Kính mời quý anh chị đọc một bài viết rất cảm động của tác giả Lê Đức Luận.
Caroline Thanh Hương
Số Ở Nhà
“Công Thự” – Lê Đức Luận
November 8,
2018 |
Hai Búng vào
nhà dưỡng lão hơn bốn tháng nay, thường xuyên gọi điện thoại cho tôi – cà kê đủ
thứ chuyện ở viện dưỡng lão và bao giờ cũng kết thúc bằng một câu rất thuyết phục:
“Mầy lên xem cơ ngơi mới của tao – Thiên đàng nếu có, cũng đến thế là cùng”.
Tôi nghe mê tơi, cũng muốn xin vào Viện Dưỡng Lão …
Với Hai Búng
thì có nhiều chuyện để nói. Tên trên giấy tờ là Phạm Bình Nhâm, nhưng từ khi
vào quân đội, ban bè cùng khóa đặt cho hắn cái tên mới là Búng – Hai Búng. Sở
dĩ hắn mang cái biệt danh (nickname) này vì nhà hắn gần chợ Búng mà khi nhắc đến
chợ Búng, hắn say sưa nói miết – quên thôi! Hắn tả cảnh, tả tình về quê hương của
hắn với những vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, An Sơn, Bình Nhâm (nơi sinh quán của
hắn) hấp dẫn đến mức mà người nghe thấy mát rượi với những cây chôm chôm, măng
cụt, sầu riêng… ngát hương vườn lài, thơm phức mùi sầu riêng và ngọt lịm mùi lò
đường, ruộng mía ven sông… Và bao gìờ kết thúc câu chuyện cũng là lời mời rất
chân tình: “Khi nào đi qua Chợ Búng nhớ ghé nhà tao, tao sẽ đưa tụi mày đi ăn
bánh bèo bì Mỹ Liên, hay Ngọc Hương, hai tiệm bánh bèo bì nổi tiếng không những
ở chợ Búng mà khắp nước đấy – Rồi về nhà tao, mẹ tao sẽ đãi một bữa cháo vịt –
thịt vịt bầu mà chấm nuớc mắm gừng do mẹ tao pha chế thì hết sẩy – Tụi mày sẽ
nhớ đời …”
Hắn căn dặn
thêm: “Đến Búng, hỏi tên tao thì ít người biết mà hỏi “Cậu Hai Phạm” thì ai
cũng biết – Muốn tìm đến nhà thì hỏi “nhà ông Thầy Năm Tử Vi” thì sẽ ra ngay”.
Có lần tôi hỏi
hắn:
– Tại sao
mày lớn lên ở đây mà ít người biết tên thật Phạm Bình Nhâm, chắc mày muốn giấu
tên để người ta gọi “Cậu Hai Phạm” cho oai?
Hắn giải
thích:
– Không phải
vậy mà do phong tục miền Nam – người ta thường xem cá tính, hình dạng, rồi lấy
thứ bậc trong gia đình ghép vào thành tên gọi như: Hai Lúa, Ba Cao …một cách gọi
cho gần gũi thân thương. Còn tao, vì hay ăn nói bổ bả, đôi khi làm thơ, đặt vè
tố cáo, châm biếm mấy thằng bê bối, ức hiếp dân lành, nên chúng ghét, tìm cách
vu cáo: Phạm lỗi này, tội kia … Nhưng chúng chẳng làm gì được tao, chỉ gọi “thằng
Hai Phạm”- tức là hay phạm lỗi cho bỏ ghét – riết rồi dân trong làng nghe quen
tai, họ gọi tao “cậu Hai Phạm”.
Hôm tôi đến
thăm Hai Búng – xem căn phòng rộng khoảng mười mấy mét vuông, kê một chiếc giường
đơn và một cái tủ nhỏ đã thấy chật – “Cơ ngơi” ấy làm sao so sánh được với ngôi
nhà ngói cổ ba gian, hai chái, rộng thênh thang, lúc nào cũng mát rượi … nằm giữa
một vườn cây ăn trái hơn năm mẫu của cha ông bao đời vun đắp ở gần chợ Búng mà
Hai Búng sẽ là người thừa kế. Vậy mà bây giờ Hai Búng kêu tôi tới xem cái “cơ
ngơi” này với lời ca tụng: “Thiên đàng nếu có, cũng đến thế là cùng”. Có lẽ Hai
Búng đã “ngộ” được lẽ sống ở đời rồi chăng…?
Nhớ lần đầu
tiên Hai Búng đưa tôi về nhà ở chơi mấy ngày trong dịp nghỉ phép sau khi diễn
hành ngày Quân Lực -19-6 năm 1967 ở Saigon. Khi trở lại Đà Lạt học năm chót,
vùng đất trù phú này với những vườn cây trái êm đềm và sự nhân hậu, chân tình của
của cha mẹ Hai Búng, biểu lộ đức tính hiền hòa, mộc mạc của người miền Nam, đã
làm tôi lưu luyến … Vì vậy, khi ra trường tôi chọn Sư Đoàn 5 BB, vùng hoạt động
gồm ba tinh Bình Dương, Bình Long, Phước Long (danh từ quân sự gọi: Khu 32 Chiến
Thuật) – căn cứ đóng ở Lai Khê, chỉ cách Búng hơn 15 cây số. Còn Hai Búng chọn
Biệt Động Quân – rày đây mai đó, rất ít khi được về thăm nhà.
Khi đơn vị
nghỉ dưỡng quân hay được nghỉ phép vài ba ngày, tôi thường ghé thăm ông bà thân
sinh của Hai Búng. Ông Bà rất mừng … Sự hiện diện của tôi, mẹ Hai Búng hình
dung ra bóng dáng đứa con trai yêu dấu – thằng Nhâm. Còn tôi, qua hình dáng của
bà gợi cho tôi nhớ về người mẹ thân yêu ở tận ngoài Trung – xa lắc . Sự tương
giao đó đã tạo nên mối thâm tình và tôi được xem như một thành viên trong gia
đình Hai Búng.
Mỗi lần Hai
Búng về phép, tôi cũng xin nghỉ phép vài ngày về chơi với Hai Búng, nếu đơn vị
không bận hành quân. Gặp nhau, hai đứa tán đủ thứ chuyện: Ngoài chuyện gian
nguy ở chiến trường, chuyện tình yêu, chúng tôi hay nói đến sự phi lý của một
cuộc chiến tranh không cần thiết, về nỗi buồn và bất hạnh trong chiến tranh.
Đôi khi hai đứa ngồi im lặng hằng giờ, nhâm nhi ly rượu nếp than (do mẹ Hai
Búng nấu) nơi chiếc bàn đá sau vườn, nhìn những đàn chim bay về tổ, ríu rít tiếng
kêu gọi đàn khi nắng chiều sắp tắt mà mơ về một ngày thanh bình – một ngày giã
từ vũ khí.
Có lần tôi
nói với Hai Búng:
– Một mai hết
chiến tranh, mầy về đây vui hưởng thú điền viên như Cụ Nguyễn Công Trứ ngày
xưa: “Thảnh thơi thơ túi rượu bầu” và sẽ sống: “Ngoài vòng cương tỏa chân cao
thấp / Trong thú yên hà mặc tỉnh say”…
Hai Búng thẩn
thờ:
– Số tao
không được như vậy. Ông già tao xem số tử vi, bảo rằng: Cung Điền Trạch của tao
có chính tinh miếu vượng mà gặp tuần triệt nên khó được thừa kế tài sản của tổ
tiên, nhưng lại có các sao Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Lộc, Hóa Quyền chiếu mạng
nên sẽ sống ở khu vực có nhiều cơ quan, nhiều bạn bè, người phú quý lui tới … Vậy
là chỉ ở trong “công thự”?
– Công thự
là nơi ăn ở, làm việc của mấy quan to, cấp cho những người có danh phận, làm gì
đến phiên mày?
Hai Búng giải
thích:
-Sang thì
công thự mà hèn thì chung cư, trại gia binh, nghĩa là lá số cho thấy tao sẽ
không có nhà riêng.
Tôi không hiểu
nhiều về khoa tử vi và cũng không mấy tin vào lá số, nhưng khi nghe Hai Búng
nói vậy, tôi không có ý kiến, vì ông già Hai Búng giỏi về khoa tử vi và rất nổi
tiếng – trong nhà lúc nào cũng đông khách đến nhờ xem tử vi, đa số là người
Saigòn. Bởi vậy tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện:
– Chờ xem!
Ngày tháng
trôi qua, cuộc chiến mỗi ngày thêm ác liệt, chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Khi
cuôc chiến sắp tàn, tôi được tin Hai Búng bị thương nặng trong trận đánh ở Xuân
Lộc, đang điều trị ở Tổng Y Viện Cộng Hòa, nhưng không thể rời đơn vị để về
thăm.
Sau đó bao
nhiêu biến cố dồn dập, tôi không liên lạc được với Hai Búng trong một thời gian
dài. Rồi một hôm vào khoảng tháng Giêng năm 1979, hai đứa gặp nhau ở một nơi
cách xa chợ Búng cả ngàn cây số – Trại tù K5 – Tân Lập Vĩnh Phú, trên vùng
Trung du Việt Bắc.
Tôi nhớ mãi
lần gặp gỡ buổi trưa hôm ấy: Mừng mừng … tủi tủi… Hai Búng đặt bàn tay gầy guộc
lên bờ vai xương xẩu của tôi, run run khẽ nói:
– Mầy vẫn
còn sống?
Lẽ ra tôi phải
nói những lời ân cần, hỏi han sức khỏe tôi lại buông một câu lãng xẹt: “Trại
mày ở đẹp à nghen – tường gạch, mái ngói, giống như …”
Tôi chưa nói
hết câu, Hai Búng cười ngấc ngưởng, ngắt lời:
– Giống như
“công thự”? Số tao ở nhà “công thự” mà mầy.
Tôi định
chen vào để chữa lời nói lãng xẹt vừa rồi: “Tường cao, cửa sắt kiên cố thế kia
thì đám tù hết phương trốn thoát, chứ đẹp cái nỗi gì?”. Nhưng Hai búng cứ nói
miết:
-Có cổng tam
quan, có thằng đứng gác ngày đêm cho mình ngủ (Hai Búng hạ giọng nhìn quanh, sợ
bọn ăn-ten nghe lén) – chỉ khác thời trước là mình ra, vào cổng hắn không bắt
súng chào.
Hai Búng cười
khùng khục, rồi tiếp:
-Nhưng “công
thự” này không đồ sộ bằng cái “công thự” đầu tiên tao được ở.
-Ở đâu? Tôi
hỏi.
-Khám Chí
Hòa. Hai Búng trả lời.
Tôi thắc mắc
hỏi tiếp:
– Làm sao
mày lại vô khám Chí Hòa?
Hai Búng vừa
nói vừa kéo tôi vào chỗ bóng mát dưới gốc cây bàng:
– Chuyện dài
như tiểu thuyết – Trận Xuân Lộc bắt đầu ngày 9-4-1975, Liên Đoàn 7 BĐQ của tao
phối hợp với Trung Đoàn 48 của SĐ18 BB phòng thủ từ núi Chứa Chan, Giá Rai đến
Xuân Lộc. Bốn ngày sau, ngày 13-4-1975 tao bị thương khá nặng, được trực thăng
bốc về Tổng Y Viện Cộng Hòa. Đang nằm điều trị trong bệnh viện, nghe bản tin buổi
sáng ngày 30-4 trên radio: Dương Văn Minh ra lịnh quân đội VNCH buông súng – chờ
bàn giao” – Tao khóc!
– Tao không
thể nào quên được nổi thê thảm của những thương binh VNCH bị đuổi ra khỏi nơi
điều trị ở Tổng Y Viện Cộng Hòa vào ngày 1-5 – trong đó có tao. Đau thương, uất
hận lắng vào tiềm thức, có lúc trổi dậy, khiến thơ, vè trong tao trào ra. Thế
là chúng gán cho cái tội “biệt kích văn nghệ”, tống tao vào khám Chí Hòa.
– Hơn 5
tháng nằm trong cái “công thự” này, chúng điều tra tới, điều tra lui, nhưng
thơ, vè của tao chỉ truyền khẩu, không có bằng chứng cụ thể. Môt hôm chúng đưa
tao lên văn phòng gặp Vũ Hạnh, chắc là để tên này nhận diện. Tao biết hắn,
nhưng hắn đâu biết tao là ai. Hắn hỏi mấy câu: “Bút hiệu của anh là gì? – Anh
đã có bao nhiêu tác phẩm đã xuất bản”. Tao trả lời: “Tôi làm gì có bút hiệu, có
tác phẩm – Anh hỏi thế là cho tôi lên mây rồi”. Chúng thấy tao chẳng có tên tuổi
gì trong giới nhà văn, nhà báo mà chỉ là thằng “phất phơ miệt vườn”, nên chúng
chuyển tao vào trại Suối Máu (Biên Hòa). Tháng 7 năm 1977 chúng tống tao xuống
tàu đưa ra đây.
– Thôi chuyện
còn dài, sắp tới giờ lao động rồi, mầy ở đây chờ tao, tao có chút quà cho mầy,
tao mới được thăm nuôi.
– Ông Bà cụ
ra đây thăm mầy?
– Không –
“người ơn”- Ông Bà già yếu lắm rồi.
– “Người ơn”
hay người yêu?
-Chuyên dài như
tiểu thuyết. Có dịp tao sẽ kể cho nghe.
Cuối năm
1981, tôi và Hai Búng được thả cùng ngày từ trại tù Tân Lập – Vĩnh Phú. Trên
chuyến tàu xuôi Nam, Hai Búng kể tôi nghe về “người ơn” của hắn. Hắn thẩn thờ
nhìn qua khung cửa toa tàu, và với một giọng trầm buồn, hắn bắt đầu câu chuyện:
-“Khi nghe
loa phóng thanh phát ra, cứ khoảng nửa giờ một lần: “tất cả thương bệnh binh phải
rời khỏi nơi đây trong ngày hôm nay” (ngày 1-5-1975). Lúc bấy giờ người cụt tay
dìu kẻ què chân, khập khiễng với đôi nạng gỗ, xiêu vẹo từng bước đi về hướng cổng
bệnh viện, nước mắt lưng tròng…Còn những người cụt cả hai chân hay hai chân bó
bột ngay đơ không thể lê bước như tao thì anh em đỡ ra khỏi giường, đặt xuống
sàn nhà và nói vài câu an ủi: “Rán lết ra ngoài rồi sẽ có người giúp đỡ, tụi
tôi không biết làm sao hơn được”- Họ tiếp tục ra đi…
“Những anh
em cụt cả hai chân, họ chống hai bàn tay xuống đất lấy thế nhấc người lết tới,
mỗi lần cũng được vài ba gang tay; máu mủ, cát bụi bầy nhầy dính trên bông băng
tơi tả – không có ngôn từ nào diễn tả hết nỗi thương đau. Còn tao, hai chân bó
bột, không đứng lên được, cũng bắt chước làm theo thao tác ấy để ra khỏi khu
nhà hồi sức.
“Con người
khi đứng trước lằn ranh sinh tử, bản năng sinh tồn được vực dậy và khi sự khổ
đau đến tột cùng, con người hướng sẽ về ân sủng thiêng liêng – Tao cầu xin Đức
Mẹ Maria và tiếp tục lết ra cổng. Bỗng từ xa có tiếng gọi, rồi một người con
gái chạy đến ôm tao. Nàng khóc nức nở: – “làm sao ra nông nổi thế này hở anh?”.
Lúc đó sự sống hình như được điều khiển bởi bản năng, tao không còn nhớ rõ làm
sao nàng đưa tao vào chiếc taxi đậu trước công bệnh viện. Nàng đỡ tao ngồi bênh
cạnh, khẻ nói: – “Em đưa anh về nhà em, rồi sẽ tính sau”. Tao bừng tỉnh nói với
nàng: – “Nhà tôi ở gần chợ Búng, nếu có thể được, cô cho về đó với mẹ tôi”.
Nàng quay qua hỏi người tài xế taxi, anh ta đồng ý. Khi xe lăn bánh, tao nhìn lại
phía sau cánh cổng bệnh viện khép hờ, còn nhiều thương binh đang bò lếch ra cửa
– tao bật khóc…và hỏi bâng quơ: “Đêm nay họ về đâu, rồi ngày mai sẽ ra sao?”.
Nàng cũng khóc và vỗ về: “Biết làm sao bây giờ – cầu xin Chúa đoái thương”. Đêm
hôm ấy nàng ở lại với tao, sáng hôm sau nàng về và hẹn sẽ lên thăm. Cha mẹ tao
đưa nàng ra chợ Búng, đón xe cho nàng về Sài Gòn.
“Nàng là ai?
– chắc mầy đang nóng lòng muốn biết? Hắn hỏi, nhưng không đợi tôi trả lời, tiếp
tục kể: – Nàng là y tá chăm sóc khoảng 20 thương binh dãy nhà A, nơi tao đang nằm
điều trị. Nàng không có nét đẹp kiêu sa để người ta chiêm ngưỡng mà nàng có
“đôi mắt biết nói”, trên môi như luôn sẵn nụ cười duyên dáng và đặc biệt cái giọng
“bắc kỳ hà nội” êm như ru… Mỗi lần nàng đến chăm sóc vết thương, như mang theo
một luồng gió mát cho các thương binh – một chút gì đó mơ hồ như người chị, người
em, người tình đang an ủi, vỗ về nỗi đau mất mát … Với tao, nàng là một bà
tiên.
“Từ hôm đưa
tao về nhà, sau đó mỗi tuần hai ngày, nàng lên chăm sóc vết thương cho tao, nhờ
vậy, chỉ mấy tháng sau đôi chân tao lành lặn, đi đứng được. Nhưng rồi tao bị bắt
– một lần nữa lại làm khổ thân nàng. Nàng dò hỏi khắp nơi, cuối cùng biết tao bị
giam trong khám Chí Hòa, nàng đưa ba tao vào thăm. Ba tao là người rất có nghị
lực, đứng trước những nghịch cảnh, ông vẫn giữ thái độ bình thản, nhưng hôm ấy
đôi mắt ông thật buồn như báo trước một điềm chẳng lành. Tao cố làm ra vẻ chuyện
bị giam ở đây không có gì quan trọng cho ba tao đỡ lo, tao bông đùa: “số con được
ở trong công thự mà ba – cái công thự này to hết biết”. Ba tao không cười mà
chi nói: “Lá số tử vi chấm đúng thì lời bàn ít khi sai”. Không ngờ buổi thăm
nuôi hôm đó là lần gặp gỡ cuối cùng – Từ đây, tao không bao giờ còn được nghe
tiếng nói của ba tao. Ông đã chết ở trại tập trung Bùi Gia Mập.
Nói đến đây
hắn mếu máo, nghẹn lời, những giọt nước mắt lăn dài trên má. Một lát sau hắn tiếp:
“Lần thăm nuôi mới đây, nàng đưa lá thư của mẹ tao viết ngắn gọn mấy câu: “Nhâm
à – Ba con đã mất gần hai năm nay rồi. Lúc trước mẹ sợ con buồn, hại đến sức khỏe,
không cho con biết. Nhưng không thể dấu mãi được, nay thì mẹ cũng nguôi ngoai
và nhờ Trời thương đã cho mẹ thêm một đứa con gái, chăm sóc mẹ rất chu đáo và
an ủi mẹ trong lúc cô đơn. Con an tâm học tập tốt để sớm về với mẹ”.
“Lợi dụng
lúc tên quản giáo cho phép nàng ra bếp nấu đồ ăn, nàng kể chuyện bị bắt và cái
chết của ba tao: – Khoảng năm 1978, trong nhà luôn luôn có người đến nhờ ba tao
xem số tử vi có đi vượt biên được không. Chính quyền kết tội ba tao lợi dụng sự
mê tín di đoan để xúi dục người ta vượt biên. Họ bắt ba tao đưa vào trại tập
trung Bùi Gia Mập. Ở đây, mỗi tháng một lần, nàng dẫn mẹ tao vào thăm nuôi. Ba
tao không phải chết vì đói hay suy dinh dưỡng mà bị rắn độc cắn, trong lúc vào
rừng chặt nứa. Nàng nói: – khi hay tin ba mất mẹ ngất xỉu và mê man mấy ngày liền,
khi tỉnh lại mẹ sống như người mất hồn. Em đã lên ở với mẹ, chăm sóc cho mẹ, mẹ
hồi phục dần dần… Một hôm em ngỏ lời với mẹ: “Từ nay con xin làm con gái của mẹ
– mẹ chịu không? Mẹ ôm em vào lòng, khóc nức nở… mẹ thổn thức nói: “cảm ơn Trời
Phật đã cho ta thêm một đứa con gái”. Đến đây thì tao không còn kềm được xúc động,
nắm lấy tay nàng, run run khẻ nói: – Em là “người ơn” của gia đình anh. Nàng
ngước lên, “đôi mắt biết nói” ấy rưng rưng nhìn tao, nàng nói qua hơi thở “bây
giờ em là em gái của anh”…
Con tàu tiếp
tục xuôi Nam, đến ga Tuy Hòa tôi chia tay Hai Búng. Từ đây chúng tôi ít có dịp
gặp nhau – một phần vì xa xôi cách trở (tôi ở ngoài Trung, còn Hai Búng ở trong
Nam), một phần bị quản chế không thể ra khỏi nơi cư trú, và tiền bạc cũng rất
eo hẹp. Mãi đến khi được gọi vào Sài Gòn phỏng vấn để đi Mỹ theo chương trình
HO, tôi mới có dịp ghé thăm Hai Búng. Lúc này thì “người ơn” đã trở thành “người
vợ” yêu quý của Hai Búng.
Chúng tôi được
đi cùng chuyến HO 5, cùng xin định cư ở tiểu bang Virginia (VA). Hai gia đình
chúng tôi cùng xin về quận Fairfax, thuê apartment trong cùng trong một
building để bầu bạn có nhau. Thời gian đầu ở xứ lạ quê người, ai cũng trải qua
những khó khăn nhất định. Nhưng được sống trong môi trường tự do với sự giúp đỡ
tận tình của các cơ quan từ thiện và xã hội, làm cho mọi người lên tinh thần và
nhìn thấy tương lai. Hai Búng vì cặp giò không khỏe, chỉ xin được việc làm nhẹ;
vợ Hai Búng xin làm phụ bếp – đồng lương hai người đều thấp, nên đủ điều kiện
xin housing. Hai Búng là người may mắn được cấp nhà housing trước tiên. Hôm dọn
nhà, Hai Búng vui vẻ nói với mọi người: “Không phải tôi có thân thế hay lo lót,
chạy chọt gì đâu, đừng nghĩ như khi mình còn ở trong nước. Tôi được nhà sớm là
do lá số tử vi chiếu mạng – số tôi được ở nhà “công thự”.
Mấy năm sau,
vợ chồng tôi dành dụm đủ tiền đặt cọc mua một căn townhouse, tôi rủ Hai Búng,
nhưng hắn bảo: “Số tao không có nhà riêng, chỉ ở công thự thôi”. Vợ chồng Hai
Búng an phận và bằng lòng với căn housing này. Họ sống hạnh phúc bên nhau, đi
đâu cũng có đôi có bạn như hình với bóng… Rồi một ngày đau buồn chợt đến, không
sao tả xiết: Nhung – vợ Hai Búng đột ngột qua đời vì bịnh tim (heart attack).
Hai Búng hụt hẫng, đau thương đến cùng cực – phát cuồng … Ngày ngày Hai Búng
thơ thẩn ra vào trong căn housing đầy ắp kỷ niêm, nói lảm nhảm một mình: “Sao
bà ra đi nhanh thế, chẳng nói với tôi lời nào? – Sao bà không để tôi săn sóc
cho bà?”. Đến bữa ăn, Hai Búng xới bát cơm, so đôi đũa để trên miệng chén, rồi
nói: – Bà ăn đi kẻo nguội … Có hôm tìm được món ăn lạ trên internet, Hai Búng cặm
cụi nấu nướng theo chỉ dẫn, rồi bày biện tươm tất trên bàn thờ, đốt nhang thì
thầm khấn vái. Bốn bề tĩnh lặng như tờ, Hai Búng ứa nước mắt, nhìn lên ảnh vợ lồng
trong khung kính, nói như trách móc: “Sao bà không ăn miếng nào, cứ ngồi đó cười?”.
Chỉ hơn ba
tháng, sau ngày vợ mất, tinh thần lẫn thể xác của Hai Búng suy sụp thảm hại. Đứa
con gái duy nhất, theo chồng ở CA, thinh thoảng lên thăm, thấy tình cảnh bi đát
của bố, cố năn nỉ, thuyết phục mời bố về ở với nó, nhưng Hai Búng từ chối và
nói với con gái: “Ở đây hằng đêm, mẹ con vẫn về nói chuyện với bố – xuống dưới
đó mẹ con có chịu đi theo không?…”
Thấy tình cảnh
cô đơn như vầy, có thể không bao lâu Hai Búng sẽ suy sụp hoàn toàn, nên hằng tuần
tôi đến thăm, an ủi và bà nhà tôi làm vài món ăn khô mặn tiếp tế cho Hai Búng.
Tình bạn thâm giao giữa hai chúng tôi, Hai Búng có nghe những lời khuyên giải của
tôi mà nguôi ngoai phần nào sầu muộn. Nhưng nhà dưỡng lão mới là nơi Hai Búng
“ngộ” được cái lẽ vô thường trong kiếp nhân sinh và thân phận tuổi già… từ đó
Hai Búng tìm được sự thanh thản trong tâm hồn.
Hôm tôi đến
thăm Hai Búng ở nhà dưõng lão, Hai Búng thuyết về: Chuyện đạo, chuyện đời, chuyện
tu, chuyện tập (tập thể dục) – nói miết-quên thôi… Mấy giờ ở chơi với Hai Búng,
điều làm tôi xúc động khi Hai Búng kéo ngăn tủ nhỏ, chỉ cho tôi xem và giải thích
lai lịch của mỗi kỷ vật: “D9ây chiếc áo dài ngày cưới, còn đây là chiếc áo bả mặc
trong ngày “lễ hâm hôn” cách đây mấy năm; những chiếc cà vạt, găng tay, mũ nỉ
này bả mua tặng tao trong ngày sinh nhật; mấy tập album và một hộp nhỏ để hai
chiếc nhẫn cưới và chiếc nhẫn ra trường. Hai Búng kết luận: “Gia sản của tao
bây giờ chỉ còn từng ấy – đó là bảo vật”.
Nắng chiều
đã tắt, tôi chào tạm biệt. Hai Búng đưa tôi ra tận chỗ đậu xe. Tôi nổ máy, Hai
Búng quay lại đứng trước cửa nhà dưỡng lão vẫy vẫy tay chào… Trên sân vắng lặng,
chẳng có bóng người, Hai Búng vẫn còn đứng đó, mắt thoáng buồn sau cặp kính
lão… Tôi nhẹ chân “ga” vòng xe lại trước cửa nhà dưỡng lão, hạ kính cửa xe, định
nói vài lời. Nhưng lúc đó Hai Búng quay lưng, cố giấu những giọt nước mắt đang
lăn trên má. Tôi nhấn “ga” cho xe chạy thẳng, nhìn kính chiếu hậu thấy cánh cửa
nhà dưỡng lão Elmwood House đã khép lại – im lìm …
Chiều nay,
mây trời như thấp xuống, sương thu rơi nhẹ như làn khói mỏng tỏa mờ khu rừng
phía trước và khói sương cũng phủ mờ các tầng cao của building làm cho khu dưỡng
lão trở nên tịch mịch, buồn hiu… trong đó, giờ này có những người một thời vang
bóng đang sống: Như Cụ Vỹ, râu tóc bạc phơ như một “tiên ông”, luôn xuất hiện
trong các cuộc biểu tinh chống Cộng ở công viên Lafayette (Presidents Park),
Washington DC; hay như ông Công Tử Hà Đông (HHT) đã từng phóng bút “giữa rừng
phong” với nhiều bài phiếm luận khinh bạc và bây giờ có thêm Hai Búng…
Lê Đức Luận
(Tháng 10
-2018)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire