Kính mời quý anh chị đọc lại một bài của tác giả Phạm Tín Anh Ninh và nghe lại một bản nhạc xưa do anh phạm Đức Nghĩa trình bày.
Cám ơn tất cả các tác giả đã đóng góp cho chương trình thơ văn của groupe chúng tôi.
Caroline thanh Hương
tt
Một thoáng Pleiku
Phạm Tín An Ninh
Thật
lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi
buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa
-thực sự vĩnh viễn xa- Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở
với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi
này một lời xin lỗi.
Tôi
chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy
lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ
đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ
còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo
ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những
mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.
Nếu
không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên
bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến
chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh.
Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị
tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiêt) và đảm trách một vùng hành quân
khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972,
khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường
Kiệt – Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay
thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và
tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB
hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.
Loanh
quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng
phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn
nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị
chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được
không vận lên Kontum. Bộ Tư Lênh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại
căn cứ Tân Cảnh và vị Tư Lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng
với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ
chiếm lấy Kontum.
Tôi
đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi
chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa
đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và
giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân
số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong
trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng quân
trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và
thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn
bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện
ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng.
Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say.
Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân
Cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân
Cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng
mạn (và vi phạm quân phong quân kỷ?) như ai.
Pleiku
có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ
chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và
cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn
nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang
chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.
Riêng
tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và
hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ
anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy”
này.
Lúc
trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng
này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị,
anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến
đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh
là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi
anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh chủng,
thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.
Do
cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán
rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng
nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới.
Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên
của một mỹ nhân , để “may mà có em đời con dễ thương !”
Tôi
rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay
giặc. Sáng ngày 13.3.75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được
trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại
của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha
Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản.
Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân trên Tỉnh Lộ 7B.
Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh.
Nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là
tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức
tưởi.
Hình
ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong
trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng
đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và
trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con
đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng
Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên
Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku,
Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề..mà những cô học trò ngày ấy bây giờ
đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi
thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)
Ngày
ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ
gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết
có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một
cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ –
nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu
Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của
Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh
Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời
Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng
quá.
Nguyễn
Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong,
Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng ;
Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ Pleiku:
Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….
Vậy
mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ
mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.”
Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku
mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông
nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những
gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những
người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ
tài danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít
nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có
tội với Pleiku.
Ba
năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại
nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Đỗ Bê … những tiểu
đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình
huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở
lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả -có lẽ cũng như tôi- chưa biết
rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một
thời.
Tôi
vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào
những ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết
bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy.
Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ
Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên
phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố núi sẽ
không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho
nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa
Trên Đó”:
Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
…
Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Chúng
tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái
chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là
những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc
không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính
trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm)
các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!
Thuở
ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi
tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.
Thì
ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku
trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh
lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng
mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.
Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku. •
Phạm Tín An Ninh
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire