Cứ là chuyện kể lại, cứ là chuyện lịch sử, một thời mà miền Nam Việt Nam còn chiến đấu cho người dân mình.
Caroline Thanh Hương
Chuyến Bay Định Mạng Và Những Người Mỹ Cao Thượng.
Đỗ Minh Đức
Khi những nhóm phản chiến Hoa Kỳ, trong những y phục nhìn không được
sạch sẽ lang thang trên các công viên đường phố Hoa Kỳ lên tiếng cáo
buộc cho rằng “người lính Mỹ tại Việt Nam là những người bắn giết trẻ
thơ” thì chính lúc đó, những người lính Mỹ đã thực hiện rất nhiều nhiệm
vụ khác nhau, và rất nhiều công tác hữu ích cho con người. Tôi đã có dịp
xử dụng những cơ sở, phòng ốc và những sự săn sóc hữu hiệu, vì con
người, của những người Mỹ đó.
Bịnh Viện này rất quen thuộc với những người phi hành như tôi. Tất cả
nhân viên phi hành đều được trị thương tốt lành như chính những người
lính Mỹ. Bịnh Viện được trang bị đầy đủ cho dù đây là một Bịnh Viện Dã
Chiến!
Vào Chuyện,
Ngày 07 tháng 10 năm 1972
Phi Đoàn 233, Thiên Ưng, Không Đoàn 51 Chiến Thuật, biệt phái 13
chiếc trực thăng với trách nhiệm 4 ngày liền tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương,
phi trường Phú Bài, để phục vụ cho Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam
6 trực thăng, đóng tại quận Hương Điền; và Sư Đoàn Dù 7 trực thăng,
đóng tại cây số 17 Quốc Lộ 1.
Khoảng hơn 9 giờ ngày 7 tháng 10 năm 1972, tôi được phi lịnh bốc giúp
một thiếu phụ lâm vào cảnh khó khăn sinh con, khoảng 20 phút bay về
phía Bắc của quận Hương Điền, chúng tôi gọi là Ngã Tư Quốc Tế, và đưa bà
mẹ không may này về Bịnh Viện Nguyễn Tri Phương, Huế.
Sau phi vụ nhân đạo đó, tôi trở lại quận Hương Điền, Cơ Phi và Xạ Thủ
đã nhanh chóng cột xong cánh quạt chánh để tránh gió đập làm hỏng.
Chúng tôi có bữa cơm trưa đạm bạc bên hàng tre già còn xanh lá, cạnh con
đường đất miền quê hiền hòa Hương Điền uốn éo giữa những đám ruộng lúa
xanh rờn đầy nhựa sống! Sau đó, chúng tôi còn lãnh lương nữa chứ, lãnh
lương tại nơi mình biệt phái, xin cám ơn Phòng Lương Sư Đoàn I Không
Quân. Nhân viên phi hành được ưu tiên, không xếp hàng đợi chờ mất thì
giờ. Tôi được ngạch lương 32 ngàn 500 đồng mỗi tháng, tôi cẩn thận xếp
đôi xấp tiền cho gọn và để tất cả vào túi áo bay bên chân phải, xong kéo
miệng túi bảo đảm không rơi mất đồng lương nhiều mồ hôi, và nguy hiểm
đó!
Chỉ trong khoảng nửa giờ sau bữa cơm trưa, tôi nhận được một phi lịnh
đặc biệt khác nữa. Đó là phi lịnh cứu cấp. Một hoa tiêu A- 37 bị súng
phòng không Việt Cộng. Anh ta đã nhảy dù xuống an toàn một giờ vừa qua!
Tôi đã nhiều lần cứu cấp hoa tiêu lâm nạn phải nhảy dù xuống như vậy.
Nhưng lần này, tôi cảm thấy rất đặc biệt. Tại sao A-37 oanh tạc lại
không báo cho trực thăng ứng trực ngay trên bầu trời? Tại sao phải đợi
đến một giờ sau mới gọi cứu cấp? Ai trách nhiệm cho việc ra lịnh trễ nảy
như vậy? Thiếu trách nhiệm chết người!
Tôi phải cố nhanh chóng hành động sao cho hơn tốc độ của kim đồng hồ.
Tôi chụp lấy nón bay, nhảy lên ghế lái, dù ẫchưa xỏ chân vào gìày, và
vẩy tay ra lịnh mở dây cột cánh quạt. Tôi ra hiệu năm chiếc trực thăng,
gồm có cả hai chiếc võ trang còn lại cất cánh sau tôi. Phi hành đoàn của
tôi chưa ai mang giày, và mang áo an toàn. Chúng tôi vừa bay và vừa
trang bị cho đầy đủ. Tôi cũng đã kiểm soát xem tất cả phi hành đoàn đều
có áo an toàn vì rằng hoa tiêu đã lâm nạn hơn một giờ qua. Một giờ, thời
gian đủ dài để Việt Cộng chuẩn bị những cái bẫy, và chuẩn bị đầy đủ hỏa
lực để sẵn sàng dụ những phi hành đoàn cứu cấp gan dạ như chúng tôi!
Ngay sau khi cất cánh tại Hương Điền, tôi bấm máy ra lịnh 3 trực
thăng vận tải theo sau phải giữ khoảng cách là 3 phút bay. Hai chiếc võ
trang bay hai bên cách tôi một phút bay, vì tôi phải áp dụng chiến thuật
bay cho phi lịnh cực kỳ nguy hiểm này!
Trên bầu trời Quảng Trị , nắng gắt, gió Đông Nam thổi nhẹ. Quan Sát
Cơ L-19 mang tên Pigeon 10 đang trách nhiệm bao vùng theo dõi.Tôi bắt
đầu liên lạc với anh ta khi còn bay với cao độ 1000 bộ, với tốc độ 110
knotts
– Pigeon 10, Pigeon 10, Eagle 3, Eagle 3, Eagle 3 là tên của tôi trong phi lịnh này.
– Eagle 3, Eagle 3, Pigeon 10 tôi nghe anh.
– Pigeon 10, chỉ dẫn mục tiêu.
– 12 giờ trước mặt,
– 12 giờ nhận rõ.
Sau đó, tôi đã quyết định đưa trực thăng nhào xuống bay sát mặt đất,
tốc độ 120 knotts và bắt đầu bay chiến thuật vào vùng tử địa.
Cứ mỗi giây phút trôi qua là nguy hiểm đến gần hơn và gần hơn. Mặc dù
hai chiếc võ trang bay sau tôi để yểm trợ, tôi cho lịnh Xạ thủ Tuấn và
Cơ Phi Xôm khi tôi nghiêng cánh bên nào bên đó bắn không ngừng để đàn áp
hỏa lực Việt Cộng dưới đất.
Tôi đã liên lạc với Pigeon 10 nhiều lần và cũng nhận cùng một câu trả
lời như trên. Hỏa lực từ đất bắn lên rát lắm. Chúng xuyên thủng trực
thăng nhiều nơi. Một viên đạn đã nổ tung phía đầu bọc kính, trước chân
tôi. Một mảnh nhỏ đã bay vào giữa đôi chân mày, trên sóng mũi tôi, một
giọt máu lăn xuống mí mắt làm tôi thấy màu đỏ loang loáng. Tôi biết ngay
rõ ràng là chốn nguy hiểm vô cùng đã đến. Tôi bảo hoa tiêu phụ Trịnh
Hữu Văn:
– Tao đã trúng miểng đạn ở trán. Mầy để tay vào cần lái, bay theo tao.
Văn, không nói lời nào, nhanh chóng đưa tay vào cần lái và nhẹ nhàng
bay theo tôi. Đây là cách phòng ngừa khi tôi thình lình ra đi trên ghế
lái.
Từ Phòng Kiểm Soát Hành Quân, sau khi nghe tiếng tôi, Thiếu Tá Nguyễn văn Thanh, giọng nhẹ nhàng ra lịnh:
– Eagle 3, Phải hết sức cẩn thận. Rồi Thiếu Tá lập lại, “Phải hết sức cẩn thận, Tôi nói anh hiểu không?”
– Vâng, Eagle 3 tôi hiểu, Thiếu Tá!
Liên lạc với Pigeon 10, thì vẫn chỉ có một câu trả lời “12 giờ trước
mặt!” Tôi thấy được những tràng đạn đại liên mini của hai chiếc trực
thăng võ trang nổ dòn phía trước dưới chân tôi. Tôi cũng thấy những viên
đạn lửa của Việt Cộng bay xiên xéo lên phi cơ. Trong lúc nóng lòng tìm
Hoa Tiêu lâm nạn, thình lình Cơ Phi Xôm hét to lên mừng rỡ:
– Cánh dù bên trái! Thiếu Úy!
Tôi nhanh chóng nhìn về phía trái, khi bay 120 knotts. Tôi kéo xuống
80 rồi 60 rồi sẵn sàng đáp xuống. Nhưng không có hoa tiêu lâm nạn ở đó,
chỉ có cánh dù mà thôi! Tôi lại liên lạc:
– Pigeon 10, Pigeon 10, Eagle 3
– Eagle 3, Pigeon 10
– Mục tiêu.
– 12 giờ trước mặt, Nghe rõ?
Lại cứ trả lời 12 giờ nữa rồi! Tôi trả lời nhanh:
– 12 giờ trước mặt, Nhận rõ!
Việc liên lạc trên phi cơ gồm 3 hệ thống. Đó là FM, UHF và VHF. Tôi
dùng FM với Pigeon 10, để cho các lực lượng dưới đất trong vùng, cùng
tần số, có thể theo dỏi phi vụ cứu nguy này. VHF và UHF để dùng vào Kiểm
Soát Không Lưu và nội bộ. Ngoài trời nắng lên gay gắt, nóng ơi là nóng.
Hai mảnh áo an toàn trước và sau thân tôi làm tôi không thoải mái.
Tôi vẫn theo chỉ dẫn “12 giờ trước mặt” của Pigeon 10. Gió Đông Nam
thổi nhẹ. Trời nắng nóng càng nóng hơn. Hai phút sau khi bay khỏi nơi
thấy cánh dù, lần này tôi nhận ra hoa tiêu lâm nạn.
Tôi dùng phương pháp đáp khẩn cấp từ 120 knotts, bay thấp trên mặt đất cùng lúc vội vàng bấm máy ra lịnh:
– Tất cả ba trực thăng theo sau bay ra ngoài vùng. Trực thăng võ trang bắn thêm yểm trợ.
Và tôi quyết định đáp xuống khi cả vùng trời ngập trong lửa đạn đủ
loại, miểng pháo và khói bụi mịt mù. Kéo cần lái sát vào người, cùng lúc
tôi đưa cần cao độ sát xuống thấp, quẹo trái, áp dụng kỹ thuật đáp khẩn
cấp. Đạn của ta và đạn của địch thi tài áp đảo nhau! Việt Cộng còn giúp
thêm cho tử thần bằng cách mưa pháo bồi vào bãi đáp nữa chứ! Quang cảnh
chẳng khác nào phi hành đoàn vào địa ngục để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn!
Cơ phi Xôm và Xạ thủ Tuấn gan dạ và nhanh nhẹn nhảy xuống đất, phóng
nhanh về phía hoa tiêu lâm nạn và kẹp hai tay xốc anh này chạy vội vàng
về trực thăng. Tôi nhận ra đó là Thiếu Úy Nguyễn Hàn.
Khi cả ba đã bước lên trực thăng. Tôi vội vã kéo cần lái, cần cao độ
cất cánh trong bụi cát mịt mù dưới cơn bão pháo và súng nhỏ lớn, các
loại của Việt Cộng. Tất cả vô cùng mừng rỡ, phi vụ cứu cấp đã sắp thành
công! Tôi vội bay hướng Đông Nam về Huế, Phú Bài!
Mọi việc được hoàn tất mau chóng và chuyên nghiệp trong khi Việt Cộng liên tục pháo vô số vào bãi đáp!
Khi đạt tới cao độ vào khoảng 200 bộ, một quả pháo chạm phải cánh
quạt đuôi. Trực thăng giựt mạnh quẹo sang trái. Tôi lại phải tắt máy và
áp dụng thể thức đáp khẩn cấp. Bây giờ là đáp khẩn cấp thật sự đây! Năm
người trên trực thăng, kể cả Thiếu Úy Nguyễn Hàn, giờ phải tìm cách mưu
sinh thoát hiểm, bởi vì trong khoảng cát bụi mịt mù và mưa pháo của Việt
Cộng tôi đâu muốn để cho anh em bên ngoài vào cấp cứu.
Khi bối rối đó, Thiếu Úy Nguyễn văn Bằng, bay trực thăng võ trang, hô to:
– Hoan hô Eagle 3 đáp khẩn cấp hay quá, hay quá!
Ngay khi trực thăng đáp xuống đất rồi, tình thế rất khẩn cấp đầy bất
trắc, tôi gọi xạ thủ Tuấn mở ngay cửa cho hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, và
rồi mọi người theo tôi, vì tôi giữ máy liên lạc.
Nhưng trong cơn mưa pháo của Việt Cộng, chúng mong sát hại cả phi
hành đoàn, Cơ Phi Xôm, Xạ Thủ Tuấn, Hoa Tiêu phụ Trịnh Hữu Văn và hoa
tiêu A-37, Thiếu Úy Nguyễn Hàn, tất cả đã rời khỏi trực thăng qua cánh
trái, khi tôi lấy dụng cụ và máy liên lạc cứu cấp xong, tôi nhảy xuống
đất bên phải của trực thăng. Chỉ vài phút sau là chúng tôi mất liên lạc
với nhau. Không cách nào thấy nhau trong cơn bão pháo và bụi mịt mù! Địa
ngục đây rồi?
Dưới bầu trời nắng gay gắt, Việt Cộng vẫn liên tục mưa pháo vào mục
tiêu trực thăng của tôi. Bụi mù và miểng đạn mưa pháo làm cho cảnh vật
hiện hình rõ ràng là một vùng tử địa! Trong cảnh đó, không ai nhìn thấy
ai nữa! Tôi có nhiều lần khẩn khoản 3 hoa tiêu anh em trực thăng đừng
vào vì rất nguy hiểm. Dù tôi nói thế nào đi nữa, 3 chiếc trực thăng còn
lại nóng lòng muốn cứu chúng tôi, cũng bay vào, rồi thì bị đạn, rồi thì
cũng không tài nào thấy được nơi chúng tôi đang nấp, vì tránh pháo. Nên
trong khoảnh khắc giành giựt với tử thần đó, anh em cũng phải rời vùng!
Bầu trời bây giờ lại có thêm 2 trực thăng Cobra và một chiếc trực thăng
chuyên môn cứu cấp là CH 53 của Hoa Kỳ cũng bay hướng đến cấp cứu! Tôi
cũng đã dùng máy liên lạc và kêu gọi các trực thăng cứu cấp Hoa Kỳ đừng
bay vào bãi đáp vì lý do đơn giản, súng phòng không của Việt Cộng trang
bị đầy dẫy chung quanh bãi đáp rồi! Đừng bay vào rọ!
Chiếc trực thăng của Phi Đoàn 233 xấu số của tôi, danh số ở đuôi là
827 màu trắng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ chói chang dưới nắng, trong cơn
bão pháo, đã đứng hiên ngang ngạo nghễ sau những tháng năm dài phục vụ
con người. Giờ đây, đã nhằm giờ hóa kiếp, nó đã bị thương mất đuôi, và
rồi lãnh trọn phải một quả pháo Liên Xô hay Trung Cộng. Chiếc trực thăng
bốc cháy ngùn ngụt cao ngất một cách hãnh diện giữa một ngày nóng bỏng
của chiến trường sát nhân oái oăm Quảng Trị!
Trong khoảnh khắc đó, tôi chạy khỏi phi cơ độ hơn 100 thước về phía
Tây của bãi đáp, bất ngờ tôi lại bị thương! Tôi đã ngả xuống một lỗ đạn
pháo sâu đầy nước trước đây. Tôi bất tỉnh, mê đi trong giấc ngủ vùi!
Tiếng đạn pháo giết người liên tục nổ gầm vang, tiếng gió cuốn bụi
cát xát mạnh vào mặt làm tôi choàng tỉnh và mở mắt ra! Bầu trời bây giờ
không còn xanh nữa, mà xám xịt, mây đen thấp xuống, bao phủ cả vòm
trời! Buổi chiều về mau lẹ với cơn mưa to, nhiều sấm sét. Chiếc trực
thăng mang số đuôi 827 theo tôi qua bao cuộc hành quân, yểm trợ, trên 5
tỉnh phía Bắc địa đầu, ngày nào cũng lảnh đạn thù, có lần Cơ Phi báo cáo
cả thảy 37 lỗ đạn xuyên qua thân. Sĩ Quan và binh sĩ Phi Đạo 233 lo vá
ngày đêm, vá mệt nghỉ. Giờ đây, mãn phần hóa kiếp, cả chiếc trực thăng
to lớn như thế cũng chỉ còn lại lớp bụi trắng trên đất. Mỗi cơn gió cuốn
qua, một số tro bay tung chạy đua theo gió!
Để tránh Việt Cộng phát hiện, tôi chôn gói thuốc Winton hút còn dang
dở, và chiếc quẹt máy Zippo xuống bùn. Tôi đã cố gắng rất nhiều lần kêu
gọi các trực thăng cứu cấp nên rời vùng nguy hiểm này bởi vỉ hỏa lực
địch quá mạnh và cài đặt khắp nơi như một cái bẫy lớn. Trong cơn mưa như
trút nước và sấm sét như xé trời, âm thanh nghe được từ máy liên lạc
cứu cấp nhỏ dần, và đứt khoảng, khó nghe. Với những cố gắng để sống còn
đã có được một kết quả là những chiếc trực thăng đã nghe tôi rời xa vùng
lâm nạn.
Sau đó, tôi giữ hoàn toàn yên lặng và chôn tiếp đồng hồ Seiko, và máy
liên lạc đã yếu pin xuống sâu dưới đáy bùn! Đến nửa đêm khi đạn pháo
bớt nhắm vào vùng chúng tôi, khi tôi đã phải dấu mình dưới bùn và cỏ,
tôi nghe tiếng như có người, lục soát, tìm kiếm chúng tôi. Tôi cố giữ
hoàn toàn yên lặng để khỏi bị bắt. Tôi vẫn luôn luôn nghĩ rằng họ là
lính Việt Cộng!
Nằm núp dưới đất bùn dơ bẩn, trong cơn mưa sấm sét, tôi cảm thấy lạnh
vô cùng. Tôi phải lách mình, mò đi một cách êm thắm, trầm mình nhẹ
nhàng xuống lạch nước. Nhờ vậy tôi thấy ấm hơn! Bấy giờ tôi liên tưởng
đến những người khác. Bao nhiêu nhân viên phi hành đã bị bắt, bị đối xử
một cách hoang dã khi phi cơ họ bị bắn rơi! Hoa tiêu F4 Skyhawk Mc Cain
của Hải Quân Hoa Kỳ là một. Ông này bị tóm cổ một cách dã man ngay sau
khi chạm đất! Lực lượng Cộng Sản đánh đập ông tàn nhẫn, họ nhục mạ ông,
nhục mạ xứ sở Mỹ Quốc của ông. Trường hợp tôi, cũng bị bắn rơi, mà không
ai bắt tôi được. Tôi may mắn biết bao!
Đầu óc tôi lẩn quẩn nghĩ miên man tới phi hành đoàn của tôi và hoa
tiêu A-37 Nguyễn Hàn. Hoa Tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, nhà ở Quảng Tín, mới ở
Mỹ về, tôi bay với Văn và đã đề nghị cho Văn đi hành quân với trách
nhiệm là hoa tiêu phụ. Văn đã khoe với tôi còn giữ 300 Mỹ Kim và cất ở
túi bay dưới chưn nhằm để dành cưới vợ. Còn Xôm và Tuấn rồi Hàn bây giờ
ra sao rồi? Cả bốn người có bị Việt Cộng gian ác bắt đi không? Tuấn và
Hàn là người gốc Huế, mà Huế và Quảng Trị đâu xa gì! Chắc là cả bốn
người biết luồn lách mà tránh được Việt Cộng để về đến Huế. Tôi bị mặc
cảm vằng vặc mãi. Bởi vì tôi, vì tôi quyết tâm bay vào lửa đạn để cứu
hoa tiêu lâm nạn! Nếu lúc Thiếu Tá Thanh nhắc chừng mà tôi đã nhận thấy
ra quá nguy hiểm mà bay trở lại thì đã an toàn cho tất cả phi hành đoàn.
Nhưng rồi Thiếu Úy Nguyễn Hàn thì sao?
Dù sao, tôi vẫn cứ tự an ủi nếu ai cũng thiếu gan dạ, không chấp nhận
hiểm nguy thì tình chiến hữu đồng đội có ra chi. Bị thương, ừ thì bị
thương; chết ừ thì chết; bổn phận không thể không hoàn tất. Mạng sống
con người quý giá lắm. Nhưng cái quý giá đó không so sánh được nếu vì lý
tưởng, bổn phận phải hy sinh. Tôi đã từng bảo hoa tiêu Lê Công Quởn, đã
hy sinh tại căn cứ Hoàng Đế phía Tây của Huế, rằng ”là người làm tròn
nhiệm vụ, hy sinh cho người khác, khi chết sẽ được vinh hạnh thành
Thánh, nếu không cũng được thành Thần”.
Tôi đã cầu nguyện luôn luôn cho bốn người này. Tôi cũng cầu nguyện
Đức Chí Tôn “xin che chở cho tôi nếu Ngài nghĩ rằng tôi còn hữu ích cho
đời, cho cộng đồng nhân loại. Nhược bằng trái lại, xin cho tôi nhận một
quả pháo trọn vẹn từ quân Việt Cộng vô thần, gian ác! Tôi xin đoàn tụ
cùng những bậc tiền nhân, ông cha anh hùng của tôi.”
Tôi mãi nghĩ đến cái vinh dự cao cả của bao nhiêu người lính gan dạ
đã đem thân bảo vệ sự độc lập, hòa bình của tổ quốc mình thì đâu sá gì
có bị thương hay bị hy sinh bởi súng đạn quân Việt Cộng xâm lăng.
Tôi biết rõ tôi đau đớn lắm vì tôi bị thương bởi đạn pháo của các đế
quốc Trung Cộng hay của Liên Bang Xô Viết, vì tôi không phải bị thương
bởi súng đạn do chính Việt Cộng Hà Nội chế tạo! Có đến thế nào đi nữa,
tôi cũng rất hãnh diện được đổ máu, trên quê hương, hy sinh cho Tổ Quốc
tôi, một quê hương đầy đủ nồng nàn ấm lạnh, dù phải cảnh nghèo nàn, cơ
cực, cũng đã nuôi tôi lớn lên, cho học hành cẩn thận để biết phân biệt
thiện ác, chánh tà. Sau khi tôi chết đi hồn tôi theo về với Tổ Tiên anh
hùng của tôi, còn thân xác tôi sẽ trở lại bón phân cho cây cỏ, làm đất
thêm mầu mỡ tốt lành!
Mãi mê suy nghĩ đến bổn phận, mơ màng trong trách nhiệm của các đấng
nam nhi, kể cả nữ nhi, thế rồi tôi rơi vào giấc ngủ lúc nào không hay!
Tiếng động của bước chân người rầm rập trên mặt đất mỗi lúc một gần
hơn, gần hơn. Thế rồi một nhóm Việt Cộng hung ác đứng sững trước chỗ
chui trốn ngụy trang của tôi. Tôi đã vùi thân mình dưới tầng bùn đen.
Tôi chẳng còn gì trên tay, chiếc nón bay, áo chống đạn đã để lại trên
trực thăng đã cháy rụi rồi. Bỗng, một tên Việt Cộng con, trang bị đầy đủ
súng đạn, đứng trước tôi, hắn thét lên:
– Ê, thằng trong bùn đó, đứng dậy dơ tay lên!
Tôi vẫn giữ yên lặng, không cử động gì. Tôi cảm thấy toàn thân lên
cơn lạnh như nằm trên tảng băng. Trán tôi đã hiện rõ những giọt mồ hôi
như trong buổi trưa hè!
– Đứng dậy hay chờ tao bắn? Tên lính Việt Cộng nhóc con lập lại.
Tôi vẫn không trả lời hắn. Hắn ra lịnh bốn tên Việt Cộng con khác xấn
tới bên tôi, và kéo tôi ra khỏi vũng bùn. Nhưng mà cái háng bên phải bị
thương thì làm gì tôi đứng cho được! Tôi té ngả xuống. Chúng xông tới
bên tôi, xách hai tay và kéo tôi lên. Tôi lại té xuống lần nữa trên vũng
bùn! Tôi lại té xuống lần nữa nằm sóng xoài trong vũng bùn đen! Một tên
Việt Cộng trẻ nhứt đã rời chỗ đứng đi đâu đó. Khoảng nửa giờ sau, cậu
ấy trở lại với đôi nạng gỗ cũ mèm, bám nhiều vết máu đen trao cho tôi.
Rồi hai tên đến xốc nách lôi tôi dậy. Đám hung thần này dùng mũi súng AK 47 chĩa vào xương sườn của tôi để hướng dẫn đường đi!
Đi suốt đêm như vậy, đến khi mặt trời mọc, có đến hai, ba sào, chúng
ra lịnh tôi ngồi xuống bên thềm nhà lồng chợ Đông Hà, đợi lịnh. Tôi nhớ
rõ nơi này, cũng nơi đây tháng rồi, Thiếu Tá Nguyễn Du bị cột quỵ xuống
đất, người Thiếu Tá nhiều khả năng tài giỏi, và trẻ nhứt của Không Lực
Việt Nam Cộng Hòa, đã bị đám Cộng Sản ác ôn và đồng bào nơi đây xẻo
thịt, lóc da cho đến chết! Nghĩ đến thì man rợ đấy nhưng có người dân
nào có đủ can đảm không nghe theo lịnh của Việt Cộng. Nếu người dân nào
không tuân lịnh cầm dao xẻo thịt Thiếu Tá Nguyễn Du thì sẽ bị đám Việt
Cộng lôi ra bắn chết ngay. Bởi thế, cứ mỗi người bước qua chỗ Thiếu Tá
Nguyễn Du thì họ cắt tai, cắt mũi, xẻ thịt, lớn tiếng xỉ vả và cười cao
ngạo man rợ lắm! Chúng nó móc mắt, chặt tay, cắt chưn moi ngực, mổ bụng.
Thiếu Tá Nguyễn Du đau đớn ngất trời, anh đã chết đi trong những giây
phút đầu tiên đó! Hồn anh bay bổng tận mây xanh nhìn lại trần gian đầy
quỷ đói dữ dằn! Thế mà cái màn chia thịt người sống vẫn cứ tiếp tục
hoang loạn, điên cuồng. Hình ảnh này khắc sâu vào khung trời Quảng Trị,
vào óc, vào tim người dân có nhiều oan trái Quảng Trị. Xem ra chẳng khác
nào một đám ác quỷ miệng đầy máu me tanh tưởi, nhe răng điên cuồng hò
hét, chẳng khác nào một đàn sư tử đói khát xâu xé xác một con nai tơ nạn
nhân!
Tôi cứ tiếc mãi, nếu đã có thêm trực thăng võ trang đến cứu cấp kịp
thời khi tôi vào cứu Thiếu Tá Nguyễn Du, ngay lúc anh ta vừa bung dù
xuống đất thì đâu đến nỗi anh bị lũ Việt Cộng bắt giết dã man như thế!
Chúng nó cột anh xuống cái cọc đóng sâu vào đất để dụ phi hành đoàn trực
thăng cứu cấp vào bẫy!
Tôi đã đáp gần chỗ Thiếu Tá Nguyễn Du, khi mà súng đạn, lực lượng
Việt Cộng cài dày đặc như lưới. Chúng lại có thêm pháo từ xa bắn tới nữa
chứ!
Hai trực thăng võ trang của chúng ta, hỏa lực mạnh như thế mà vẫn
không thể khống chế hỏa lực địch! Trên bãi đáp tôi ra lịnh cho xạ thủ và
cơ phi bắn không ngừng nghỉ. Kiếng trước của chiếc trực thăng của tôi
trúng đạn, gió lùa qua chân tôi thấy mát mẻ lạ.
Hơn hai phút, bất thần xạ thủ đại liên cho biết không còn đạn nữa,
tôi nhanh chóng nhắc bổng lên cần cao độ, và đẩy cần lái về phía trước
cất cánh hướng về phía Nam, bỏ lại Thiếu Tá Nguyễn Du anh hùng trơ trọi,
bơ vơ! Lòng tôi rối bời khổ sở!
Trong giây phút căng thẳng đó, tôi nhấc phi cơ lên, cố gắng bay về
căn cứ. Nhưng rồi, không may chút nào, đèn báo hiệu có mạt sắt trong hệ
thống trục chuyền cũng lại nổi lên! Tôi đã phải đáp xuống căn cứ Sư Đoàn
Dù tại cây số 17, phía Bắc Huế. Những khoảnh khắc may mắn thường qua
mau! Bộ Tư Lệnh Không Quân cho lịnh dùng hơi ngạt giải cứu Thiếu Tá Du.
Nhưng trực thăng cứu cấp đến nơi thì Việt Cộng biết trước, chúng đã trói
Thiếu Tá Du dẫn đi mất rồi! Ai đã báo cho Việt Cộng? Trận chiến oan
khiên!
Trở lại chuyện hiện giờ của tôi, trong cái sân rộng phía Nam của chợ
Đông Hà, tôi thấy người đâu mà đông đảo quá! Mọi chuyện đều tiến hành
nhanh chóng. Hai tên Việt Cộng trẻ măng xồng xộc đến bên tôi và đưa mũi
súng, ra lịnh tôi chống nạng đứng lên, đi vào giữa đám đông ngoài kia.
Tôi biết ngay đó là một Tòa Án Nhân Dân của Việt Cộng!
Đám đông yên lặng đó xem chừng quá nhút nhát, e dè khi một người đàn
ông nét da sạm nắng, trong bộ bà ba đen đọc bản kết luận của Tòa Án Nhân
Dân tỉnh Quảng Trị rằng tôi sẽ bị xẻo thịt cho đến chết! Và rằng bản án
sẽ thi hành ngay!
Mặt trời bây giờ xế, qua đỉnh đầu. Cái nóng bức gay gắt làm sao! Mồ
hôi tôi đổ ra như tắm trên đầu và trên mặt. Tôi đã giận cành hông, nên
đã vận động hết sức mình là hét lên rằng :
– Không! Không! Tôi vô tội! Tôi chỉ bảo vệ nước tôi! Tôi vô tội!
Dù tôi đã hét lên như sắp chết rằng tôi vô tội, song, đám đông đã
tiến sát về phía tôi. Mỗi người đều có con dao ngắn hay dài trên tay.
Tôi nhắm đôi mắt lại và tiếp tục hét to lên rằng “tôi vô tội, tôi chỉ lo
gìn giữ nước tôi mà thôi”. Miệng tôi hét to lên thì tay chân tôi cũng
quơ quào chống đỡ. Việc đó làm tôi đau đớn vô cùng, và làm tôi tỉnh
giấc!
Thế là tôi ra khỏi cơn mơ kinh khiếp! Trống ngực còn đập thình thịch.
Cơn mơ làm tôi sợ hãi vô cùng, và nhờ đó, trên đường mưu sinh thoát
hiểm về lại căn cứ tôi đã hết sức đề phòng từng ly, từng tí mọi bất
trắc!
Mò ra khỏi vũng bùn, chiếc áo bay của tôi quá nhiều túi, bây giờ chứa
đầy bùn trở thành một gánh nặng nên tôi đã cởi bỏ. Bấy giờ tôi chỉ còn
mặc một chiếc quần lót mà thôi!
Mặt trời treo trên cao, nóng cháy da người, và gió nhẹ. Một vài vừng
mây trắng bạch lười biếng trôi lững lờ làm tôi thở dài nhớ lại mấy câu
thơ tôi đã ghi ra hôm nào:
Gió thổi trời cao, mây vẽ chó,
Lửa tràn mái thấp, khói lùa ong.
Cuộc đời nay có, mai không,
Những người phản trắc, để lòng làm chi!
Để ngụy trang, tôi đã dùng bùn, đất sét trét đầy lên khắp người, và
hết sức cẩn thận trườn đi bằng ngực, hoặc bằng lưng của tôi, bởi vì làm
sao tôi có thể đi được khi mà khớp nối của đầu xương đùi bị thương quá
nặng.
Tôi trườn được một đỗi vừa để ý tựa tai mình xuống mặt đất để nghe có
tiếng chân ai đó hay không. Tai tôi cũng mở rộng, hết sức chăm chú. Lúc
này trời cũng sắp tối đến rồi. Theo hướng gió từ xa đưa lại, tôi nghe
tiếng nói eo éo trong gió của đám Việt Cộng. Tôi vội vàng lẩn trốn ngay.
Những cơn gió chiều thổi càng lúc càng mạnh hơn khi những đám mây đen
kéo đến che kín bầu trời. Tôi đoán mưa to rồi sẽ đến như đêm qua. Nhiệt
độ bây giờ thấp xuống và dễ chịu hơn. Chỉ có một việc tôi cảm thấy cồn
cào đó là đói và khát nước! Đạn pháo hôm nay ít hơn hôm qua.
Tôi cầu nguyện, và cầu nguyện liên tục. Tôi tin ở Tổ Tiên tôi, Quốc
Tổ Hùng Vương và Đức Tả Quân Lê văn Duyệt. Tôi cầu nguyện Thượng Đế,
trong tôn giáo Cao Đài có cho người trần thế biết tên là Cao Đài Tiên
Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Rồi thì mưa đổ xuống như thác, tôi nhờ vào đó mà di chuyển an toàn
hơn. Tôi dùng hai bàn tay nắm cỏ cao kéo tới, chân trái phụ vào bằng
cách đạp vào mặt đất cho toàn thân di chuyển về phía trước được hai hay
ba chục phân tây. Thật kể sao cho hết, tôi may mắn làm sao! Mưa càng to
thì tôi càng di chuyển được dễ dàng và an toàn hơn, bởi lũ Việt Cộng ác
ôn trong cơn mưa, chúng lười biếng đi kiểm soát.
Mưa rơi thì cứ rơi, đạn pháo và việc lùng kiếm giết nhau cũng đâu có
bớt đi. Tiếng pháo có thưa hơn, nhưng không hề dứt. Thỉnh thoảng những
tràng M16 lại nổ dòn, xen kẽ với tiếng nổ rát tai của AK47, và súng cối.
Mưa vẫn còn tiếp tục rơi, và tiếp tục rơi. Sấm chớp vẫn còn sấm chớp.
Ngày còn nhỏ bác tôi bảo đó là Thiên Lôi giết quỷ sứ! Tôi tin lắm vì
quỷ sứ có nanh vuốt, ác độc, không tốt! Tôi cũng đã buồn ngủ quá rồi, vì
tôi đã kiệt sức! Dù vậy tôi cũng đã cố hết sức chuyển đến một hố nước
cũng như đêm qua. Tôi trầm mình dưới vũng nước để thấy ấm hơn trên mặt
đất có gió thổi. Hai bàn tay khuấy nước cho sạch bớt bùn đất, rồi hai
tay chụm lại hứng từng giọt nước mưa để thấm giọng cho đỡ cơn khát! Tôi
tiếp tục làm như vậy cho đến khi tôi thấy bớt khát nước.
Tôi tự bảo rằng dừng lại việc di chuyển về hướng Nam là tự sát. Bởi
vậy, tôi phải cố gắng di chuyển và di chuyển cũng như tôi cố mà lắng tai
nghe với tất cả sự chú ý của tôi coi có sự động tĩnh gì hay giọng nói
nào của lũ Việt Cộng hay không. May mắn quá tôi không thấy ra cái gì cả!
Nhưng có điều những dây điện thoại liên lạc thì giăng đầy như lưới nhện
trong vùng tử địa chiến tranh tàn khốc này.
Tôi biết mỗi phân, mỗi tấc tôi trườn tới có nghĩa là tôi tiếp cận đến
chỗ an toàn sớm hơn. Mặt trời chừng như lố dạng ở chân trời phương
Đông, Tôi đã qua thêm một đêm nữa. Mọi vật chung quanh tôi có vẻ yên
tĩnh, chỉ trừ có đạn pháo thì không ngừng mà thôi. Pháo suốt đêm! Tôi
lại tìm chỗ ẩn thân. Tôi biết không gì cản nổi tôi đi vào giấc ngủ rồi,
vì tôi quá đỗi mệt, mệt vì kiệt sức!
Ngày thứ ba trên bãi chiến khi tôi thức giấc cũng là thêm một ngày
nóng rát nữa. Tiếng phi cơ phản lực tôi nghe được vọng lại từ xa xôi
lắm. Tôi hy vọng chúng đến gần tôi hơn, để tôi có thể đánh hiệu lên cho
chúng biết rằng tôi vẫn còn sống!
Tôi nhớ Thiếu Úy Hồng, cùng Phi Đoàn 233 của tôi, đã dùng chính hộp
nước ngọt để gửi dấu hiệu cho trực thăng tìm kiếm của Đại Úy Nguyễn văn
Banh. Đại Úy Banh nhận được tín hiệu tức khắc Đại Úy Banh tắt máy cho
được an toàn và đáp xuống một khoảng trống cạnh một con rạch nhỏ của dãy
núi cao. Đại Úy Banh đã cứu được Thiếu Úy Hồng một cách ngoạn mục! Tôi
cũng đã thết đải Thiếu Úy Hồng một chầu mừng thoát chết. Tôi cũng đã học
hỏi cách nào Thiếu Úy Hồng mưu sinh thoát hiểm để có ngày nào đó đến
lượt tôi, thì tôi đã có chút đỉnh kinh nghiệm.
Tôi đã quan sát cẩn thận chung quanh cho an toàn nếu tôi tiếp tục mò
về hướng Nam. Lúc đó một chiếc Quan Sát OV-10 trên bầu trời bỗng bay
thẳng vút lên trời xanh tránh hỏa tiển SA7 của Cộng Sản Sô Viết để lại
một vệt khói trắng màu tang. Tôi hú hồn cho chàng hoa tiêu trên chiếc
OV-10 đó!
Trong chốc lát, tôi bỗng miên man nhớ lại hình ảnh của Đại Tá Khánh,
Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 1 Không Quân, Trung Tá Phước, Không Đoàn Trưởng
Không Đoàn 51 Chiến Thuật, còn gọi là Phước răng vàng. Tôi nhớ Thiếu Tá
Bùi Quang Chính, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 233. Ông này làm anh cả thì
tốt hơn là Phi Đoàn Trưởng. Ông đã chăm sóc mọi thứ cho thuộc hạ dưới
quyền, từ Sĩ Quan cho đến Binh Sĩ! Gia đình ra sao, anh chị em thế nào.
Ông biết rõ từng người trong gia đình của Phi Đoàn. Tôi nợ ông nhiều
lắm. Tôi phải trả cho ông và vợ ông, chị Ngọc Diệp. Bà giáo Diệp đối xử
với tôi như là chị ruột.
Cơn đói kéo tôi vào giấc ngủ nữa rồi. Trong lúc ngủ tôi gặp Thiếu Úy
Trần Thanh, hoa tiêu trực thăng võ trang. Anh này cất cánh tại Đà Nẳng
lúc 7:00 giờ sáng, lãnh một quả SA7, lúc 9:00 giờ sáng cùng ngày. Tôi
cũng gặp Thiếu Úy Lê Công Quởn. Đặc biệt Thiếu Úy Quởn gia nhập vào Binh
Chủng Không Quân, bay sang Hoa Kỳ thụ huấn trở thành hoa tiêu trực
thăng, về Việt Nam và được lịnh phục vụ tại Phi Đoàn 233, Sư Đoàn 1
Không Quân , và là một Sĩ Quan trẻ chung phòng với tôi, cứ hai người một
phòng. Tôi coi Quởn như em, cháu. Quởn trọng tôi như chú vậy, bởi vì
Quởn tình nguyện đầu quân lúc mới 18 tuổi!
Tôi nhớ rõ sáng hôm đó, tôi được lịnh dẫn 5 trực thăng chuyển quân
Thủy Quân Lục Chiến tại Đại Nội Huế. Khi đó, Thiếu Úy Quởn đang thi hành
phi vụ tải thương tại căn cứ núi Hoàng Đế King. Thiếu Úy Đỗ Trọng là
Trưởng phi tuần. Toán trực thăng của tôi tại Đại Nội vừa cho Thủy Quân
Lục Chiến lên tàu, thì tôi nghe được trực thăng của Thiếu Úy Quởn đã rơi
tại căn cứ Hoàng Đế King. Tôi cho ngưng lại tất cả việc đổ quân Thủy
Quân Lục Chiến, tất cả trực thăng bay thẳng đến căn cứ Hoàng Đế King để
cấp cứu phi hành đoàn của Thiếu Úy Quởn. Trung Tướng Trần văn Minh, Tư
Lịnh Không Quân cho phép như vậy khi phải cấp cứu một “đại bàng gãy
cánh”.
Chúng tôi bay những vòng chờ phía Đông căn cứ Hoàng Đế King, phía Tây
dãy núi này hỏa lực và phòng không của Việt Cộng rất mạnh. Không biết
Quởn có phải bị súng phòng không Việt Cộng bên kia sườn núi Hoàng Đế
King hay không? Tôi bay một vòng quan sát rất thấp trên ngọn cây, song
tôi không nhận ra nơi nào trực thăng của Quởn lâm nạn. Quan sát kỹ hơn
nữa, bất ngờ đèn báo động có mạt sắt trong hệ thống chuyền lực nổi lên.
Tôi mang tên Eagle 5 rời vùng và chiếc Eagle 6 theo sau tôi bay phòng hờ
khi nào phi cơ tôi lâm nạn. Tôi hạ cao độ trực thăng xuống thật thấp.
Bầu trời rực rỡ sáng, và cơn nóng đã đến vội vàng. Giọng nói êm nhẹ quen
thuộc của Thiếu Tá Thanh nghe được:
– Eagle 5, bay sát xuống đất, Eagle 6 bay gần vào, nghe rõ?
Và tôi đáp nhanh:
– Eagle 5 nhận rõ 5 trên 5, Thẩm quyền.
Tôi dự định về Huế để lấy một trực thăng khác để bay tới vùng cứu cấp
Thiếu Úy Quởn. Trên đường tới Huế Phú Bài, tôi nghe được tin Trung Úy
Lưu, Sĩ Quan trực Cứu Cấp đã trên đường tới căn cứ Hoàng Đế. Trực thăng
của Trung Úy Lưu có đầy đủ trang bị cứu cấp trong rừng, có cả hệ thống
rước người lâm nạn bất tỉnh kéo lên trực thăng bằng máy.
Tôi chưa tìm được chiếc trực thăng khả dụng nào thì hay tin Trung Úy
Lưu đã kéo Thiếu Úy Quởn lên trực thăng và hạ cánh xuống bãi đất gần đó,
chuyển cho trực thăng khác đưa Thiếu Úy Quởn về bịnh viện Nguyễn Tri
Phương, Huế, vì Trung Úy Lưu còn phải trở lại hiện trường rước thêm 3
người nữa của phi hành đoàn.
Tôi được một trực thăng khả dụng, nên bay thẳng đến bịnh viện Nguyễn
Tri Phương. Tôi gặp ngay Bác Sĩ Bùi văn Đức, con nuôi của ba tôi. Bác Sĩ
Đức có mặt ngay tại chỗ vì nghe là hoa tiêu bị thương. Anh chạy tới tức
thì vì nghĩ có thể là tôi! Anh nói cho tôi biết vết thương của Thiếu Úy
Quởn vô cùng trầm trọng, xương sọ phía sau ót bị nứt, tay chưn bị co
rút giựt mạnh mẽ luôn! Thấy vẻ mặt tôi lo lắng anh kéo tôi ra ngoài sân
và nói nhỏ bên tai tôi để anh theo dõi suốt đêm nay xem Thiếu Úy Quởn có
thể phục hồi hay không. Tôi bất chợt nhớ lại rằng tôi đã nói với Quởn
rằng: “Khi chúng ta hoàn tất mọi nhiệm vụ được giao phó nhằm phục vụ con
người một cách tốt lành, khi phải tử vong chúng ta được lên cõi trên
hay được làm thần thánh ở Thượng giới”. Chia tay vơi anh Đức, tôi bay về
căn cứ Huế Phú Bài, trằn trọc suốt đêm. Không biết có phải vì câu nói
của tôi mà Quởn thêm gan dạ dẫn đến việc hy sinh như vậy?
Sáng hôm sau, Tôi tới Bịnh Viện thì được biết Thiếu Úy Quởn qua đời!
Mãi đến bây giờ, tôi vẫn tin rằng Thiếu Úy Quởn vẫn luôn đi theo tôi đến
bất cứ nơi đâu để che chở cho tôi khỏi sự nguy khốn.
Cơn mưa chiều nhiều sấm sét hợp cùng tiếng nổ đạn pháo kích của hai
bên Quốc Gia và Cộng Sản làm cho bầu không khí trở nên ồn ào ghê rợn
khiến tôi không thể nào nghe rõ sự vật quanh tôi! Tôi sắp bước qua đêm
thứ ba không quần, không áo! Chính bùn và đất sét và bèo cỏ đã thay cho
quần áo và là phương tiện che chở ngụy trang rất hữu hiệu cho tôi. Tôi
thầm nhủ rằng lợi dụng đêm tối, mưa giông để mò đi sẽ làm ngắn lại con
đường an toàn về căn cứ.
Mưa to quá, mưa xối xả như trút nước, sấm chớp vang trời như thiên
lôi rượt đuổi, diệt trừ quỷ ma đang hành hạ con người! Tôi nhờ mưa đêm
che chở tránh được sự dò tìm của bộ đội độc ác Việt Cộng.
Tôi vừa trườn qua một chiếc đầu lâu và bộ xương người trắng hếu. Bàn
tay tôi nhẹ nhàn vuốt cái xương sọ cùng lúc van vái rằng:”Tôi biết tại
sao người bị giết, Hãy giúp cho tôi, che chở tôi đến nơi bình an tôi sẽ
cúng cho.”
Một lúc sau tôi thấy một con mèo đen đi quanh quẩn bên tôi và rồi đi
về hướng Nam. Tôi cố trườn theo con mèo, nhanh và nhanh hơn nữa, vì vết
thương đã có mùi thối như xác chết! Đây là bãi chiến trường, vùng oanh
kích tự do. Do vậy, không vật chi còn nguyên vẹn. Chẳng có vật gì lớn
hơn 3 ngón tay được lành lặn. Chẳng có hàng tre hay bờ tường nào cao hơn
3 tấc! Tất cả là điêu tàn, là sắt máu hận thù!
Có lẽ tôi đã trườn đi một khoảng xa lắm. Tôi cám ơn Trời. Tôi cảm ơn
Quốc Tổ Hùng Vương. Tôi cảm ơn Đức Tả Quân Lê văn Duyệt, đấng đã che chở
cho ba tôi trên đường hành Đạo, nay xin Ngài che chở cho tôi. Mưa thì
chưa ngớt hột mà tôi thì đã kiệt sức rồi. Tay không còn nắm chặt được
cỏ, chưn trái không còn đạp để tiến về phía trước được rồi. Tôi may mắn
nằm bên bờ lạch nước đầy cỏ phủ nổi bên trên. Phương Đông có ửng chút
ánh hồng. Tôi trầm mình vào lạch nước, phủ đầy cò lên người, cơn mưa đã
dịu lại. Chỉ còn sấm sét nổ loang loáng một đôi nơi. Tôi rơi nhanh vào
giấc ngủ li bì.
Xe chạy qua đường Lê Văn Duyệt, quẹo qua Tô Hiến Thành, về nhà, về
đến nhà, tôi vui mừng tra chìa khóa vào ổ khóa mở cửa sắt nhẹ nhàng bước
vào bên trong. Nhìn lên đồng hồ kim chỉ hơn 12 giờ đêm và ba tôi vẫn
liên tục cầu kinh ở tầng trên. Ông luôn luôn cầu kinh cho tôi được an
toàn! Tôi rón rén giữ sự yên lặng hoàn toàn. Vào khoảng cuối lễ cúng
thời Tý, tôi thấy một con mèo trắng nhảy qua ngọn đèn dầu trên trang
thờ, làm rơi ngả cây đèn dầu vào chồng kinh sách và phát hỏa lớn lên sau
đó. Tôi vội vàng nhảy vào vùng lửa khói lửa để cứu ba tôi. Khi tôi dìu
ông ra, tôi đã phải chạy ngang qua vùng lửa cháy, tôi bị phỏng nặng. Tôi
đã làm cho tôi bị nhức nhối vô cùng. Nhờ vào sự cử động mạnh mẽ làm đau
nhức đó, tôi đã thức dậy và nhìn ra được rằng tôi đang nằm dưới vũng
bùn đen giữa bãi chiến chết người!
Ngày thứ tư trên bãi chiến bắt đầu bằng đạn pháo ầm ĩ, súng nổ bốn
bề, nhằm giết đi hết mọi sinh vật của Thượng Đế trên đời! Nghĩ cho cùng,
nếu Hà Nội không ngu xuẩn nghe lời xúi dại của Liên Xô và Trung Cộng,
xua quân xâm lấn miền Nam, thì làm gí có cảnh gió tanh mưa máu hôm nay.
Cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Ngàn đời nguyền rủa sự ngu xuẩn
tham lam của lũ Cộng Sản bạo tàn!
Có lẽ là hai hay ba giờ chiều. Đây là ngày thứ tư tôi nằm trên vùng
tử địa. Cơn nắng chiều nghiêng hẳn về Tây và nhiệt độ ngoài trời có lẽ
đến cực điểm của ngày. Trời xanh thẳm, một vài tảng mây trắng trôi bập
bềnh như vẻ tranh. Tuổi trẻ của tôi ngắm mây trôi là một thú vị. Nhìn
mây vẻ hình thú vật thay đổi trong khoảnh khắc mà cứ tưởng mình đang lơ
lửng giữa trần mây! Cũng không được bao lâu sau đó, những đám mây sậm
màu từ mạn Nam kéo đến, rồi mây đen theo sau, bầu trời phía Đông Nam giờ
đây trở nên đen kịt. Gió mát thổi càng lúc càng mạnh. Cơn mưa pháo vẫn
rót đều vào phía Tây của bãi chiến bên dãy núi Trường Sơn hùng vĩ.
Gió mạnh cũng tràn về làm ngả rạp đám cỏ hoang cao quá đầu gối. Trông
cảnh ấy chẳng có khác gì cảnh ruộng mạ mênh mông của miền Nam Việt Nam.
Tôi vẫn luôn cảnh giác nghe ngóng về giọng nói của người và sự động
tĩnh bất thường trên đường thoát hiểm hướng về Nam. Tôi đã từng biết rõ
ràng là bộ đội Việt Cộng không khiêng thương binh đồng đội của chúng, vì
khi tháo lui mà phải khiêng vác nữa thì gánh nặng khó khăn đến bực nào,
nên chúng nó đã giết hết thương binh của chúng! Thì theo đó, nếu chúng
phát giác được tôi trong tình trạng bị thương nặng như vầy, tôi không
thể bước đi, thì ngại ngùng gì chúng không cho tôi một viên vào đầu tức
khắc. Vì vậy, tôi phải cực kỳ cảnh giác, cho mỗi gang tấc tiến về phía
Nam cho được an toàn.
Tôi đã không có một chút thực phẩm nào ba ngày qua, tôi thấy đói và
đói. Tôi thấy mình dần dần yếu đi, đến nỗi tôi muốn dừng lại một chỗ.
Nhưng rồi tôi lại nghĩ, dừng lại chẳng khác nào tự tử. Đâu ai biết tôi
nơi nào mà cứu cấp! Do vậy mà tôi phải cố gắng trườn đi từng tấc, từng
tấc đất để về Nam. Nhờ vận chuyển tôi thấy có thêm sức mạnh và ấm người
hơn.
Bèo cám trên mặt nước dân miền Nam dùng để cho heo ăn, nhưng rồi
không có cái gì bỏ vào miệng cho bao tử làm việc sinh ra nhiệt, nên tôi
buộc lòng nhặt một ít bỏ vào miệng nhai, nhai và nuốt trọng vào, Tôi cảm
thấy có cát đất đi vào bao tử với nhúm bèo cám. Tôi nghĩ bao tử tôi reo
vui khi làm trọn vai trò sinh nhiệt cho thân tôi.
Trời lại sắp mưa. Gió giật, gió quyện vào nhau cuốn từng cọng rác to
nhỏ xoáy tròn bay cao lên khoảng trời đen sẫm. Tôi lại trườn qua gần một
mái tranh sụp xuống gần ngang mặt đất. Tôi nghe chừng như ai đó nói
chuyện bên trong. Tôi chắc chắn họ là ai. Lũ ác ôn Việt Cộng đây rồi!
Tôi lặng yên trườn đi nhanh xa chỗ đó. Tôi lại may mắn vô cùng bởi trời
đã đổ cơn mưa lúc đó! Thật quá căng thẳng, quá khiếp sợ đến nỗi tôi đã
nghe được cả nhịp tim tôi đập liên hồi trong lồng ngực thiếu sinh khí
của tôi.
Trời mưa lớn quá, lớn quá. Sấm sét liên tục dội vào màn nhĩ tôi làm
tôi khó chịu thế nào ấy. Chúng thách thức đua đòi hơn thua với âm vang
của đạn pháo của con người giữa Việt Cộng đối đầu cùng Sư Đoàn Dù, Thủy
Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa tại bản doanh hai sư đoàn này. Tôi lại
được dịp qua bờ rạch nhỏ, lừa mình đi nhẹ nhàng đến nỗi không một gợn
sóng lan ra trên mặt nước. Tôi tạm nghỉ ngơi, hít thở những hơi dài, coi
như rất sảng khoái. Tôi đã cách xa chòi lá giết người lúc nãy rồi. Tôi
ghi nhận đó là bản doanh chỉ huy của Việt Cộng ác ôn.
Nhìn lại, đây có thể là đêm nguy hiểm nhứt tôi chưa từng gặp. Tôi
nghe giọng nói con người từ hướng Nam theo gió tới tai tôi. Tôi chưa
nhận ra là bạn hay thù! Tôi tự khuyến khích chính mình còn hai ngày nữa
tôi mò đến mục tiêu đàng kia rồi. Chỉ cần hai ngày nữa! Hai ngày nữa mà
thôi!
Hai bàn tay tôi chừng như rã rời. Nhìn lại ngực và lưng tôi nghe ran
rát, những đường máu khô đặc lại, gặp nước cho tôi cảm giác xót buốt vô
cùng! Thực ra tôi không còn sức di chuyển nữa rồi. Lúc bấy giờ tôi đang
bên bờ sông Thạch Hãn. Tôi cẩn thận mò xuống dòng sông ngước nhìn tìm ra
chỗ trú an toàn. Tôi biết tôi có thể ngủ ngay tức khắc! Do vậy tôi phải
tìm cách nào kín đáo nhứt để ẩn thân đi vào giấc ngủ vùi hẹn hò nhiều
mộng mị!
Buổi Hội Thảo hàng tuần chiều Thứ Năm lại đến. Tôi bước vào phòng hội
khi nhiều người đã có mặt. Họ gồm cả hàng binh sĩ và sĩ quan của Sư
Đoàn 1 Không Quân. Sau phần chào cờ, hát quốc ca và một phút mặc niệm
tưởng nhớ Tổ Tiên, anh hùng giữ nước, Thiếu Tá Giả, thay mặt Trung Tá
Hậu, Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến Sư Đoàn, nêu đề tài tại sao chúng ta gia
nhập lực lượng quân đội quốc gia.
Sau bài nói chuyện gợi ý của một Thiếu Úy trẻ, Phòng Tâm Lý Chiến Sư
Đoàn, Thiếu Tá Giã mời mọi người lên phát biểu ý kiến. Một vài người
tiến về phía trước phát biểu lập luận rằng mọi người phải gia nhập quân
đội khi quốc biến. Quốc gia lâm nguy thất phu hữu trách. Đám người ngồi
sau tôi dịch nghĩa “khi đất nước gặp cơn nguy biến, thì có 7 người có
trách nhiệm ra gánh vác” rồi xúm nhau cười. Cũng có kẻ trả lời nghe tiêu
cực là nếu không gia nhập thì bị Cảnh Sát bắt tội trốn quân dịch!
Tôi không bằng lòng cách suy nghĩ yếu hèn đó nên đưa tay cao lên phát biểu. Tôi đã cao giọng rằng:
– “Chúng ta gia nhập quân đội quốc gia vì chúng ta muốn tự do! Hà
Nội đã tạo ra và cầm đầu cuộc chiến miền Bắc xâm lăng miền Nam, chính
vì Khối Cộng Sản Quôc Tế ra lịnh Hồ Chí Minh làm như vậy. Liên Bang Sô
Viết và Trung Cộng muốn cho Khối Cộng mở rộng ra về phía Đông Nam Á
Châu, và Khối Cộng Sản Quốc Tế sẽ trợ giúp hoàn toàn từ tuyên truyền cho
đến vủ khí đạn dược, kể cả tiền bạc phục vụ cho chiến tranh.
Trong cái thế làm tay chưn, một thứ tay sai thời đại mới, nên Hồ
Chí Minh làm sao dám cãi lại. Nếu không vâng lịnh thì chắc gì được sống!
Mặt khác có thêm nguồn lợi tiền tài danh vọng thì sao không nhận?
Việc xâm lăng xuống miền Nam có nghĩa là xâm lăng Việt Nam Cộng
Hòa. Và cũng có nghĩa là Việt Cộng phía Bắc Vĩ Tuyến 17 xua quân chiếm
thêm, lấy vùng đất và giết hại dân chúng phía Nam của Vĩ Tuyến 17. Việt
Cộng phía Bắc làm sao có sự khôn ngoan đủ để cho người dân xây dựng đất
nước? Ai cũng nêu câu hỏi tại sao Việt Cộng không để cho người dân phát
triển tự do? Sao không để cho người dân hai miền có điều kiện so sánh
nếp sống hai nơi? Sao không để cho người dân tự do lựa chọn nơi nào họ
muốn? Nếu Việt Cộng có được một chút khôn ngoan của dân tộc Đức thi dân
ta đâu đến nỗi này!
Anh em chúng ta nghĩ gì khi thấy thây người mỗi ngày, cứ mỗi ngày
tiếp theo, thấy chồng chổng, thấy những nạn nhân bị Việt Cộng giết dã
man thả xuống sông, trôi bềnh bồng bên những nhánh lục bình trên sông
nước hay trên các con rạch vô danh hẻo lánh? Còn khổ đau nào hơn nữa hay
không? Tim chúng ta rồi sẽ xoắn ốc ra sao khi thấy một bé con chết trên
tay mẹ. Cả hai mẹ con trôi dạt dật dờ bên bờ sông hiền hòa của quê
nhà? Chúng ta nghĩ gì, đầu óc ta nghĩ gì, khi chúng ta chứng kiến cảnh
tiêu thổ kháng chiến do Việt Cộng bắt chước rập khuôn theo kiểu Mao
Trạch Đông, làm cho khắp nơi, cả làng xã bị chìm trong biển lửa hận thù.
Con chó mực nào gầy còm lẻ loi, ốm đói bên hông căn nhà cháy hôm nào
bây giờ vẫn còn bốc khói, cạnh gốc chuối bị thiêu hết lá; con chó oan
khiên cố lấy hết sức tàn để gửi lời trách móc, tru tréo đến khoảng trời
xanh xa thẩm trên kia? Nhưng rồi có ai hay?
Tất cả hình ảnh đứt ruột đó đã xảy ra, phải xảy ra vì Cộng Sản Hà
Nội muốn mọi người phải nghe, phải theo chúng nó để làm vừa lòng các
quan thầy Liên Xô và Trung Cộng của chúng nó! Quái ác thay số phận Việt
Nam! Còn gì nữa không? Nước mắt có còn không?
Bởi vậy, những người trẻ, con dân miền Nam muốn bảo vệ mạng sống
của mình, của gia đình mình và đất nước mình chỉ còn một cách duy nhứt
là đứng lên cùng nhau đứng lên gia nhập quân đội để chống lại sự xâm
lăng của Cộng Sản Hà Nội và cả Khối Cộng Sản Quốc Tế.
Chúng ta muốn Tự Do. Chúng ta muốn bảo vệ Tự Do của chúng ta.
Không ai, không bất cứ ai, có quyền xâm lấn đất nước ta. Chúng ta gia
nhập quân đội chỉ vì chúng ta muốn Hà Nội phải nhận ra rằng con người
phải quý trọng quyền làm con người. Hà Nội dứt khoát không được cỏng rắn
cắn gà nhà! Không được gây tai họa khổ đau cho dân tộc ta nhiều hơn
nữa! Quá khứ đã quá đủ, quá đủ rồi!
Bất cứ hành động gì chúng ta đều phải nghĩ đến con người. Chúng
ta phải nghĩ đến sự Công bình giữa người và người. Phải tốt bụng, phải
hiền lành, phải tôn trọng kẻ khác vì chúng ta là Người, là con Người.
Tất cả bốn phương là anh em ruột thịt!
Trong khi say mê phát biểu quá nhiệt thành, tôi dơ hai tay lên xuống,
có lúc dậm chân trên nền gạch mạnh mẽ đến nỗi vết thương ở đùi mặt kích
động đau buốt kinh khủng làm tôi tỉnh giấc bật dậy. Tôi thấy mình đang
còn nằm vắt trên hai rễ cây gừa, chìm dưới làn nước của bờ sông Thạch
Hãn. Hú hồn trở về sự thật. Lúc đó mặt trời lên giữa đỉnh đầu, nắng gay
gắt, không thấy có chút gió nào. Toàn khoảng không gian như bị tan tác,
xé ra từng mảnh bởi những phi cơ phản lực oanh tạc thay nhau nhả bom
liên hồi xuống rặng núi phía Tây là dãy Trường Sơn. Tôi bước vào ngày
thứ năm trên bãi chiến chết người. Trên cao từng mảng mây trắng bạch
trôi lờ đờ ở phương trời cao mạn Bắc, khi mà chân trời phương Nam quy tụ
những cụm mây mưa xám xịt giăng đầy! Tôi đã luôn luôn nghĩ là tôi vô
cùng may mắn. Trời đất cho tôi nhiều ân huệ, ngày nắng gắt cung cấp cho
tôi nhiều năng lực ấm áp để rồi đêm đến trong cơn mưa lạnh tôi có đủ sức
trườn đi, mò về miền an toàn nhanh hơn
Nhiều đạn dược và ngòi nổ đạn pháo in đầy chữ Tàu Cộng trên bờ Bắc
sông Thạch Hãn đựng trong những hộp plastic nói lên một thực tế là quân
Việt Cộng đang kiểm soát, hay đang di chuyển trên phần đất phía Bắc dòng
sông định mạng Thạch Hãn! Biết vậy tôi tự bảo tôi nhanh chóng lánh khỏi
nơi tử địa hứa hẹn nhiều oan trái này.
Tôi đã lần hồi, nhẹ nhàng hết sức, cố bơi sang bờ Nam của dòng sông
mà không để lại bất cứ một lượn sóng nào. Bởi tôi biết rất rõ là nhờ vào
đó, nhờ vào làn sóng lan ra đó, Việt Cộng sẽ nhanh chóng phát giác ra
sự có mặt của tôi và rồi tôi sẽ lãnh ngay một tràng AK kết liễu đời
mình.
Khối nước to lớn và đám bèo trên mặt nước của dòng sông làm rớt đi
những mảng đất sét ngụy trang trên cái thân ốm đói của tôi. Vết thương
trên đầu đùi phải, cũng được nhẹ bớt đi sự đau dai dẳng mấy ngày qua.
Rồi cũng đến lúc tôi mò tới được bờ Nam rồi!
Tôi tìm xem nơi nào có lỗ trống không vướng cây cỏ làm tôi khó lê
thân lên bờ. Tôi lại dùng hai tay và lồng ngực đầy vệt máu mà trườn lên
bờ Nam. Cỏ bờ Nam cao chẳng thua gì bờ Bắc. Tôi trườn đi giữa những đụng
cỏ cao như gò mối ngang ngực người, khi bóng chiều xuống nhanh, mặt
trời còn khuất sau dãy Trường Sơn hùng vĩ. Những ánh sáng cuối ngày còn
vất vưởng ở đọt cây cao, nhạt nhòa trên cánh đồng mênh mông đầy mùi tử
khí.
Mưa đêm qua lớn quá nên qua một ngày nắng gắt rồi mà vẫn còn nước
đọng lại trên đường đi giúp tôi trườn tới dễ dàng như đang nằm và lội
trên đám cỏ sũng nước. Tôi thấy tôi có phước vô cùng. Tôi được sự giúp
đỡ của Ơn Trên nhiều quá! Cứ lập lại và lập lại mãi cái vòng sinh hoạt
hai tay giang ra phía trước nắm cỏ kéo lê thân đi, có sự tiếp sức đẩy
tới của chưn trái khi đạp vào đất! Cố gắng và tiếp tục cố gắng nữa. Muốn
sống phải vươn lên!
Chắc cũng được vài trăm thước rồi thì phải, tôi bất chợt cảm thấy như
đuối sức, hết hơi trườn tới nữa rồi! Bãi cỏ voi cao quá, cao quá không
ai có thể nhìn thấy tôi nằm trên láng cỏ ướt đó. Tôi thấy khát nước vô
cùng tôi có thể uống bất cứ nước gì để thỏa mãn cái cơn khát của thân
xác này.
Bất ngờ, may mắn làm sao, tôi thấy loáng thoáng vài anh lính Thủy
Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa khum khum chạy qua gần bên tôi. Tôi đã
vận dụng hết sức mạnh còn lại để gọi lớn lên:
– Thủy Quân … Lục Chiến! Tiếng tôi đứt khoảng vì không đủ hơi. Sau
khi nói lên chữ Lục Chiến tôi hoàn toàn hết sức mình. Tôi đã hiểu tôi có
cuộc gặp gỡ ly kỳ này là trời cho.
– Đứng lên! Đứng lên! Một anh lính Thủy Quân Lục Chiến nhìn chăm chăm vào tôi và hét to lên.
Tôi nghe được cái lịnh đứng lên của hắn ta mà tức giận:
– Đ. Má! Mầy không biết …hoa tiêu … trực thăng … lâm nạn?
Sau câu nói, hết sức lực đó, tôi bất tỉnh. Bầu trời sụp tối. Gió
chiều đã thổi, mơn man qua mặt tôi như bàn tay bà mẹ hiền vuốt má đứa
con thân yêu. Tôi thấy nhẹ nhàng lâng lâng, trút mọi lo âu cho quá khứ.
Vài phút sau, tỉnh lại, tôi thấy một anh Thủy Quân Lục Chiến nằm bên
cạnh tôi. Anh nói khẽ vào tai tôi:
– Thiếu Úy, Thiếu Úy lên lưng tôi tôi đưa Thiếu Úy vào vùng an toàn!
Để trả lời anh này tôi nói nhỏ:
– Vào lấy dây TAB cột vào nhau. Ra đây cột hai tay tôi và kéo tôi vào!
Anh lính Thủy Quân vâng lời, bò vào chỗ của Tiểu Đội anh. Mặt trời
bây giờ lặn hẳn rồi. Nhưng đứng gần cũng còn nhìn rõ mặt nhau. Gió Đông
Nam bây giờ nhẹ nhàng đưa hơi nước mát lòng, mát dạ đến vùng chiến địa
cày răng lược hiện giờ. Quả là phước đức vô cùng, đêm nay trời không
mưa. Thật mầu nhiệm của Ơn Trên ban thưởng cho tôi.
Tôi yên lặng không nói lời nào nữa. Nhưng đâu ai biết rằng trong thâm
tâm của tôi đã vui mừng khôn xiết. Tôi biết rõ ràng rằng tôi được cứu,
tôi được sống từ giờ này. Vài phút sau, hai anh lính Thủy Quân lại bò
đến bên tôi. Một anh nằm sát đất, anh kia nâng tôi lên lưng anh nọ. Rồi
cả ba trườn vào nơi ẩn núp tạm thời của Tiểu Đội, nơi tuyến đầu xen kẻ
cài răng lược với đám Việt Cộng.
Nơi đây tôi gặp Thiếu Úy Thanh, một Khóa Sinh Sĩ Quan cùng Tiểu Đội
với tôi khi cả hai cùng được huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức. Cả hai ôm nhau, nước mắt ràn rụa. Nhắc lại thời Khóa Sinh cùng dẫn
nhau trình diện bị phạt dã chiến 4 đêm, làm chúng tôi luyến tiếc thời
khóa sinh. Thanh trao cho tôi một điếu Rubi quân tiếp vụ. Điếu thuốc
thấm nước phân nửa, ngả màu vàng, cong vòng. Nhưng khi mồi lên, hít một
hơi thông suốt thì thấy lòng sảng khoái nhẹ nhàng.
Bấy giờ chắc khoảng 9 giờ đêm hay 10 giờ chi đó. Khác với những đêm
mưa tầm tã vừa qua, đêm nay mưa chỉ lấm tấm đủ làm ướt áo khách qua
đường. Tôi được chuyển sang vùng an toàn hơn. Rời chỗ Thiếu Úy Thanh
chia tay lưu luyến. Tôi có chỉ nơi Việt Cộng đặt bản doanh, và số đạn
dược chất trên bờ Bắc sông Thạch Hãn, tôi bắt tay cám ơn từng anh em và
Thanh. Tôi dặn dò hết sức cẩn thận sau mỗi lùm cỏ chất đống cao
ngạo. Tôi được đưa đến bộ Chỉ Huy Đại Đội. Bởi tuyến đầu của Thanh, hai
bên cọ sát đối đầu nhau trong gang tấc, và sẵn sàng giết nhau bằng súng
Mỹ, súng Tàu! Tôi được đỡ lên lưng một anh lính Thủy Quân Lục Chiến, ba
anh khác đi theo phụ giúp. Hai anh hai bên, và anh thứ ba phía sau. Con
đường chuyển tôi đi qua nhiều dốc đất sét. Đất sét gặp nước mưa làm con
đường đi càng trơn trợt nguy hiểm. Thật dễ dàng té ngã vì đi trong mưa
trên con đường đất sét như vậy của quê nhà.
Khi trời ngớt mưa chúng tôi cũng vừa tới Bộ Chỉ Huy của Đại Đội, nơi
đây có bao cát chung quanh. Tôi hoàn toàn kiệt sức, bởi vì tôi phải dùng
hết sức mình ôm chặt anh lính Thủy Quân Lục Chiến đang khòm lưng cỏng
tôi. Dù vậy, với ân tình huynh đệ chi binh xứng đáng ngàn vàng đó tôi đã
lấy hết sức tàn để siết tay và nói lời cám ơn 4 anh lính Thủy Quân Lục
Chiến vừa gan dạ vừa tình nguyện hy sinh. Tôi nhớ Đại Đội Trưởng công
tác chưa trở lại, chỉ có Đại Đội Phó tại đây. Tôi có nhờ anh gọi máy
liên lạc về Huế, và Đà Nẳng cho biết tôi đã về đến nơi an toàn. Lúc đó,
một anh lính Thủy Quân đến bên tôi hỏi:
– Thiếu Úy đói lắm hả, uống sữa nhé, chúng tôi cũng có mì Quân Tiếp Vụ làm cho Thiếu Úy?
– Không! Cám ơn anh quá đi. Tôi chỉ buồn ngủ thôi.
Tôi đáp nhanh và rơi vào giấc ngủ hồi nào không hay.
Đến sáng, khoảng 7 hay 8 giờ, một chiếc xe thiết gíáp M113 đến trước
Bộ Chỉ Huy Đại Đội để chở tôi đi ngay trên chiến địa. Tôi vui mừng khôn
xiết, nhắm đôi mắt lại mơ màng. Trước khi chiếc M113 di chuyển, Đại Đội
Phó bắt tay tôi siết mạnh và chúc mau lành để trở lại chiến trường với
anh em. Anh cười, và cho biết thêm rằng lúc hơn 2 giờ khuya, một phi
hành đoàn của Trung Úy Lưu, Phi Đoàn 233 có bay gần đến vùng này, liên
lạc để bốc tôi về Bịnh Viện, nhưng anh từ chối vì an ninh cho cả Đại Đội
ban đêm. Đạn và súng cối Việt Cộng sẽ sẵn sàng tấn công vào Đại Đội khi
trực thăng đáp xuống rước tôi. Anh đã khước từ nhiều lần mặc dù Trung
Úy Lưu khẩn khoản, và rằng Trung Úy Lưu sẽ tắt hết đèn và tắt máy để đáp
xuống bất ngờ. Tôi nghe chuyện mà thương cho người đứng đầu chiến
tuyến, thương và cảm phục tình chiến hữu trong quân đội, thương Trung Úy
Lưu!
Chắc cũng hơn nửa giờ sau thì chiếc M113 dừng lại. Tôi được khiêng ra
khỏi xe. Tôi cám ơn các anh kỵ mã can trường. Xe đã lui mà tôi còn nghe
lời chúc mau bình phục của họ! Tôi nhìn quanh quan sát, đây là trạm cứu
thương giữa chiến trường, Thiếu Tá Bác Sĩ Quân Y nhìn tôi e ngại,
thương tình. Lúc đó, trên người tôi chỉ là bùn đen và đất sét ngụy trang
mặc dù lúc bơi qua sông chúng đã rơi xuống nước khá nhiều. Tôi chỉ có
một chiếc quần lót lẫn màu đất là của con người. Xót xa quá, nên Thiếu
Tá vào trong lấy ra một bộ đồ bông màu Thủy Quân Lục Chiến có đính cấp
bậc Thiếu Tá và huy hiệu Bác Sĩ Quân Y, và bảo mấy Y Tá chiến trận mặc
vào cho tôi! Thú thật, trong bộ đồ của binh chủng anh hùng đó, trông tôi
mạnh mẽ hơn lên! Tôi cám ơn nhiều lần, và có ghi nhận là Thiếu Tá Bác
Sĩ và binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến can trường còn trẻ quá!
Mặc xong bộ đồ, một xe tải thương đã sẵn sàng để chuyển tôi về nơi an
toàn hơn nữa để trực thăng đáp bốc về Bịnh Viện. Xe chạy trên đường đất
đỏ có một hàng cây bên trái. Gió buổi sáng len vào thùng xe làm tôi cảm
thấy dễ chịu. Có lẽ sau đêm ngủ ngon lành nhiều mơ mộng vui tươi, tôi
như có thêm nhiều sức lực. Sức lực có thêm là nhờ tình người, tình đồng
đội, tình chiến hữu trong đấu tranh sinh tử có nhau!
Xe cứu thương dừng lại chỗ có tên Ngả Tư Quốc Tế, Lữ Đoàn 147 TQLC.
Tôi được khiêng xuống, và xe trở lại Trạm Y Tế Tiền Phương nơi có Thiếu
Tá Bác Sĩ mà tôi trong lúc xúc động vui mừng đã không hỏi han danh tánh!
Nằm trên băng ca nơi yên ổn, có người chăm sóc thân mến, lòng tôi rộn
ràng nghĩ đến anh em chắc đang chờ gặp tôi! Mắt tôi lơ đãng nhìn bầu
trời xanh, cũng lãng đãng mây trắng mà thầm cám ơn Thượng Đế, các đấng
Thần Linh đã che chở cho tôi. Cám ơn những đêm mưa đầy sấm sét. Cám ơn
người chết nằm giữa đường, xương sọ, xương người trắng hếu. Cám ơn Quân
Đội đã sản sanh ra những người chiến hữu sống chết có nhau. Tôi về nơi
yên lành mà sau lưng còn bao nhiêu lính trận phải mở mắt to lên, ngày
đêm cho dù buồn ngủ đến cay xé! Làm sao đủ từ ngữ để nói lên tinh thần
hy sinh cao cả của người lính trận, xả thân vì nước, vì anh em đồng đội,
chiến hữu! Phải nói đây là hành động thần thánh, sự thương yêu của anh
em ruột thịt, một mẹ trăm con!
Mấy anh lính Thủy Quân Lục Chiến biết tôi, nghe danh tiếng tôi, qua
năm tháng phục vụ cho binh chủng này, quen thuộc với một hoa tiêu có nón
bay sơn đen ghi chữ “Minh Rừng chết cho Người” ngồi chung quanh băng
ca, vui mừng hỏi:
– Trị thương bao lâu Thiếu Úy?
– Vài tháng. Tôi trả lời trong sự lạc quan trước mặt.
– Trở lại bay giúp anh em hở Thiếu Úy? Một anh khẩn khoản.
– Đương nhiên! Nhớ nón bay đen nhé! Một anh lớn tuổi hơn hết, chẳng thấy lon lá gì hỏi:
– Thiếu Úy uống cà phê, sữa hay cơm cháo? Tụi này có sẵn đây! Nghe câu nói chân tình, tôi cảm động siết tay anh và nhờ:
– Anh cho tôi nửa chén nước của mì Quân Tiếp Vụ.
Anh chạy đi lo nấu cho tôi. Mấy anh còn lại hỏi chuyện:
– Mấy ngày qua làm sao mà Thiếu Úy qua mắt được tụi nó? Tụi nó đông lắm Thiếu Úy.
Tôi thấy lòng nhẹ nhàng thanh thản, như đang ở nhà, chỗ yên vui, cho dù vết thương đang hoành hành xông lên mùi xác chết.
Tôi nhận nửa chén súp mì Quân Tiếp Vụ, khói bay theo gió, ngạt ngào
mùi thơm. Tôi đã trở lại với xã hội thật của con Người, có thức ăn của
người, có tình tự thương mến. Vị mặn và nóng vào miệng ngon lành không
sao tả hết được. Mì Quân Tiếp Vụ có giá trị căn bản, chơn chất, rẻ nhất
trong đời. Đó là loại thức ăn nhanh gối đầu quen thuộc cho quân nhân, Sĩ
Quan độc thân như tôi.
Chắc vào khoảng 10 giờ, mặt trời lên khá cao, gió Đông Nam nhè nhẹ
thổi làm tôi thấy khoan khoái hơn. Lòng tôi như mở hội vui mừng! Nhiều
trực thăng của Phi Đoàn 233 chợt hiện đến nghiêng cánh vẩy tay chào, rồi
đi hành quân. Một chiếc đáp xuống, anh em Thủy Quân Lục Chiến vội
khiêng banca tôi lên trực thăng. Rồi thì chúc mau bình phục vang vang
theo gió. Tôi ngoái cổ nhìn xuống mà cảm xúc dâng tràn.
Từ Phòng Hành Quân Đà Nẵng, Thiếu Tá Chính chỉ thị phi hành đoàn rước
tôi phải trực chỉ về Phi Đoàn càng nhanh càng tốt, vì khách khứa đông
đủ chật cả hangar Phi Đoàn.
Trên đường về Đà Nẵng, anh em tại Huế, Phú Bài muốn nhìn thấy tôi,
nên trực thăng ghé xuống Huế, Phú Bài. Anh em, Biệt Đội Tiền Phương, kéo
nhau ra bãi đáp chào mừng tôi như kẻ chết sống lại. Ai cũng bắt tay, có
người vuốt ngực áo tôi rồi chào “Thiếu Tá Bác Sĩ“ trong tiếng cười vang
như mở hội ăn mừng. Thật ấm lòng, những cái bắt tay làm tôi vui mừng
khôn tả. Đến lúc trực thăng cất cánh rồi tôi vẫn còn nghe tiếng reo vui
phía dưới phi trường! Nhìn qua tôi còn thấy Đại Úy Lô, đứng yên đó vẩy
hai tay thương mến.
Từ Huế Phú Bài về Đà Nẵng, khoảng hơn 30 phút bay. Thời gian ngắn đó
cũng đủ cho tôi biết được hết về phi hành đoàn của tôi. Cơ Phi Xôm và Xạ
Thủ Tuấn được Thuỷ Quân Lục Chiến đưa ra khỏi bãi mìn và gửi về Phi
Đoàn. Cả hai đang lo việc chào đón tôi tại Phi Đoàn 233. Thiếu Úy Nguyễn
Hàn, không may lúc đêm đen, mò trúng vào bãi mìn của Thủy Quân Lục
Chiến, mìn nổ chết! Thiếu Úy Hoa Tiêu Phụ Trịnh Hữu Văn mất tích! Tôi
thấy cổ tôi nghẹn ngào, thương cho Văn, rồi tự trách vì tôi mà Văn mất
tích! Vì tôi mà cha mẹ Văn chạy đôn đáo tới lui! Bổn phận, Danh Dự nào
cho nguôi ngoai tình cảnh chúng tôi đây? Văn đã chết hay bị Việt Cộng
bắt rồi?
Trực thăng hướng về Nam, qua khỏi đèo Hải Vân có gió nhồi qua đỉnh
núi, cao độ giảm dần, rồi được ưu tiên bay vào thẳng Phi Đạo 233. Tôi
ngó qua thấy bà con, anh em chờ đông quá. Hình ảnh xôn xao đó làm tôi
quên ý nghĩ về Thiếu Úy Văn. Tôi thấy đầy đủ Sĩ Quan, văn phòng của
Không Đoàn 51 Chiến Thuật, và Phi Đoàn 233. Gương mặt ai cũng mừng vui
rạng rỡ làm tôi quên rằng tôi không thể bước được bước nào. Tôi nằm trên
banca đưa tay bắt từng người, từng người.
Chen vào khiêng banca, tôi nghe tiếng Chú Ba, và nhận ra là Trung Sĩ
Yêm, cháu rể của chị Năm, em của anh Ba nhà kế bên nhà ngoại lúc tôi học
lớp Ba, Tiểu Học Gò Dầu Hạ. Yêm cho biết suốt đêm qua không ai ngủ cả.
Ai cũng chờ Trung Úy Lưu rước Chú Ba về. Rốt cuộc Thủy Quân Lục Chiến
không cho, vì mấy ổng sợ bị pháo và sợ súng cối bắn vào! Yêm cho biết
sáng nay những bàn thờ để ra trước cửa cầu nguyện cho Chú Ba ở trại gia
binh mới dẹp vô. Và rằng ai cũng van vái cho Chú Ba.
Mọi người thắc mắc sao lại là Thiếu Tá Bác Sĩ Thủy Quân Lục Chiến?
Khi chuyển tôi qua xe cứu thương của Bịnh Viện 95 Dã Chiến Hoa Kỳ, nhiều
người còn chạy theo chào mừng Thiếu Úy, chào mừng thầy giáo. Trong năm
1971-1972 tôi có mở lớp, và đích thân dạy Luyện Thi Tú Tài I cho 47 Hạ
Sĩ Quan và Binh Sĩ của Sư Đoàn. Tất cả đã đỗ Tú Tài I, nên có nhiều gia
đình học trò thương mến lắm.
Bấy giờ xe cứu thương chạy qua cổng Bịnh Viện 95, tôi thấy lính Quân
Cảnh Mỹ mở cửa nhìn tôi, rồi đóng cửa xe lại. Sau đó, xe vào và dừng lại
cửa Cứu Cấp. Banca của tôi được khiêng xuống và chở vào Phòng Chẩn
Bịnh. Thiếu Tá Bác Sĩ James Greenbergs, đứng trước các dương bản chụp
xương háng, xương đùi của tôi, Thiếu Tá Chính có mặt bên cạnh, bàn bạc
phương cách phẫu thuật.
Chuyển tôi vô phòng mổ, qua, mấy giờ đầy những sinh hoạt đầy ấp những
vui tươi, triều mến, tôi đã mệt lả người. Nên tôi nhắm mắt để mặc cho
Bác Sĩ và Y Tá làm gì thì làm. Tôi nhắm mắt sau đó đi vào giấc ngủ vùi.
Tối hôm đó, tôi tỉnh dậy, nằm trên giường bịnh vải bao trắng xóa. Tôi
thấy có cái gì cộm cộm dưới lưng trên xương đùi. Tôi nhận ra ngay là
việc mổ đã xong! Một Trung Sĩ Mỹ phụ trách cho tôi thường lui tới hỏi
han. Anh này khi muốn thay băng, hay lau thân tôi, câu đầu tiên anh nói
là: “Anh Hùng của tôi” (My hero!).
Sau đó, một nữ Y Tá người Việt được chỉ định chăm sóc cho tôi. Thân
tôi là thân đất, nên nhà thương phải lau rửa luôn luôn! Nhờ đó tôi được
sạch sẽ và thơm tho lắm. Cám ơn Bịnh Viện 95 Dã Chiến Hoa Kỳ! Cám ơn em Y
Tá mà tôi chưa từng biết tên, người xứ Quảng.
Những tháng ngày tháng 10, năm 1972 Việt Cộng tăng cường pháo kích
vào phi trường Đà Nẳng. Bịnh Viện kế bên phi trường cũng chung số phận.
Bác Sĩ và Y Tá mỗi khi bị pháo kích phải chạy lo cho bịnh nhân an toàn
trước tiên. Tôi được che chắn bởi các mảnh áo giáp rất kỹ lưỡng và an
toàn!
Tôi lại nghĩ đến sự an nguy của các vị Bác Sĩ và Y Tá Hoa Kỳ! Những
người này có phải mình đồng da sắt hay không? Khi Việt Cộng pháo kích
các vị nầy phải lo cho người khác, phải quên mình. Đó, hành động đó,
tinh thần đó từ đâu mà có? Cám ơn những người Mỹ cao thượng lo cho
người, hy sinh cho đời! Các anh xứng đáng làm Người, con người giúp đời,
không màng sự chê bai của người khác. Thói thường, không làm được việc
cao thượng thì thường hay chỉ trích những ai làm việc cao thượng!
Những người cao thượng trên cỏi đời này, những người Hoa Kỳ cao
thượng quý mến ơi! Tôi mang ơn các anh, các chị. Tôi chỉ xin có dịp Vinh
Danh các anh. Tôi còn nhớ Thiếu Tá Bác Sĩ James Greenbergs, 1972-1973,
người của Tiểu Bang Wisconsin, Hoa Kỳ. Ông này mời tôi đến nhà ông khi
có dịp. Nhưng nay có dịp thì lại không có địa chỉ nhà ông! Ông
Greenbergs ơi! Nếu Ông đã qua đời, xin Ông hiểu cho lòng tôi, tôi còn
hình dáng hai chân tự nhiên là nhờ Ông! Ông giữ công đầu trong việc giải
phẩu và nuôi sống trở lại chân bên phải của tôi! Nếu không phải là Ông
thì tôi phải mất đi một chưn đứng rồi! Do đó, dòng đời dạy tôi rằng tôi
nợ những người Mỹ cao thượng nhiều lắm, tôi nợ mọi người, nợ quê hương
tôi và cây cỏ cùng mang số phần nghiệt ngã như tôi!
Đỗ Minh Đức
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire