Đã đi vào lịch sử, thì chúng ta nếu thích tìm hiêu thì mời quý anh chị đọc thêm nếu chưa biết.
Là bài được trích trên net, cách đây cũng khá lâu.
Cám ơn tác giả bài viết và bài đã lưu.
Caroline Thanh Hương
Đại Sứ Pháp ở Việt Nam Jean-Marie Mérillon:
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
Jean-Marie Mérillon
NGƯỜI ĐI KHÔNG MUỐN LƯU LẠI BẰNG CHỨNG
Đã
đến lúc Đại Sứ Martin phải nói thật với tôi: Nước Mỹ cần phải làm gì vào
những ngày sắp tới khi Phan Rang thất thủ? Và Mỹ cần xác minh thái độ đối
với Dương văn Minh mới hôm qua vừa đòi Nguyễn văn Thiệu từ chức.
Ông
Martin đã lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói cho nước Pháp hay rằng Hoa Kỳ sẽ
bỏ rơi Miền Nam. Còn nước Pháp thì muốn cố giữ Miền Nam bằng một chánh phủ
trung lập giả định, biết rằng đó chưa hẳn là một liều thuốc hồi sinh cho
toàn thể chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một cách công hiệu, nhưng chẳng còn
phương thức cấp cứu nào phù hợp với tình thế lúc đó.
TỐI 18/4/75:
Qua
điện thoại, lần thứ nhất Ông Martin mới nói ra ý định của Hoa Kỳ. Đối với
chính trường nước Mỹ thì chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt sau Hiệp Định
Paris năm 1973. Vấn đề còn lại là giải thể Hoa Kỳ tại Đông Dương.
Ông
Martin muốn nhờ tôi làm trung gian chuyển đạt ý muốn của Mỹ cho phía Việt
Cộng. Tôi bèn trả lời:
-
"Điều mà ông yêu cầu, tôi sẽ thõa mãn cho ông 5 tiếng nữa nếu không có gì
trở ngại trong việc liên lạc. Tuy nhiên tôi phải phúc trình lên chánh phủ
của tôi, vậy ông Đại Sứ gởi cho tôi một công hàm ủy thác làm việc này."
-
"Không thể được" người ta không muốn lưu lại bằng chứng.
-
"Như thế từ giờ phút này nước Pháp sẽ đãm nhận vai trò hòa bình cho Việt
Nam theo chủ thuyết của Pháp."
-
"Chúng tôi cám ơn nước Pháp. Với tư cách cá nhơn tôi hoàn toàn chống lại
chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn quyền thắng trận cho Việt Cộng."
Sau
đó chúng tôi chuyển sang phần tâm sự gia đình, hỏi thăm sức khỏe bà Đại Sứ
v.v... Đại Sứ Martin cho biết nước Mỹ quá chán ngấy những vụ đão chánh
trước kia nên để cho ông Thiệu từ chức rồi ra đi hơn là đão chánh. Vai trò
của Nguyễn cao Kỳ không còn cần thiết sau khi Hoa Kỳ đã tặng phần thắng
cho Việt Cộng.
Ngày
30/4, trước 3 tiếng đồng hồ hạ cờ Hoa Kỳ sau 20 năm bay trên vòm trời Việt
Nam, Đại Sứ Martin gọi điện thoại vấn an, chúc tôi ở lại xứ sở này tiếp
tục sứ mạng hòa bình, đồng thời khuyến khích tôi "còn nước còn tát."
Công
việc đầu tiên của tôi là liên lạc với Phan Hiền trong trại Davis (Tân sơn
Nhất) cho biết chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của Huỳnh
tấn Phát muốn ấn định rõ thời hạn Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Phan Hiền bèn
hỏi lại tôi là nên ấn định vào ngày nào? Sự giàn xếp người Mỹ ra đi cũng
làm phiền phức tôi không ít. Ông trưởng phòng CIA xúi ông Tổng Giám Đốc
Liên Đoàn Lao Công Việt Nam kiếm khoảng 20.000 người mặc quần áo nông dân
biểu tình trước Tòa Đại Sứ Mỹ đòi Mỹ phải ở lại giúp Việt Nam. Ông Trần
quốc Bửu hứa sẽ làm được, nhưng rồi chẳng thấy biểu tình chi cả. CIA chưa
muốn đi vội, có vẻ muốn ở lại để tổ chức phá rối cộng sản như họ đã từng
làm ở ngoài Bắc sau Hiệp định Genève 1954. Trưởng phòng thương mại Mỹ xin
gia hạn đến tháng 6 để giúp các hảng thầu,ngân hàng, các nhà kinh doanh di
tản các dụng cụ xí nghiệp, cơ xưởng máy móc về Mỹ. Nhưng rồi Đại Sứ Martin
nhận được lệnh của Tòa Bạch Ốc là người Mỹ và tất cả những gì liên hệ đến
Mỹ phải rời khỏi Việt Nam chậm lắm là cuối tháng 4/75.
Đại
tướng Pháp Vanuxem chạy chỗ này chỗ kia với thiện chí cố vấn cho ông Thiệu
phản công, nhưng vô ích. Tôi được thông báo Mỹ đã sắp xếp ngày đi cho ông
Thiệu đâu vào đó cả rồi. Tướng Vanuxem, người từng chỉ huy ông Thiệu, than
thở với tôi: "Thiệu "lủy" không nghe "moa", đánh giặc theo kiểu Mỹ sẽ thua
không còn một mảnh đất để thương thuyết với Việt Cộng."
Ngày
18 tháng 4 chúng tôi xác nhận ngày di tản của Hoa Kỳ với Phan Hiền.
Trước khi lập chánh phủ giả định, tôi xét phản ứng của Nga Sô và Trung
Cộng. Nước nhiệt thành đầu tiên là Trung Cộng. Thủ Tướng Chu ân Lai điện
cho Bộ Ngoại Giao Pháp là sẵn sàng hợp tác với Pháp để xây dựng một chánh
thể trung lập tại Miền Nam nếu có thành phần MTGPMNVN tham dự.
Tại
Hànội, cuộc vận động với Đại Sứ Nga được xem là mấu chốt của vấn đề. Nhưng
Đại Sứ Nga, ông Malichev từ chối, nói rằng: "Chủ quyền xây dựng chính thể
Việt Nam do đãng cộng sản Bắc Việt quyết định. Ngoài tình hữu nghị cũng
như các sự giúp đở Việt Nam, Nga chẳng có quyền hạn gì cả." Lời tuyên bố
đó giống như một kẻ ăn trộm nho bị bắt quả tang rành rành mà vẫn cứ chối
bai bải là mình chỉ đi dạo mát trong vườn nho mà thôi.
Chẳng là vì chúng tôi có đủ tin tức tình báo
nói rõ có 5 vị tướng lãnh Nga có mặt trong Bộ Chỉ Huy chiến dịch Hồ chí
Minh tại chiến trường Long Khánh. Không lẽ các vị ấy chỉ ngồi uống trà nói
chuyện chơi với Văn tiến Dũng hay sao?
Toàn
thể các nước Đông Nam Á lo ngại một nước Việt Nam độc lập dù dưới một
chánh thể nào trong tương lai. Đối với họ, Việt Nam mãi mãi có chiến tranh
bao giờ cũng có lợi hơn một Việt Nam hòa bình thống nhất. Theo quan điểm
đó, khối Đông Nam Á tán thành Việt Nam được đình chiến trong trung lập hơn
là thống nhất trong độc lập. Quan niệm này lan rộng cả Á Châu, đặc biệt là
Nhật Bản, nước Nhật sẽ hết mình đóng góp cho Đông Dương trung lập. Duy có
Nam Dương cực lực phản đối. Nam Dương chưa nguôi mối thù Trung Cộng đạo
diễn cuộc đão chánh hụt năm 1965, nên bác bỏ giải pháp đình chiến tại Việt
Nam có Trung Cộng tham dự.
(Mãi
đến năm 1978, tướng Suharto có gởi cho tôi một bức thơ tỏ ý hối tiếc là
lúc đó chánh phủ ông đã có nhận xét sai lầm về những ý kiến của chúng
tôi).
Mao
thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga, thành thử những điều kiện Bắc
Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân Bắc Việt để
dành cho MTGPMN tiến vô Sài Gòn.
Thực
ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn cản dòng nước
lũ, cho Việt Nam Cộng Hòa tạm dung thân.
Lời
giao ước chánh trị khác hẳn với lời giao ước ngoại giao. Bắc Kinh chỉ giao
ước bằng miệng là sẽ tìm cách cản trở Bắc Việt chậm nuốt Miền Nam, biện
pháp quân sự coi như yếu tố cần phải có. (Rất tiếc chờ mãi đến năm 1978
Trung Cộng mới dùng biện pháp này để dằn mặt Việt Nam).
Phần
chúng tôi là phải đáp lời hứa là thành lập chánh phủ liên hiệp gồm 3 thành
phần: Quốc gia, Đối lập, và MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra một danh sách:
Trương như Tảng, Nguyễn thị Bình, Đinh bá Thi, thiếu tướng Lê quang Ba,
trung tướng Trần văn Trà, ngỏ hầu làm lực lượng nồng cốt thân Tàu trong
chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam. Điều kiện họ đưa ra thoạt
nhìn thì không thấy có gì trở ngại, nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn.
Vì những người này không có thực lực hay quyền hành gì cả. Toàn thể quyền
hòa hay chiến đều do Lê Duẫn nắm cả. Trên Lê Duẫn một bực là Mạc tư Khoa.
"Dường như đã từ lâu phe quốc gia lẫn phe cộng sản Việt Nam đều đã không
có quyết định gì về số phận đất nước của họ".
Móc
nối với Trung Cộng thỏa thuận đâu vào đó cả rồi, sáng ngày 22/4 tôi mời
phái đoàn Dương văn Minh vào tòa Đại Sứ tiếp xúc với chúng tôi. Phái đoàn
này có nhiều nhân vật đang tập sự làm chánh trị, những kẻ chuyên sống nhờ
xác chết của đồng bào họ: Huỳnh tấn Mẫm, Hoàng phủ Ngọc Tường, Ngô bá
Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lý quý Chung, Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc Cứ v.v... Tôi
thấy ông Dương văn Minh đã liên lạc quá vội với một thành phần vô ích.
Những khuôn mặt này Bắc Việt chưa biết họ, còn hao công giúp Bắc Việt thì
chỉ có việc chưởi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi
đi ngay vào vấn đề hỏi chung trước mặt mọi người là: "Chúng tôi hết sức
ủng hộ người Việt Nam thành lập một chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc.
Vậy trong những ngày sắp tới có những cuộc thương thuyết xảy ra, quí vị có
đồng ý nhận quí vị là đại biểu các khuynh hướng chánh trị ở Miền Nam
không? Chiến tranh đang đến hồi dứt khoát phải có kẻ thua người thắng. Hãy
cho chúng tôi biết, chánh phủ quí vị tới đây sẽ thua hay Việt Nam Cộng Hòa
thua, hoặc MTGPMN thua? "
Huỳng tấn Mẫm cướp lời Dương văn Minh nói trước:
-
"Thưa ông Đại Sứ Pháp, cuộc chiến này Mỹ đã thua, tất cả người Việt Nam
chúng tôi thắng trận."
Căn
cứ theo lời của Huỳnh tấn Mẫm, tôi đoán ngay hắn là một thứ bung xung
trước thời cuộc, háo danh, sẵn sàng làm tôi mọi cho bất cứ chế độ nào chịu
cấp phát tước quyền cho hắn. Nếu biết khôn và khách quan nhận định thì hắn
phải nói như vầy: "Bọn phản chiến Mỹ thua trận, và tất cả người Việt Nam
thắng trận trong một nền hòa bình rơi nước mắt."
Bà
ni sư Huỳnh Liên nói nhiều lắm. Bà kể lể "tín đồ Phật Giáo bị kềm kẹp từ
20 năm qua, nếu cộng sản thắng thì đó là lời cầu nguyện của hàng triệu
phật tử Việt Nam."
Luật
sư kiêm chánh trị gia Vũ văn Mẫu có vẻ già dặn hơn. Ông đặt tiếng "nếu" ở
mỗi mệnh đề để thảo luận. "Nếu" chính phủ tương lai mà trong đó có ông làm
thủ tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay dân tộc Việt Nam
v.v.." Ông cũng ngỏ lời cám ơn tôi dàn xếp thời cuộc để lập ván bài trung
lập tại Việt Nam.
Đây
là buổi thăm dò quan niệm, nhưng những con cờ quốc tế đã gởi cho tôi từ
trước không có Huỳnh tấn Mẫm, Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ văn Mẫu và Lý
quý Chung. Tôi lễ phép mời họ ra về, ngoại trừ đại tướng Dương văn Minh để
thu xếp nhiều công việc khác.
Tiển
ra tận thềm sứ quán, tôi có nói mấy lời để họ khỏi thất vọng sau này:
-
"Thưa quí vị, thiện chí thành lập tân chánh phủ, điều đó không ai chối cải
công lao của quí vị. Tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút này nằm trong
tay Hànội. Nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian hơn là chủ
động'.
Mọi
người trợn ngược tròng mắt nhìn tôi hết sức ngạc nhiên. Ông Vũ văn Mẫu nói
nhỏ với tôi một câu bằng tiếng Latinh; "Tôi muốn đi Pháp nếu tân chánh phủ
không được Hànội nhìn nhận."
Khi
trở vào, Đại tướng Dương văn Minh ngồi đó chờ tôi, nét mặt sung mãn, tự
hào là đã nắm vững thời cuộc. Vừa nghe chuông điện thoại reo, tùy viên
giao tế của chúng tôi giới thiệu người bên kia là Võ đông Giang. Đường dây
điên thoại viễn liên này kêu qua tòa Đại Sứ Pháp ở Tân gia Ba rồi cũng
dùng đường dây này chuyển về Bộ Ngoại Giao Hànội. Tại Hànội họ sẽ móc
đường dây tiếp vận vô Nam để tiếp xúc với vị Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí
Minh, vì ông này muốn gặp tôi có chuyện gấp. Tôi đồng ý nhưng phải chờ hai
tiếng đồng hồ nữa mới bắt xong đường dây như thế.
KẾ HOẠCH THỨ NHẤT:
Thành phần chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc, đồng chủ tịch là hai ông
Dương văn Minh và Trần văn Trà. Ba phó chủ tịch là Vũ văn Mẫu, Trịnh đình
Thảo và Cao văn Bổng. Tổng trưởng quốc phòng Phạm văn Phú. Tổng trưởng
ngoại giao Nguyễn thị Bình. Tổng trưởng tư pháp Trương như Tảng. Tổng
trưởng nội vụ Vũ quốc Thúc. Tổng trưởng kinh tế Nguyễn văn Hảo. Tổng
trưởng thương mại Lê quang Uyễn. Tổng trưởng tài chánh Trần ngọc Liễng.
Xen kẻ nhau nếu tổng trưởng quốc gia thì Đổng lý văn phòng là người của
MTGPMN, và ngược lại. Hội đồng cố vấn chánh phủ có: Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh
tấn Phát, Thích trí Quang, Lương trọng Tường, Hồ tấn Khoa, Linh mục Chân
Tín, Cựu thủ tướng Trần văn Hữu.
Hai
mươi bốn giờ sau khi công bố thành phần chánh phủ, nước Pháp sẽ vận động
các nước Âu Châu, Á Châu và các nước phi liên kết công nhận tân chánh phủ
hòa giải Việt Nam, làm chậm lại bước tiến xe thiết giáp Liên Xô mưu toan
đè bẹp Sài Gòn.
KẾ HOẠCH THỨ HAI:
-
"Thưa Đại tướng, ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội này còn bao nhiêu
người? Hoa Kỳ để lại vũ khí nếu dùng được ở mức độ phòng thủ thì đuợc bao
lâu?
Đại
tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số vì hơn chín năm
ông không có dịp biết các bí mật quốc phòng.
-
"Thưa Đại tướng, đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi sẽ phúc trình cho
đại tướng biết sau. Theo chúng tôi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn đủ khả
năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự chịu thay đổi chiến
thuật từ quy ước sang du kích chiến. Ngay từ bây giờ Đại tướng còn 2 Quân
đoàn. Phải dùng hai Quân đoàn này mặc cả cho thế đứng của phía quốc gia.
Tôi tung liền giải pháp trung lập đồng thời tạo áp lực ngoại giao ngừng
bắn 7 tiếng đồng hồ. Trong khi đó Đại tướng kịp thời chỉnh đốn quân đội và
chọn các tướng lãnh có khả năng trường kỳ phản công. Tôi tin tuởng Việt
Nam Cộng Hòa chưa thể thua và đích thực Bắc Việt đang lúng túng chưa biết
họ sẽ chiến thắng bằng cách nào đây.
KẾ HOẠCH THỨ BA:
Cùng
lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác trong chánh phủ trung lập, Đại Tướng
tuyên bố sẵn sàng bang giao với Trung Quốc và các nước theo chủ nghĩa xã
hội, dĩ nhiên trong đó có cả Liên Xô.
Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội này để cử Đại Sứ đến Sài Gòn ngay sau 24 giờ
cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho Hànội mà nay
trao cho chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Kế hoạch này đánh phủ đầu
Hànội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN lên nắm chính quyền (một
lực lượng mà từ trước đến nay Hànội vẫn ra rã trước dư luận là dân Miền
Nam đứng lên chống Mỹ, chớ Hànội không có dính dáng gì hết).
Đi
từng bước, lần lượt tân chánh phủ sẽ lật lại từng trang giấy ký ngưng bắn
trong Hiệp Định Paris, giao cho Trung Quốc cưỡng ép Hànội vào bàn hội nghị
nói chuyện ngưng bắn tức khắc.
Quả
thật Trung Quốc muốn cứu sống MTGPMN để xây dựng ảnh hưởng của mình tại
Đông Dương. Phe quốc gia cũng muốn cứu cấp Sài Gòn đừng lọt vào tay cộng
sản. Như vậy hai quan niệm cùng có một mục đích, còn có thể dàn xếp được
là tốt hơn cả, vì đừng để cho bên nào thắng.
Tôi
cũng thông báo cho ông Minh hay là tôi đã liên lạc với thành viên MTGPMN.
Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi vòng quỷ đạo của Bắc
Việt. Họ chạy theo HàNội là muốn tiến thân sự nghiệp chánh trị bằng con
đường hợp tác với cộng sản, nếu giúp họ nắm được chánh quyền Miền Nam thì
phương tiện dùng cộng sản Bắc Việt đã quá lỗi thời.
Bà
Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẻ với chúng tôi. Thêm một bằng
chứng: 17 ngày sau khi Sài Gòn mất, bà Bình còn tuyên bố trước Liên Hiệp
Quốc dụng ý tống khứ đạo quân Bắc Việt về bên kia Bến Hải: "Miền Nam Việt
Nam sẽ sinh hoạt trong điều kiện trung lập 5 năm trước khi thống nhất hai
miền Nam Bắc." Các nhà phân tích thời cuộc nói chỉ cần 5 tháng Miền Nam
sống dưới chánh phủ trung lập thay vì có diễm phúc 5 năm, có lẽ hòa bình
Việt Nam sẽ ở trong hoàn cảnh thơ mộng tươi đẹp rồi. Bà Bình bị thất sủng
sau lời tuyên bố đó.
Nước
Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển tiếp từ chế độ Việt Nam Cộng Hòa giao
cho tân chánh phủ để nuôi sống giải pháp trung lập. Chúng tôi sẽ quyên góp
các nước bạn đồng minh Âu Châu một ngân khoảng độ 290 triệu mỹ kim cho các
chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển nông nghiệp, nhân đạo
v.v... tổng cộng cũng gần bằng viện trợ của Hoa Kỳ trước đây.
Bấy
nhiêu đó cũng đủ nuôi dưỡng tạm thời chánh phủ Dương văn Minh Trần văn
Trà, để rồi người quốc gia tranh thủ với cộng sản duy trì một Miền Nam
không nhuộm đỏ màu cờ.
Đại
tướng Dương văn Minh không nói chi nhiều, ông lắng nghe tôi trình bày cặn
kẻ từng kế hoạch, và nói ông sẵn sàng thực hiện theo quan điểm của chúng
tôi. Ông chỉ nêu một câu hỏi duy nhất:
-
"Dưới hình thức nào tôi thay thế cụ Trần văn Hương để thành lập nội các để
thương thuyết với phía bên kia?"
-
"Thưa Đại tướng, cụ Trần văn Hương hôm qua vừa thảo luận với chúng tôi là
sẽ trao quyền chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa lại cho Đại tướng, nếu Đại tướng
có một kế hoạch không để mất Sài Gòn."
Sự
thực từ lúc ông Thiệu tuyên bố từ chức, ông Minh đã nhiều lần thúc hối
chúng tôi tiến dẫn ông nắm chánh quyền ngay lúc ấy.
Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu này. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó vì chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lãnh đạo guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi Hoa Kỳ rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam thì cụ Trần văn Hương sửng sốt và tỏ vẻ phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ chọn Dương văn Minh, nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà. Nó không phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa bỏng... Tôi sẽ trao quyền lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài Gòn thua cộng sản." Có sự hiện diện của ông Trần chánh Thành là người rất am tường thực chất cộng sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn thôi.
Cụ
Trần văn Hương thông cảm kèm theo lời thở dài tỏ ra mất tin tưởng. Kế
hoạch của chúng tôi vô tình đã đè bẹp tin thần chống cộng sắt đá của cụ.
Theo cụ thì giải pháp hữu hiệu là bỏ ngỏ Sài Gòn, tổng động viên những
vùng đất còn lại để tiếp tục đánh cộng sản. Chọn giải pháp này sẽ đổ máu
thêm, nhưng chiến tranh nào mà không đổ máu, ít nhất Việt Nam Cộng Hòa
không thua một cách mất mặt.
Mười
năm sau tôi thấy kế hoạch của cụ Trần văn Hương đúng. Nếu lúc bấy giờ các
nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, yểm trợ cụ, thì có thể
gở gạc được thể diện người Quốc gia Miền Nam. Tôi kính mến cụ Trần văn
Hương, người Việt Nam nhận xét cụ bất tài, già nua lẩm cẫm, song chúng tôi
thấy cụ là một người Việt Nam trung tín, sống chết cho lý tưởng, can đãm
trước mọi tình huống. Năm 1976, nghe cụ bị bệnh nặng, thiếu thốn phương
tiện chữa trị, chúng tôi yêu cầu Tổng lảnh sự Pháp ở Sài Gòn vận động với
nhà cầm quyền HàNội cho cụ sang Pháp chữa bệnh. HàNội còn cần Pháp làm
giao điểm tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, sẽ không làm khó dễ trong việc
cấp giấy xuất cảnh, nhưng cụ từ chối, quyết định ở lại chết tại Việt Nam.
Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói năm 1975: "Ông Đại Sứ à, tui đâu có ngán Việt
Cộng, nó muốn đánh tui đánh tới cùng. Tui chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở
xứ người ta. Nếu trời hại nước tui mất, tui xin thề ở lại đây và mất theo
nước mình." Cụ Trần văn Hương đã giữ lời hứa.
Đại
tướng Dương văn Minh ra về, chúng tôi hẹn gặp lại nhau. Trong lúc này, về
phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không quên nhắc nhở đại tướng Dương văn
Minh gấp rút tổ chức lại quân đội, liên lạc thường xuyên với tướng Nguyễn
khoa Nam, khuyến khích vị tướng này giữ vững các vị trí phòng thủ để còn
một mảnh đất làm địa bàn ăn nói khi thương thuyết với phía bên kia. Ngay
lúc đó tôi biết ông Dương văn Minh cách đây hai ngày đã liên lạc với người
em ruột là thiếu tướng Dương văn Nhật, nhờ môi giới để nói chuyện thẳng
với Bắc Việt. Vì hấp tấp, nông cạn, ông tưởng em ông có đủ tư cách đại
diện cộng sản ngưng bắn tại Miền Nam. Từ chỗ móc nối sai lệch, tình thế đã
xỏ mũi ông đến chỗ phá nát bấy hết kế hoạch hòa bình Việt Nam.
(GHI
CHÚ của dịch giả DHN: Dương văn Nhật không phải là một thiếu tướng mà chỉ
là một thiếu tá thường, trực thuộc MTGPMN nên không phải là một nhân vật
quan trọng. Cộng sản đã cho về liên lạc thường xuyên với Dương văn Minh
trước đó như là một liên lạc viên xoàng để săn tin mà thôi, và đã được
lệnh kín đáo nằm luôn tại nhà Dương văn Minh từ khi chúng tiến chiếm tỉnh
Banméthuột. Có lẽ ông Dương văn Minh muốn đưa em ông lên hàng tướng vì lý
do thể diện chăng? Sau 30/4/75 mới là trung tá).
LÊ ĐỨC THỌ THÓA MẠ TÔI:
Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia tự giới thiệu:
-
"Chào ông Đại Sứ, tôi là B trưởng B2 đây."
Tôi
chào lại và rất ngạc nhiên không biết B trưởng B2 là nhân vật nào. Thái độ
thiếu lịch sự xã giao qua lời giới thiệu tên họ chức phận bằng bí danh của
đầu dây bên kia chứng tỏ họ coi thường chúng tôi. Tôi gằn mạnh từng
tiếng:
-
"Nếu đầu dây bên kia muốn trao đổi câu chuyện với tôi thì nên tỏ ra lịch
sự một chút. Khi tiếp xúc với một nhà ngoại giao thì dù thù hay bạn cũng
vậy. Thưa ông B trưởng B2, chắc ông thừa hiểu ông đang nói chuyện với Đại
sứ nước Pháp, và bắt buộc tôi phải cúp nếu ông không nói tên họ, chức
phận. Nguyên tắc của ngành ngoại giao đối lập với ngành gián điệp là không
tiếp xúc với hạng người bí mật."
B2
xin lỗi tôi liền khi đó, bảo rằng ông ta sợ CIA phát hiện sự có mặt của
ông ở Miền Nam trong lúc hoàn cảnh chưa cho phép ông xuất đầu lộ diện. Ông
cũng rất phiền khi bị ép buộc nói tên họ:
-
"Thưa ông Đại sứ, tôi là Lê đức Thọ, Tổng tư lệnh chiến dịch Hồ chí
Minh."
Thì
ra là Lê đức Thọ, con người khuynh đão trong các cuộc hòa đàm Paris. Tiểu
sử Thọ từ năm 1937 chúng tôi có đầy đủ trong tay, duy tôi chưa gặp mặt nên
không nhận được giọng nói qua điện thoại. Sau Tết Mậu Thân, Phòng nhì Pháp
đã có đủ tài liệu để biết Lê đức Thọ là Tổng chỉ huy bộ máy chiến tranh
tại Miền Nam. Y từ Nga trở về hồi tháng giêng 1975, và đi thẳng vào Nam
trực tiếp chỉ huy tổng tấn công Sài Gòn. Mà Phòng nhì biết thì CIA cũng
biết.
Tôi nói:
-
"Chào ông Tổng tư lệnh, qua vai trò trung gian và với thiện chí lớn lao
nhất, nước Pháp hết lòng đứng ra hòa giải các phe tranh chấp để sớm đạt
được một nền hòa bình tại Việt Nam. Ông Tổng tư lệnh có cần gởi đến chúng
tôi những quyết định gì từ phía Bắc Việt nhằm tức khắc giải quyết chiến
tranh không? Chúng tôi sẽ chào mừng quyết định của quí vị.’
Thấy
mình là kẻ chiến thắng trong canh bạc về sáng, Lê đức Thọ tố xả láng,
không cần che đậy bề trái của sự thật nữa:
-
"Quyết định của đãng cộng sản chúng tôi là đánh gục Mỹ, thống nhất hai
miền Nam Bắc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường Mác xít Lê nin nít".
-
"Thưa ông Tổng tư lệnh, đó là mục đích. Còn quyết định chấm dứt cảnh cốt
nhục tương tàn của người Việt, chưa thấy đãng cộng sản Việt Nam nói tới?"
Lê
đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ này ông Mérillon không cho biết Lê đức
Thọ nói bằng tiếng gì, vì y nói tiếng Pháp còn kém lắm):
-
"Thưa ông Đại sứ, tôi xin nói về chính danh và ý nghĩa cuộc chiến đấu của
chúng tôi. Sau khi đánh bại bọn đế quốc Pháp, đãng và nhân dân chúng tôi
tiếp tục sự nghiệp đánh bọn ngoại xăm đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu này từ
lâu đã được nhân dân thống nhất thành một phong trào chống Mỹ. Từ ngữ "cốt
nhục tương tàn" tôi bảo đãm với ông đại sứ là do bọn tay sai ngụy quyền
Sài Gòn khơi lên để kêu gọi lòng thương hại của chúng tôi, chớ không phải
lời oán than từ phía nhân dân. Xác nhận như vậy để ông đại sứ thấy rằng
chúng tôi chưa hề chính thức hóa một nghị trình hòa giải nào với bất cứ
đãng phái nào tay sai trong Miền Nam với quyết định của chúng tôi là để
thắng chớ không phải để hòa giải."
-
"Thưa ông Tổng tư lệnh, trường hợp này thì vị trí của MTGPMN ở đâu?"
-
"Nó sẽ đứng ở chỗ giải tán khi: một là Đại sứ Mỹ bị bắt, hai là cuốn cờ bỏ
chạy trước khi người cộng sản yêu nước tiếp thu Sài Gòn".
-
"Nếu đúng như thế, MTGPMN không phải là một thực thể riêng biệt, tách rời
quyền lực HàNội đứng lên chống Mỹ từ 15 năm qua, và các ông đã lừa gạt dư
luận quốc tế."
-
"Thưa ông Đại sứ, dư luận quốc tế hả? Mà dư luận nào mới được chớ? Nếu dư
luận quốc tế thuộc khối tư bản thì không xứng đáng để phẩm bình. Đối với
nước Pháp chúng tôi xem là bạn. Thưa ông Đại sứ, chúng ta sẽ bang giao
trong tình hữu nghị giữa hai nước."
-
"Trung Quốc đang yêu cầu chúng tôi dàn xếp một cuộc đình chiến tại Việt
Nam, ông nghĩ sao?
-
"Trung Quốc thuộc bọn xét lại, đã biến thể và phản bội nghĩa vụ giải phóng
nhân loại qua chủ nghĩa Lênin. Mọi việc nhúng tay vào của Trung Quốc chúng
tôi xem đó là hành động thù nghịch. Riêng ông Đại sứ, ngay bây giờ xin ông
nhận lời cảnh cáo của chúng tôi. Nếu ông Đại sứ còn tiếp tay với Trung
Quốc và các thế lực ngoại bang khác ngăn cản đà chiến thắng chống đế quốc
Mỹ ở Miền Nam, thì 24 giờ sau khi tôi đặt chân vào Sài Gòn tôi sẽ trục
xuất ông Đại sứ ra khỏi Việt Nam."
-
"Làm như vậy ông không ngại gây sự hiềm khích giữa hai nước sao?"
-
"Không, Chánh trị và quyền lợi không chú ý tới những vấn đề nhỏ nhặt giữa
hai nước. Pháp còn quyền lợi tại Việt Nam. Pháp đừng nên gây hấn với Việt
Nam bằng giải pháp trung lập này nọ, cũng đừng nên chen vào nội bộ của
chúng tôi."
-
"Thưa ông Tổng tư lệnh, ông nên nhớ Pháp ngày hôm nay không phải là Pháp
đô hộ ngày hôm qua. Pháp chẳng có quyền lợi gì nếu phải bang giao với một
nước Việt Nam cộng sản. Nếu ông cảnh cáo chúng tôi, bù lại xin ông và đãng
cộng sản Việt Nam tiếp nhận lời cảnh cáo của chúng tôi là số tiền 300
triệu hằng năm viện trợ Miền Nam và 200 triệu viện trợ nhân đạo cho Bắc
Việt sẽ không được chuyển giao nếu giải pháp trung lập bị bác bỏ một cách
vô nhân đạo."
Lê
đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần này vì lịch sự, y nói vài lời cáo lỗi rồi
cúp điện thoại, đúng với ý muốn của tôi.
Thật
ra chúng tôi cũng vẫn biết cuộc chiến tranh này do tập đoàn HàNội quản lý
từ đầu đến cuối, nhưng không trắc nghiệm được phản ứng ngang tàng của họ
mà đại biểu chánh thức là Lê đức Thọ, nhất định nuốt Miền Nam bằng lá bài
quân sự.
Sự
kiện này đã khuyến khích tôi tìm kiếm những phương pháp cấp thời chỉnh đốn
lại quân đội Việt Nam Cộng Hòa giữ vững phòng tuyến để kéo dài thời gian
mặc cả.
Tôi
rất ghét người cộng sản thiếu quân tử (đó là cái chắc!) khi họ thắng trận.
Lê đức Thọ là một điển hình. Năm 1964 Thọ đã từng xin chúng tôi giúp y nói
chuyện trực tiếp với Hoa Kỳ, chúng tôi không hề từ chối. Bất cứ điều gì
cần đến, nếu thỏa mãn được thì chúng tôi cho ngay. Họ có mang ơn nước Pháp
chớ nước Pháp chưa hề chịu ơn họ. Đến khi nước Pháp muốn Việt Nam có hòa
bình trên nền tảng trung lập có thành phần quốc gia tham dự, HàNội đã bạc
ơn từ chối.
Khi
xe tăng Nga vượt hàng rào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng thì tới 3 giờ chiều
Lê đức Thọ ngồi trên xe Falcon đến tòa Đại Sứ Pháp xấc xược đi thẳng vô
phòng tôi nói:
-
"Mérillon, tôi đến đây tống cổ ông rời khỏi Sài Gòn trước 9 giờ sáng
mai".
Tôi
gật đầu. Sáng hôm sau ngày 1-5-75, Thọ còn hạ nhục tôi bằng cách cho công
an xét va li và bắt tôi phải ra HàNội trước khi về Pháp. Tôi phản đối. Khi
phi cơ cất cánh, tôi ra lệnh cho phi công bay luôn sang Bangkok thay vì ra
HàNội.
Hành
động sỉ nhục một Đại sứ, Lê đức Thọ và công an Việt Nam phải trả một giá
rất đắt. Tổng số ngân quỹ viện trợ nhân đạo hằng năm nước Pháp quyết định
để dành mua sinh mạng người Miền Nam Việt Nam không hề cho HàNội một cắt
nào suốt 10 năm sau.
Ngày 27 tháng 4/1975
Chiều ngày 27/4/75, tôi nhận được tin rất phấn khởi: Tướng Trần văn Trà
bắn tin nhờ tôi cấp tốc thành lập chánh phủ trung lập và ông gởi gấp hai
nhân vật thân tín của ông vào chánh phủ, là bà Nguyễn thị Bình và ông Đinh
bá Thi (ông này bị HàNội giết vài năm sau bằng tai nạn xe hơi tại vùng
Rừng Lá Phan Thiết, sau khi bị Hoa Kỳ trục xuất về tội mua tài liệu tình
báo kỹ thuật cho Liên Xô - Lời dịch giả). Tùy viên quân sự của chúng tôi
cũng xác nhận là 2 sư đoàn tập kết của Trần văn Trà sẽ vào tiếp thu Sài
Gòn, phỏng tay trên của đạo quân Văn tiến Dũng.
CÁC TƯỚNG LÃNH BỊ NHỐT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU:
Chứng cớ mà Trần văn Trà lấn quyền HàNội trong mưu đồ Miền Nam tự trị được
thể hiện ngay sau ngày 30/4/75. Trần văn Trà chạy nước rút, tự ý thành lập
Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định hầu làm bàn đạp cho MTGPMN nhảy lên nắm
chánh quyền trước khi Bắc Việt an bài chế độ cộng sản. Chung một mục đích:
Bắc Việt đoạt chánh quyền để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, còn MTGPMN
cướp chánh quyền với thâm ý tạo sự nghiệp danh vọng cá nhân. HàNội có Nga
Sô làm điểm tựa, có toan tính theo từng sách lược, còn MT là những chánh
trị gia thời cuộc có tính cách giai đoạn nên cuối cùng bị thua trắng tay,
bị cưỡng bức phải giải tán, cán bộ bị hạ từng công tác (hay thanh trừng)
trong thầm lặng.
Dựa
theo quan niệm "còn nước còn tát", chúng tôi không bỏ lở một cơ hội nào có
thể duy trì nhịp thở của Việt Nam Cộng Hòa đang hấp hối vào giờ cuối của
cuộc chiến. Lúc 9 giờ tối ngày 27/4/75, chúng tôi họp với các tướng lãnh
De Séguins, Pazzi, Bigeard, Langlais, Vanuxem, Gilles, Pierre Bodet. Các
tướng này đến Sài Gòn ngày 16/4 trong hảo ý phối hợp với các tướng lãnh
Việt Nam từng được Pháp đào tạo trước kia để phản công lại Bắc Việt. Họ
đến với tư cách cá nhân.
Qua
lời xác nhận của tướng Gilles, chỉ huy quân đoàn nhảy dù Pháp trong trận
Điện biên Phủ, thì thiếu tuớng Phạm văn Phú không phải thuộc hàng tướng
lãnh bỏ lính khi thua trận và chạy dễ dàng như vậy. Tướng Gilles yêu cầu
tôi can thiệp với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho tướng Phú lúc
đó đang bị ông Thiệu nhốt chung với các tướng lãnh khác trong Bộ Tổng Tham
Mưu. Ông Thiệu đã làm một việc quá nguy hiểm. Đang lúc quân đội cần tướng
mà tướng lãnh bị tống giam, như vậy là có ác ý đập tan nát Bộ Tham Mưu
Hành Quân của Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày
29/4, tướng Phú nằm trong bệnh viện Grall. Tôi điện thoại trấn an ông, yêu
cầu ông đừng bỏ đi sẽ tạo thêm tình trạng hỗn loạn hoang mang cho binh sĩ.
Ông hứa sẽ không bỏ chạy, nếu không phản công giữ được Sài Gòn thì ông thề
bỏ xác tại bệnh viện này. Tướng Phú đã giữ lời hứa. Ông là một tướng lãnh
mà chúng tôi hết sức tin tưởng trong ván bài trung lập sau Dương văn Minh.
Tối 29/4, được tin Dương văn Minh sẽ đầu hàng cộng sản vào sáng mai, ông
đã dùng độc dược tự sát.
Các
tướng lãnh Pháp cũng đề nghị tôi thực hiện kế hoạch bỏ trống Sài Gòn qua 2
giai đoạn:
-
Giai đoạn 1.- Rút phân nữa quân gồm lực lượng tự vệ, an ninh, cảnh sát,
những binh đoàn nhảy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, và các binh
chủng thuộc bộ binh, lén di chuyển lúc nửa đêm, sau lưng cộng sản đi lên
các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Phước Long, với nhiệm vụ tái phối trí lực
lượng và bồi dưỡng tinh thần binh sĩ.
Phân
nữa kia, gồm Hải quân và Không quân di chuyển về miền Tây để dùng cho các
trận chiến sông ngòi, cắt đường tiến của cộng sản tràn xuống Quân khu 4.
Mời hai tướng Dương văn Minh và Trần văn Trà công bố chánh phủ trung lập.
Sài Gòn là vùng phi quân sự nơi chỉ nói chuyện, thương thuyết bằng giải
pháp chánh trị. Sài Gòn không có quân, cộng sản không có cớ đễ tàn phá.
-
Giai đoạn 2.- Phản công trên cơ sở du kích, chiếm lại lần hồi đất đai đã
mất và chờ quân viện mới. Thay thế chánh phủ trung lập bằng một chánh phủ
lưu vong Việt Nam Cộng Hòa. Vai trò Dương văn Minh đến đây coi như chấm
dứt. Các tướng Phạm văn Phú, Nguyễn khoa Nam, Lê nguyên Vỹ, Ngô quang
Trưởng được xem là thành phần chủ lực cho chiến trường tương lai.
Các
tướng lãnh hồi hưu Pháp quả quyết sẽ tìm được nguồn quân viện chẳng mấy
khó khăn, qua sự đóng góp của các cựu quân nhân Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Do
Thái... nếu có lời kêu gọi của Hiệp Hội Cựu Quân Nhân Thế Giới Tự Do.
Sáng
ngày 28/4/75, tôi chuyển hết kế hoạch này cho Dương văn Minh và định tối
28 thì sẽ hoàn tất kế hoạch.
KẾ HOẠCH CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN?
Đại
tá tùy viên quân sự của chúng tôi trình bày tỉ mỉ về quân số của đôi bên.
-
Quân cộng sản Bắc Việt hiện đang bao vây Sài Gòn gồm các sư đoàn 304, 308,
312, 320, 322, 325 và 2 sư đoàn MTGPMN, 300 thiết giáp, 600 đại bác đủ
loại. Tổng cộng quân số khoảng 70.000, tính cả lực lượng trừ bị. Đúng như
lời Trung Quốc thông báo, HàNội tung hết quân, bỏ ngỏ HàNội. Giá lúc ấy
Trung Quốc chỉ cần cho một vài sư đoàn diễn binh trên biên giới Hoa Việt
thì lập tức HàNội sẽ tự ý ngưng chiến và tán thành chánh phủ trung lập rất
mau lẹ. Rất tiếc.
-
Quân số Biệt khu Thủ đô có khả năng tác chiến, có vũ khí trong tay ước
được 100.000. Căn cứ vào vũ khí đạn dược, hỏa lực nặng, tiếp liệu, và tinh
thần chấp nhận chiến đấu thì Sài Gòn có thể phòng thủ, cầm cự được chừng 7
tháng.
Trong 7 tháng đó biết đâu tình hình lại chẳng thay đổi theo chiều hướng
khác? Chúng tôi đưa ra sự kiện này nhằm bác bỏ lập luận nói rằng cộng sản
Việt Nam sẽ thiêu hủy Sài Gòn với số quân gấp 5 lần.
Kinh
nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh ngày 17 tháng 4/75, đã xảy ra tình
trạng chém giết hỗn loạn nguy hiểm đến sinh mạng Pháp kiều và các phóng
viên ngoại quốc, cần Tòa Đại sứ Pháp che chở. Vì vậy ngày 19/4/75 tôi đã
yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp tăng phái cho chúng tôi một trung đội thủy quân
lục chiến từ Nouvelle Calédonia đến Sài Gòn để bảo vệ sứ quán. Lại yêu cầu
các vị Lãnh Sự ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Đà Lạt, Huế gấp rút kiểm tra lại tổng
số Pháp kiều, và phải tiếp tục ở lại nhiệm sở để trấn an dư luận. Khi đó
có 722 người là người Pháp chính gốc, 9500 người có quốc tịch Pháp, 11.000
trẻ em lai Pháp sống tại các cơ quan từ thiện. Tất cả 21.000 người này sẽ
được đưa về Pháp định cư. Tuy nhiên để cứu thêm mạng người, chúng tôi sẽ
gởi cho HàNội danh sách đăng ký cho hồi hương thêm những người hồi tịch
Pháp, cựu quân nhân tham dự bên cạnh quân đội Pháp trong hai thế chiến,
công chức thời Pháp và nhân viên làm việc trong các cơ sở tư nhân Pháp
trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi người hội đủ điều kiện như vừa quy định có thể
kéo thêm gia đình anh em ruột thịt, con cháu dâu rể bên ngoại cũng như bên
nội. Kết quả chúng tôi đem về Pháp tất cả 80.000 người. Để mua thêm người
cộng tác với Pháp, mỗi năm chánh phủ Pháp phải trả cho cộng sản máy cày,
dược phẩm, các bộ phận bảo trì công ty nhà đèn, thủy cục, nông phẩm
v.v...
Chiều 28/4, tướng Pazzi xuống Cần Thơ gặp tướng Nguyễn khoa Nam. Sau đó
khi trở về tướng Pazzi cho biết miền Tây rất khả quan, chỉ có quốc lộ 4
tạm thời bị cắt đứt. Tướng Nguyễn khoa Nam đã hai lần yêu cầu ông Dương
văn Minh cho phép ông đem quân giải tỏa Quốc lộ 4, phản công, nhưng Dương
văn Minh dặn đi dặn lại mấy lần là đừng phản công mạnh, tạm thời ở tư thế
chờ, để ông tìm giải pháp chánh trị tại Sài Gòn. Tướng Nam than thở với
tướng Pazzi: "Nếu tôi đánh mạnh là bất tuân thượng lệnh, nếu tôi đánh nhẹ
thì tinh thần binh sĩ mất hết. Đến giờ này mà bức màng chánh trị còn bịt
mắt quân đội. Ông nói lại với tướng Minh giùm là nước tràn bờ mà không cho
đắp đê ngăn lại! Ông làm chứng giùm tôi: Quân đoàn 4 chúng tôi không thua.
Chính trị Sài Gòn đã trói tay chúng tôi bắt buộc chúng tôi phải thua."
Sáng
ngày 30/4/75, sau khi nghe Dương văn Minh đọc bản "trao nước cho giặc",
tướng Nguyễn khoa Nam cùng nhiều tướng lãnh liêm sĩ khác đã chọn câu nói
của Voltaire để giữ danh dự của người làm tướng; "Còn giữ được danh dự là
chưa mất mát nhiều."
Trời
đã vào đêm rồi. Đại bác, súng liên thanh nổ gần hơn. Làn sóng người ngơ
ngác tìm đường chạy trốn cộng sản nghẹt cứng cả thành phố. Ông Đại tướng
Dương văn Minh đâu? Tướng Trần văn Trà đâu? Tại sao những người này không
xuất hiện để thành lập chánh phủ liên hiệp? Tôi tự hỏi như thế.
Tôi
lo lắng, gọi điện thoại về nhà ông Dương văn Minh. Người trả lời là trung
tá Đẩu, chánh văn phòng: "Dạ thưa ông Đại sứ, Đại tướng chúng tôi hiện đi
lên Xuân Lộc thương thuyết với người phía bên kia."
Bỗng
nhiên đầu óc tôi căng cứng từng mạch máu, tay chân bủn rủn. Ông Minh lên
Xuân Lộc có nghĩa là gặp trực tiếp thượng tướng Lê đức Anh, phụ tá Văn
tiến Dũng, nơi đây đang có mặt Lê đức Thọ. Tức là ông Đại tướng đi thẳng
với phe Bắc Việt. Ông Minh đi trên tư thế nào? Quân không có, quan cũng
không, chánh phủ chưa có gì hết. Như vậy chỉ là đi đầu hàng Bắc Việt. Công
việc này không cần đến một Đại tướng! Trao cho một em bé đánh giầy 10 tuổi
cũng làm được.
Cái
hướng mà ông Minh cần đi là hướng Củ Chi, nơi thượng tướng Trần văn Trà
đang chờ... Chờ đến kiếp sau!
Những gì mà ông Minh hứa với chúng tôi đã như nước đổ lá khoai. Bao nhiêu
kế hoạch, bao nhiêu công trình vận động, phút chốc ông Minh làm tiêu tan
hết. Lại còn dối gạt các tướng lãnh yêu nước khác, gây ra sự chậm trễ phản
công giờ chót, bởi đa số đều tưởng ông Đại tướng có phép lạ, sáng chế được
công thức ngưng bắn tại chỗ để phe quốc gia không bị thua trong nhục nhã.
Thâm
ý của ông Minh là muốn đầu hàng, sau đó ngồi ăn, hưởng cho đến già.
(Lời
dịch giả D.H.N.: Thật đúng như ông Mérillon đã nói, từ ngày 30/4/1975 cho
đến ngày nay 1996, Dinh Hoa Lan của ông Minh không mất một chiếc đũa,
không mất một cành hoa, một bụi cỏ nào.
Khi ông rời Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đình, ông được tự do mang theo bất cứ thứ gì ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỹ vật, thượng vàng hạ cám... cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các thùng tài sản của gia đình ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá Khử giữ gìn và quản lý, đến giờ này không một tên cộng sản nào dám đụng đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức, cuối thập niên 80 là tổng thơ ký của Hội Hoa Lan Việt Nam).
Ngày
29/4/1975, 8:00 giờ tối, sau khi nhận lãnh chức Tổng Thống do cụ Trần văn
Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng tôi, bày tỏ sự hối
tiếc đã không hợp tác được với chánh phủ Pháp. Cách duy nhất mà ông phải
chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu sống được thủ đô Sài Gòn.
Tôi
lạnh lùng trả lời một câu duy nhất:
-
"Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng của chiến
tranh Việt Nam cần có một người lãnh đạo cương quyết, dám dấn thân, nhưng
chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng."
Tôi
cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên
lạc với ông ta nữa.
NGÀY 1 THÁNG 5:
Lúc
phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok, tôi nhìn xuống Sài
Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi thương
tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới đất. Tôi như người bại trận, hay nói
cách khác, tôi xin được làm bạn với người bại trận, một người bạn đã không
chia xẽ mà còn bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải gánh chịu hết tất cả...
trong những ngày sắp tới.
Việt
Nam và tôi có rất nhiều kỹ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt đời
không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở này.
Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng
nước, nhưng cái quyền làm chủ quê
hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi xin lỗi
người Việt Nam. Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vãn được nền hòa
bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn nhiên với những
mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm giao.
Năm
1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ chối
với lý do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài Gòn đã mất, tôi trở lại
đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được người ta lần thứ hai, làm
sao lừa dối được người ta lần thứ ba?
Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương…
Sau hết, chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa
thua cộng sản. Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Mỗi
năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức.
Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi, chúng tôi cùng cầu nguyện cho người Việt
Nam đạt được nền hòa bình theo sở nguyện của họ. Tôi tin rằng Đức Chúa
Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi dân tộc Việt Nam.
Jean-Marie MÉRILLON
Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam
Sau khi gửi ra public bài sưu tầm này thì có người đã gửi đến tôi 1 tài liệu có liên quan đến tác giả của bài viết trên.
Tôi xin mạn phép copie lại dưới đây để cho người đời nay và đời sau được hiểu rõ trắng đen và rất may mắn là còn chứng nhân lịch sử để xác nhận sự việc trên là không do tác giả đã viết.
Répuplique Française
———— —
Ambassade De France
En Moscou, 12th November 1990
U.R.S.S
———— —
L’Ambassadeur
Dear Dr. Thanh,
Your letter of the 22nd October has just reached me. I was most touched by it and very pleased to hear from you.
As fas as the book “Saigon et Moi” is concerned, I must make a point particularly clear. I did not write this book nor have I written any other about Vietnam; therefore the work that you are enquiring about is not mine. However, I am intrigued by this publication and should be glad to have any information relating to it.
Should I visit California, I shall not fait to take advantage of your kind invitation to a Vietnamese dinner.
Wishing your new book every success, I remain.Yours sincerely,
Jean Marie Mérillon
Dr. Hoang Ngọc THANH
4926 Rice Drive
San Jose, CA 95111
———— —
Ambassade De France
En Moscou, 12th November 1990
U.R.S.S
———— —
L’Ambassadeur
Dear Dr. Thanh,
Your letter of the 22nd October has just reached me. I was most touched by it and very pleased to hear from you.
As fas as the book “Saigon et Moi” is concerned, I must make a point particularly clear. I did not write this book nor have I written any other about Vietnam; therefore the work that you are enquiring about is not mine. However, I am intrigued by this publication and should be glad to have any information relating to it.
Should I visit California, I shall not fait to take advantage of your kind invitation to a Vietnamese dinner.
Wishing your new book every success, I remain.Yours sincerely,
Jean Marie Mérillon
Dr. Hoang Ngọc THANH
4926 Rice Drive
San Jose, CA 95111
Và bức thơ này, đã được báo Phụ Nữ Diễn Đàn số 140, trang 71 phát hành năm 1995 tại Hoa Kỳ do ông Đặng Văn Nhâm viết, đã chuyển dịch sang Việt Ngữ xin trích dẫn như sau :
Cộng Hòa Pháp Quốc, Mát Cơ Va, ngày 12 tháng 11 năm 1990.
Đại Sứ Quán Pháp tại Nga Xô
Tiến sĩ Thành thân mến,Tôi vừa nhận được thơ ông đề ngày 22-10. Tôi xúc đng nhiều và rất vui mừng nhận được tin ông. Hiện nay, liên quan đến quyển sách “Saigon et Moi”, tôi cần phải đặc biệt xác định rõ vấn đề là tôi đã không viết quyển ấy và cũng không viết bất cứ điều gì khác về Việt Nam. Do đó, điều ông nói ấy không phải chuyện của tôi. Tuy nhiên, tôi cũng tò mò về chuyện xuất bản sách này và cảm thấy thú vị được biết tin tức liên quan đến chuyện ấy. Nếu tôi đến thăm California, tôi sẽ không quên lời mời thân ái đến dùng bữa cơm Việt Nam của ông. Mong ước quyển sách mới của ông thành công mọi mặt. Tôi vẫn luôn là người bạn chân thành của ông.
Jean Marie Merillon
(ký tên)
Đại Sứ Quán Pháp tại Nga Xô
Tiến sĩ Thành thân mến,Tôi vừa nhận được thơ ông đề ngày 22-10. Tôi xúc đng nhiều và rất vui mừng nhận được tin ông. Hiện nay, liên quan đến quyển sách “Saigon et Moi”, tôi cần phải đặc biệt xác định rõ vấn đề là tôi đã không viết quyển ấy và cũng không viết bất cứ điều gì khác về Việt Nam. Do đó, điều ông nói ấy không phải chuyện của tôi. Tuy nhiên, tôi cũng tò mò về chuyện xuất bản sách này và cảm thấy thú vị được biết tin tức liên quan đến chuyện ấy. Nếu tôi đến thăm California, tôi sẽ không quên lời mời thân ái đến dùng bữa cơm Việt Nam của ông. Mong ước quyển sách mới của ông thành công mọi mặt. Tôi vẫn luôn là người bạn chân thành của ông.
Jean Marie Merillon
(ký tên)
Bài đọc thêm
Đêm Giữa Ban Ngày Của Vũ Thư Hiên
Nhân đọc lại
ĐÊM GIỮA BAN NGÀY của VŨ THƯ HIÊN
Tủ sách Tiếng Quê Hương tái bản năm 2008
NHẬT TIẾN
Xin nói ngay, đây không phải là một bài điểm sách.
Công việc này là thừa vì đã có nhiều người làm việc đó kể từ khi cuốn Đêm Giữa Ban Ngày ra mắt lần đầu do nhà xuất bản Văn Nghệ ở Nam Cali in từ tháng 4 năm 1997.
Ở đây, tôi chỉ ghi lại những kỷ niệm riêng tư về cuốn sách, hay vài cảm nghĩ chợt đến khi tôi ngồi đọc lại lần thứ nhì, nhân dịp Tủ Sách Tiếng Quê Hương tái bản tác phẩm này.
Bản in cuốn sách lần này quả thật là đồ sộ. Bìa cứng, lót giấy láng do họa sĩ Từ Phong trình bầy, với phần ruột dầy trên 800 trang khổ lớn. Về mặt hình thức, trên cả hai lãnh vực kỹ thuật lẫn mỹ thuật, đây là một công trình ấn loát xứng đáng đối với một tác phẩm lớn, hay nói đúng hơn, đối với một tác phẩm để đời.
Từ những năm sau năm 2000, tôi có dịp nhiều lần về thăm quê hương. Lần nào khi trở ra, tôi cũng được bạn bè, thân hữu nhắn nhe : “Lần sau về nhớ mang cuốn Đêm Giữa Ban Ngày !!”.
May là ấn bản của Đêm Giữa Ban Ngày hồi đó, tuy vẫn dầy vẫn nặng nhưng không đồ sộ như bây giờ, việc nhồi nhét nó vào đáy va-li hay cuộn giữa đống quần áo lót bùi nhùi coi ra có vẻ yên tâm hơn, mặc dù chỉ là sự yên tâm tự đánh lừa mình, chứ nếu hải quan tận tình khám xét thì đến cây kim trong bọc cũng phải lòi ra.
Dĩ nhiên không phải lần nào trở về tôi cũng thực hiện được lời nhắn ấy, nhưng rồi tôi cũng đã trao được cho nhiều người, tác phẩm hiếm hoi của Vũ Thư Hiên. Tôi nhớ một lần về Sài Gòn mà không tính đi đâu xa, trong khi người muốn có sách lại ở mãi ngoài Hà Nội.
Loay hoay tính tới tính lui, tôi quyết định gửi sách qua đường bưu điện, và nghĩ rằng sách gửi ngay trong nước thì hẳn là chuyện thông thường. Thế là tôi gói ghém kỹ lưỡng cuốn sách lại và tìm đến một chi nhánh Bưu Điện khá xa trung tâm thành phố. Nhìn bọc sách của tôi, cô nhân viên hất hàm:
– Cái gì thế này ?
– Dạ…Sách…
– Sách gì ?……Mở ra coi !
– Có gì đâu…Tự điển ấy mà.
– Tự điển cũng phải mở….Gì thì cũng phải kiểm tra trước cái đã.
Thế là tôi ôm bọc sách cuốn gói chuồn mất. Chỉ hãi cô ta kêu bảo vệ rượt theo thì họa xẩy đến không biết đâu mà lường.
Năm sau tôi kể lại chuyện gửi sách cho anh bạn ở Hà Nội nghe:
– Sao mà ở đây bây giờ vẫn còn khó thế. Cái gì gửi đi trong nước cũng phải mở tanh banh ra thì còn gì là Thế Kỷ 21 nữa !
Anh bạn cười ngất :
– Tại ông hết cả đấy chứ tại ai ?
Tôi ngạc nhiên:
– Sao lại tại tôi ?
– Tại một là ông gói ghém kỹ quá nên nó nghi. Rồi hai là vì nom ông ra dáng Việt kiều nên mới hoạnh họe kiếm chút tiền lẻ. Chớ mà gặp tôi, đòi mở gói của tôi thì dứt khoát là có vấn đề với tôi rồi.
Thì ra là thế !!!
Anh bạn còn cho biết, trong thời gian chờ sách của tôi mang về, anh cũng đã mượn đọc theo danh sách “xếp hàng” của một người có sách.
Nói tới chuyện “xếp hàng”, tôi chợt nhớ tới cuốn “Chuyện Kể Năm 2000” của nhà văn Bùi Ngọc Tấn.
Tôi đã mua lậu được 2 bộ “Chuyện Kể Năm 2000” (gồm cả thẩy 4 cuốn) tại một quán cà phê vỉa hè ở một ngách thông ra đường Tràng Tiền. Tôi vô cùng hí hửng vì vồ được cuốn sách vừa mới có lệnh tịch thu. Nhưng rồi một mối lo chợt ùa đến. Trên tay vẫn còn mang sách mà Công An Văn Hóa ập đến thì tôi có cãi đàng trời. Mấy cuốn sách đột nhiên trở thành những cục than hồng trên tay. Tôi nhớn nhác nhìn quanh và cứ thấy ai tới gần thì cũng tưởng ngay họ là….Công An Văn Hóa !
Chả biết ăn cắp thực sự thì có cảm giác thế nào, nhưng một thằng nhà văn đi mua sách của một thằng nhà văn ở ngay giữa thủ đô Hà Nội mà lại cứ phải lén lén lút lút thì thực sự tôi thấy mình hành xử đúng như một thằng ăn cắp !!
Khi trở về, tôi tặng một bộ đã mua cho một người quen ở Hà Nội. Sau này, người bạn cho biết anh phải lập một danh sách “xếp hàng” vì có nhiều người muốn mược đọc.
Thì ra “Chuyện Kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn và “ Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên đối với giới thưởng ngoạn, cả hai đều cũng có chung một hoàn cảnh.
***
Tôi sẽ không có ấn bản mới của “ Đêm Giữa Ban Ngày” nếu anh Trần Phong Vũ không cất công thân hành đem đến tận nhà cho tôi, bởi vì trong tủ sách, tôi đã có cuốn này rồi.
Đến lúc ngắm nhìn công trình của người viết : anh Vũ Thư Hiên và công trình của người thực hiện : anh Uyên Thao, tôi mới thấy dù ai đã có bản cũ mà thiếu ấn bản của Tủ Sách Tiếng Quê Hương thì thật là một điều đáng tiếc. Bởi vì, ngoài giá trị sưu tập về một tác phẩm quý trong tủ sách của mỗi gia đình, ấn bản mới còn có cách trình bầy mỹ thuật hơn, in trên loại giấy quý hơn, lỗi ấn loát được sửa chữa kỹ lưỡng hơn, ngoài ra còn thêm nhiều chỗ được bổ sung khiến tác phẩm tăng thêm phần phong phú. Nhất là phần “ghi chú”, tuy ở ấn bản đầu cũng đã có khá đầy đủ, nhưng nay được tác giả bổ sung thêm nhiều chi tiết mới, sắp xếp lại rất công phu kể cả phần INDEX ở cuối sách có ghi đầy đủ danh sách các nhân vật chính đã được nhắc tới theo thứ tự A,B, C …bên cạnh lại có ghi số trang nơi những danh xưng này xuất hiện. Điều này giúp cho độc giả được dễ dàng khi cần tham khảo.
Xin nêu vài ví dụ cụ thể:
– Khi ghi chú về Lê Duẩn, ấn bản cũ ghi: “Lê Duẩn (1908-1986), ng ười Quảng Trị, đảng viên cộng sản từ những năm 30, bị tù hai lần (1931-1936, 1940-1945), từng làm bí thư Trung ư ơng cục miền Nam, trong kháng chiến chống Pháp, từ 1956 làm bí thư Trung ương Đảng, bí thư thứ nhất (1960-1976), rồi tổng bí thư Đảng (1976-1986).”
Trong ấn bản mới, có bổ sung thêm: “Lê Duẩn (1908-1986) người Quảng Trị, năm 1928 tham gia Thanh Niện Cách Mạng Đồng Chí Hội, đảng viên đảng cộng sản năm 1930, bị tù hai lần (1931 – 1936, 1940- 1945 ), từng làm bí thư Trung ương Cục miền Nam, trong kháng chiến chống Pháp, từ 1956 làm bí thư Trung ương Đảng, bí thư thứ nhất (1960 – 1976), sau khi Hồ Chí Minh chết năm 1969, trở thành nhân vật số 1 của đảng cộng sản VN. Thời gian 1976 – 1986 theo danh xưng được sửa lại là tổng bí thư (tổng bí th ư hay bí thư thứ nhất cũng là một). “
– Hay phần ghi chú về nhà văn Lan Khai, ấn bản cũ chỉ ghi : “Nhà văn nổi tiếng với những chuyện đường rừng trước Cách mạng.” , trong khi ấn bản mới có bổ sung : “Lan Khai (1906- 1945), nhà văn có tiếng trên văn đàn thời kỳ trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông viết Lầm Than, Cô Dung, Chế Bồng Nga, Cái Hột Mận, Chiếc Ngai Vàng. . . được giới phê bình coi là nhà văn của “truyện đường rừng”. Nhà phê bình văn học Hải Triều đánh giá cao Lầm Than, coi đó là một tác phẩm hiện thực xã hội hiếm hoi vào thời kỳ ấy.
Chỉ với hai thí dụ nêu trên, người đọc thấy tác giả hết sức coi trọng phần ghi chú của mình, và trong điều kiện có thể được, ông đã bỏ nhiều công sức cho phần này trong suốt gần 800 trang sách với tổng cộng 198 điều ghi chú.
– Thêm vào đó, rải rác người đọc còn thấy tác giả đã bổ sung ngay chính những trang viết của mình, thí dụ như ở ấn bản cũ, tác giả viết: “ Bài báo cuối cùng của tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư phố Hàng Thao Nam Định chắc đã lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký bông lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi không, khi tôi bị bắt ? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở nhà xuất bản Văn Hóa nữa ? Cho dù là sách dịch, chưa chắc người ta đã cho nó ra. Vợ con tôi thế là mất đứt khoản nhuận bút, (trang 72,73).
Qua ấn bản mới, tác giả bổ sung thêm :
“Bài báo cuối cùng của tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư phố Hàng Thao Nam Định chắc đã lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký “bông” lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi không, khi tôi bị bắt ? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở nhà xuất bản Văn Hóa nữa ? Cho dù là sách dịch từ tiếng Nga của Miguel Otero Silva, một tác giả thiên tả người Venezuela, chưa chắc người ta đã cho nó ra vì kẻ dịch sách lại là một tên chống Đảng. Vợ con tôi thế là mất đứt khoản nhuận bút mà vợ tôi đã hy vọng bao nhiêu vào cuốn sách ấy. (trang 85,86).
Trên đây chỉ là một vài so sánh rất sơ lược để cho thấy tác giả đã dụng công rất nhiều khi ông cho tái bản tác phẩm này. Và nó xứng đáng được dụng công như thế bởi vì khi đọc lại lần thứ nhì Đêm Giữa Ban Ngày, tôi bị cuốn hút trong miên man nhiều cảm giác.
Trang nào đối với tôi cũng hấp dẫn như chỉ mới đọc lần đầu. Tôi say mê với tài diễn tả rất chừng mực của ông (ngay cả lúc ông diễn tả chính mình khi đang ở những giây phút khốn cùng). Tôi ngậm ngùi, thao thức với những nhận xét sâu sắc chan chứa tình người, và nhất là những kinh nghiệm sống, những hiểu biết phong phú của ông về nhiều nhân vật lịch sử, nhiều khuôn mặt văn nghệ sĩ với những sinh hoạt đời thường của họ, và nhiều hoàn cảnh éo le thăng trầm khác trong bối cảnh chính trị, xã hội của miền Bắc, vốn là nơi chốn mà tôi không hề có đôi chút kinh nghiệm.
Nói một cách chân thật, tôi đã được hiểu biết thêm rất nhiều điều qua tác phẩm này của ông.
****
Như đã nói ở trên, đây không phải là một bài điểm sách, vì thế không có phần nhắc lại toàn bộ nội dung của tác phẩm. Tuy nhiên trong bối cảnh chính trị hiện nay (2009), vào thời điểm mà Trung Quốc ngày càng lộ rõ tham vọng bành trướng qua những vụ lấn đất, lấn biển, xây dựng căn cứ quân sự kể cả tầu ngầm trên biển Đông, nhà văn Vũ Thư Hiên cũng đã đề cập tới vấn đề này trong Đêm Giữa Ban Ngày khi ông thuật lại những sự kiện đã từng xẩy ra cách đây cả nửa thế kỷ. Nhiều trang trong tác phẩm này đã hé lộ cho thấy những mầm mống sẽ mang lại nhiều tai ương, thảm họa cho đất nước đặc biệt là tinh thần quỵ lụy Thiên triều của đám lãnh đạo miền Bắc.
Sau đây là một đoạn tác giả nhắc về thân phụ của mình (Cụ Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Bộ Ngoại Giao) nhân đề cập đến sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại VN :
“….. Chính Lê Duẩn là người chủ trương mời quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam để trấn giữ hộ miền Bắc trong khi toàn bộ quân đội miền Bắc được đưa vào chiến trường miền Nam. Chuyện này người ta cố ý lờ đi mỗi khi nói tới Lê Duẩn. Nhưng nếu không phải Lê Duẩn thì ai có thể quyết định một việc trọng đại như thế. Cha tôi cho rằng việc ban lãnh đạo Đảng mời Giải Phóng Quân Trung Quốc vào Việt Nam là sai lầm vô cùng nguy hại. Sai lầm đó đã cho thấy hậu quả của nó trong vụ Trung Quốc xua quân vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam năm 1979 để “cho Việt Nam một bài học”, như Đặng Tiểu Bình tuyên bố.
Nếu lúc đó không có mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để Trung Quốc phải tự chế trong cuộc tấn công xâm lược thì không biết quân Trung Quốc còn đi tới đâu trên đất nước ta. Trong công tác phóng viên tôi đến Khu tự trị Việt Bắc và khu mỏ Hồng Quảng nhiều lần. Trở về tôi kể lại cho cha tôi những gì tôi thấy. Nghe chuyện dân vùng núi Việt Bắc không được phép kiếm củi ngay trong những khu rừng quê huơng họ nay đã trở thành khu vực đóng quân của Trung Quốc, chuyện những thợ mỏ muốn đi tắt đến nơi làm việc qua phần đất đã đ ược giao cho Trung Quốc cũng không được, họ bị bộ đội Trung Quốc xua đuổi, ông rơm rớm nước mắt. Ông lo lắng trước tình hình nước nhà bị lệ thuộc.
Ông tự đi thuyết phục các nhà lãnh đạo, họ đều là các đồng chí cũ của ông trong thời kỳ bí mật, kêu gọi họ cảnh giác tr ước chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của nước láng giềng từng đô hộ Việt Nam cả ngàn năm. Họ nghe ông với nụ cười mơ hồ, trịch th ượng. Việc nước đã có họ lo, không cần đến ông.
Ông rất bất bình việc Nguyễn Chí Thanh, người nắm thực quyền trong quân đội hồi ấy, đã đặt Cục Đồ Bản của Trung Quốc in bản đồ 1/1000, là thứ bản đồ dùng cho pháo binh. “Đó là bí mật quốc gia, không một nước nào tự nguyện trao cho nước khác. Sao nó ngu thế! Sao nó bậy thế !”, ông bực bội kêu lên.
(Đêm Giữa Ban Ngày, trang 253, 254)
Sự ngu muội, đớn hèn, ngay cả thái độ sẵn sàng chấp nhận qui phục trước Thiên triều của đám lãnh đạo miền Bắc cũng được tác giả nhắc tới trong một đoạn như sau :
“ Biết ông viện trưởng Viện Sử Học Trần Huy Liệu đang điên tiết vì bức ảnh đăng trên Nhân Dân nhật báo Bắc Kinh với dòng chú thích: “Đồng chí Trần Huy Liệu, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã được hân hạnh Mao chủ tịch cho bắt tay” nhân một forum Bắc Kinh bàn về hình thái xã hội chủ nghĩa năm 1965, ông Hồ Chí Minh an ủi ông Liệu: “Thôi, người ta bao giờ chả rứa, thiên triều mà ! “ Chuyện này tôi được nghe ông Liệu kể lại.
Một hôm, tôi đến thăm ông Liệu, thấy bức ảnh Mao Trạch Đông vẫn treo trong nhà không còn ở chỗ cũ, tôi hỏi thì ông Liệu kể cho nghe chuyện xảy ra với ông ở Bắc Kinh, chuyện ông Hồ an ủi ông. Ông nói:
“Tao mà như Bác Hồ, tao ỉa vào thiên triều, tao là thằng dân tộc chủ nghĩa”.
Chính thái độ lừng khừng trong giai đoạn này của Hồ Chí Minh làm cho lớp đàn em đang hăng máu chống Liên Xô coi thường ông.
Mặt ngoài, họ làm ra vẻ kiên trì đường lối đứng giữa, trên thực tế họ đã sà vào chiếu bạc rồi, đã xỉa tiền vào cửa Trung Quốc rồi. Không còn cửa nào tốt hơn cho quyền lực chuyên chế của Đảng. Trung Quốc tiền hô, Việt Nam hậu ủng.
Đến nỗi khi Trung Quốc tuyên bố một lãnh hải mở rộng trùm lên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thì ông thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng vội vã ra tuyên bố ủng hộ, tức là dâng ngay cho Trung Quốc.”
(Đêm Giữa Ban Ngày, trang 127)
****
Nói chung, về quan điểm chính trị, qua nội dung thể hiện trong tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày, tôi hoàn toàn chia xẻ với tác giả Vũ Thư Hiên. Và điều này hẳn lại cũng được nhà văn Uyên Thao tán đồng khi ông viết lời mở đầu cho cuốn sách tái bản Đêm Giữa Ban Ngày vì giá trị văn chương cũng như giá trị cáo giác của nó về những mảng đen tối chiếm đoạt nhân phẩm, chà đạp nhân quyền hiện vẫn còn tồn tại trong xã hội Việt Nam bây giờ :
“ Giữa lúc cả thế giới coi chế độ cộng sản như một cỗi nguồn tội ác thì tại Việt Nam vẫn vang vọng lời tung hô cỗi nguồn tội ác đó, vẫn kéo dài tình trạng buộc con người từ bỏ cuộc sống để “hoàn thành sự nghiệp cách mạng” chỉ là quyền uy tối thư ợng của những quỷ vương, bạo chúa. Mọi con dân Việt Nam, vì thế, đều trở thành nạn nhân bi thảm vì bị tước đoạt mọi quyền sống, bao gồm trong đó không ít nạn nhân đã và còn đang đóng vai thủ phạm gieo rắc tội ác không chỉ cho đồng loại mà cho ngay cả bản thân.
Tôi nghĩ chính cái thân phận nạn nhân chất ngất oan khiên này đã là động lực ràng buộc mọi người trong đó có chúng tôi. Chúng tôi dễ dàng gần gũi tin cậy lẫn nhau bởi đã thấy dù ở hướng đi nào, tất cả đều bị xô vào ngõ cụt do một tình trạng mê lầm khốc hại. Điều đáng tiếc là tình trạng mê lầm kéo dài từ đầu thế kỷ trước vẫn chưa chấm dứt vì những lý do hoàn toàn vô nghĩa. Cho nên, tác phẩm này được tái bản với mong mỏi góp một phần nhỏ vào việc gióng lại tiếng nói từ thực tế nhắc nhở tầm cần thiết của sự nhìn lại mọi lý do vô nghĩa đang có nơi mỗi cá nhân để kịp thời định một thái độ thích nghi cho yêu cầu tự cứu của hết thẩy và tránh cho con cháu chúng ta cảnh dãy dụa trong cõi chết.” (Uyên Thao, Về Tác Giả, Tác Phẩm, trang 11, Đêm Giữa Ban Ngày).
* * *
Trong mấy năm vừa qua, Tủ Sách Tiếng Quê Hương đã cho in nhiều tác phẩm giá trị. Đây là nỗ lực của một nhóm anh chị em văn nghệ sĩ hải ngoại mà người đại diện là nhà văn Uyên Thao ở Virginia. Sau những năm tù “cải tạo”, sức khỏe của Uyên Thao đã sút giảm rất nhiều. Mặc dù vậy, khi qua định cư ở Hoa Kỳ, anh vẫn tiếp tục lao vào sinh hoạt văn chương, đã thế bệnh ung thư bộc phát khiến anh phải cắt đi một phần dạ dầy. Ý chí phấn đấu chống lại hoàn cảnh ngặt nghèo của anh thật mãnh liệt và đáng khâm phục. Nó đã làm anh đứng vững và giúp anh bền bỉ theo đuổi những mục tiêu mà anh vạch ra. Ngoài công việc sáng tác, anh còn là một trong những thành viên sáng lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương mà ấn phẩm nào của Tủ Sách cũng đều được ấn loát công phu, cẩn trọng với nội dung phù hợp với tôn chỉ của nhóm chủ trương là “Tủ sách hy vọng mang lại đều đặn cho bạn đọc các tác phẩm giá trị, đáp ứng đúng yêu cầu tìm hiểu mọi mặt đời sống đất nước, đồng thời mong mỏi sẽ trở thành nhịp cầu nối kết mọi người Việt tha thiết với tiếng nói quê hương và vận mạng chung của dân tộc.” .
Duy trì một cơ sở xuất bản giá trị trong hoàn cảnh khó khăn của sinh hoạt sách báo ở hải ngoại bây giờ, nhóm chủ trương quả đã có những cố gắng rất lớn, đôi khi cả những hy sinh về tài chính lẫn tâm sức. Trong sinh hoạt văn hóa ở hải ngoại điều này là bình thường, nhưng nó là sự bình thường rất quý báu, bởi vì có ai bó buộc ai phải làm công việc cực nhọc ấy, ngoại trừ sự thôi thúc của thiện chí muốn duy trì và phát triển văn hóa dân tộc.
Ước mong thiện chí này được mọi người nhận biết và ra sức tiếp tay để những nỗ lực của nhóm chủ trương sẽ không bị mang số phận phải đứt gánh giữa đường.
NHẬT TIẾN
California tháng 3-2009
ĐÊM GIỮA BAN NGÀY của VŨ THƯ HIÊN
Tủ sách Tiếng Quê Hương tái bản năm 2008
NHẬT TIẾN
Xin nói ngay, đây không phải là một bài điểm sách.
Công việc này là thừa vì đã có nhiều người làm việc đó kể từ khi cuốn Đêm Giữa Ban Ngày ra mắt lần đầu do nhà xuất bản Văn Nghệ ở Nam Cali in từ tháng 4 năm 1997.
Ở đây, tôi chỉ ghi lại những kỷ niệm riêng tư về cuốn sách, hay vài cảm nghĩ chợt đến khi tôi ngồi đọc lại lần thứ nhì, nhân dịp Tủ Sách Tiếng Quê Hương tái bản tác phẩm này.
Bản in cuốn sách lần này quả thật là đồ sộ. Bìa cứng, lót giấy láng do họa sĩ Từ Phong trình bầy, với phần ruột dầy trên 800 trang khổ lớn. Về mặt hình thức, trên cả hai lãnh vực kỹ thuật lẫn mỹ thuật, đây là một công trình ấn loát xứng đáng đối với một tác phẩm lớn, hay nói đúng hơn, đối với một tác phẩm để đời.
Từ những năm sau năm 2000, tôi có dịp nhiều lần về thăm quê hương. Lần nào khi trở ra, tôi cũng được bạn bè, thân hữu nhắn nhe : “Lần sau về nhớ mang cuốn Đêm Giữa Ban Ngày !!”.
May là ấn bản của Đêm Giữa Ban Ngày hồi đó, tuy vẫn dầy vẫn nặng nhưng không đồ sộ như bây giờ, việc nhồi nhét nó vào đáy va-li hay cuộn giữa đống quần áo lót bùi nhùi coi ra có vẻ yên tâm hơn, mặc dù chỉ là sự yên tâm tự đánh lừa mình, chứ nếu hải quan tận tình khám xét thì đến cây kim trong bọc cũng phải lòi ra.
Dĩ nhiên không phải lần nào trở về tôi cũng thực hiện được lời nhắn ấy, nhưng rồi tôi cũng đã trao được cho nhiều người, tác phẩm hiếm hoi của Vũ Thư Hiên. Tôi nhớ một lần về Sài Gòn mà không tính đi đâu xa, trong khi người muốn có sách lại ở mãi ngoài Hà Nội.
Loay hoay tính tới tính lui, tôi quyết định gửi sách qua đường bưu điện, và nghĩ rằng sách gửi ngay trong nước thì hẳn là chuyện thông thường. Thế là tôi gói ghém kỹ lưỡng cuốn sách lại và tìm đến một chi nhánh Bưu Điện khá xa trung tâm thành phố. Nhìn bọc sách của tôi, cô nhân viên hất hàm:
– Cái gì thế này ?
– Dạ…Sách…
– Sách gì ?……Mở ra coi !
– Có gì đâu…Tự điển ấy mà.
– Tự điển cũng phải mở….Gì thì cũng phải kiểm tra trước cái đã.
Thế là tôi ôm bọc sách cuốn gói chuồn mất. Chỉ hãi cô ta kêu bảo vệ rượt theo thì họa xẩy đến không biết đâu mà lường.
Năm sau tôi kể lại chuyện gửi sách cho anh bạn ở Hà Nội nghe:
– Sao mà ở đây bây giờ vẫn còn khó thế. Cái gì gửi đi trong nước cũng phải mở tanh banh ra thì còn gì là Thế Kỷ 21 nữa !
Anh bạn cười ngất :
– Tại ông hết cả đấy chứ tại ai ?
Tôi ngạc nhiên:
– Sao lại tại tôi ?
– Tại một là ông gói ghém kỹ quá nên nó nghi. Rồi hai là vì nom ông ra dáng Việt kiều nên mới hoạnh họe kiếm chút tiền lẻ. Chớ mà gặp tôi, đòi mở gói của tôi thì dứt khoát là có vấn đề với tôi rồi.
Thì ra là thế !!!
Anh bạn còn cho biết, trong thời gian chờ sách của tôi mang về, anh cũng đã mượn đọc theo danh sách “xếp hàng” của một người có sách.
Nói tới chuyện “xếp hàng”, tôi chợt nhớ tới cuốn “Chuyện Kể Năm 2000” của nhà văn Bùi Ngọc Tấn.
Tôi đã mua lậu được 2 bộ “Chuyện Kể Năm 2000” (gồm cả thẩy 4 cuốn) tại một quán cà phê vỉa hè ở một ngách thông ra đường Tràng Tiền. Tôi vô cùng hí hửng vì vồ được cuốn sách vừa mới có lệnh tịch thu. Nhưng rồi một mối lo chợt ùa đến. Trên tay vẫn còn mang sách mà Công An Văn Hóa ập đến thì tôi có cãi đàng trời. Mấy cuốn sách đột nhiên trở thành những cục than hồng trên tay. Tôi nhớn nhác nhìn quanh và cứ thấy ai tới gần thì cũng tưởng ngay họ là….Công An Văn Hóa !
Chả biết ăn cắp thực sự thì có cảm giác thế nào, nhưng một thằng nhà văn đi mua sách của một thằng nhà văn ở ngay giữa thủ đô Hà Nội mà lại cứ phải lén lén lút lút thì thực sự tôi thấy mình hành xử đúng như một thằng ăn cắp !!
Khi trở về, tôi tặng một bộ đã mua cho một người quen ở Hà Nội. Sau này, người bạn cho biết anh phải lập một danh sách “xếp hàng” vì có nhiều người muốn mược đọc.
Thì ra “Chuyện Kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn và “ Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên đối với giới thưởng ngoạn, cả hai đều cũng có chung một hoàn cảnh.
***
Tôi sẽ không có ấn bản mới của “ Đêm Giữa Ban Ngày” nếu anh Trần Phong Vũ không cất công thân hành đem đến tận nhà cho tôi, bởi vì trong tủ sách, tôi đã có cuốn này rồi.
Đến lúc ngắm nhìn công trình của người viết : anh Vũ Thư Hiên và công trình của người thực hiện : anh Uyên Thao, tôi mới thấy dù ai đã có bản cũ mà thiếu ấn bản của Tủ Sách Tiếng Quê Hương thì thật là một điều đáng tiếc. Bởi vì, ngoài giá trị sưu tập về một tác phẩm quý trong tủ sách của mỗi gia đình, ấn bản mới còn có cách trình bầy mỹ thuật hơn, in trên loại giấy quý hơn, lỗi ấn loát được sửa chữa kỹ lưỡng hơn, ngoài ra còn thêm nhiều chỗ được bổ sung khiến tác phẩm tăng thêm phần phong phú. Nhất là phần “ghi chú”, tuy ở ấn bản đầu cũng đã có khá đầy đủ, nhưng nay được tác giả bổ sung thêm nhiều chi tiết mới, sắp xếp lại rất công phu kể cả phần INDEX ở cuối sách có ghi đầy đủ danh sách các nhân vật chính đã được nhắc tới theo thứ tự A,B, C …bên cạnh lại có ghi số trang nơi những danh xưng này xuất hiện. Điều này giúp cho độc giả được dễ dàng khi cần tham khảo.
Xin nêu vài ví dụ cụ thể:
– Khi ghi chú về Lê Duẩn, ấn bản cũ ghi: “Lê Duẩn (1908-1986), ng ười Quảng Trị, đảng viên cộng sản từ những năm 30, bị tù hai lần (1931-1936, 1940-1945), từng làm bí thư Trung ư ơng cục miền Nam, trong kháng chiến chống Pháp, từ 1956 làm bí thư Trung ương Đảng, bí thư thứ nhất (1960-1976), rồi tổng bí thư Đảng (1976-1986).”
Trong ấn bản mới, có bổ sung thêm: “Lê Duẩn (1908-1986) người Quảng Trị, năm 1928 tham gia Thanh Niện Cách Mạng Đồng Chí Hội, đảng viên đảng cộng sản năm 1930, bị tù hai lần (1931 – 1936, 1940- 1945 ), từng làm bí thư Trung ương Cục miền Nam, trong kháng chiến chống Pháp, từ 1956 làm bí thư Trung ương Đảng, bí thư thứ nhất (1960 – 1976), sau khi Hồ Chí Minh chết năm 1969, trở thành nhân vật số 1 của đảng cộng sản VN. Thời gian 1976 – 1986 theo danh xưng được sửa lại là tổng bí thư (tổng bí th ư hay bí thư thứ nhất cũng là một). “
– Hay phần ghi chú về nhà văn Lan Khai, ấn bản cũ chỉ ghi : “Nhà văn nổi tiếng với những chuyện đường rừng trước Cách mạng.” , trong khi ấn bản mới có bổ sung : “Lan Khai (1906- 1945), nhà văn có tiếng trên văn đàn thời kỳ trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông viết Lầm Than, Cô Dung, Chế Bồng Nga, Cái Hột Mận, Chiếc Ngai Vàng. . . được giới phê bình coi là nhà văn của “truyện đường rừng”. Nhà phê bình văn học Hải Triều đánh giá cao Lầm Than, coi đó là một tác phẩm hiện thực xã hội hiếm hoi vào thời kỳ ấy.
Chỉ với hai thí dụ nêu trên, người đọc thấy tác giả hết sức coi trọng phần ghi chú của mình, và trong điều kiện có thể được, ông đã bỏ nhiều công sức cho phần này trong suốt gần 800 trang sách với tổng cộng 198 điều ghi chú.
– Thêm vào đó, rải rác người đọc còn thấy tác giả đã bổ sung ngay chính những trang viết của mình, thí dụ như ở ấn bản cũ, tác giả viết: “ Bài báo cuối cùng của tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư phố Hàng Thao Nam Định chắc đã lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký bông lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi không, khi tôi bị bắt ? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở nhà xuất bản Văn Hóa nữa ? Cho dù là sách dịch, chưa chắc người ta đã cho nó ra. Vợ con tôi thế là mất đứt khoản nhuận bút, (trang 72,73).
Qua ấn bản mới, tác giả bổ sung thêm :
“Bài báo cuối cùng của tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư phố Hàng Thao Nam Định chắc đã lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký “bông” lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi không, khi tôi bị bắt ? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở nhà xuất bản Văn Hóa nữa ? Cho dù là sách dịch từ tiếng Nga của Miguel Otero Silva, một tác giả thiên tả người Venezuela, chưa chắc người ta đã cho nó ra vì kẻ dịch sách lại là một tên chống Đảng. Vợ con tôi thế là mất đứt khoản nhuận bút mà vợ tôi đã hy vọng bao nhiêu vào cuốn sách ấy. (trang 85,86).
Trên đây chỉ là một vài so sánh rất sơ lược để cho thấy tác giả đã dụng công rất nhiều khi ông cho tái bản tác phẩm này. Và nó xứng đáng được dụng công như thế bởi vì khi đọc lại lần thứ nhì Đêm Giữa Ban Ngày, tôi bị cuốn hút trong miên man nhiều cảm giác.
Trang nào đối với tôi cũng hấp dẫn như chỉ mới đọc lần đầu. Tôi say mê với tài diễn tả rất chừng mực của ông (ngay cả lúc ông diễn tả chính mình khi đang ở những giây phút khốn cùng). Tôi ngậm ngùi, thao thức với những nhận xét sâu sắc chan chứa tình người, và nhất là những kinh nghiệm sống, những hiểu biết phong phú của ông về nhiều nhân vật lịch sử, nhiều khuôn mặt văn nghệ sĩ với những sinh hoạt đời thường của họ, và nhiều hoàn cảnh éo le thăng trầm khác trong bối cảnh chính trị, xã hội của miền Bắc, vốn là nơi chốn mà tôi không hề có đôi chút kinh nghiệm.
Nói một cách chân thật, tôi đã được hiểu biết thêm rất nhiều điều qua tác phẩm này của ông.
****
Như đã nói ở trên, đây không phải là một bài điểm sách, vì thế không có phần nhắc lại toàn bộ nội dung của tác phẩm. Tuy nhiên trong bối cảnh chính trị hiện nay (2009), vào thời điểm mà Trung Quốc ngày càng lộ rõ tham vọng bành trướng qua những vụ lấn đất, lấn biển, xây dựng căn cứ quân sự kể cả tầu ngầm trên biển Đông, nhà văn Vũ Thư Hiên cũng đã đề cập tới vấn đề này trong Đêm Giữa Ban Ngày khi ông thuật lại những sự kiện đã từng xẩy ra cách đây cả nửa thế kỷ. Nhiều trang trong tác phẩm này đã hé lộ cho thấy những mầm mống sẽ mang lại nhiều tai ương, thảm họa cho đất nước đặc biệt là tinh thần quỵ lụy Thiên triều của đám lãnh đạo miền Bắc.
Sau đây là một đoạn tác giả nhắc về thân phụ của mình (Cụ Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Bộ Ngoại Giao) nhân đề cập đến sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại VN :
“….. Chính Lê Duẩn là người chủ trương mời quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam để trấn giữ hộ miền Bắc trong khi toàn bộ quân đội miền Bắc được đưa vào chiến trường miền Nam. Chuyện này người ta cố ý lờ đi mỗi khi nói tới Lê Duẩn. Nhưng nếu không phải Lê Duẩn thì ai có thể quyết định một việc trọng đại như thế. Cha tôi cho rằng việc ban lãnh đạo Đảng mời Giải Phóng Quân Trung Quốc vào Việt Nam là sai lầm vô cùng nguy hại. Sai lầm đó đã cho thấy hậu quả của nó trong vụ Trung Quốc xua quân vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam năm 1979 để “cho Việt Nam một bài học”, như Đặng Tiểu Bình tuyên bố.
Nếu lúc đó không có mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để Trung Quốc phải tự chế trong cuộc tấn công xâm lược thì không biết quân Trung Quốc còn đi tới đâu trên đất nước ta. Trong công tác phóng viên tôi đến Khu tự trị Việt Bắc và khu mỏ Hồng Quảng nhiều lần. Trở về tôi kể lại cho cha tôi những gì tôi thấy. Nghe chuyện dân vùng núi Việt Bắc không được phép kiếm củi ngay trong những khu rừng quê huơng họ nay đã trở thành khu vực đóng quân của Trung Quốc, chuyện những thợ mỏ muốn đi tắt đến nơi làm việc qua phần đất đã đ ược giao cho Trung Quốc cũng không được, họ bị bộ đội Trung Quốc xua đuổi, ông rơm rớm nước mắt. Ông lo lắng trước tình hình nước nhà bị lệ thuộc.
Ông tự đi thuyết phục các nhà lãnh đạo, họ đều là các đồng chí cũ của ông trong thời kỳ bí mật, kêu gọi họ cảnh giác tr ước chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của nước láng giềng từng đô hộ Việt Nam cả ngàn năm. Họ nghe ông với nụ cười mơ hồ, trịch th ượng. Việc nước đã có họ lo, không cần đến ông.
Ông rất bất bình việc Nguyễn Chí Thanh, người nắm thực quyền trong quân đội hồi ấy, đã đặt Cục Đồ Bản của Trung Quốc in bản đồ 1/1000, là thứ bản đồ dùng cho pháo binh. “Đó là bí mật quốc gia, không một nước nào tự nguyện trao cho nước khác. Sao nó ngu thế! Sao nó bậy thế !”, ông bực bội kêu lên.
(Đêm Giữa Ban Ngày, trang 253, 254)
Sự ngu muội, đớn hèn, ngay cả thái độ sẵn sàng chấp nhận qui phục trước Thiên triều của đám lãnh đạo miền Bắc cũng được tác giả nhắc tới trong một đoạn như sau :
“ Biết ông viện trưởng Viện Sử Học Trần Huy Liệu đang điên tiết vì bức ảnh đăng trên Nhân Dân nhật báo Bắc Kinh với dòng chú thích: “Đồng chí Trần Huy Liệu, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã được hân hạnh Mao chủ tịch cho bắt tay” nhân một forum Bắc Kinh bàn về hình thái xã hội chủ nghĩa năm 1965, ông Hồ Chí Minh an ủi ông Liệu: “Thôi, người ta bao giờ chả rứa, thiên triều mà ! “ Chuyện này tôi được nghe ông Liệu kể lại.
Một hôm, tôi đến thăm ông Liệu, thấy bức ảnh Mao Trạch Đông vẫn treo trong nhà không còn ở chỗ cũ, tôi hỏi thì ông Liệu kể cho nghe chuyện xảy ra với ông ở Bắc Kinh, chuyện ông Hồ an ủi ông. Ông nói:
“Tao mà như Bác Hồ, tao ỉa vào thiên triều, tao là thằng dân tộc chủ nghĩa”.
Chính thái độ lừng khừng trong giai đoạn này của Hồ Chí Minh làm cho lớp đàn em đang hăng máu chống Liên Xô coi thường ông.
Mặt ngoài, họ làm ra vẻ kiên trì đường lối đứng giữa, trên thực tế họ đã sà vào chiếu bạc rồi, đã xỉa tiền vào cửa Trung Quốc rồi. Không còn cửa nào tốt hơn cho quyền lực chuyên chế của Đảng. Trung Quốc tiền hô, Việt Nam hậu ủng.
Đến nỗi khi Trung Quốc tuyên bố một lãnh hải mở rộng trùm lên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thì ông thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng vội vã ra tuyên bố ủng hộ, tức là dâng ngay cho Trung Quốc.”
(Đêm Giữa Ban Ngày, trang 127)
****
Nói chung, về quan điểm chính trị, qua nội dung thể hiện trong tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày, tôi hoàn toàn chia xẻ với tác giả Vũ Thư Hiên. Và điều này hẳn lại cũng được nhà văn Uyên Thao tán đồng khi ông viết lời mở đầu cho cuốn sách tái bản Đêm Giữa Ban Ngày vì giá trị văn chương cũng như giá trị cáo giác của nó về những mảng đen tối chiếm đoạt nhân phẩm, chà đạp nhân quyền hiện vẫn còn tồn tại trong xã hội Việt Nam bây giờ :
“ Giữa lúc cả thế giới coi chế độ cộng sản như một cỗi nguồn tội ác thì tại Việt Nam vẫn vang vọng lời tung hô cỗi nguồn tội ác đó, vẫn kéo dài tình trạng buộc con người từ bỏ cuộc sống để “hoàn thành sự nghiệp cách mạng” chỉ là quyền uy tối thư ợng của những quỷ vương, bạo chúa. Mọi con dân Việt Nam, vì thế, đều trở thành nạn nhân bi thảm vì bị tước đoạt mọi quyền sống, bao gồm trong đó không ít nạn nhân đã và còn đang đóng vai thủ phạm gieo rắc tội ác không chỉ cho đồng loại mà cho ngay cả bản thân.
Tôi nghĩ chính cái thân phận nạn nhân chất ngất oan khiên này đã là động lực ràng buộc mọi người trong đó có chúng tôi. Chúng tôi dễ dàng gần gũi tin cậy lẫn nhau bởi đã thấy dù ở hướng đi nào, tất cả đều bị xô vào ngõ cụt do một tình trạng mê lầm khốc hại. Điều đáng tiếc là tình trạng mê lầm kéo dài từ đầu thế kỷ trước vẫn chưa chấm dứt vì những lý do hoàn toàn vô nghĩa. Cho nên, tác phẩm này được tái bản với mong mỏi góp một phần nhỏ vào việc gióng lại tiếng nói từ thực tế nhắc nhở tầm cần thiết của sự nhìn lại mọi lý do vô nghĩa đang có nơi mỗi cá nhân để kịp thời định một thái độ thích nghi cho yêu cầu tự cứu của hết thẩy và tránh cho con cháu chúng ta cảnh dãy dụa trong cõi chết.” (Uyên Thao, Về Tác Giả, Tác Phẩm, trang 11, Đêm Giữa Ban Ngày).
* * *
Trong mấy năm vừa qua, Tủ Sách Tiếng Quê Hương đã cho in nhiều tác phẩm giá trị. Đây là nỗ lực của một nhóm anh chị em văn nghệ sĩ hải ngoại mà người đại diện là nhà văn Uyên Thao ở Virginia. Sau những năm tù “cải tạo”, sức khỏe của Uyên Thao đã sút giảm rất nhiều. Mặc dù vậy, khi qua định cư ở Hoa Kỳ, anh vẫn tiếp tục lao vào sinh hoạt văn chương, đã thế bệnh ung thư bộc phát khiến anh phải cắt đi một phần dạ dầy. Ý chí phấn đấu chống lại hoàn cảnh ngặt nghèo của anh thật mãnh liệt và đáng khâm phục. Nó đã làm anh đứng vững và giúp anh bền bỉ theo đuổi những mục tiêu mà anh vạch ra. Ngoài công việc sáng tác, anh còn là một trong những thành viên sáng lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương mà ấn phẩm nào của Tủ Sách cũng đều được ấn loát công phu, cẩn trọng với nội dung phù hợp với tôn chỉ của nhóm chủ trương là “Tủ sách hy vọng mang lại đều đặn cho bạn đọc các tác phẩm giá trị, đáp ứng đúng yêu cầu tìm hiểu mọi mặt đời sống đất nước, đồng thời mong mỏi sẽ trở thành nhịp cầu nối kết mọi người Việt tha thiết với tiếng nói quê hương và vận mạng chung của dân tộc.” .
Duy trì một cơ sở xuất bản giá trị trong hoàn cảnh khó khăn của sinh hoạt sách báo ở hải ngoại bây giờ, nhóm chủ trương quả đã có những cố gắng rất lớn, đôi khi cả những hy sinh về tài chính lẫn tâm sức. Trong sinh hoạt văn hóa ở hải ngoại điều này là bình thường, nhưng nó là sự bình thường rất quý báu, bởi vì có ai bó buộc ai phải làm công việc cực nhọc ấy, ngoại trừ sự thôi thúc của thiện chí muốn duy trì và phát triển văn hóa dân tộc.
Ước mong thiện chí này được mọi người nhận biết và ra sức tiếp tay để những nỗ lực của nhóm chủ trương sẽ không bị mang số phận phải đứt gánh giữa đường.
NHẬT TIẾN
California tháng 3-2009
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire