Hãy để tâm hồn mình theo ngoì bút của anh Bút Xuân nhé.
Caroline Thanh Hương
http://catbuicarolineth.blogspot.fr/2014/07/truyen-ngan-chon-ung-but-xuan-tran-inh.htmlSống Với Người Chết
(tiếp theo Chôn Đứng)
* Bút Xuân Trần
Đình Ngọc
Mùa hè hai năm sau, vào dịp học sinh nghỉ hè, một
buổi trưa, ông Tú và hai đứa con từ Hoa
Kỳ về, lại có dịp đến bến xe Bình Tây.
Ngổn ngang là xe, đậu chẳng có thứ tự gì, mạnh ai
nấy đậu. Xe đò chạy diesel xả khói mịt trời. Có xe khá đông khách nhưng vẫn
chưa đi, lơ xe còn đi bắt thêm mối, tài xế ngồi sau tay lái uống la-de tỉnh bơ.
Có cái mới mươi người khách thì lơ xe la bài hải như có cháy nhà:”Gò đen, Bến
lức đi ngay đây. Lên xe, lên xe mau. Ông cụ kia, đi không?” Vài câu chửi thề
tục tĩu vì hụt khách của mấy lơ xe khác.
Hàng quán bán rong nườm nượp. “Ai mía ghim đây.” Ai
nước trà đường” “Phở bò viên đây.” “Bò bía tôm thịt lạp xưởng” thêm tiếng lách
cách của cái kéo lớn anh hàng thịt bò khô vang lên mời khách và cái chuông reng
reng của anh bán kem cây. Mấy chị hàng bún, hàng cháo huyết, cháo lòng, mì thập
cẩm, bánh canh, xôi vò chè đường ...ngồi hếch mắt nhìn người qua kẻ lại luôn
miệng mời khách, tay cầm cái que dài có buộc ở đầu một chùm lá tre để đuổi ruồi
nhặng bay như ong từ bãi rác to như cái nhà ba tầng gần đó, mùi rác thối sau
cơn mưa đêm qua, nắng hong lên tạt vào mũi kẻ qua người lại phải nín thở đi cho
mau. Vài con bé gầy gò khoảng 12, 13 quần áo lếch thếch, cái khăn lau vắt
vai, đang rửa tô rửa muỗng cho mẹ chúng
bán cháo lòng, bánh canh sau khi người khách ăn xong, cứ một xô nước đó chúng
rửa từ sáng đến lúc hết gánh cháo, gánh bún.
Hàng chục lời rao khác quyện vào nhau cùng với tiếng
động cơ xe đò, xe nhỏ, xích lô máy, tiếng cưa máy một nhà máy cưa ở ngay cạnh,
khói bụi mịt mù, tiếng còi xe, không có chuyện gì cũng bóp còi, tất cả làm
thành một bản nhạc tả pí lù liên tu bất tận nghe mệt tim, điếc tai, mờ mắt. Ông
Tú thầm nghĩ sao ô nhiễm quá thế và lắm người nghèo quá thế? Người nghèo nhiều,
xã hội khó yên vui. Tệ trạng xã hội phát sinh cũng từ nghèo mà ra: trộm cắp,
tham nhũng, hối lộ, đĩ điếm!
Ông Tú trông vẫn như trước nhưng hai đứa con thì lớn
hẳn lên, khác xa lần về trước. Cô con gái tên Jennifer nay đã là một thiếu nữ
đôi tám xinh xắn, má đỏ, môi hồng. Jen không trang diện nhiều nhưng với nước da
trắng bóc, đôi mắt to đen như mắt cô siêu mẫu Cindy Crawford, mái tóc dài đen
mượt thả xuống ngực và khuôn mặt thật xinh, cái quần jean xanh và cái sweater
mầu hồng nhạt duyên dáng, Jen làm cho bất cứ ai nhìn Jen cũng phải ngắm nghía
ghi nhớ hình ảnh. Cậu em trai là John, trắng trẻo, thông minh, cao lớn gần bằng
cha tuy bé ngang hơn.
Khi ba cha con đang đứng nghểu nghến bàn tính chuyện
nên đi ngay hay nên dùng bữa, ông Tú lấy cell phone ra bấm thì hai anh lơ xe
nhào tới, một anh giật cái xách tay John đang cầm, anh kia giật cái xách tay
ông Tú cầm:
“Dạ thưa chú, chú đi đâu?”
“Chú lên xe con!”
Ông Tú phải tắt tạm cái cell, tay ông nắm quai cái
túi xách vừa bị giật:
“Để cha con tôi suy nghĩ một chút, chưa đi ngay
đâu!”
John cũng nắm lấy quai cái túi xách. Hai anh lơ phải
buông tay.
“Chú cần đợi ai thì chú lên xe con ngồi cho đỡ mỏi
chưn!”
Ông Tú ôn tồn:
“Để chú suy nghĩ chút mà!”
Hai anh lơ tiu nghỉu bỏ ra đứng xa xa nhìn lại. Làm
cái nghề này thật khổ, chủ xe giao cho ngày phải chèo kéo được bao nhiêu khách,
không đủ số bị trừ lương. Vì vậy hễ thấy khách xách vali, xách cặp tới là ra
tranh giành cho bằng được. Có khi vì tranh khách mà đánh nhau làm Cảnh sát bến
xe lại phải can thiệp.
Vừa lúc đó có một đứa con gái bán vé số nhào tới.
Mặt mày nó dễ coi nhưng quần áo tồi tàn quá. Cái quần đen đã bạc, vài chỗ vá.
Cái áo ngắn cũn cỡn không phải của nó mà có lẽ của một đứa nhỏ hơn, nhìn thấy
cả lưng. Đôi mắt tinh nhanh và nụ cười tươi làm người đối diện có cảm tình
nhưng trông con bé thật bệ rạc, nghèo khổ. Nó
chìa xấp vé ra trước mặt ông Tú:
“Thưa bác, mua dùm con mấy tấm vé số, vé sắp xổ!”
Ông Tú nhìn con bé. Ủa nó có cái nét hao hao một đứa
bé nào mà ông đã gặp nhưng chẳng nhớ ra? Những đứa trẻ ông gặp thiếu gì! Nào
sứt môi, lé mắt, bại xuội, què tay, cụt chân ông đã vào hai, ba Viện mồ côi ở
Sàigòn và Huế, nhìn thấy rất nhiều, làm sao nhớ được?
“Cháu bán vé số ở đây lâu chưa?”
“Dạ, thưa bác cháu bán ở đây khoảng hơn một năm
rồi.”
Ủa, lại giọng nói! Nó giống giọng nói một đứa nào
ông nghĩ mãi không ra. Con gái ông, Jennifer, nhìn con bé và nói với ông Tú cái
gì làm ông chợt nhớ lần về hai năm trước, ba cha con ông cũng đứng ở bến xe này
mua vé số cho một thằng bé cũng cỡ tuổi con bé này. Ông đã quên tên nó, hôm đó
nó bị xe đụng chẳng biết nay nó khỏi chưa? Ông nghĩ hỏi con bé này may ra nó
biết.
“Cháu có biết một thằng bé cũng khoảng tuổi cháu,
cũng bán vé số ở bến xe này , cách đây hai năm bác đã mua vé số cho nó, giọng
nói của nó giống cháu lắm...”
Con bé đáp mau:
“Thưa bác, có phải tên là Lớn không?”
Ông Tú nghe nhắc nhớ ngay:
“Phải, phải, đúng tên nó là Lớn. Cháu biết nó hả?”
“Thưa bác, Lớn là anh cháu!”
“Bây giờ nó ở đâu? Nó đi làm nghề khác rồi sao?”
Con bé rầu rầu:
“Anh Lớn của cháu chết rồi bác à!”
Ông Tú giật mình, cả hai người con ông Tú nãy giờ
vẫn theo dõi câu chuyện giữa cha với con bé bán vé số nghe Lớn chết đều giật mình. (hai đứa con ông Tú nóí không thạo
nhưng nghe tiếng Việt tạm được, dù nhiều chữ chúng không hiểu)
“Ủa, vì sao Lớn chết hả cháu?”
Con bé rụt rè:
“Thưa bác, có phải bác là bác Tú không?”
“Ừ, sao cháu biết tên bác?”
“Anh Lớn trước khi chết nói với ba má cháu là bữa đó
bác mua vé số cho ảnh, lại cho ăn phở và uống cà-phê. Anh về nhà được một lát
thì bất tỉnh, đưa vào bệnh viện người ta bảo ảnh bị nứt sọ...”
Ông Tú thấy câu chuyện có vẻ dài:
“Vào quán nước kia bác mua nước cho uống rồi kể cho
bác nghe!”
Ông Tú đi trước, con bé bán vé số và hai đứa con ông
Tú theo sau. Ông kiếm một hàng ăn trông sạch sẽ hơn cả. Giờ này khách cũng
thưa. Ông bảo con bé ngồi cùng ba cha con ông vào một cái bàn nhỏ. Cô hầu bàn
nhanh nhẹn đưa thực đơn ra.
Cô chỉ khoảng ngoài đôi mươi, trẻ măng như cô nữ
sinh mới xong trung học. Quần jean, áo sơ mi trắng hở cả bụng, môi bôi son đỏ
lòm. Cô hỏi ông Tú:
“Thưa anh, anh dùng gì?”
Ông Tú thấy cô hầu bàn gọi mình bằng anh thì hơi lạ
và ngượng. Chỉ có con Ti là thấy điều đó còn hai đứa con ông Tú không có phản
ứng chi. Ông Tú bảo cô hầu bàn:
“Cho 5 phút rồi trở lại nhé!”
Cô hầu bàn qua bàn khác. Ông Tú hỏi con bé bán vé
số:
“Tên con là gì?”
“Tên con là Ti, thưa bác.”
“Con ăn gì kêu đi, bác đãi con.”
Ông Tú nói tiếng Anh với hai con. Jennifer và John
cũng cầm Menu lựa thức ăn.
Cô hầu bàn bưng ra bốn ly nước đá lạnh. Cô cầm cuốn
sổ với cây bút trong tay:
“Anh dùng gì?”
Lần này ông Tú không im lặng nữa. Ông bảo cô hầu
bàn:
“Cháu nhìn chú bao nhiêu tuổi mà dám gọi là anh?
Biết chú bao nhiêu không?”
Cô hầu bàn hơi ngượng:
“Thưa..., chủ dặn em hễ đàn ông ai cũng phải gọi là
anh xưng em cho khách vui lòng, cho “boa” nhiều vì...vì nhiều ông cụ Việt kiều
già khú đế bảy tám mươi vẫn còn thích được gọi là anh với em. Em không gọi thế
em bị đuổi! Thông cảm cho em!”
Ông Tú hiểu ra:
“Ừ thì chú thông cảm cho cháu. Nhưng với chú thì nói
trống không thôi chứ đừng anh anh em em, nghe không?”
“Thưa, thưa vâng. Thưa,...gọi món gì ạ?””
Ông Tú bảo:
“Cho chú chả giò rau sống với bún.”
Cô hầu bàn nhìn Jennifer. Jennifer nói:
“Give me also egg roll and noodle, please!”
Cô hầu bàn không hiểu. Ông Tú phải nói:
“Cho Jennifer chả giò giống như của chú!”Quay qua
đứa con trai, “How about you, John?”
“Me too, Dad!”
Con bé Ti thấy đến phiên mình, nó nhìn lên:
“Chị cho em tô bún bò giò heo!”
“Tô lớn, tô nhỏ?”
Con bé Ti chưa kịp nói thì ông Tú bảo nó:
“Tô lớn nhé, ăn không hết để lại.”
“Có huyết hay không có huyết?
“Có, chị.”
Cô hầu bàn đi rồi, ông Tú gợi chuyện:
“Thôi, sắp bữa ăn, bác không cần con kể cho bác nghe
về Lớn. Thế gia đình con ở đâu?”
“Ở hơi xa, thưa bác.”
“Lát nữa con đưa bác về thăm gia đình con nhá!”
“Thưa bác vâng.”
Cô hầu bàn bưng thức ăn lên. Ông Tú bảo Ti:
“Ăn đi con, ăn tự nhiên đi.”
Ông cũng bảo Jennifer và John cầm đũa. Ông gọi cho
mình một ly cà phê sữa, ba ly sữa đậu nành cho hai đứa con và con Ti.
Bốn người vừa bắt đầu ăn thì một người đàn ông chỉ
khoảng ngoài 40 dắt một đứa con trai độ 10 tuổi đến. Người đàn ông tay chân lành
lặn chỉ phải cái quần áo rách nát và quá hôi hám. Anh ta đứng gần ai người đó
phải bịt mũi hoặc chạy xa. Đứa nhỏ chân đi khập khiễng cà giật cà giẹo nhưng mắt
nó láo liên, rà quét trên các bàn xem còn đồ ăn thừa khách bỏ lại. Một cái bàn
cách mấy bước khách mới đứng lên, hầu bàn chưa dọn kịp, thằng nhỏ vuột khỏi tay
người đàn ông cà nhắc lết đến. Nó vồ lấy cái đĩa còn chút đồ ăn, dùng tay bốc bỏ
vào mồm ăn nhồm nhoàm. Chưa nuốt xong miếng đồ ăn, nó chụp tô nước súp còn lưng
tô húp sùm sụp. Người đàn ông đang tả oán xin tiền ông Tú, bỗng thấy thằng nhỏ
sút tay đi ăn đồ thừa, anh ta nổi giận lại chịt lấy hai nách thằng nhỏ quăng nó
ra giữa nhà rồi cứ thế anh ta đạp đánh nó tàn nhẫn, vừa chửi Đ. M. mày, Đ. M. mày
tao đã cho mày ăn đâu mà dám nhào vào ăn hả? Hả? Thằng nhỏ đau quá tru tréo lên:
“Con lậy dượng, con lậy dượng, tha cho con, con đói quá, đừng đánh con nữa…Hu
hu hu.”
Ông Tú phải buông đũa đứng lên. Ông bảo người đàn ông:
“Thôi, anh đừng đánh nó nữa, nó đã què quặt…”
Người đàn ông tỏ vẻ rất lễ phép, anh ta nhìn là biết
ông Tú là Việt kiều:
“Thưa chú, cháu đang xin chú tiền để mua cho cháu và
nó mỗi người bát bún bò thì nó làm như chết đói vậy đó…Từ trưa qua tới giờ cháu
chưa có gì bỏ bụng còn nó thì đã có một khúc bánh mì.”
Nếu ai đi theo thì biết anh ta nói dối. Chính anh ta
có khúc bánh mì thịt còn thằng nhỏ đói meo từ trưa qua tới nay.
Ông Tú bảo:
“Anh và thằng nhỏ lại bàn kia ăn mỗi người tô bún rồi
tôi trả tiền.”
Người đàn ông kéo thằng nhỏ đứng lên tính lại cái bàn
gần bàn ông Tú nhưng rồi lại đổi ý:
“Chú cho cháu tiền, cháu với nó ra ngoài ăn cơm bụi,
đỡ tốn hơn.”
Ông Tú đành phải móc ví lấy tiền Việt trao cho người
đàn ông.
Suốt bữa ăn, ông Tú chỉ nói tiếng Anh với hai con.
Ông để Ti ăn cho ngon miệng. Con bé nghĩ là nó đã lên thiên đường như người ta
hay nói. Bún bò giò heo nó được ăn đã lâu lắm rồi; nó nhớ và thèm nhưng ở đâu
ra 18,000 để nó ăn một tô cho sướng miệng? Tô bún bò năm xưa là do ba nó bữa đó
đi khiêng tủ lạnh cho một người Việt mới ở ngoại quốc về. Ba nó đã nhanh trí
không thì cái tủ lạnh rớt từ xe ba gác xuống, méo mó hết. Vì thế mà ông Việt
kiều thưởng cho ba nó 10 đô-la. Ba bèn
chở cả nhà đi ăn bún bò giò heo một bữa. Vì thế bây giờ nó còn nhớ.
Bữa ăn đã xong, bốn ly nước để trước mặt. Ông Tú hỏi Ti:
“Con còn bao nhiêu vé số?”
“Thưa bác, con mới bán được 15 vé, còn lại 185 vé.”
“Đưa bác coi.”
Nó dùng cả hai tay trao 4 xấp vé số cho ông Tú. Ông
Tú nhìn số tiền 1,000$ trên mỗi tấm vé, ông làm tính nhẩm rồi trao cho Ti 50
đôla:
“Tiền vé của con là 185,000; 50 đô của bác theo thời
giá là 800,000. Số còn lại, bác cho con. Cẩn thận kẻo mất nhé.”
Con Ti đỡ lấy tờ 50 đô, tay nó run run bỏ vào túi
xong cài kim băng cẩn thận. Cả đời nó chưa trông thấy tờ 50 đô Mỹ bao giờ mà
cũng chưa cầm món tiền Việt nào lớn như thế!
Ông Tú lại két thanh toán tiền ăn, ông bỏ tiền “boa”
hậu hĩ trên mặt bàn rồi bảo ba đứa trẻ:
“Thôi ta đi!”
Đứng ở hàng hiên cửa tiệm, ông Tú hỏi Ti:
“Bây giờ con có muốn dẫn bác về cho biết nhà con
không?”
“Dạ được thưa bác.”
Ông Tú kêu chiếc taxi. Xe ép sát bờ lề.
“Về đâu con?” ông Tú hỏi.
Ti đáp cho cả ông tài xế nghe.
“Thưa bác, nhà con ở ngay nghĩa địa “Đồng Sạn”!
Ông Tú hơi ngạc nhiên nhưng không muốn hỏi, ông để
người tài xế lo lái. Khoảng chục km thì xe ngừng, ông Tú móc ví lấy tiền trả
taxi và cho “boa”. Con Ti dẫn ba cha con ông Tú đi cái cổng nhỏ vào trong nghĩa
địa. Đi vòng hẳn ra phía sau nhà xác, Ti chui qua một lùm cây rậm rạp, qua vài
chục cái mả xây rồi luồn vào một ngôi mộ xây hơi lớn hơn những cái khác. Ông Tú
và hai đứa con cũng theo chân Ti. Ông Tú không sao nhưng hai đứa con ông thì có
vẻ ngại ngùng thấy rõ. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ chúng chưa đi luồn vào hang hốc
mồ mả như thế này bao giờ.
Mấy năm gần đây người Việt có sự ưa thích là phải xây
mộ cho người chết cho thật đẹp. Người ở quê thư từ cho thân nhân ở Mỹ hay Âu châu
đề nghị nên xây mồ mả cho ông bà cụ kị bởi “Sống vì mồ vì mả, không sống vì cả
bát cơm”. Nếu về được thì tốt bằng không cứ gửi tiền. Tiền càng nhiều, mồ càng
cao, mả càng dài, lại tô đá rửa, đá mài, có hình người chết và tên tuổi, ngày
tháng sinh và mất. Có Thánh giá hoặc chữ Vạn, có bình bông cắm hoa, có trồng cây
xung quanh. Có con cháu ra viếng mộ mỗi lễ tết hoặc ngày kị, có tụng kinh, đọc
kinh, dâng lễ và ăn uống để tưởng nhớ người quá cố…Nhiều đại gia tiền dư thóc
thừa còn xây cả một ngôi nhà thờ họ vĩ đại như một ngôi chùa có người quản đền
quanh năm hương khói. Làm tổ tiên, ông bà, cụ kị những người giầu có, thế lực cũng
sướng! Trái lại kẻ nghèo kiếm miếng cơm không xong đâu dám nghĩ đến mồ mả tổ tiên
là những thứ quá xa vời với họ.Như nhà con Ti, bố mẹ nó đưa con cái vào đây để đụt
nắng che mưa qua ngày.
Nghĩa trang ở Mỹ không có những ngôi mộ xây. Mộ nào
cũng có một khoảng đất trồng cỏ xanh mướt bằng cái chiếu, phía đầu người quá cố
dựng một cây thập tự trắng trên ghi tên họ, ngày tháng năm sinh và năm mất là
xong. Ngày lễ tưởng niệm mỗi năm, hoặc những lúc muốn thăm viếng, con cháu mang
hoa ra phần mộ đọc kinh, thắp hương tưởng nhớ. Giầu hoặc nghèo, quyền chức hoặc
dân thường nằm chung với nhau, bề ngoài như nhau không làm ai cảm thấy tủi.
Dăm, bảy đứa trẻ đang nô đùa với nhau trong vòng rào
một ngôi mộ khác; chúng thấy Ti, vời Ti vào chơi với chúng nhưng Ti lờ. Rồi Ti
luồn vào phía hông hai ngôi mộ trắng kế nhau. Vài tấm bạt ni-lông xanh căng tựa
vào thành hai ngôi mộ hai bên, dăm ba cái thùng gỗ và cạc tông chắn bên dưới
cho khỏi trống. Cây cọc tre cao vài thước dùng nâng tấm ni-lông lên giống như cái
mái nhà, ngộ có mưa thì nước róc đi. Gió nhỏ nên tấm ni lông chỉ hơi di động. Một
góc bên trong lều là ba hòn gạch làm đầu rau trên có một cái nồi đen thui, củi
tạ ở dưới đang ngún cháy, những mảnh khói ẻo lả bốc lên.
Ti cúi người chui vào gọi cha. Người đàn ông đang nằm
trên một cái ghế bố nhà binh Mỹ, nghe con nói có khách thì nhỏm dậy.
Đó chính là chú Cải, ba thằng Lớn. Chú Cải nhìn ba
cha con ông Tú đứng dưới cái bạt xanh, vừa mừng vừa ngại ngùng, chẳng có chỗ
nào tiếp khách. Ông Tú mau mắn:
“Chào anh, tôi là Tú. Phải anh là ba cháu Ti?”
“Dạ thưa phải, tôi chẳng có chỗ nào để ông ngồi.”
“Tôi còn trẻ như anh. Xin cứ kêu tôi là anh. Tôi gặp
cháu Ti ở bến xe Bình Tây mới biết cháu Lớn đã mất. Tôi đến thăm anh chị và các
cháu. Thế cháu Lớn vì sao mà mất?”
Chú Cải thuật sơ lại từ lúc Lớn về nhà bữa hôm đó,
đem 50 đô la về, nói lại cho tía má nó biết nó đã gặp một ông Việt kiều tên Tú;
ông đã cho ăn phở và uống sữa đậu nành. Rồi Lớn bất tỉnh phải đưa đi nhà thương
cho đến khi an táng.
“Thế nhà anh đâu mà phải ra ở nghĩa địa này?”
“Thưa anh, tôi không có tiền chuộc cái xe để làm
phương tiện nuôi sống gia đình và mỗi tháng phải trả tiền lời 80,000 về số tiền
an táng cho cháu. Sau 6 tháng tôi không trả được đồng lời nào nên họ áp lực
phải ra khỏi nhà để họ lấy nhà.”
“Ủa, cái nhà ấy nhiều tiền hơn số nợ chứ? Họ phải
trả thêm cho anh chứ?”
“Họ nói rằng khi nào họ bán được nhà họ sẽ khấu trừ
hết mọi khoản, còn thì họ mới trả cho mình! Giờ này họ cho người nhà họ vào ở,
biết bao giờ họ bán được? Giả sử họ bán được thì số tiền lời sinh ra quá cả
tiền vốn. Làm gì còn để họ trả lại cho mình, thưa anh?”
“Đúng là những quân ăn cướp!”
“Thưa anh, nhưng họ có...thế lực....”
Thấy trời đã hơi muộn muộn, ông Tú cáo lỗi:
“Tôi đã biết nhà anh ở đây. Vài ngày nữa xong vài
công việc, tôi sẽ trở lại thăm anh và gia đình.”
o0o
Ba cha con ông Tú ra khỏi nghĩa địa vừa lúc trời
chạng vạng tối. Ông kêu taxi để ba cha con trở về khu Lăng cha cả là nơi có nhà
bà dì ruột. Dì ruột ông Tú có hai con trai và ba cô con gái di tản sang Na Uy
từ năm 1982 trong đợt vượt biên chui.
Tất cả 5 người này đều đã có vợ chồng con cái.
Hai bữa sau, ba cha con ông Tú lấy taxi trở lại
nghĩa trang Đồng Sạn. Con bé Ti đi bán vé số chưa về. Thím Cải đi làm mướn cho
một nhà hàng ngày nào cũng tối mịt mới về. Chú Cải thất nghiệp nằm chèo queo ở
nhà còn con Tí cho đi ở giữ em cho một người quen ở Bình Dương. Nó đã 10 tuổi,
con Ti 13 và nếu Lớn còn sống, nó đã 16, có thể đi làm phụ thợ hồ cũng được
ngày hai bữa cơm và dăm chục ngàn, hơn đi bán vé số nhiều.
Ông Tú về kỳ này có vài công việc. Bà mẹ vợ bệnh
trầm trọng hai năm trước (dạo thằng Lớn
bị xe đụng) ông về ở cả tháng bà không khỏi, cũng không đi. Khi ông trở lại Mỹ
được khoảng 10 ngày thì mấy người em báo tin bà qua đời. Dù muốn về đưa mẹ nhưng
ông Tú đã hết vacation, ông đành phải gửi ít tiền về cho mấy người em vợ ông lo
đám ma cho bà già. Vợ ông mất tại Mỹ, cách đây đã dăm năm, ông gà trống nuôi
con cho đến ngày nay. Về Việt Nam hai chuyến, nhiều người mai mối cho ông những
cô gái còn rất trẻ, có nhan sắc và có cô đang học Đại học nhưng ông Tú từ chối.
Ông nói không kham nổi. Ông cũng sợ lại có thêm con ra, rồi con anh, con em nó
đánh con chúng ta thì rất phiền. Có phụ nữ chỉ cần sang Hoa Kỳ, họ chịu mất
tiền cho ông Tú để làm hôn thú giả, sang tới Hoa Kỳ sáu tháng là xé nhưng ông
Tú sợ pháp luật và sợ tù. Ông bảo thôi ít tiền thì chịu vậy, tham ăn tiền đâu
chẳng thấy rước cái lo vào mình.
Việc thứ hai ông Tú cần làm là dò hỏi để kiếm cho vợ
chồng người bạn thân chưa có con một đứa con nuôi. Vợ chồng ông Bào lấy nhau đã
lâu, mong một đứa con nhưng bà vợ không sao có bầu. Họ bàn với ông Tú. Ông Tú
nói hay là kiếm một đứa con nuôi? Hai vợ chồng ông Bào đồng ý giải pháp này
nhưng phân vân không biết nên xin một đứa bế ngửa hay đứa đã lớn?
(còn tiếp)
Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire