LTS:
Thật thú vị, tác giả bài viết được sinh ra qua cuôc di cư vĩ đại này,
và tôi là một nhân chứng sống trong số những người đã nhờ các con tàu
“há mồm” để được đến bến bờ tự do, đã 60 năm, một chu kỳ, tôi chưa hề
trở lại nơi “chôn nhau cắt rốn”.
Cám
ơn tác giả, anh Đỗ Như Quyên đã có công lục tìm tài liệu để viết bài
này thật đầy đủ, đóng góp vào Sử Liệu một biến cố cận đại của đất nước.
Một
biến cố trong lịch sử cận đại, năm 1954, cả triệu người miền Bắc đã di
cư vào miền Nam để được sống Tự Do, hiệp định Geneve qui định trong vòng
300 ngày, người dân VN được toàn quyền lựa chọn nơi sinh sống, nhưng
thực tế, rất nhiều người di cư phải lẩn trốn, vì bọn CS đã chiếm rất
nhiều vùng tại miền Bắc, bổn báo Chủ Nhiệm lúc đó 9 tuổi, đã được người
anh cả đem đi vào ngày mùng 3 Tết năm đó, trốn tránh các trạm kiểm soát
của VC, ra được Hà Nội, lên xe hoả để xuống cảng Hải Phòng, nhưng ga
Phạn Xá, cách Hà Nộ chừng hơn trăm cây số, đã bị bọn Vẹm chiếm giữ, đến
đây, tất cả phải xuống xe lửa, để chúng tuyên truyền, phải lẩn trốn lúc
trời tối đen để qua phiá bên kia lên tàu đi tiếp, bất hạnh cho người nào
bị chúng bắt lại, thì coi như chết, chúng thủ tiêu không cho về lại
làng cũ.
Hết
thời hạn 300 ngày, không còn những con tàu «há mồm», thì chỉ còn cách
tìm đường trốn đi, có những trường hợp, người lái xe chạy qua cầu Hiền
Lương, băng qua vĩ tuyến 17, được chính quyền miền Nam đón nhận và giúp
đỡ. Riêng trường hợp của chị Tô Bạch Tuyết, người Hà Nội đã vượt tuyến
qua rừng, sang bên Lào, và đã được đón về Saigon (tác phẩm: NỮ SINH VIÊN HÀ NỘI - VƯỢT TUYẾN QUA RỪNG – 1958), đọc để biết tại sao người ta không bao giờ muốn sống dưới sự cai trị của bọn cộng sản khát máu, dã man…
Lịch
sử phải ghi ơn Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM, chỉ sau một thời gian ngắn, cả
triệu người bỏ hết của cải để chạy vào miền Nam, đã được chính quyên
phôi thai của TT/NĐD ổn định cuộc sống…
Bổn báo Chủ Nhiệm LÝ TRUNG TÍN là một nhân chứng sống trong giai đoạn lịch sử cận đại này.
Toà soạn chia ra 2 kỳ để các Diễn Đàn Internet đăng được đầy đủ, qúy vị nào cần trọn bài, xin liên lạc với Tạp Chí Dân Văn (tapchidanvan.80@gmail.com), chúng tôi sẽ gởi đến qúy vị.
Germany, 20 tháng 7 năm 2014
- Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
------------------------------ ------------------------------
"CHIẾN DỊCH VƯỢT ĐẾN TỰ DO" - 1954
("OPERATION PASSAGE TO FREEDOM" - 1954)
"Bài viết này để kính tưởng niệm hàng triệu đồng bào đã chết vì cộng sản.
Cũng để ghi nhớ và tỏ lòng biết ơn với những người đã mang tâm sức
cuả mình, giúp đỡ người dân Việt Nam vượt thoát cộng sản trong cuộc
di cư 1954 - 1955"
xxxxxxxxxxxOxxxxxxxxxxx
Nguyên Nhân Có Cuộc Di Cư 1954.
Suốt
60 năm qua, hầu như ai trong chúng ta cũng tin rằng: .. "Sở dĩ có cuộc
di cư năm 1954 là vì đất nước bị chia hai bởi Hiệp Định Đình Chiến
Geneva, một cách gián tiếp hơn, vì Pháp "thua" cộng sản Việt Minh tại
chiến trường Điện Biên Phủ, sau đó họ bỏ cuộc, bỏ luôn sự thống trị bằng
cái ách thực dân gần một trăm năm ở một nơi luôn chống lại họ". Đại
khái là như vậy, chúng ta ai cũng nghĩ như thế.
Thật
ra điều đó chỉ đúng một phần nhỏ. Phần lớn sự thật là do chính phủ Mỹ,
họ muốn Pháp phải tránh ra. Họ cần có một vùng địa lý như Việt Nam chia
làm hai phần họ mới có thể đặt chân đến một nửa cuả vùng lãnh thổ này.
Họ đã từng muốn và được làm thêm nhiều chuyện tiếp sau đó, tới năm 1975
thì họ chẳng muốn nữa.
Không
phải đợi đến ngày 21/ 7/ 1954 vấn đề di chuyển người di cư mới được nói
tới trong bản hiệp định, phiá Mỹ đã tính tới chuyện này từ lâu, trước
khi có trận Điện Biên Phủ, trước lúc có hội họp tại Geneva Thụy Sĩ thì
Mỹ đã sắp đặt nước cờ cuả họ rồi.
Trong
một cuộc họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia ở thủ đô Liên Bang Mỹ cuối tháng
1/ 1954, có sự hiện diện cuả Tổng Thống Dwight D. Eisenhower; Chủ Tịch
Tham Mưu Liên Quân Đô Đốc Arthur W. Radford, vấn đề di tản người miền
Bắc vào miền Nam - Việt Nam đã được vị đô đốc nêu trên nói tới. Đô Đốc
Arthur W. Radford là người mà từ thời còn là Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình
Dương trước đó vài năm, đã từng bàn chuyện di tản người Việt miền Bắc vô
Nam với Đại Tướng Jean J. M. G. de Lattre de Tassigny, Tư Lịnh Lực
Lượng Viễn Chinh kiêm Cao Ủy Toàn Quyền cuả "Tây" ở vùng Đông Dương
thuộc Pháp (sẽ được ghi tắt là vùng Đông Pháp, nơi có ba nước Cam
Bốt; Lào; Việt Nam bị Pháp chiếm, không phải toàn Đông Dương nơi có tới 6
nước (Miến Điện; Thái Lan; Mã Lai Á) như nhiều người Mỹ cũng như
Việt đã ghi lầm, xin đọc thêm nơi bài Đông Dương và Đông Pháp cuả Đỗ
Tấn Thọ trên trang nhà BĐQ). Sau khi nghe ông đô đốc Mỹ nói về chuyện di
tản người Việt từ Bắc vô Nam, ông tướng Pháp trả lời tóm tắt rằng: ..
"cho dù trước khi một hoạt động (di tản) nào được hoàn tất, đoàn người
cuối cùng chờ di tản sẽ bị (Việt Minh) tàn sát"... Tuy vậy, sau cuộc gặp
gỡ cuả hai vị tướng nêu trên, phía Mỹ vẫn phác họa một kế hoạch di tản
người ờ miền Bắc Việt Nam (tới đầu năm 1952 mới soạn xong). Trong phần
phân tích và ước tính chung cuả bản kế hoạch cho thấy: cuộc di tản sẽ là
một chiến dịch quy mô về Thuỷ - Bộ để chuyển vận hơn 80.000 lính Pháp;
40.000 lính quân đội quốc gia và 10.000 người dân. Ngày 7/ 5/ 1954, khi
nghe tin Điện Biên Phủ thất thủ nhưng quân đội Pháp vẫn bảo vệ vững vàng
vùng châu thổ sông Hồng, kế hoạch nói trên trở thành cuộc thảo luận sôi
nổi ngay tại buổi họp giữa bộ Tham Mưu Liên Quân và Bộ Quốc Phòng (họp
trong ngày 7/ 5).
Trong
tháng 2/ 1954, Quốc Trưởng Bảo Đại tiếp một đại diện cao cấp cuả Tổng
Thống Dwight D. Eisenhower tại Pháp. Trong buổi tìếp kiến này, quốc
trưởng Quốc Gia Việt Nam đã nói như sau: "nếu chuyển được 4 triệu người
dân đến các tỉnh miền Trung và Cao Nguyên (Nam) Trung Phần, lực lượng
quân sự sẽ được nhẹ tay hơn để đối phó với cộng sản ở miền Bắc" ...
Quốc Trưởng Bảo Đại sau đó còn bàn chuyện này với Đại Sứ Mỹ Donald
Heath, nhưng phiá Mỹ vẫn im lặng. Ngày 28/ 6/ 1954, sau hai ngày về đến
Sài Gòn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tiếp ông Robert McClintock, Xử Lý
Thường Vụ Toà Đại Sứ Mỹ, (ông Donald Heath đang về Mỹ), vị thủ tướng
Việt Nam cũng đem chuyện này ra thảo luận và còn tin rằng: ... "việc di
tản người là cần thiết, dân chúng sẽ thoát được các hiểm họa từ cộng
sản"..., nhưng phiá Mỹ vẫn giữ im lặng. Ngày 28/ 7/ 1954, chính phủ Quốc
Gia Việt Nam chính thức yêu cầu Mỹ giúp cho 2.000 căn lều vải dành cho
người tỵ nạn, Mỹ vẫn làm thinh (tới ngày 5/ 8/ 1954, Thủ Tướng Ngô Đình
Diệm chính thức nhân danh cá nhân gởi thơ yêu cầu Mỹ giúp chuyển vận
người di cư, lúc này Mỹ mới hành động).
Cuối
tháng 6/ 1954, ( chưa tới ngày 21/ 7 bà con ạ), các hồ sơ về vấn đề di
tản người tỵ nạn cộng sản ở Việt Nam được thẩm định lại bởi Cục Tình Báo
Trung Ương - CIA. Nơi này "xét" xong còn thêm vô: .."chưa tính phương
tiện đưa người ra đi, chỉ riêng phần quân cụ cuả Pháp và Việt Nam ở Hà
Nội phải cần tới 600 chuyến bay mới chở hết. Nhân viên quân sự Việt -
Pháp phải vào Nam có khoảng 83.000 đến 150.000 người với 65 tiểu đoàn dã
chiến, 19 tiểu đoàn khinh chiến. Có thể cộng sản Việt Minh sẽ thả
khoảng 9.600 tù binh". Bên hải quân cũng phỏng đoán sẽ chuyển hơn
110.000 thường dân, 83.000 quân nhân, 10.000 xe cơ giới các loại và
khoảng 382 súng pháo binh lớn, nhỏ.
Nhưng
chúng tôi sẽ không ghi thêm nữa, vì đây là một bản văn tìm lại các dữ
kiện lịch sử trong biến cố "Di Cư 1954 - 1955". Sâu xa hơn, chúng tôi
muốn tưỏng nhớ và ghi nhận công ơn cuả tất cả những ân nhân, không phân
biệt quốc tịch đã từng có lòng nhân, mở rộng vòng tay giúp nhiều đồng
bào Việt Nam chúng tôi thoát khỏi sự khống chế toàn diện một dân tộc bởi
cộng sản. Nhờ đó, những người vượt thoát đã cùng đồng bào miền Nam tiếp
tục chiến đấu với cộng sản thêm 20 năm, kịp tạo nên một thế hệ kế thưà
hiểu rõ hơn về cộng sản kể từ sau năm 1975. Qua hai biến cố bi thảm nêu
trên trong lịch sử cận đại cuả giống nòi Việt Nam, tổ quốc chúng
tôi dù bị cộng sản cướp đoạt nhưng những thế hệ kế tục sẽ không mất niềm
tin là cộng sản ở Việt Nam sẽ vĩnh viễn tồn tại, cũng như các đế quốc
Hy Lạp; La Mã; Hán; Tống; Nguyên; Minh; Thanh v.v đã từng tan rã. Vì vậy
chúng tôi vẫn còn chiến đấu và trận Điện Biên Phủ đã nói lên điều
đó, tuy máu xương cuả những chiến sĩ nằm xuống nơi đây đã từng bị cộng
sản lợi dụng như một vũ khí chính trị để chia phần với kẻ gian vẫn còn
đang giấu mặt.
Người lính Mũ Nâu ĐỖ NHƯ QUYÊN
oxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoO xoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxo x
(KỲ 1)
"Năm Đánh Một Không Chột Cũng Què".
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, sau 54 ngày đêm bị bao vây, bị đủ thứ đạn pháo vùi dập, rồi liên tiếp những lớp lớp sóng người bị cấp trên hối thúc tràn tới, cuối cùng căn cứ Điện Biên Phủ cuả quân đội Pháp phải chịu thất thủ bởi xác người Việt Nam phủ kín khắp nơi. Lính Pháp tuy chịu thua nhưng họ chỉ không bắn nữa, và không treo cờ trắng đầu hàng. Những kẻ chỉ huy trực tiếp trận đánh này không phải là cán bộ cộng sản gốc Việt, là các tướng cuả Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa như (1) Lã Quý Ba: Đặc Sứ cuả Mao Trạch Đông cạnh đảng CSVN, Trưởng Đoàn Cố Vấn "Chí Nguyện Quân" kiêm Tư Lệnh Mặt Trận Điện Biên Phủ. (2) Vi Quốc Thanh: Tham Mưu Trưởng Mặt Trận kiêm Cố Vấn Chỉ Huy Tổng Quát về các vấn đề quân sự cho chiến trường; (3) Trần Canh: Cố Vấn Trưởng về Chính Trị - Chiến Lược và Chiến Thuật; (4) Mai Gia Sinh: Cố Vấn Trưởng về Liên Lạc và Điều Động (truyền tin và vận tải); (5) Mã Tây Phu: Cố Vân Trưởng về Tiếp Liệu; (6) Đặng Nhất Phấn: Cố Vấn Trưởng về Pháo Binh v.v... Ngoài ra, còn có khoảng 6.000 "Chí Nguyện Quân" khác cuả CHNDTH (sẽ ghi tắt là Cộng Tàu) trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào trận đánh này. Họ giữ các vai trò trọng yếu về chính trị, quân sự ở cấp tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn cuả Cộng Sản Việt Nam ( ghi tắt là Cộng Việt) trong lãnh vực chuyên môn như pháo binh, truyền tin, quân y hoặc là tài xế thuộc các đoàn xe vận tải từ biên giới chở đạn dược, thực phẩm tới thẳng chiến trường Điện Biên Phủ. Nói tóm lại, cái gọi là "chiến thắng" Điện Biên Phủ thật ra chỉ là lối đánh giặc "lấy thịt đè người". Cán bộ Cộng Tàu và Cộng Việt dùng xác người Việt Nam đè bẹp người Pháp một cách không thương xót. Còn các ông như HCM; Trường Chinh; Phạm Văn Đồng; Võ Nguyên Giáp; Hoàng Văn Thái; Lê Trọng Tấn v.v là những con cờ bung xung nhận lệnh và chạy vòng ngoài, họ chỉ có bổn phận đôn đốc tinh thần binh sĩ ở các đơn vị người Việt mà thôi !
Nước Việt Chia Hai - Tây Đi Về Pháp.
Một ngày sau biến cố Điện Biên Phủ, một hội nghị quốc tế về vùng Đông Dương thuộc Pháp được tổ chức ở thành phố Geneva Thụy Sĩ. Phái đoàn đại diện các nước đến tham dự có: (1) Quốc Gia Việt Nam, do Tổng Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Quốc Định dẫn đầu (sau ông Nguyễn Trung Vinh thế, tới ngày 7/ 7/ 1954 ông Trần Văn Đỗ thay làm trưởng đoàn). (2) Liên Bang Mỹ: Thứ Trưởng Ngoại Giao Walter Bedell Smith. (3) Cộng Hoà Pháp: Bộ Trưởng Ngoại Giao Georges Bidault. (4) Vương Quốc Anh: Bộ Trưởng Ngoại Giao Anthony Eden. (5) Vương Quốc Lào: Hoàng Thân Phumi Sananikone. (6) Vương Quốc Cam Bốt: ông Than Tep. (7) Nga Sô: Ngoại Trưởng Vyachcheslav M. Molotov. (8) Cộng Tàu: Thủ Tướng Chu Ân Lai. (9) Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Cộng Việt): Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Đảng Phạm Văn Đồng cầm đầu. Hai đại diện Anh và Nga làm đồng chủ tịch hội nghị (Hội Nghị Quốc Tế về vấn đề Đại Hàn và vùng Đông Pháp thật ra đã mở màn ở Geneva, Thụy Sĩ từ ngày 26. 4. 1954 với đại diện năm nước tham dự: Mỹ; Pháp; Anh; Nga; Trung Cộng, chương trình nghị sự là một ngày luận về Đại Hàn một ngày bàn về vùng Đông Pháp. Nhưng vì vấn đề Đại Hàn dù sao cũng có "lệnh ngưng bắn" (cho tới hôm nay vẫn còn) đã tạm giải quyết, người ta mới đem vấn đề Đông Pháp ra thảo luận thường xuyên hơn và rất căng thẳng. Lúc đó hội nghị mới quyết định mời thêm đại diện cuả cộng sản và quốc gia Việt Nam, đại diện Lào và Cam Bốt cùng tham dự chính thức. Hội Nghị Quốc Tế về Đông Pháp bắt đầu từ ngày 8/ 5 nhưng tới ngày 20. 6. 1954 thì bị đình trệ. Ngày 10. 7 mới họp lại và kết thúc lúc 1 giờ sáng ngày 21. 7. 1954).
Sau
hơn hai tháng họp hành, vài lần tưởng như bế tắc vì sự đòi hỏi, lấn
lướt quá đáng cuả Nga Sô; Cộng Việt; Cộng Tàu, cuối cùng thì bản
"Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự" ở Đông Pháp (đọc tắt Hiệp Định Đình
Chiến) cũng vẫn bị ký dù có sự phản đối bởi đại diện Quốc Gia Việt Nam
và Liên Bang Mỹ. Tổng Trưỏng Ngoại Giao Trần Văn Đỗ tuyên bố chính
phủ ông không đồng ý trước những áp đặt cuả các cường quốc trong hội
nghị. Và người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận chuyện đất nước bị cắt
chia.
Trong
bản "Hiệp Định Đình Chiến", Geneva 1954 có những quy định như sau về
Việt Nam, chúng tôi xin ghi lại vắn tắt: (A) Việt Nam bị chia làm hai
phần lãnh thổ tại vĩ tuyến 17. Hướng Nam thuộc Quốc Gia Việt Nam, phiá
Bắc vỹ tuyến là cuả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Cộng Việt).
Sông
Bến Hải (nơi có vị trí gần nhất từ vỹ độ tuyến 17) tỉnh Quảng Trị được
chọn làm ranh giới giữa hai miền, kể từ ngày 14. 8. 1954 các hoạt động
quân sự dọc theo con sông này đều bị cấm, tính từ cửa sông lên tới làng
B'ohosu ở biên giới Việt - Lào. Mỗi bên tính từ bờ sông mở rộng thêm 5
cây số (km) là khu vực cấm các hoạt động quân sự, "Demilitarised Zone"
(DMZ, Vùng Phi Quân Sự). Quốc Lộ 1 Nam - Bắc đến ngay giữa cầu Hiền
Lương trên sông Bến Hải sẽ được sơn một vạch trắng nằm ngang cầu (1*).
(B) Thời điểm ngưng bắn toàn miền Bắc là 8 giờ sáng ngày 27/ 7, miền
Trung 8 giờ sáng 1/ 8 và miền Nam lúc 8 giờ sáng ngày 11/ 8/ 1954. (C)
Dân chúng có 300 ngày được "tự do di chuyển" (free movement), được quyền
chọn lựa nơi cư trú mà không bị cấm cản, hạn chót là ngày 18/ 5/
1955. (D) Những đơn vị quân sự, hành chánh cuả các bên có từ 80 đến 300
ngày phải triệt thoái và tập trung ở từng địa điểm đã được thoả thuận.
(Đ) Riêng khu vực Hà Nội và vùng phụ cận chỉ có 80 ngày được "tự do di
chuyển", thời hạn chót ở Hà Nội là ngày 9/ 10/ 1954; Hải Dương 100
ngày; Đồng Tháp Mười 100 ngày; Cà Mau 200 ngày; Hải Phòng và miền
Trung 300 ngày. (E) Một Ủy Ban Quốc Tế về Giám Sát và Kiểm Soát
(International Committee for Supervision and Control - ICSC) đình chỉ
chiến sự ở Đông Pháp được thành lập với 3 Ủy Viên là Ấn Độ; Ba Lan và
Gia Nã Đại (tới năm 1973, Ấn Độ tuyên bố bản "Hiệp Định Đình Chiến",
Geneva 1954 chỉ là mớ giấy lộn nên họ rút ra khỏi ủy ban ICSC,
Nam Dương được đưa vô thay thế).
Ngày
5/ 8/ 1954, phiá Pháp bắt đầu tổ chức đưa người vào Nam bằng đường hàng
không ở Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, bằng đường biển tại Hài Phòng,
Uông Bí v.v. Số người được đưa đi vào lúc này phần đông là những nhân
viên hành chánh người Việt, người Pháp và thân nhân cuả họ, hoặc những
gia đình giàu có ở Hà Nội (tới ngày 20/ 9, phiá Pháp đã huy động hầu hết
máy bay vận tải quân sự mà họ có ở Đông Pháp, đồng thời cũng trưng dụng
các máy bay hàng không dân sự vào việc chuyển người. Tuy nhiên, dù cố
hết sức mình, phiá Pháp vẫn không đủ khả năng đáp ứng vai trò chuyển vận
vì số người muốn vào miền Nam mỗi lúc thêm đông dần, vì thế Pháp phải
nhờ phiá Mỹ giúp sức).
Con Thuyền Quốc Gia Giữa Cơn Bão Và Người Thuyền Trưởng Xuất Chúng.
Trong
khi hội nghị Geneva đang diễn ra, ngày 18/ 6/ 1954 Quốc Trưởng Bảo Đại
chỉ định ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, thế ông Nguyễn Phúc Bửu Lộc
(Sắc Lệnh 038/ SL/ QT). Ông Ngô Đình Diệm về đến Sài Gòn ngày 26/ 6, chỉ
năm ngày sau ông ra Hà Nội vì muốn đích thân quan sát và tìm hiểu tình
hình thực tế ở miền Bắc, nhất là vấn đề người di cư. Ông trở về Sài Gòn
ngày 3/ 7/ để tìm người cho nội các mới rồi tuyên bố thành lập chính phủ
vào ngày 5/ 7/ 1954.
Đúng
lúc này, chính phủ mới cuả Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phải đối diện với
những bất lợi trước mắt như vấn đề giáo phái, sự lộng hành cuả lực lượng
Bình Xuyên, Pháp cố tình tạo ra những mầm mống chống đối, vụ tướng
Nguyễn Văn Hinh bất tuân lệnh chính phủ, hàng trăm ngàn người ở miền
Bắc đang chờ đợi được di cư vào miền Nam v.v.
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
lúc mới về Sài Gòn, 6/1954
Ngày
5/ 8/ 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm nhân danh cá nhân ông, đã gởi đến
Tổng Thống Mỹ Dwight D. Eisenhower một bức thư qua trung gian Đại Sứ
Donald R. Heath và Trung Tướng John "Iron Mike" O'Daniel, Tư Lệnh "Đoàn
Cố Vấn Yểm Trợ Quân Sự - Đông Dương" (Military Assistance Advisory Group
- Indochina, MAAG - I (2*), sẽ ghi tắt là MAAG). Trong thư ông Ngô Đình
Diệm khẩn thiết yêu cầu chính phủ Mỹ và quốc tế giúp Việt Nam phương
tiện vận chuyển người di cư, cũng như viện trợ nhân đạo cho những người
mới vào Nam. Bức thư này cuả Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được tổng thống và
chính phủ Mỹ đáp ứng nhanh chóng và rất tận tình.
Ngày
9/ 8/ 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam cho thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư
- Tỵ Nạn (Nghị Định số NĐ/ 111/ TTP/ - VP) với ba nha đại diện ở ba
miền, ông Nguyễn Văn Thoại làm Tổng Ủy Trưởng, ông Đinh Quang Chiêu làm
Phụ Tá Tổng Ủy. Cũng trong lúc này, ngoài xã hội có những đại diện tôn
giáo, hiệp hội tư nhân (VN), thanh niên v.v cũng vận động cùng hợp tác
và lập ra Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư do Giám Mục Phạm ngọc Chi làm Chủ Tịch.
"Chiến Dịch Vượt Đến Tự Do"
("Operation Passage to Freedom)
Ngày
7/ 8/ 1954, Đô Đốc Robert B. Carney, Tham Mưu Trưởng Hành Quân/ Hải
Quân Liên Bang Mỹ (Chief of Naval Operation of the United States Navy)
chỉ thị đến Tổng Tư Lệnh - Thái Bình Dương kiêm Tư Lệnh Hạm Đội Thái
Bình Dương (Commander in Chief of Pacific and Commander Pacific Fleets)
Đô Đốc Felix B. Stump's hãy chuẩn bị lực lượng cho một hoạt động hải vận
quy mô trên biển để chuyển người phiá Bắc nước Việt Nam. Ngày 12/ 8/
1954, Phó Đô Đốc Alfred M. Pride, Tư Lệnh Hạm Đội 7 cho phổ biến Lệnh
Hành Quân cuả "Chiến Dịch Vượt Đến Tự Do" (Operation Passage to
Freedom) cùng với sự thành lập Lực Lượng Hải Quân Đặc Nhiệm 90 do Đề Đốc
Lorenzo S. Sabin làm Tư Lệnh (Naval Task Forces 90, sẽ ghi tắt là Lực
Lượng TF 90). Ban Tham Mưu cuả Lực Lượng TF 90 ban đầu gồm có: Tham Mưu
Trưởng Toàn Chiến Dịch kiêm Chỉ Huy Đơn Vị Chiến Thuật Kiểm Soát Không
Phận là Đại Tá Hải Quân Anthony Trusso; Tham Mưu Trưởng Lực Lượng TF
90: Đại Tá Hải Quân J. W. Higgins; Chỉ Huy Trưởng Tổng Quát các đơn vị
tàu LCU: Trung Tá Hải Quân C. V. Thomas; Sĩ quan quân y chịu trách nhiệm
tổng quát về y tế trong chiến dịch là Trung Tá Hải Quân James Grindell,
kiêm Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Quân Y - Bờ; Đại diện cuả MAAG để liên
lạc và phối hợp hành động: Đại Tá Rolland Hamelin; Đại diện cuả MAAG
liên lạc về vận tải thuỷ bộ - hàng không: Trung Tá Kaipo F. Kaula;
Tiểu Đoàn 1 Thuỷ Bộ - Kiến Tạo ( Amphibious Construction Battalion 1,
ACB - 1); Đội Tháo Huỷ Dưới Mặt Nước (Underwater Demolition Team-
UDT); Soái hạm cuả Ban Tham Mưu Chiến Dịch là chiếc USS Estes, Hạm
Trưởng: Đại Úy J. W. Waterhouse v.v. Ngoài ra, Tư Lệnh Lực Lượng Hải
Quân Mỹ ở Phi Luật Tân, Phó Đô Đốc Hugh H. Goodwin chịu trách nhiệm về
yểm trợ và tiếp liệu.
Ngày
10/ 8/ 1954, Đề Đốc Lorenzo S. Sabin đến Hải Phòng bằng máy bay để
bàn về sự phối hợp giữa các bên với đại diện Pháp là Đô Đốc Jean M.
Querville, Tư Lịnh Hải Quân vùng Đông Pháp, trong đó yêu cầu Pháp dành
cho hải quân Mỹ vài điểm quân cảng và nhân viên hướng dẫn thuỷ lộ (cũng
trong ngày 10/ 8, chiếc tàu thứ nhất cuả hải quân Mỹ xuất hiện ngoài
khơi Hải Phòng là chiếc hải vận hạm USS Menard (tới từ hướng Hương
Cảng). Lúc biết tin lúc còn đang họp, vị đề đốc Mỹ ra lệnh chiếc USS
Menard phải chạy tìm chỗ "nấp" tạm đâu đó ngoài Vịnh Hạ Long đến khi có
lệnh mới).
"Chiến
Dịch Vượt Đến Tự Do" bắt đầu ngày 18/ 8/ 1954 và kết thúc ngày 20/ 5/
1955. Chiến dịch có sự tham dự trực tiếp hay gián tiếp bởi hơn 15.000
quân nhân các cấp của hải quân- không quân và bộ binh, được coi là cuộc
vận chuyển dân sự trên mặt biển lớn nhất trong lịch sử hải quân cuả Liên
Bang Mỹ. Chiến dịch này được tổ chức quy mô và chu đáo, được tính toán,
sắp đặt, chuẩn bị v.v thật hoàn hảo và được theo dõi, giám sát bởi bộ
quốc phòng, chính phủ cũng như công chúng Mỹ. Trên tất cả, sự hoạt động
hữu hiệu cuả Lực Lượng TF 90 có được là nhờ sự yểm trợ tận lực cuả
bốn cơ cấu quan trọng trong quân đội Mỹ: (1) Công Tác Kỹ Thuật Đặc Biệt
và Kinh Tế (Special Technical and Economic Mission - STEM); (2) Quản Trị
các Chiến Dịch Ngoài Lãnh Thổ (Foreign Operations Administration -
FOM); (3) Cục Vận Tải Quân Sự Đường Biển (Military Sea Transportation
Services - MSTS); (4) Công Tác Hải Ngoại - Liên Bang (United States
Overseas Mission- USOM).
Để
chuẩn bị cho chiến dịch, Đề Đốc Lorenzo S. Sabin yêu cầu Hạm Đội Thái
Bình Dương tăng cường cho ông thêm một tàu chỉ huy thuỷ bộ (loại AGC), 8
tàu vận tải tác chiến (APA), 4 tàu vận tải xung kích (AKA), 4 tàu đổ bộ
hạng trung (LSD), 4 tàu vận tải cao tốc (APD), 12 tàu đổ bộ chở quân cụ
(LCU). Vào lúc này, tàu thuyền vận tải, đổ bộ các loại cũng đã có trong
Lực Lượng TF 90. Lớn nhất có loại LST (Landing Ship, Tank), nặng trung
bình 4.000 tấn, chở xuyên đại dương các loại xe cơ giới, thiết giáp,
pháo binh v.v hoặc có thể chở hơn 2.000 người; LCI (Landing Ship,
Infantry), dài 157 bộ (feet), chở được 200 người trang bị đầy đủ; LCM
(Landing Craft, Medium), dài 50 bộ, chở được 100 người hay một xe tăng,
LCPR (Landing Craft, Personel, Ramp), dài 36 bộ và chở được 40
người. Tổng số tàu loại lớn mà Lực Lượng TF 90 có trong tay là 74
chiếc. Sau đó được Cục Vận Tải Quân Sự Đường Biển (MSTS) tăng cường thêm
36 chiếc.
Bộ
Tư Lệnh cuả chiến dịch đặt trên Soái Hạm USS Estes, sẽ thả neo trong
Vịnh Hạ Long. "Bộ Chỉ Huy - Tập Trung và Phân Phối" quân nhu, thực phẩm,
dược phẩm, nhiên liệu, thư tín, trạm truyền tin liên lạc v.v thì đặt
trong Vịnh Đà Nẵng cùng với bản doanh cuả Lực Lượng Yểm Trợ Tiếp Liệu -
Tây Thái Bình Dương (Logictics Suport Force - Western Pacific). Đề Đốc
Lorenzo S. Sabin còn ra lệnh chở từ căn cứ hải quân cuả Mỹ ở Yokosuka,
Nhật Bản đến Vịnh Hạ Long 85.000 áo phao cấp cứu cá nhân, 85.000 chiếc
chiếu, 700.000 đôi đũa, 40.000 chiếc xô đựng nước loại 10 lít, 15.000
tấn gạo (trong tổng số 150.000 tấn sau này cho toàn chiến dịch), 12.000
tấn cá khô, 600 kg muối, chở khẩn cấp từ Okinawa (đảo Xung Thằng) tới
Vịnh Hạ Long 600 và Sài Gòn 200 cái lều vải dã chiến quân đội (ODD Tent
là tên chính thức, nhưng được biết phổ biến hơn với tên "Army Sixty -
Man Tents", mỗi lều đủ chỗ cho 120 người).
Cùng
với sự giúp đỡ cuả hải quân Mỹ, quân đội Pháp, chính phủ Quốc Gia Việt
Nam cũng ráo riết chuẩn bị theo khả năng của mình. Ngoài Phủ Tổng Ủy Di
Cư - Tỵ Nạn, Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư (tư nhân) v.v thì ở Hải Phòng "Ủy Ban
Di Tản Người Việt Nam Tỵ Nạn (Vietnamese Refugee Evacuation Committee)
cũng được thành lập do thị trưởng Mai Văn Hàm làm Chủ Tịch, nhà báo
Nguyễn Luật làm Tổng Đại Diện cho toàn khu vực tiếp cư. Các Đội Y Tế
Công Cộng cũng lần lượt lập ra, chuẩn bị phối hợp hoạt động ở các khu
trại lều sẽ được dựng lên ngoại ô Hải Phòng, dọc theo Quốc Lộ 10 trên
đường đi Hà Nội, trại xa nhất được dự trù cách Hải Phòng khoảng 20 km.
Bộ Tư Lệnh MAAG cũng cử đến Hà Nội 5, Hải Phòng 7 sĩ quan liên lạc. Đại
diện USOM ở Hải Phòng là ông Mike Adler. Việc điều hành các trại sẽ do
khoảng 20 quân nhân Mỹ các cấp và những ban đại diện ngưòi Việt cùng
phối hợp hoạt động. Ngoài ra việc tiếp đón, hướng dẫn người mới đến sẽ
được giúp sức bởi các cá nhân làm việc thiện nguyện từ những hiệp hội
tư ở Việt Nam và quốc tế, thanh niên - học sinh, các vị đạo sư, linh
mục, ni cô, sơ v.v. Chính phủ quốc gia cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế
giúp đỡ cho người di cư. Những nước nhận lời trợ giúp bước đầu có Anh;
Tây Đức; Ba Lan; Ý Đại Lợi; Đại Hàn; Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan); Nhật
Bản; Phi Luật Tân; Úc đại Lợi; Tân Tây Lan v.v. Các tổ chức nhân đạo
quốc tế cùng những hiệp hội tư nhân nhận lời đến Việt Nam góp một bàn
tay có UNICEF (United Nations Children's Fund - Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp
Quốc); Hồng Thập Tự Quốc Tế; Catholic Relief Services (CRS); Church
World Services (CWS); Thanh Thương Hội Quốc Tế; CARE; Mennonite Central
Committee (MCC); International Rescue Committee (IRC) v.v.
Cam Go Nhưng Có Niềm Tin.
Ngày
18/ 8/ 1954, chiếc Soái Hạm Estes chở Ban Tham Mưu cuả Đề Đốc Lorenzo
S. Sabin cùng 9 tàu (vận tải) theo sau hộ tống đến thả neo trong Vịnh Hạ
Long, cách Hải Phòng khoảng 20 km về hướng chính Đông. Trước đó ngày
15/ 8 đã có năm tàu vận tải loại dương vận hạm đến trước thả neo trong
vịnh, mục đích để thăm dò mức độ an ninh trong Vịnh Hạ Long và chờ lệnh.
Soái Hạm USS Estes trong Vịnh Hạ Long tháng 8/ 1954
Những
tàu hiện diện trong vịnh gồm có chiếc USS Bay Field; USS Montague; USS
Menard; USS Hickman County; USS Marine Adder; USS Cock; USS Bass; USS
Begor; USS Balduck; USS Askari; USS Montrose; USS Diachenko; USS
Skagit v.v. Sau bốn ngày tập trung thêm tàu thuyền và các nhu cầu cần
thiết, ngày 22/ 8/ 1954 Lực Lượng TF 90 cho đổ bộ một trung đội công
binh hải quân Ong Biển (Seabees (3*) tại bán đảo Đồ Sơn, vị trí ở Đông
Nam thành phố Hải Phòng khoảng 21 km. Đơn vị này thuộc Tiểu Đoàn 1 Thuỷ
Bộ - Kiến Tạo (ACB 1). Họ lên bờ như một tiền trạm lập đầu cầu, có nhiệm
vụ ráp nối một bến đậu cho mấy chiếc loại nhỏ như LCPR; LCM. Lúc những
chú "Ong Biển" cuả hải quân Mỹ đang cặm cụi làm thì một ông Tây "Gà Gô"
dắt hiến binh tới ngăn cản công việc. Ông yêu cầu họ dọn vật dụng và lên
tàu rời bờ ngay, vì họ đang vi phạm vào bản Hiệp Định Đình Chiến! Sĩ
quan liên lạc cuả Lực Lượng TF 90 ở Hải Phòng phân trần với phiá
Pháp: họ "đến để chuẩn bị đón người di cư theo yêu cầu từ phiá Việt
Nam". Các viên chức Pháp rất lịch sự giải thích "rằng thì là".. trong
bản hiệp định Geneva có ghi: ...."Cấm sự gia tăng lực lượng quân sự hoặc
nhân viên quân sự cuả các bên hay sự có mặt cuả một quân đội ngoại
quốc".... Trong lúc này, thành phố Hải Phòng đã có gần 150.000 người
sống tạm bợ khắp nơi để chờ được lên tàu. Khi biết tin sự cản trở quá
nguyên tắc cuả người Pháp, MAAG ở Sài Gòn trực tiếp gởi khuyến cáo tới
Lực Lượng TF 90 là nên điều động đơn vị nêu trên tạm thời di chuyển đến
ngoại ô hướng Tây Nam Hải Phòng. Tại đây họ sẽ khởi sự thiết lập một khu
trại lều cho 15.000 người tạm trú. Toán công binh Ong Biển sau đó nhận
lệnh từ Soái Hạm là chất đồ lên xe, trực chỉ hướng Tây Nam Hải Phòng (
thật ra các viên chức Pháp không thể làm gì được người Mỹ tại một bờ
biển cách Hải Phòng 21 cây số! Phiá công binh Mỹ dù lên bờ một đơn vị
nhỏ nhưng cũng có vài chiếc Jeep, Dodge kéo "rờ moọc", máy điện, và
cả đống các loại kiện hàng nằm tràn lan trên bãi biển. Tàu đổ bộ đã chạy
mất tăm, mấy ông Tây làm gì được).
Sau
khi đoàn xe cuả Ong Biển tới được phiá Nam Quốc Lộ 10, ngay ngoại ô Hải
Phòng, phiá Pháp đã gởi lời phàn nàn đến đại diện MAAG ở Hải
Phòng. Ngày hôm sau, 23/ 8, toán Ong Biển bắt đầu khai quang (những thuở
ruộng đã được gặt) dành ra một bãi đậu xe, một khu vực chưá hàng và
dựng lên được 6 căn lều dã chiến. Ngày hôm sau nữa, mới sáng sớm thì
toán Ong Biển nhận được lệnh bỏ đồ để đó, tới bến cảng có tàu đón về đơn
vị ở ngoài ...Vịnh Hạ Long. Về tới tàu họ mới biết có sự khiếu nại cuả
người Pháp với Đại Diện ICSC tại Hải Phòng rằng: ..." có sự xuất hiện
cuả một đội quân nước ngoài cùng quân cụ cuả họ tại vùng lãnh thổ bị
cấm, dựa theo bản hiệp định" ... Thế rồi các bên đều giữ im lặng, ai
cũng ..."biết rồi..khổ lắm .. nói mãi" với giấy và tờ. Đại diện ICSC thì
khó giải thích với Pháp. Ủy Ban Di Tản Người Việt Nam Tỵ Nạn tiếng nói
không đủ mạnh, và, lỡ có bên nào đó cố "bới bèo ra bọ" thì quả thật phiá
Mỹ "hình như" đã vi phạm vào quy định cuả bản hiệp định. Đây là chuyện
tế nhị trong phạm trù nhân đạo cấp quốc tế, cả thế giới đang nhìn vô nên
bên nào cũng làm thinh và chờ một giải pháp khôn khéo.
Thấy được
sự lúng túng, nhẫn nại chờ đợi cuả phiá Pháp và đại diện ICSC ở Hải
Phòng, ngày 26/ 8/ 1954 Lực Lượng TF 90 lần thứ hai cho đưa ... Ong
Biển đổ ... đồ nghề lên bán đảo Đồ Sơn. Lần này là một đơn vị
cấp đại đội cùng với ... xe ủi đất, xe xúc, xe ben, xe khoan giếng, xe
vận tải GMC v.v rầm rộ rời tàu lên bờ. Tất cả "bình yên vô sự" trước
những viên chức người Pháp và đại diện ICSC, nhờ biết che hoặc sơn lấp
mấỳ chữ như U.S NAVY , các hình phù hiệu, số hiệu đơn vị v.v, nói chung
là giấu hết tất cả những "dấu vết" quân sự nơi các phương tiện quân cụ.
Riêng quân nhân cũng tháo những huy hiệu, phù hiệu v.v đơn vị trên áo
quần và không có vũ khí. Với cách ăn mặc như vậy, họ trông giống như
công nhân dân sự hơn là hình dáng cuả người lính.
Trong
vòng năm ngày tiếp theo, Tiểu Đoàn 1 Thuỷ Bộ - Kiến Tạo với sự giúp sức
cuả lính Pháp và người Việt làm thiện nguyện, Ong Biển ACB 1 đã hoàn
tất việc thiết lập trại tiếp cư thứ nhất ở Hải Phòng, giúp 15.000 người
có nơi nương náu. Với 149 căn lều nằm theo từng lô và ngay hàng thẳng
lối, nhìn rất yên bình, trại này được đặt tên là "Trại Tỵ Nạn Cái Đình"
("Refugee Camp de la Pagode", lạ ở chỗ quanh khu vực trại chẳng có
cái đình hay cái chuà nào cả). Từ đây, các trại lều tiếp đón và tạm trú
người vượt thoát cộng sản lần lượt được dựng lên dọc theo Quốc Lộ 10 Hà
Nội - Hải Phòng với những cái tên: Camp Shell; Camp Lạch Tray; Camp
Cement; Camp Jardin des Enfants v.v.
Một nữa Trại Tỵ Nạn Cái Đình (Refugee Camp de la Pagode)
Bến Đi Và Bờ Đến Trên Đường Tìm Tự Do.
Đầu
tháng 9/ 1954, lúc các trại tiếp đón người Việt vượt thoát cộng sản lần
lượt được dựng lên và bắt đầu lo cho khoảng 90.000 ngưòi vừa mới đến,
cũng là lúc các nguồn tiếp tế nhân đạo từ khắp nơi trên thế
giới được gởi đến Việt Nam. Từ Châu Âu, từ Bắc Mỹ, từ Ấn Độ, Úc và Tân
Tây Lan, từ Phi Luật Tân, Úc và Tân Tây Lan, từ Đài Loan; Okinawa;
Yokosuka; Hawaii v.v. Các loại hàng cứu trợ được các ân nhân gởi đến
nhiều nhất là gạo, thịt hộp, cá hộp, cá khô, mỡ thực vật, mỡ động
vật đóng hộp, dầu nấu ăn, dầu lửa, sữa bột, rau cải, trái cây, bánh
kẹo, âu dược, quần áo, xà phòng, khăn tắm, bàn chải và kem đánh răng,
bột DDT v.v. Hãng thuốc tây Pfizer Company tại Brooklyn New York hiến
tặng đợt đầu 50.000 vỉ thuốc viên Terramycin. Các đợt sau hãng này gởi
tặng thêm hàng trăm ngàn viên thuốc các loại như Penicilin;
Streptomycin; Magnamycin v.v. Hãng máy bay Pan Ameria Airway tặng 10.000
thỏi xà phòng; Hãng Meade - Johnson ở tiểu bang Indiana tặng hàng chục
ngàn lít dược chất Vitamin tổng hợp v.v... Các phái đoàn cuả nhiều quốc
gia cử người đến quan sát cuộc sống ở trại để tìm hiểu thêm các nhu cầu.
Những phái đoàn cuả chính phủ Việt Nam, Mỹ cũng thường xuyên lui tới
thăm viếng, kể cả Đại Tướng Joseph Lawton Collins, Đặc Sứ Liên Bang Mỹ ở
Việt Nam; Tư Lệnh MAAG Trung Tướng John O'Daniel v.v. Hải Phòng lúc này
tràn ngập người tỵ nạn nhưng không còn ai sống vất vưởng ngoài lề dường
như trước đó. Phóng viên các tờ báo lớn, các hãng thông tấn quốc tế đến
Hải Phòng làm phóng sự, nhận xét và chụp hình nhiều nhất là những tạp
chí như LIFE, National Geographic, Paris March v.v...
Lúc đến
trại, mỗi người dù lớn hay nhỏ tuổi cũng được phát 600 gr gạo cho mỗi
ngày cùng với nhiều loại thực phẩm kèm theo. Việc nấu nướng thì tự túc
vì hầu như gia đình nào lúc ra đi cũng mang theo soong nồi, riêng than,
củi hoặc dầu lửa cũng được cấp mỗi ngày. Kể từ tháng 11/ 1954, người đến
trại không ai ở lâu quá ba tuần lễ sau khi đã được khám sức khoẻ, điền
phiếu thủ tục hành chánh, lãnh quần áo, chăn mền, cắt tóc v.v. Mỗi trại
có ký hiệu mẫu tự riêng, từng căn lều có số thứ tự và người ở trại ai
cũng có thẻ ghi tên họ và nguyên quán cuả mình v.v. Tuỳ theo địa thế cuả
các trại, có nơi được đào giếng để lấy nước, có nơi thi máy bơm từ suối
lên bồn chứa. Công binh Ong Biển cho dựng lên cao nhiều bồn cao su lớn,
có thể chưá được 3.000 gallons nước. Nước trong các bồn sẽ được lọc,
sát trùng rồi mới phân phối xử dụng. Trung bình mỗi ngày, có tới 12.000
gallons nước được cung cấp cho việc nấu ăn, uống, tắm ở mỗi trại. Riêng
những căn lều cuả y tế thì đặc biệt khá lớn, có thể chưá được từ 300 tới
500 bệnh nhân nằm điều trị ngắn hạn. Nếu có người mang bệnh nan y hoặc
quá trầm trọng, bệnh nhân sẽ được ưu tiên đưa đến bệnh viện Hải Phòng
hay những bệnh viện hạm ngoài Vịnh Hạ Long. Các bệnh phổ biến nhất trong
lớp người đến trại là sốt rét, đậu muà, thương hàn, cảm ho, lở mắt, ghẻ
nhọt ngoài da v.v. Ở mỗi trại trung bình một ngày có gần 2.000 người
xin khám bệnh. Hải quân Pháp ở Hải Phòng, được sự chấp thuận cuả Đô Đốc
Jean Marie Querville, đã nhường cho hải quân Mỹ dùng một trung tâm thí
nghiệm khá lớn để tập trung phân tích, tìm bệnh từ các mẫu máu cuả
người đến trại. Ngay cả phu nhân cuả vị đô đốc nêu trên, Madame
Querville cũng sốt sắng tham gia làm thiện nguyện ở bệnh viện Hải Phòng
và thăm viếng các trại. Một vị phụ nữ đáng kính khác cũng âm thầm làm
việc nhân đức là bà Vũ Thị Ngãi, được mọi người ưu ái gọi là Madame
Ngãi. Bà là người đích thân lặn lội đi tìm và nuôi dưỡng hàng trăm trẻ
em bất hạnh ở Thanh Hoá; Nam Định; Hải Phòng rồi vô tới Sài Gòn sau này.
Các em bà cưu mang hầu hết là trẻ mồ côi, lạc gia đình vì chiến cuộc,
bị bỏ rơi vì tật nguyền v.v. Việc quản trị về y tế cho người di cư ở Hải
Phòng và các trại thì do Trung Tá Hải Quân, bác sĩ James Grindell đảm
trách. Những bác sĩ hải quân thường trực ở các trại có Đại Úy Julius
Amberson; Đại Úy William Cox's; Đại Úy Sidney Britten; Trung Úy Thomas
A. Doolley v.v. Nhóm bác sĩ lo việc tiếp tế và phân phối y cụ, dược phẩm
thì có Trung Úy Edmund Gleason; Trung Úy Richard Kaufman; Trung Úy
David Davison. Nhóm y tá có các vị như Dennis Shepard; Peter Kessey;
Norman Baker; Robert Prusso; Edward Maugre; J. Harris v.v...
Lúc
hai tháng đầu hoạt động, trung bình mỗi ngày từng trại có từ 400 tới
600 người tìm đến. Về sau lên tới con số ngàn rồi chục ngàn. Có lúc
nguyên cả một làng hàng ngàn người cũng tìm tới trại. Các trại đón tiếp
vào khoảng tháng 10 về sau, mỗi nơi đông từ 12. 000 đến 15.000 người.
Chuyến
tàu thứ nhất cuả hải quân Mỹ chở người di cư rời Vịnh Hạ Long ngày 17/
8/ 1954 là chiếc USS Menard (vận tải hạm), tàu này chở vào Sài Gòn 1924
người.
USS Menard, the first American ship to participate in the naval evacuation
(USS Menard, chuyến tàu thứ nhất chở người di cư vào Nam)
Chuyến
thứ hai ngày kế tiếp, chiếc USS Montrose mang theo được 2.100 người. Và
còn nữa, .. còn rất nhiều người đến, và cũng còn rất nhiều tàu sẵn sàng
chờ đưa những người không chấp nhận cộng sản vượt đến bến bờ tự do.
Cuối
tháng 8/ 1954, một trận bão đổ ập xuống Hải Phòng và phá huỷ hơn một
nữa tổng số trại lều trong khu vực. Sau trận bão, Lực Lượng TF 90 cho
điều động thêm tàu vận tải, đồng thời cho tăng mức độ vận chuyển cuả
từng con tàu, cứ ba ngày hai đêm là đến Sài Gòn, hôm sau trở ra Hải
Phòng chở tiếp. Dọc theo thềm bờ biển Việt Nam vào cuối năm 1954, có tới
hàng trăm con tàu trực chỉ hai miền Nam - Bắc suốt ngày và đêm, tàu
ngược xuôi như những con thoi trên mặt nưóc. Trong vòng hai tuần đầu
tháng 9 sau trận bão, các tàu Mỹ đã chuyển vận vào Nam được 47.000 người
! Từ giai đoạn này trở đi, số người di cư được chuyển dồn dập tới Sài
Gòn, ngày nào cũng có vài chiếc cập bến. Người đông tới mức làm các tổ
chức lo đón tiếp làm việc không xuể, họ buộc phải báo cáo lên Phủ Tổng
Ủy Di Cư - Tỵ Nạn về vấn đề này. Chính phủ Việt Nam sau đó thông báo với
phiá Mỹ, yêu cầu họ chỉ nên cho những tàu nào chở dưới 2.500 người mới
được ghé Vũng Tàu hoặc Sài Gòn. Yêu cầu nêu trên chỉ tạm thời cho tới
sau ngày 25/ 9/ 1954.
Ngày
9/ 10/ 1954, Pháp làm lễ hạ cờ tại Hà Nội, họ phải tập trung về Hải
Phòng để rút toàn bộ khỏi miền Bắc Việt Nam. Ngày 12/ 12/ 1954, Mỹ đóng
cửa Toà Lãnh Sự ở Hà Nội
Lúc
đến được các trại tạm cư ở Đà Nẵng, Sài Gòn v.v, đồng bào di cư được
cấp 12 đồng cho mỗi ngày đối với người lớn, trẻ em được 6 đồng, kèm theo
thực phẩm cứu trợ và vật dụng cần thiết. Tới ngày 11/ 3/ 1955, cứ mỗi
người mới đến, không phân biệt lứa tuổi sẽ được cấp một lần số tiền
800 đồng. Lúc tới nơi định cư chính thức, mỗi người sẽ được cấp một lần
3.000 đồng để tự túc làm nhà, không tính vào vật liệu được cung cấp,
dụng cụ làm nông, các loại hạt giống, phân bón, giường, tủ, bàn ghế,
chăn màn và thực phẩm cứu trợ được cung cấp đều đặn đến khi cuộc sống
được ổn định. Ở thành phố Đà Nẵng có những trại định cư như Thanh Bồ;
Đức Lợi; Tam Toà, xa hơn một chút thì Hội An v.v. Riêng ở thủ đô Sài Gòn
và vùng phụ cận có khoảng 10 trại tiếp cư tạm thời được thiết lập ở Phú
Thọ; Bình Đông 1; Bình Đông 2; Bình Đông 3; Bình Trị Đông; Bình Thới,
khu vực cầu Nhị Thiên Đường; Bảo Hưng Thái; Rạch Dưà; Xuân Trường (Thủ
Đức); Biên Hoà v.v. Đó là chưa tính nhiều địa điểm tiếp cư nhỏ hơn ở các
trường học nội đô Sài Gòn, hoặc tại Gò Vấp; Thủ Dầu Một, khuôn viên Toà
Hành Chánh tỉnh Gia Định, Hoà Khánh (Chợ Lớn), khuôn viên Sở Cứu Hoả Đô
Thành trên đường Trần Hưng Đạo v.v. Từ những nơi tạm cư sau những ngày
đầu vượt thoát cộng sản, đồng bào di cư sẽ đưọc đưa đến lập nghiệp dài
lâu trong 156 Khu Định Cư ở miền Nam; 65 khu ở miền Trung và 34 khu ở
Cao Nguyên Trung Phần.
Đến
cuối tháng 3/ 1955, các trại lều tạm trú ở Hải Phòng lần lượt tháo gỡ,
số người tìm tới trại cũng giảm dần. Sang đầu tháng 4/ 1955, chỉ còn lại
ba khu trại và khoảng 30.000 người đang chờ xuống tàu. Đến ngày 10/ 5/
1955, tất cả các trại lều đều được tháo gỡ, Người chờ xuống tàu còn
khoảng 4.000. Số người này được đưa vào thành phố Hải Phòng tạm trú
trong những khu vực do Pháp và Mỹ kiểm soát. Cùng lúc đó phiá người Pháp
ở Hải Phòng cũng giảm xuống còn khoảng 300 người, những ngưòi này được
lệnh gấp rút tháo gỡ và đem xuống tàu tất cả những gì hữu dụng, từ máy
móc cho tới bàn ghế, tủ, giường. Nói tóm lại là dọn sạch. Người Pháp
quyết không chừa một thứ gì có giá trị lọt vào tay cộng sản. Tính tới
giữa tháng 4/ 1955, đại diện MAAG cuả Mỹ vẫn còn vài người ở Hải Phòng
như các Thiếu Tá Ralph Walker; Roger Ackley; Mike Walker; John McGowan;
Norman Paulin v.v. Chuyến máy bay cuối cùng cuả Mỹ rời Hải Phòng ngày
11/ 5/ 1955. Chuyến tàu chót cuả Lực Lượng TF 90 là chiếc USS General
A.W. Brewster, rời Vịnh Hạ Long ngày 15/ 5/ 1955 cùng với 1.300
người. Chuyến tàu chở người di cư sau cùng cuả hải quân Pháp là chiếc
Gascogne, rời Hải Phòng ngày 26/ 5/ 1955 với 888 người.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire