caroline thanh huong

caroline thanh huong
catbui

Libellés

jeudi 13 mars 2014

17 Năm Trong Các Trại Cải Tạo Của CSVN (chương 27 – 30) Hồi Ký Kale

Đọc lại kỳ trước

http://catbuicarolineth.blogspot.fr/2014/02/17-nam-trong-cac-trai-cai-tao-cua-csvn_24.html

Làm gạch quá nặng nề đối với tôi, và đi làm ngoài đồng thì những con đỉa bám đầy chân mỗi lần bước xuống nước khiến tôi rất kinh khiếp.   Vì vậy khi trại cần ai biết làm thợ mộc để biên chế vào đội mộc, tôi tình nguyện ngay dù thật tình thì tôi chẳng biết gì ngay cả việc cầm cái cưa để cưa gỗ!  Tôi cũng muốn nói ở đây là cái cưa ở Việt Nam là loại cưa khung với cái khung gỗ có hai tay cầm dài khoảng năm tấc nối liền nhau bởi một thanh gỗ nhỏ dài bằng cái lưởi cưa và được căng bằng một thanh gỗ khác ở giữa.  Cái cưa này rất khó giữ cho thăng bằng nếu chưa quen tay.
Tôi được chuyển ngay sang đội mới thành lập, đó là đội 10 và Uyển vẫn làm đội trưởng đội này.  Ngày đầu tiên đến “nhà lô” của đội, ngay phía sau vòng rào trại, để làm mộc, tôi được phân công để rọc gỗ thành những thanh gỗ khổ 4×10 phân.   Tên cán bộ quản giáo bảo tôi đặt tấm bìa gỗ dày lên trên hai cái ghế ngựa và ngồi thẳng lên đó.  Tôi phải giử lưỡi cưa bằng cả hai tay; tay mặt nắm vào một đầu ngay chỗ lưỡi cưa gắn vào khung còn tay trái thì giữ đầu kia của khung cưa.  Sau đó cả hai tay phải đưa đều lên xuống và mắt thì nhắm thẳng theo đường mực để lái lưỡi cưa cắt theo đó.  Điều này nghe cũng dễ, nhưng khi làm thì rất khó vì đó là lần đầu tiên trong đời tôi phải xẻ gỗ bằng cưa.  Lưỡi cưa cứ đi lượn vòng như con rắn bò chứ không đi theo ý mình muốn, càng lái thì nó càng bị kẹt trong gỗ khiến tôi rất khó nhọc mới đưa lên xuống được.  Chỉ một lúc sau mồ hôi đẫm ướt cả mình mẫy, và hai vai tôi ê ẩm như bị ai đánh.

Tôi ráng giử bình tỉnh và tự nhủ rằng dù sao thì còn hơn là phơi nắng và giẫm bùn suốt ngày ở chỗ làm gạch.  Ở trong trại, tôi không thể tránh không làm việc được, do đó đành phải chấp nhận cái khá nhất trong số những cái xấu!  Sau vài ngày, tôi có thể lái được lưỡi cưa theo ý mình và công việc cũng trở nên dễ dàng hơn một ít.
Thời gian sau đó, đội chúng tôi được phân công làm nhà để gia đình trại viên đến thăm nuôi.  Nhà thăm nuôi này nằm ở ngả rẽ vào phân trại K5, đối diện với chuồng bò.  Tôi lại cũng chẳng biết tí gì về kiến trúc, cho dù làm nhà gạch hay nhà lá.  Nhưng trong đội có vài người ở trại Tây Ninh đã từng làm nhà, họ trở nên những “chuyên viên” hướng dẫn chúng tôi làm việc này.
Công việc đầu tiên của tôi là phải dùng rìu để đẽo cây gỗ thành cột nhà.  Những cây này do các phạm nhân hình sự trong đội lâm sản mang về.  Trước hết tôi phải đẽo vuông cái cây rồi đẽo thành hình bát giác, sau đó dùng cái bào để bào tròn thành cột nhà.  Họ gọi là “chuông tư”, “trầm tám”, rồi “lăng cạnh”!  Để làm những xà nhà thì chỉ cần đẻo thành hình vuông rồi bào sơ cho có hình dáng.
Long và Tranh, những “chuyên viên” trong đội đặt cột và xà nhà trên mặt đất theo hình dạng của sườn nhà rồi vẽ những cái mộng và lỗ mộng cho chúng tôi đục, cưa và ráp lại thành hình.
Chúng tôi phải đào một cái ao phía sau để lấy đất đắp nền nhà.  Sau ba tuần thì sườn nhà được dựng lên, và lúc đó là lúc chúng tôi phải làm mái, làm tường, và những công việc về mộc khác.
Để làm tường bằng đất, chúng tôi phải đục những lỗ vuông nhỏ cạnh 1×3 phân trên cột và xà nhà gọi là “lỗ bua” để nhét những thanh tre vào.  Những thanh tre được nối tiếp nhau và cột dính lại thành hình dạng trông giống như mạng lưới.  Trong lúc đó thì một toán phải đào đất, trộn rơm và nước vào rồi dùng chân trần mà đạp cho thành một chất nhầy nhầy.  Chúng tôi dùng tay để trét thứ đất trộn rơm ấy vào vách để thành vách đất.
Mái nhà thì làm bằng ba lớp tre.  Những cây tre để nguyên cây gọi là “đòn tay” được cột bằng dây lạt song song theo đường ngang từ cây kèo này qua cây kèo khác với khoảng cách khoảng một thước.  Những cây nứa nhỏ được gọi là “rui” được cột vào đòn tay theo chiều dọc cách nhau khoảng năm tấc từ đòn tay trên cùng đến đòn tay cuối.  Cuối cùng là những thanh tre chẻ khoảng ba phân cột vào rui theo chiều song song với đòn tay ở khoảng cách khoảng ba tấc được gọi là “mè”.
Để lợp mái, chúng tôi dùng lá cọ non dài khoảng một thước rưỡi đến hai thước.  Chúng tôi xé hai tép nhỏ ở hai bên lá cọ, gắn nó vào mạng lưới của rui và mè theo chiều ngửa lên.  Sau ba lớp lá, chúng tôi phải cột một thanh tre để giử lá ở vị trí vì vùng này thường hay có bão.  Đỉnh của mái nhà là một hàng các cọc tre đâm xuyên qua và những cái lá cọ móc vào rồi đặt nằm chéo nhau.
Sườn nhà được nối với nhau bằng những mộng đuôi cá hay những cọc tre.  Chỉ có cửa sổ và cửa cái là dùng đinh để đóng mà thôi!  Cái nhà, hay nói đúng hơn là căn lều khoảng 8×10 thước, mà chúng tôi phải bỏ ra hai tháng trường để làm hoàn tất với công sức lao động cực nhọc của bốn mươi người chưa kể những phạm nhân hình sự cung cấp cây và lá.  Nhưng điều mà tôi thu nhận được qua thời gian này là tôi bắt đầu có một ít kinh nghiệm về việc sử dụng cưa, đục, bào và rìu, tất cả sẽ có ích cho tôi trong thời gian sắp tới.
Sau khi hoàn thành “nhà thăm nuôi” cho trại viên, đội chúng tôi, đội 10 được đặt tên là “đội mộc và xây dựng tạm thời” với nhiệm vụ làm và sửa chữa nhà cửa làm bằng cây và tre trong trại và khu cơ quan.  Trong thời gian không có công tác xây dựng thì chúng tôi được làm mộc ở nhà lô.  Một đội khác được thành lập trong lúc đó là đội 2 chuyên làm mộc gia dụng như đóng đồ đạc bằng gỗ, xẻ gỗ cung cấp cho mộc và xây dựng.
Tôi suy nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để tránh các công việc nặng nhọc khác ở trong trại là làm sao học nghề làm mộc để được ở lại đội 10.  Với một ít khéo léo và với khả năng về tính toán, tôi nhanh chóng bắt kịp nghề nghiệp này.  Tôi có thể tính được mọi thứ trong căn nhà và không cần phải sắp cây gỗ xuống đất theo hình dạng cái khung nhà để vẽ mộng.  Tôi chỉ cần cán bộ quản giáo cho biết về kích thước chung của căn nhà là có thể tính toán một cách chính xác bao nhiêu vật liệu để làm.   Sáu tháng sau, tôi trở thành chuyên viên cho đội!  Tôi lợi dụng việc ấy để có thể làm những điều mà tôi muốn làm theo ý mình.
Hàng ngày đến nhà lô, cán bộ quản giáo nói với đội trưởng Uyển về công việc phải làm, và rồi Uyển hỏi tôi cần bao nhiêu trại viên để làm công việc ấy.  Tôi thường yêu cầu số người nhiều hơn là nhu cầu để mọi người đều được thoải mái hơn trong công việc.  Khi làm nhà, tôi thường bảo những phạm nhân hình sự trong đội lâm sản chất những thứ cần thiết theo từng loại để chúng tôi khỏi phải di chuyển quá nhiều, điều đó có thể làm chúng tôi rất mệt nhất là với tình trạng thiếu dinh dưỡng ở trong trại.  Mọi điều mà tôi tính toán đều với mục đích là làm thế nào để tránh cho chúng tôi mất sức.  Chúng tôi phải tránh sự tiêu hao năng lượng cho chúng tôi trong hoàn cảnh này để còn có thể sống sót!
Luôn luôn có những điều ngộ nghĩnh xảy ra trong mọi tình huống, ngay cả trong những tình cảnh bi đát nhất.  Ở trại Tân Lập thì hầu hết nhà cửa là nhà “tạm thời”, nghĩa là nhà làm bằng tre, gỗ và lá cọ.  Chúng tôi có rất nhiều việc phải làm, và đôi lúc chính điều này đã tạo nên một cảnh ngộ trái ngược.  Các cán bộ và gia đình của họ cần nhà để ở, cần chòi để nuôi heo gà vân vân, và chúng tôi lại là những người làm ra những thứ mà họ cần.  Nhà tốt hay xấu là tùy thuộc vào chúng tôi!  Còn chúng tôi thì cần cái gì?  Tất nhiên điều mà tù cải tạo nào cũng cần là thức ăn và công việc làm nhẹ nhàng!   Tôi không bao giờ quên cơ hội để đòi hỏi những thứ cần thiết cho cuộc sống của chúng tôi như gà, thịt, trứng, khoai mì, và ngay cả rau.  Họ khó có thể từ chối những điều yêu cầu ấy vì họ luôn muốn chúng tôi làm việc tốt cho họ.   “Chúng tôi luôn muốn làm tốt mọi việc và làm nhanh cho các ông, nhưng như các ông thấy, chúng tôi không đủ sức.  Nếu các ông có món gì đó để bồi dưỡng cho chúng tôi, món gì cũng được, tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm việc tốt hơn”.  Đó là câu nói đầu môi của tôi mỗi lần tôi muốn hỏi xin thức ăn cho chúng tôi khi làm việc cho họ.
Có một lần chúng tôi làm một căn nhà bảy gian cho khu gia đình cơ quan, khi đặt cây đòn tay ở nóc nhà, tôi thấy vài người mang đồ đến cúng rồi tặng cho chúng tôi đồ cúng ấy.  Tôi hỏi xem họ làm gì vậy thì họ cho biết cây đòn tay là một vật quan trọng nhất trong cái nhà, và theo sự tin tưởng của họ, họ yêu cầu chúng tôi trân trọng khi đặt đòn tay cho căn nhà để họ có may mắn khi sống trong nhà ấy.  Chúng tôi thì chẳng cần điều gì ngoài phẩm vật của họ!  Kể từ đó, chúng tôi đã biết được rằng cho dù là Cộng Sản, họ cũng rất mê tín.
Một lần khác khi làm cửa nhà cho họ, chúng tôi làm cửa trước và cửa sau thẳng đường từ trước ra sau.  Họ đến yêu cầu tôi cho làm chéo qua một chút.  Tôi biết đó cũng là một điều mê tín, do đó tôi bảo với họ rằng đó là ý kiến của “ban kế hoạch trại”.  Một lát sau họ mang đến cho chúng tôi một bao bo bo và bảo tôi làm dùm họ điều mà họ muốn.  Chúng tôi chia nhau phần bo bo rồi vừa sửa lại mà vừa cười với nhau!
Sự thiếu ăn và cái đói là điểm chính yếu trong trại cải tạo.  Đội chúng tôi dù được làm những việc tương đối nhẹ nhàng hơn vài đội khác nhưng lại không có được những “bồi dưỡng” như những đội nông nghiệp, do đó tôi đã phải yêu cầu cán bộ quản giáo cho trồng cái gì đó để trại viên trong đội có thêm phần ăn.  Ông ta cho phép Niệt, một trại viên trong đội làm việc ấy.  Sau vài tháng, Niệt thay luôn người phạm nhân hình sự và trở thành trại viên “diện rộng” làm riêng cho cán bộ quản giáo.  Niệt trồng cho đội giàn bầu và vài luống rau, ngoài ra anh ta còn có nhiệm vụ đi kiếm thêm thức ăn cho cán bộ quản giáo.  Đôi lúc anh ta mang vào phòng cho riêng tôi một ít thức ăn mà anh ấy kiếm được.  Trong cái địa ngục như trại Tân Lập, không có gì quan trọng hơn thức ăn, mọi loại thức ăn, bởi vì mọi người đều đói!
Đầu năm 1978, Uyển chuyển qua làm trong ban “Thi Đua”.  Ban Giám Thị đưa Yêm từ K1 qua làm đội trưởng đội 10.  Yêm chưa biết gì về mộc và xây dựng, nhưng vì là đội trưởng anh ta muốn nắm lấy trách nhiệm.  Anh ta đưa tôi vào làm mộc ở nhà lô thay vì làm công việc xây dựng.  Đó là thời gian mà tôi có dịp để học đóng đồ gia dụng.  Công việc này tương đối nhẹ hơn làm xây dựng, nhưng phải ở tại nhà lô và không có thêm được thức ăn “bồi dưỡng”.  Điều này rất quan trọng cho chúng tôi.
Trong trại, chúng tôi thường làm giường, tủ chạn, bàn ghế cho cán bộ và gia đình.  Đôi khi họ còn bảo tôi làm dùm “hòm” (rương đựng quần áo làm bằng gỗ).  Việc này thường là công việc làm riêng tư, không có trong kế hoạch của trại, do đó tôi lại có cơ hội để yêu cầu họ cung cấp cho tôi món này món nọ.
Sau vài tuần lễ, Yêm không thể nào làm được việc của đội, đặc biệt là khi làm căn nhà khá lớn, do đó cán bộ quản giáo và cán bộ kế hoạch của trại bảo tôi phải trở lại làm việc như là chuyên viên về xây dựng cho đội.  Tôi làm công việc này vì tôi biết họ cần tôi trong công tác xây dựng, và đó cũng là cơ hội để tôi có thể tránh được công việc nặng nề và có cơ hội giúp các trại viên khác trong đội.
Cũng vì điều này đã khiến có lần tôi suýt bị nguy hiểm khi ban giám thị trại có ý định chơi trò chơi dân chủ trong trại bằng cách cho phép trại viên bầu ban thi đua và các đội trưởng.  Tôi đã cảm thấy đó là một chiến thuật của VC để loại trừ những trại viên nào được các trại viên khác có cảm tình.
Trong đội tôi, dưới sự chủ trì của cán bộ quản giáo, các trại viên đã đề cử đội trưởng Yêm, đội phó Sinh, và tôi ra để được bầu vào chức vụ đội trưởng.  Sau cuộc bầu cử, tôi lại là người được một trăm phần trăm phiếu bầu của các trại viên trong đội.  Một buổi họp của Ban Giám Thị với Bích, một phạm nhân hình sự làm trưởng ban thi đua, đã đi đến kết luận là phải chuyển tất cả những người đã được các trại viên tín nhiệm đi đến phân trại khác, trong đó có tên tôi.  Uyển, Yêm và vài người nữa được chuyển đi K1, nhưng họ giữ tôi lại vì lý do không có người thay thế để làm công việc xây dựng.   Tôi ở lại đội 10 với nhiệm vụ củ là “chuyên viên về xây dựng”, và họ đưa Tống từ K1 sang làm đội trưởng đội 10.
Các trại viên đến đội 10 và đi khỏi đội, các trại viên được chuyển đến trại Tân Lập và rồi được thả ra khỏi trại; nhiều cán bộ quản giáo đến phụ trách đội 10 và chuyển đi đội khác.   Tôi vẫn cứ ở đội ấy hầu hết thời gian từ đầu cho đến khi rời trại Tân Lập để đi về miền Nam.  Long, Tranh, Tánh, và những trại viên trong nhóm 410 người trên chiếc tàu “Sông Hương” đã được thả ra khỏi trại từ đội 10.  Vui, Nam, Giới, Tứ, và những trại viên khác được chuyển đến trại Tân Lập từ Lào Kai, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn vân vân là những trại viên cuối cùng của đội 10.  Nhưng chỉ có tôi là ở đội ấy từ đầu đến cuối.
Cũng không phải tất cả mọi việc đều trôi chảy!   Mặc dù chúng tôi thường làm trong nhà lô, “nắng không tới mặt, mưa chẳng tới đầu”, nhưng rồi cũng luôn luôn có những việc ngoại lệ.  Trong mùa giông bão, và miền Bắc Việt Nam thì thường có giông bão, chúng tôi phải đi sửa mái nhà trong trại và khu cơ quan trong khi các đội khác thì được nghỉ.  Mái nhà làm bằng lá cọ rất dể bị tung bay trong gió bão nên chúng tôi không bao giờ được nghỉ ngơi trong mùa này!
Thêm vào đó, chúng tôi làm việc nguy hiểm mà không có trang bị an toàn nào cả.  Làm việc trên mái nhà, đặc biệt là vào mùa đông khi có mưa phùn và gió bấc, những sợi lạt tre rất bén dễ cắt đứt tay.  Tôi đã té xuống đất một lần từ mái khi cột dây lạt và dây bị đứt làm mất thăng bằng.  May mắn là tôi rơi trúng đống lá cọ nên chỉ mất một cái răng chứ không bị thương nặng.   Nếu không có đống lá thì không biết tôi sẽ ra sao?
Một lần khác, ba trại viên trong đội cùng tôi phải đi cắt một cây sung ở bờ suối A-Mai về làm cột nhà.  Hôm ấy trời mưa nhỏ chứ chưa phải là mưa to.  Sung là một loại cây có nhiều nhựa rất khó cưa ngang bằng cái cưa cá mập.  Cây lại nằm ở bờ suối ngay chỗ giáp với mặt nước.  Chúng tôi không thể đứng dưới nước để cưa nên chúng tôi phải đóng cái ghế ngựa vào thân cây và ngồi trên ghế để cưa cây.  Mực nước càng lúc càng dâng lên cao.   Có lẽ là đang mưa to ở trên nguồn.  Lúc đầu thì cây sung nằm gần bờ nhưng lần lần thấy bờ càng xa ra.  Khi đã cắt xong thì chúng tôi không còn làm cách nào khác hơn là bám vào thân cây để nó trôi theo dòng nước đang chảy xiết.  Một lần may mắn nữa là cây sung lại trôi tấp vào bờ; chúng tôi lôi nó lên bờ và đi về nhà lô với quần áo ướt và lạnh.
Năm năm ở trại Tân Lập quả là quá dài để quen dần với mọi thứ.  Kể từ lúc bắt đầu chưa biết làm mộc là gì cho đến lúc có thể làm được hết mọi việc và thành một thứ chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng trong trại, tôi đã phải vượt qua biết bao nhiêu là khó khăn!  Cán bộ và ban giám thị lần lần biết tôi.  Đầu năm 1981, nhà lô đội 10 chuyển qua địa điểm mới, ở gần bộ chỉ huy trại và nằm cạnh vườn cam.   Tôi có thể đi ra nhà lô một mình mà không cần phải có cán bộ đi theo trông chừng.  Đôi khi ban giám thị trại còn cho phép tôi được đi một mình ra nhà dân để quan sát lấy ý về để làm nhà cho cơ quan.  Tôi nghĩ tôi có thể nhân đó mà trốn trại được và họ chỉ có thể phát hiện khi điểm buồng vào buổi tối mà thôi.  Nhưng như tôi đã nói từ trước, trại Tân Lập bao quanh bởi núi rừng và thật sự tôi không biết đi đâu khi trốn ra khỏi trại!  Cũng đã có vài cuộc trốn trại nhưng chưa một ai đi được xa vì tất cả đều bị những người dân miền núi trong vùng bắt nộp về trại để nhận phần thưởng là một ít gạo và thực phẩm.  Mọi cuộc trốn trại bị thất bại đều dẫn đến cái chết bằng cách này hay cách khác sau khi bị biệt giam một thời gian dài.
Một mẫu chuyện tình trong đời cải tạo:  Khi nhà lô mới của đội 10 dời về khu vườn cam, nó cũng nằm gần nhà giữ trẻ cho gia đình cán bộ.  Cô giáo nhà trẻ tên là Lan thường đến nhà lô để nhờ tôi làm dùm thước kẻ.  Lúc đầu tôi không chú ý gì đến cô ta vì cô ta là “cán bộ”.  Nhưng lâu dần điều ấy trở thành thường xuyên, và cô ta chỉ nhờ tôi làm dùm công việc này trong khi có nhiều trại viên khác làm trong nhà lô.  Mỗi lần có dịp đến để sửa chữa trong nhà trẻ, học sinh của cô ta lại cho tôi biết rằng cô giáo đang “trang điểm” trước khi ra gặp tôi!  Vài người bạn trong đội và ngay cán bộ quản giáo cũng biết điều này, nhưng họ chỉ cười với tôi mỗi khi thấy cô ấy đi tới nhà lô.   Lan không đẹp nhưng có nụ cười hấp dẩn và thân hình cân đối, có lẽ vì cô ấy lao động từ bé.  Sự quan hệ của chúng tôi dần dần trở nên gần hơn cho đến khi tôi chuyển về miền Nam đầu năm 1982.  Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không chuyển khỏi trại Tân Lập?
Không chỉ mình tôi mà một số trại viên khác cũng bắt đầu có những sự quan hệ với các cán bộ nữ.  Bên cạnh đó thì sự quan hệ giữa trại viên, nhất là những người trong đội lâm sản với dân quanh vùng càng lúc càng nhiều hơn. Thật là một tình trạng đảo ngược! Tôi có thể nói rằng “chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một”, nhưng mà quan điểm của con người thì đã bắt đầu thay đổi!




Chương 28. Dưới Hai Tầng Áp Bức

Trại Tân Lập không phải là một trại mới xây như tên gọi của nó.  Tân Lập là một mẫu mực của một trại cải tạo của Việt Cộng bởi vì nó đã được thành lập từ thời 1954 sau khi Cộng Sản thôn tính miền Bắc Việt Nam.  Nó đã từng là trại giam giữ các nhân viên của thời Pháp.  Trong phong trào “Nhân Văn Giai Phẩm” 1955 ở miền Bắc, nó lại được dùng để tập trung các văn thi sĩ có những tư tưởng chống Cộng.  Tân Lập cũng đã từng là nơi để nhốt những địa chủ trong giai đoạn “Cải Cách Ruộng Đất” ở miền Bắc sau 1954.  Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, các tù binh Mỹ cũng đã bị giam ở đó.  Trước khi chúng tôi đến trại thì Tân Lập đã là trại cải tạo các thiếu nhi phạm pháp và các trẻ bụi đời.  Với một lịch sử như vậy, Tân Lập là một trại cải tạo tổ chức rất hoàn hảo.
Cơ cấu tổ chức nhân sự của trại Tân Lập gồm hai thành phần: Các đơn vị Công An VC quản lý trại và các trại viên.
Các sĩ quan công an VC được chia làm hai bộ phận, “Ban Giám Thị” và “Hội Đồng Cán Bộ”. Ban Giám Thị hay Ban Chỉ Huy trại gồm những Công An trông coi các việc điều hành chung trong trại như Trưởng trại, các trại phó đặc trách mỗi K, các trại phó trông coi các ban ngành như kế hoạch, giáo dục, chấp pháp, và an ninh.  Hội đồng cán bộ bao gồm hai bộ phận chính, đó là các cán bộ quản giáo trông coi trại viên trong mỗi đội và các cán bộ vũ trang hay cán bộ “bảo vệ” có nhiệm vụ canh gác trại và quan sát trại viên lao động bên ngoài trại.
Trại viên trong trại được chia thành từng đội và tổ.  Mỗi đội gồm khoảng từ ba mươi đến bốn mươi trại viên với một trại viên được sự tín nhiệm của ban giám thị hay cán bộ quản giáo làm đội trưởng.  Đội được chia thành ba hay bốn tổ tùy theo công việc của từng đội.  Mỗi tổ có khoảng mười trại viên và có một tổ trưởng trông coi công việc lao động do đội trưởng hay cán bộ quản giáo giao phó cho tổ ấy.
Một tổ chức đặc biệt của trại Tân Lập là cái gọi là “Ban Thi Đua” gồm có “Thường Trực Thi Đua” và “Hội Đồng Tự Quản” bao gồm các đội trưởng.  Đó là những cái tai và mắt của Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ.
Khi chúng tôi vừa đến trại Tân Lập thì cái gọi là “Thường Trực Thi Đua” nằm trong tay của các tội nhân hình sự, với Bích, một tên “mắt lé răng hô”, và Khôi nắm giữ mọi sinh hoạt trong trại.  Chúng rất có thế lực!  Có lần tôi được gọi lên văn phòng của chúng để kẻ khẩu hiệu, tôi thấy có một cán bộ kế hoạch của trại vào để hỏi vài trại viên đi theo làm công việc gì đó.  Bích đang nằm để một phạm nhân xoa bóp trong phòng riêng phía bên trong văn phòng của thường trực thi đua; hắn ta la lớn lên rằng “bảo ông ta đợi tôi, tôi đang bận!”  Tôi không hiểu hắn ta là loại tù gì?  Nếu là trại viên thì chắc đã bị phạt nặng lắm rồi!
Còn Khôi thì hàng mỗi buổi sáng ngồi ở bệnh xá để cho phép trại viên được nghỉ bệnh trong trại hay không.  Các trại viên nào muốn khỏi đi lao động thì phải có cái gì đó đút lót cho hắn!
Trong khi trại viên chỉ có một chén nhỏ bo bo thì chúng có đầy dẫy thức ăn; trong khi trại viên bị nhốt trong phòng giam thì chúng có riêng phòng ngủ và có riêng những người phục dịch để giặt giũ và ủi áo quần!  Chúng dường như là những ông vua ở trong trại.  Không ai biết về tội trạng của chúng và án tù mà chúng bị xử.  Tôi nghe vài phạm nhân hình sự bảo rằng Bích đã từng là một cán bộ kinh tài làm trong bộ tài chánh ở Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt.  Hắn ta ăn cắp tiền của bộ và bị xử hai mươi năm.  Khôi thì là một sĩ quan ở địa phương có tội giết vợ nên bị tù chung thân. Ban Giám Thị trại rất tin tưởng bọn chúng nên trao cho bọn chúng hết mọi quyền hành trong trại.
Vào năm 1978, vài trại viên trong nhóm “Chế độ cũ của miền Nam” gia nhập vào “Thường Trực Thi Đua”.  Khôi được dời đi K1, nhưng Bích thì vẫn là trưởng ban thi đua cho đến khi được tha ra khỏi trại vào năm 1981.
Tôi không muốn phê bình hay kết án các hành động của Ban Thi Đua trong nhóm của các trại viên đến từ miền Nam.  Tôi chỉ muốn kể lại ở đây những gì đã xảy ra ở trại Tân Lập.  Đối với những ai đã ở trại Tân Lập thì tôi nghĩ họ đã biết quá nhiều về các Thường Trực Thi Đua này.  Còn đối với những người khác thì tôi nghĩ chắc là khó có thể tin được những việc làm của họ là sự thật.  Đôi khi chính tôi còn phải tự hỏi rằng những người ấy là công an của VC hay là tù cải tạo?
Uyển, Bình, Tú, Diêu vân vân là những “thường trực thi đua” được điều khiển bởi Bích và hành động cũng giống như Bích.  Trại viên trong trại bị áp bức bởi hai bộ phận: Các Cán Bộ và các Thi Đua.  Điều nguy hiểm của Cộng Sản là chúng dùng thủ đoạn “ném đá dấu tay”, dùng Thi Đua như một công cụ của chúng để điều hành trại.  Các cán bộ thì luôn miệng nói rằng “đường lối và chính sách của Đảng và Nhà Nước” là không đánh đập hay hành hạ trại viên để trả thù, và nếu có những hành động xấu nào đó xảy ra thì đó là hành động của từng cá nhân chứ không phải là chính sách của Đảng và Nhà Nước.  Những điều mà các Thi Đua làm đó là do ý của họ chứ không phải là do Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ!
Nhiều trại viên đã không thù hận các VC mà lại thù hận những thi đua, và họ đã quên rằng chính các thi đua là những người thi hành những chỉ thị của Ban Giám Thị trại.
Các Thường Trực Thi Đua đứng bên ngoài phòng giam để quan sát, nghe lén, và phê bình các buổi họp của trại viên.
Các Thường Trực Thi Đua tổ chức riêng cho mình những hệ thống ăn-ten gồm những trại viên làm tai mắt cho chúng.
Các Thường Trực Thi Đua gọi những trại viên vi phạm nội quy của trại lên văn phòng và đánh đập các trại viên ấy.
Các Thường Trực Thi Đua bắt buộc các trại viên bị bệnh phải đi lao động.
Rất nhiều hành động của Thường Trực Thi Đua đã tạo nên những căm thù trong trại viên.
Cái chiến thuật này của Cộng Sản đã rất thành công trong trại cải tạo, đặc biệt là ở trại Tân Lập.  Trại viên sợ hãi các thường trực thi đua như Bích, Uyển, Bình, Tú, Diêu, vân vân, hơn cả những cán bộ trong ban giám thị như Thùy, Bảng, hay Trung.




Chương 29. Quay Đầu Về Núi!

Mùa Đông năm 1977, đó là mùa Đông đầu tiên mà chúng tôi phải chịu ở miền Bắc Việt Nam.  Thời tiết rất lạnh, nhất là đối với chúng tôi, những trại viên bị ốm đói, không đủ quần áo che thân, và ngủ không có chăn mền trong những phòng giam mà cửa sổ luôn luôn được mở rộng để dễ kiểm tra bên trong.  Mưa phùn và gió bấc là những điều mà trước kia chúng tôi chỉ được đọc trong các tiểu thuyết viết về sự đau khổ của những người nghèo ở miền Bắc.  Giờ đây chúng tôi phải sống với những thứ đó trong một tình trạng còn tồi tệ hơn cả những người nghèo, trong cái địa ngục của thế gian!
Lưu Đình Việp, nguyên chánh nhất của tòa thượng thẩm Sài Gòn đã bị bệnh tiểu đường.  Ông ta làm trong đội “rau xanh”.  Một hôm nọ ông ta bị con đỉa cắn vào chân; máu không cầm được mà lại không thể ở trong trại để nghỉ ngơi.  Hàng ngày ông phải gánh những gánh gọi là “phân tươi” để tưới rau.  Phân tươi còn gọi là “phân bắc” là phân lấy từ nhà cầu của trại viên trộn với nước suối.  Vết thương của ông ta bị làm độc và không có thuốc men gì nên ông bị chết sau vài tuần lễ!  Ông ta là người trại viên đầu tiên chết ở trại cải tạo Tân Lập.
Sau đó thì trại viên thay phiên nhau chết từng người một.  Vài trại viên đã ngã ra chết khi đang hút thuốc lào; tay của họ còn nắm cái điếu.  Vài người chết trong lúc lao động.  Có người thì chết trong lúc đang ngủ.
Lúc ấy tôi đang làm trong đội 10, đội “mộc”.  Tôi phải đóng quan tài gần như hàng ngày, và những tội nhân hình sự trong “đội lâm sản” thì mang người chết đi chôn.
Hôm ấy là một đêm mùa Đông vào tháng chạp năm 1977.  Chúng tôi đang ngồi họp sau bửa ăn chiều trong phòng giam khi đã bị nhốt vào phòng thì nghe tiếng lanh canh mở khóa phòng giam làm gián đoạn buổi họp của chúng tôi.  Cán bộ quản giáo của đội 10 vào và bảo Uyển, đội trưởng đội 10 cho năm  người đi với ông ta.  Lúc đó vào khoảng chín giờ tối.  Hôm ấy là phiên trực của tôi do đó tôi đi cùng bốn trại viên khác trong đội để đến nhà lô của đội đóng một cái quan tài chôn một trại viên vừa chết cách đó khoảng một tiếng đồng hồ.  Điều này rất là bất thường vì chúng tôi vẫn thường làm việc này trong giờ lao động mà thôi.
Đóng một cái quan tài!  Nói thì dễ hơn làm vì chúng tôi không có sẵn gỗ ván theo kích thước.  Chúng tôi phải cưa gỗ bằng cưa tay để có được theo đúng kích thước, phải bào cho nhẵn và rồi lại phải rong cạnh cho thẳng để có thể ghép vào nhau được.  Tiếp theo đó thì chúng tôi đóng thành một cái quan tài hình hộp vuông dài hai thước với các cạnh năm và sáu tấc có sẵn cái nắp để đóng đinh vào.  Chiếc quan tài làm xong vào khoảng nửa đêm; chúng tôi khiêng nó vào bệnh xá để đặt tử thi và đồ đạc của anh ta vào đó.
Với hai sợi dây cột vào hai đầu của quan tài, chúng tôi luồn một thanh đòn tre ngang qua cho dễ khiêng bằng vai.  Một người trong chúng tôi bưng một cái mâm gồm một chén cơm, vài trái chuối, vài cây nhang, và hai cây đèn cầy.  Một người khác thì cầm cây đuốc để soi đường vì lúc ấy trời rất tối.  Một người nữa thì cầm mấy cái xẻng, và hai người còn lại thì khiêng quan tài.  Cán bộ quản giáo đi phía trước còn hai cán bộ vũ trang thì đi phía sau, chúng tôi đi trên một con đường đất sét dốc ngược về phía K4 của trại.  Cái nghĩa trang để chôn trại viên bị chết nằm trên đỉnh của một ngọn đồi trước dùng để trồng cây trà, nằm cách K5 khoảng mười cây số.
Dưới ánh đuốc lung linh, những ngôi mộ đất nhỏ nằm không theo thứ tự trông giống như những luống cày dở dang.  Bạn bè của chúng tôi đang nằm đó!  Nhưng ít ra thì thân xác và linh hồn của họ không còn bị hành hạ nữa, và gia đình họ cũng không còn phải chờ đợi họ một cách vô vọng nữa!
Thọ, một trại viên trong đội văn nghệ đã viết một bài ca có tựa đề là “Quay đầu về núi”.
“Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải đợi phải mong.  Và rồi một ngày mai anh chết đi, thân xác anh quay đầu về núi, trong mộ phần không chút khói hương…. Xin em trồng giữa mộ anh một loài hoa nhỏ dại không tên.”
Cái huyệt hố đã được các phạm nhân hình sự đào sẵn.  Chúng tôi đặt quan tài gần bên cạnh hố, đốt mấy cây nhang và hai cây đèn cầy, đặt cơm, muối, và mấy trái chuối lên mâm.  Tôi khấn thầm cho anh ta được bình an nơi thiên đàng, và rồi chúng tôi thòng quan tài xuống dưới huyệt, lấp đất lại và trở về trại.
Trời đã bắt đầu hừng đông; chúng tôi được phát mỗi người một chén cơm và ít muối để bồi dưỡng cho việc làm này và được cho phép nghỉ trong trại hôm ấy, không phải đi lao động.  Đó là lần đầu tiên tôi đi chôn một người bạn tù, tôi không nhớ được tên anh ta.  Nhưng đó không phải là lần cuối cùng vì sau đó chúng tôi phải thay phiên nhau đi hầu như hàng đêm!
Đầu tiên, chúng tôi đóng quan tài khi có người chết; sau đó chúng tôi đóng sẵn để chờ người chết.  Trại viên chết quá nhiều, chết vì đói, vì bệnh không có thuốc, vì kiệt sức.  Chúng tôi không còn gỗ để đóng quan tài nữa, do đó chúng tôi phải dùng một cái quan tài cho nhiều người chết.  Chúng tôi đặt người chết và đồ đạc của họ quấn trong chiếc chiếu vào trong quan tài, mang đến mộ phần của họ, chôn tất cả xuống mộ và mang chiếc quan tài trống trở về cho người chết khác!
Đỉnh đồi sau đó đã đầy, chúng tôi phải dời qua một đỉnh đồi khác để lập một nghĩa trang mới.  Trại Tân Lập nằm trong một thung lũng bao quanh bởi núi, do đó tất cả các người chết đều được quay đầu về núi cho dù có chôn họ theo hướng nào đi nữa!

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire