MỘT
CÁI NHÌN LỊCH SỬ
Bài số 11
HỒ TẤN VINH
5.- ÔNG
DIỆM LÀ AI?
Giữa cái tiền bạc,
cái danh dự, cái tôn giáo, cái nữ sắc, cái quyền lực, con cái, cha mẹ. . . mỗi
người, dầu là chánh khách hay dân thường đều phải chọn lựa một ưu tiên để để
trên đầu.
Nếu chọn tiền bạc
là ưu tiên thì người đó có thể làm mọi việc – dù có bất lương hay vô sĩ - miễn
làm sao có tiền là được. Nếu chọn tình yêu, thì người đó có thể bỏ cả công
danh, sự nghiệp để đổi lấy nụ cười của mỹ nhân. Nếu để tôn giáo ưu tiên thì
người đó không thể độc ác, gian trá, vì tôn giáo có khác, nhưng không có tôn
giáo nào chấp nhận chuyện phi nhân?
Phải biết ông Diệm
để cái gì trên đầu thì mới biết ông Diệm là ai.
Trong cuộc khủng
hoảng với Phật Giáo, ông nói ‘sau lưng Phật giáo trong nước, hãy còn Hiến
Pháp, nghĩa là có tôi’ (Đoàn
Thêm, tr. 351) và sau đó thì nói nếu tôi chết thì hãy trả thù cho tôi
(Tổng Thống Diệm có nói với Đỗ Thọ: ‘Tôi không biết sống hay chết. Tôi
không cần. Nhờ nói với Khánh tôi thương Khánh lắm. Yêu cầu Khánh trả thù cho
tôi’ Nguyễn Trân, tr. 454).
Hai câu nói này
chứng tỏ ông Diệm đã tự để mình trên tất cả. Nhưng không phải chỉ một mình ông
mà cả gia đình ông. Trong cách đối xử, gia đình ông có một ý nghĩa đặc biệt.
Gia đình ông Diệm không phải chỉ có bà Cả Lễ, Cha Thục, ông Luyện, ông Nhu mà
có cả bà Nhu và mụ Luyến. Những người này xếp hàng trên đất nước. Nhưng gia
đình ông lại không gồm có đứa con trai duy nhứt – mà không dè ông bắt chước Hồ
Chí Minh - chối bỏ. Một người thanh niên, khỏe mạnh, không bị thiến thì có đứa
con rơi đâu phải là chuyện động trời. Nhưng cái ý nghĩ rằng mình có thể gạt
mình và gạt luôn thiên hạ mới là chuyện trời ơi.
Hồ Sĩ Khuê, một
nhân sĩ miền Trung có quen biết ông Diệm, ông Nhu từ thời còn đi học, đã từng
cộng tác với ông Diệm và ông Nhu. Nhưng không hề cộng tác khi ông Diệm ông Nhu
nắm chánh quyền. Hồ Sĩ Khuê viết:
‘cộng sản
miền Nam lớn mạnh nhờ ‘Cộng hòa Nhân vị’ tr. 138).
Nhưng ‘chủ nghĩa
Nhân vị’ là gì, đố ai biết? Chữ ‘nhân vị’ này rất được xài khi ông Diệm
còn sống, nhưng khi ông chết rồi thì nó cũng chết theo ông. Điều này đủ chứng
tỏ nó không có giá trị thời gian và không gian. Nhưng tại sao phải lập ra một
Trung Tâm Nhân Vị và trả lương cho các giảng viên đến dạy. Rồi ta lại thấy các
công chức cao cấp, các sĩ quan, các cữ nhơn, tiến sĩ đến thọ giáo. Đâu có ai
biết rằng đây là một lối trắc nghiệm rất hữu hiệu để tuyển lựa nhân tài. Trong
các mưu ma, chước quỷ mà con người có thể nghĩ ra, chưa có ai nghĩ ra kế này. .
.
Cách đây 2210 năm, sau khi Tần Thủy Hoàng mất, một đứa con trai soán
ngôi. Tần Nhị Thế muốn phân biệt ai trung thành với mình nên cho đem một con
nai vào giữa triều đang họp và phán rằng đây là con chiến mã. Quần thần liền
cúc cung sụp lạy chúc mừng hoàng thượng có được con thần mã vạn lý! Lèo tèo chỉ
một vài tiếng cứ cải bướng! Nhưng kiểu nhà Tần thô bỉ quá. Ông Nhu thâm hơn
nhiều.
Trong khóa huấn luyện nhân vị, ai có nhiều thắc mắc, tranh cải thì chứng
tỏ người đó ngu quá, không hiểu gì cả, không có khả năng. Ai nghe nói chuyện
không đầu không đuôi mà cứ gật đầu khen hay, khen tuyệt thì người đó đã lọt mắt
xanh.
Nhưng chuyện Tần Nhị Thế không kết thúc như ta tưởng. Tần Nhị Thế hoàn
toàn khác ông Nhu. Nhà vua chỉ xử dụng những người nào dám làm mà không cần
nhìn mặt chủ.
Chưa bao giờ giới trí thức Việt Nam bị sĩ nhục nặng nề như vậy. Trong
lúc cộng sản bắt buộc ‘trí thức phải đầu hàng giai cấp, thì ông Diệm bày trò
trí thức phải tiếp nhận thuyết nhân vị. Cả hai đều kiêu ngạo, lộng ngôn.
‘Ông Nhu chủ trương thuyết Nhân vị, nhưng không khi nào giải thích
thuyết ấy ra sao’ NT, tr. 341.
Nguyễn Trân từng là Ủy Viên Tổ Chức của đảng Cần Lao Nhân Vị mà thú thật
như vậy thì còn ai dám nói biết cái thuyết mà chính giáo chủ chưa lập ngôn đây?
Sau này, khi các hồ sơ được giải mật, người ta mới biết rằng ông
Nhu không phải là người khởi xướng ra thuyết nhân vị, mà thuyết ấy do State
Department bên Mỹ đưa ra để ông Diệm thi hành. Mà trong State Department thì
chỉ có nhân viên ngoại giao và CIA, chớ làm gì có triết gia trong đó.
Như vậy những bài giảng của thuyết ấy đều là tự bịa hết. Và ai có thể
giải thích cái thuyết nhân vị biến hóa như thế nào mà để bịt miệng đối lập thì
phải trói người sống vào bao bố rồi cho đi mò tôm? Cái thuyết ấy biến hóa như
thế nào mà một người bị tử hình rồi mà còn bị đem ra chặt làm ba khúc?
Đối với nhân dân miền Nam, ông Diệm đã phạm một tội mà một người có ý
thức chánh trị tối thiểu không bao giờ làm. Đó là tội khinh khi quần chúng mà
trước đó mình đã cầu cạnh ngoại bang để cho mình cai trị.
Giáng sinh 1954, ở
ngay sảnh đường dinh Độc lập, Ông Nhu xẳng giọng nói với Hồ Sï Khuê bằng tiếng
Pháp:
‘Les
Cochinchinois sont des traîtres et vous voulez qu’on partage le pouvoir avec
eux!’
Hồ Sĩ Khuê viết:
‘Cho nên,
việc tìm cách chia rẽ các Giáo phái như hiện nay, để khiến Giáo phái tự hủy
hoại lấy nhau, là một đòn phép cai trị. Không phải là chánh trị. Tôi đã nhiều
lần, mặc dầu ông cười là ‘marotte’ của tôi, trình bày cặn kẻ vấn đề các Giáo
phái. Và ông xem lại hồ sơ tôi có ghi ‘Ta có thể dùng quyền lực nhà nước dẹp
tan Giáo phái. Nhưng nếu có dẹp được, cũng chỉ dẹp cái ngọn, không bao giờ dẹp
nổi cái gốc, vì Giáo phái ăn rễ trong thực trạng Nam bộ yêu nước. Thành ra,
‘cai trị Giáo phái’ càng có kết quả, ‘chính trị Nam kỳ’ của Nhà nước càng hỏng.
Dẹp Giáo
phái, rất dễ. Nhưng Cụ không còn nói chuyện chống cộng được với người Nam kỳ.
Mà không có lòng dân Nam kỳ Cụ chống cộng với ai?
Tôi kết
luận câu chuyện để kiếu từ: ‘Nếu quả người Nam kỳ là ‘traîtres’ như ông nói thì
chính quyền Saigon không có tương lai’
Từ đó đoạn
tuyệt hẳn, Nhu và tôi không còn gặp nhau nữa’ Hồ Sĩ Khuê, tr. 299.
Có ba danh từ để
dịch chữ ‘traître’, đó là phản bội, bán nước hay Việt gian. Nếu dân Nam kỳ vì
vô tình ở trên đất ‘thuộc địa Pháp’ là traîtres thì Giám Mục Vĩnh Long Ngô Đình
Thục qua bức thư hữu tình gởi cho Toàn Quyền Đông Dương Decoux ngày 21 tháng 8
năm 1944, viết tay bằng tiếng Pháp còn traître hơn nhiều. Mời xem trọn bức thư
này trong cuốn sách của Lê Trọng Văn, tr. 19. Sau đây là một đoạn trích trong
bức thư dẫn thượng.
‘S’il était
prouvé que leur activité a pu nuire aux intérêts de la France, je la
désapprouve du fond du coeur, comme evêque, comme annamite, et comme member
d’une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en
Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions menées,
comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đình
Phùng à Nghe An et Hà Tịnh’.
Tổng Thống Ngô
Đình Diệm là người đã từng sống ở Pháp, ở Mỹ mà lại xem miền Nam như một mãnh
đất để tranh giành thiên hạ như các chư hầu 2700 năm về trước ở bên Trung Hoa.
Nhân dân miền Nam không phải là mục tiêu để ông phục vụ. Ông có coi nước đang
gặp nạn và ông có trách nhiệm cứu nước hay suốt cuộc đời, ông chỉ coi việc nước
như là một sự tính toán lời lổ, một mối làm ăn mà ông phải ráng trúng thầu? Cái
gì ông nghiền ngẫm trong đầu làm sao ai biết, nhưng cái cãm nhận của quần chúng
thì không bao giờ sai: Tổng Thống không có tấm lòng nào với dân miền Nam. Dưới
con mắt của ông Diệm, nhân dân miền Nam chỉ là những cái lưng cúi xuống để ông
đạp lên. Ông không phải là một nhà cách mạng hay ái quốc. Cái tham vọng của ông
không vượt quá sự vinh thân, phì gia.
Người làm chánh
trị thường khi phải có những quyết định mạnh mẽ và nhanh chóng. Nhưng người sử
dụng bạo lực phải biết tự chế và cân nhắc. Vũ lực chỉ được thừa nhận là thích
đáng khi nó có lý do tương xứng. Người cầm quyền sử dụng bạo lực vô độ là một
bạo chúa. Bạo chúa thì không bao giờ nghĩ đến cái đau khổ mà mình gây cho kẻ
khác và cái hậu quả mà mình gây cho mình.
‘Tâm lý Nam
bộ xem ông Diệm là người ăn cỗ sẵn’ HSK tr. 257.
Trước năm 1954,
Ông Ngô Đình Diệm có thể đã không ưa Pháp. Ông Diệm không có bằng tú tài, chỉ
có trình độ diplôme và đi học ba năm trường Hậu bổ, tốt nghiệp đi làm quận
trưởng (tri huyện) năm 22 tuổi và mấy năm sau nhảy một lèo lên làm Thượng Thư
lúc 32 tuổi, qua mặt tất cả các nhà khoa bảng lão thành đất Thần kinh. Lúc bấy
giờ VN đang còn thuộc Pháp, chức vụ quan trọng nhứt Triều đình đương nhiên là
do Pháp chọn. Nếu Pháp cố tình nâng đở, kéo một người có tinh thần chống Pháp,
đòi độc lập cho VN lên làm Thượng Thư thì rõ ràng mấy thằng Tây này điên hết
rồi. Mà chắc có phải vậy không?
Trong lúc ‘ông
Diệm là lính nhảy dù, được Mỹ thả từ trên trời rớt xuống’ (Vũ Bằng), Bảy Viễn
đứng thẳng lưng cầm súng chống Pháp ba năm (1945-1948). Giá trị của cái lon
Đại Tá mà Pháp gắn cho Bảy Viễn không khởi thủy là do tốt nghiệp các khóa huấn
luyện quân sự của Pháp và đưa ra chiến trường dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp
mà là do bản lãnh cầm quân chống quân đội Pháp của Bảy Viễn. Bảy Viễn không có
đi cầu quyền với ngoại bang. Quyền lực mà Bảy Viễn có là do người Việt cho, mặc
dầu đám người Việt đó là tập đoàn sống ngoài vòng pháp luật. Điễm căn bản là ở
chỗ đó.
HỒ TẤN VINH
Úc Châu
Ngày 14 tháng 10
năm 2012
(Còn tiếp)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire