
hành trong thập niên 1970. Trong các lăng mộ của giới quý tộc Bắc Ngụy và Bắc Tề
người ta tìm thấy rất nhiều tượng ngựa bằng đất nung, hầu hết đều được thắng
yên cương đầy đủ, với hình dáng thấp lùn và lưng dài chân ngắn, đặc trưng cho
chủng loại Kazakh-Fergana. Hơn nữa, cho dù giống ngựa thuần Mông Cổ đã được các
bộ tộc du mục đưa vào vùng lưu vực sông Hoàng Hà từ trước thế kỷ thứ 5 thì thực
ra sau đó nó cũng chưa được người Hán ưa chuộng và sử dụng một cách phổ biến, kể
cả sau khi nhà Tùy diệt nhà Bắc Chu và tái thống nhất Trung Quốc vào cuối thế kỷ
thứ 6, một phần do tâm lý tự tôn và kỳ thị của người Hán đối với các dân tộc du
mục ở phương Bắc, phần khác do họ chưa nhìn thấy tính ưu việt của giống ngựa
Mông Cổ.
Con “thần mã” của vua Đường Minh Hoàng (Tranh của Hàn Cán
[TK thứ 8] – Viện bảo tàng Mỹ-thuật New York)
Người đầu tiên không thể không nhắc tới, đó là Hàn Cán
(706-783). Họ Hàn sống ở Trường An, và là họa sĩ cung đình dưới thời trị vì của
vua Đường Huyền Tông. Ông đã để lại hai bức tranh ngựa nổi tiếng. Trong bức thứ
nhất họ Hàn vẽ một đôi ngựa, một con trắng một con đen, trên lưng con trắng có
một người đàn ông ngồi, tay cầm cương đang ghì chặt con ngựa đen đứng sát bên cạnh.
Đôi ngựa này trông hiền lành và thông minh, và nhìn vào cách buộc và trang sức
yên cương thì có thể đoán rằng đây là đôi ngựa của giới quý tộc thời Thịnh Đường.
Bức tranh thứ hai ông vẽ con Thần mã của Vua Đường Minh Hoàng, và có thể gọi bức
tranh ngựa này là một kiệt tác xưa nay chưa từng có đối thủ trong Hội họa Trung
Quốc. Trong bức tranh mang tên “Chiếu dạ bạch đồ” này, người ta thấy con Thần
mã quả là không hổ danh với cái tên gọi của nó: dáng của nó gọn gàng và vạm vỡ,
tuy bị cột chặt vào một chiếc cọc nhưng nó vẫn lồng lên như muốn quẫy thoát,
đôi mắt trợn ngược giận dữ, đầy khí thế. Con ngựa trắng dũng mãnh này quả không
hổ danh với cái tên gọi “thần mã”, và có lẽ nó vốn được yêu chuộng nhất trong
chuồng ngựa hơn bẩy trăm con của vua Đường Huyền Tông.
Mỗi khi đến Tây An tôi thường đưa khách hàng của tôi đi xem
bức tranh (phiên bản) “Quắc Quốc phu nhân du xuân đồ”, vẽ cảnh Quắc Quốc và Hàn
Quốc Phu nhân cùng các cung nhân và thị nữ cưỡi ngựa đi chơi dã ngoại vào mùa
xuân ở bên ngoài thành Trường An. Hai bà này là hai bà chị ruột của Dương Quý
Phi, và đồng thời cũng là Phi tần được Vua Đường Huyền Tông sủng ái. Trong bức
tranh này chúng ta nhìn thấy bao nhiêu người thì có bấy nhiêu ngựa, cả người lẫn
ngựa đều phục sức và được trang sức hết sức sang trọng, nhìn vào đó chúng ta có
thể mường tượng được phần nào nếp sinh hoạt cự kỳ xa hoa hưởng lạc của giới quý
tộc thời Thịnh Đường. Cương ngựa thì bằng bạc hoặc vàng có nạm ngọc, yên ngựa
thì được bọc gấm thục tố nhiều màu và thêu thùa cầu kỳ, bờm ngựa được thắt
thành ba chùm có trang sức gọi là Tam-hoa, còn đuôi ngựa thì được tết thành bím
chung với những sợi tơ óng ả nhiều màu, có khi được cột lại phía dưới như kiểu
búi tó. Tương truyền rằng nguyên bản của tranh này do Trương Huyên (713-755) vẽ
vào thời kỳ Thịnh Đường, về sau được vua Huy Tông nhà Tống vẽ lại (tôi không rõ
bản được lưu giữ tại Viện bảo tàng Liêu Ninh là tranh gốc của Trương Huyên hay
là phiên bản của Tống Huy Tông).
Một họa phẩm nổi tiếng khác là của họa gia Tiền Tuyển đời
Nguyên, vẽ cảnh Dương Quý Phi tập cưỡi ngựa. Trong bức tranh này người ta thấy
bà sủng phi của vua Đường Minh Hoàng đang được hoạn quan Cao Lực Sĩ cùng các
cung nhân và thị nữ đỡ lên ngựa. Họ Tiền vẽ Dương Quý Phi chẳng những mát da
mát thịt - như từng được mô tả trong bài thơ “Trường Hận Ca” nổi tiếng của Bạch
Cư Dị - mà còn có phần hơi dềnh dàng và nặng nề, phải chăng vì thế mà trong
tranh người ta thấy bà trèo lên lưng ngựa một cách hết sức khó nhọc. Mà con ngựa
dành cho bà cưỡi cũng tròn trịa béo tốt không khác gì nữ chủ nhân của nó!
Quắc Quốc và Hàn Quốc phu nhân đi dã ngoại mùa xuân
(Tranh của Tống Huy Tông [TK thứ 12]
vẽ dựa theo tranh gốc của Trương Huyên [TK thứ 8] – Viện bảo tàng tỉnh Liêu Ninh)
vẽ dựa theo tranh gốc của Trương Huyên [TK thứ 8] – Viện bảo tàng tỉnh Liêu Ninh)
Đời nhà Thanh thì có họa sĩ cung đình là Lương Thế Ninh
(1688-1766) vẽ tranh ngựa rất đẹp, với đường nét hiện thực và màu sắc sáng tối,
hài hòa. Họ Lương vốn là một linh mục dòng Tên người Ý tên thật là Giuseppe
Castiglione đến Trung Quốc vào đời vua Ung Chính, có công du nhập hội họa Ý vào
Trung Quốc, và do biết cách kết hợp một cách tài tình hai trường phái hội họa
Đông và Tây nên được vua Càn Long nhà Mãn Thanh trọng dụng và đặc biệt sủng ái.
Trong số rất nhiều tranh với thể loại đa dạng (sơn thủy, hoa điểu, nhân vật) do
ông sáng tác, nổi tiếng nhất là bức tranh lớn “Bách mã đồ” vẽ một trăm con ngựa
vô cùng sinh động, hiện được trưng bày tại Cố Cung Bảo tàng viện ở Đài Loan. Bất
cứ ai yêu tranh ngựa đều không thể không thưởng lãm họa phẩm kiệt tác này.
Trong tranh, Castiglione vẽ ngựa giống như vẽ chân dung người, bao nhiêu con ngựa
là bấy nhiêu tính cách khác nhau, con đứng, con ngồi, con đang chạy, con lội
qua sông…, hình tướng, màu sắc và thần thái đều khác nhau.
Ngựa (Tranh của Lương Thế Ninh – Cố Cung Bảo tàng viện, Bắc
Kinh)
Sang đến nửa đầu thế kỷ 20 lại có Từ Bi Hồng (1895-1953) vẽ
ngựa bằng mực tàu với lối phóng bút điêu luyện, nét mạnh mẽ phóng khoáng đầy thần
thái, khiến cho ngựa của ông vẽ dường như lúc nào cũng như muốn bay ra khỏi
tranh. Nhìn ngựa trong tranh của họ Từ, chúng ta hiểu ngay tại sao trong chữ
Hán và ngay cả trong tiếng Việt người ta không bảo ngựa chạy mà lại nói ngựa
bay (phi)!
Cách đây không lâu, trong chuyến du lịch thăm Trung Quốc vào
mùa xuân và trên đường đi Mã Ngôi Pha để thăm nấm mộ bên đường của Dương Quý
Phi, khi tôi chỉ cho các du khách thấy cảnh tượng của những người nông dân dùng
những con ngựa lùn với chân ngắn để tải nông phẩm và hàng hóa vừa nặng nề vừa cồng
kềnh, nhiều người trong đoàn đã lấy làm ngạc nhiên một cách thích thú. Cũng
chính giống ngựa ấy đã được ông Mao Trạch Đông và những người cộng sản Trung Quốc
dùng làm phương tiện di chuyển và chuyên chở trong chiến khu Diên An ở vùng Thiểm
Bắc, vào thời kỳ khốc liệt của cuộc đấu tranh Quốc-Cộng.
Ngựa (Tranh của Từ Bi Hồng – Viện bảo tàng Mỹ-thuật
Boston)
Con ngựa đã đóng một vai trò rất lớn trong Lịch sử và Văn
minh Trung Quốc, và thông qua hình ảnh quen thuộc của nó, cũng như nhiều hình ảnh
sinh động khác trong nếp sống và sinh hoạt hàng ngày của người dân Trung Quốc,
chúng ta có thể hiểu được phần nào hai nét đặc trưng trong nền Văn hóa tuyệt đẹp
của đất nước có lịch sử hàng nghìn năm ấy: đó là tính liên tục và tính kế thừa
của những giá trị vật chất cũng như tinh thần.
TRẦN CHÍNH.
(California, Jun 1998)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire