Xét
tổng thể, nếu tính từ góc độ những hệ quả địa chiến lược và tầm ảnh
hưởng đối với nghệ thuật quân sự thì cuộc chiến tranh Việt Nam chỉ đứng
sau hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ 20.
Bài
viết của chuyên gia quân sự, Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu chính
trị và quân sự Viện Hàn lâm khoa học Nga A.Khramchikhin - một cách nhìn
từ người ngoài cuộc về cuộc kháng chiến của chúng ta (chính xác đến đâu
ta không bàn tới ở đây).
Không còn nghi ngờ gì
nữa, cuộc chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh mang tính chất
thời đại. Chính cuộc chiến tranh này là một cái mốc đánh dấu giai đoạn
chuyển từ các cuộc chiến tranh cổ điển quy mô lớn sang một hình thái
chiến tranh hoàn toàn mới.
Đây thực sự là một cuộc
chiến tranh “ bốn trong một”: cuộc chiến tranh công nghệ cao đầu tiên
trong lịch sử (Bộ đội phòng không Bắc Việt chống lại Không quân Mỹ),
“cuộc chiến tranh nổi dậy” (du kích Việt Cộng trên lãnh thổ Nam Việt Nam
chống Quân Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng Hòa cùng một số đồng minh),
cuộc chiến tranh cổ điển (Quân chính quy Bắc Việt Nam chống Quân chính
quy Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa), và một cuộc chiến tranh thông tin
quy mô lớn. Đối với nhiều chuyên gia quân sự thì trong cuộc chiến tranh
du kích câu hỏi ai thắng ai đang còn là một vấn đề cần tranh luận.
Trong các cuộc chiến
tranh công nghệ cao và chiến tranh cổ điển thì có thể nói hai bên ở vào
thế ngang ngửa (giằng co) chiến lược- có nghĩa là không bên nào có thể
hạ đo ván đối phương. Tất nhiên, Mỹ đã có thể sử dụng bom nguyên tử
nhưng hiểu rằng điều đó là không cần thiết vì rất nhiều lý do.
Nhưng trong cuộc chiến
tranh thông tin thì Bắc Việt Nam đã chiến thắng một cách xuất sắc. Có lẽ
chiến thắng trong cuộc chiến tranh thông tin đã giúp những người cộng
sản Việt Nam giành chiến thắng trọn vẹn trong cả cuộc chiến tranh nói
chung.
Các phân đội Bắc Việt đã
xâm nhập Nam Việt Nam từ giữa năm 1959. Đến cuối năm sau
(20/12/1960-ND), Mặt trận giải phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập và
ngay sau đó Mặt trận này đã thành lập Quân đội riêng của mình.
Để đối phó, đến mùa xuân
năm 1961, những phân đội Quân chính quy Mỹ đã được đưa tới Miền Nam Việt
Nam để tăng cường cho các cố vấn quân sự Mỹ đã có mặt tại Nam Việt Nam
đến thời điểm đó.
Bắt đầu một cuộc leo
thang chiến tranh cổ điển, - tức là từ xung đột quy mô nhỏ biến thành
một cuộc chiến tranh nổi dậy quy mô lớn trên lãnh thổ Nam Việt Nam.
Những người cộng sản cả Bắc và Nam Việt Nam chiến đấu chống lại Quân đội
Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Việc leo thang chiến
tranh sang lãnh thổ Bắc Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian, bởi vì nếu
không chia cắt được (cắt đứt chi viện) Nam Việt Nam với Bắc Việt Nam
thì (Mỹ và Việt Nam Cộng hòa) không thể nào chiến thắng được du kích Nam
Việt Nam.
Và thời điểm đó đã đến –
ngày 02/8/1964, một sự kiện nổi tiếng với tên gọi “ sự kiện Vịnh Bắc bộ ”
đã xảy ra – các tàu phóng lôi Bắc Việt Nam tấn công các tàu khu trục
Mỹ. Rất có thể là đã không hề xảy ra một cuộc tấn công nào trên thực tế.
Chỉ đơn giản là vì hai bên đã không thể không đánh nhau được nữa.
Cho đến thời điểm xảy ra sự kiện “Vịnh Bắc bộ”, du kích Miền Nam đã kiểm soát 2/3 lãnh thổ và dân chúng Nam Việt Nam.
Nói chung, người Mỹ chỉ
hạn chế ở việc sử dụng các đòn tấn công (Bắc Việt Nam) từ trên không.
Quả thực, dùng từ “hạn chế” ở đây cũng không ổn lắm. Thực sự là đã không
có bất kỳ một “hạn chế” nào (dĩ nhiên, ngoại trừ việc sử dụng vũ khí
hạt nhân).
Việt Nam đã phải phải
hứng chịu một khối lượng bom nhiều hơn bất kỳ một quốc gia nào trong
toàn bộ cuộc chiến tranh (7,5 triệu tấn). Tất nhiên, về phía mình Không
quân Mỹ cũng phải gánh những tổn thất không hề nhỏ một chút nào.
Cũng như không ai giấu diếm sự tham gia của các quân nhân chúng ta (Liên Xô) trong các hoạt động tác chiến tại Việt Nam.
Nhưng
không phải của các phi công mà là của các chiến sỹ tên lửa. Khác với
pháo cao xạ và MiG, người Việt Nam nắm bắt việc sử dụng tên lửa khó khăn
hơn. Chính vì vậy mà ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh (phá hoại
bằng không quân của Mỹ -ND), chính các chiến sỹ tên lửa Liên Xô đã sử
dụng S-75.
Những
quả tên lửa S-75 đầu tiên được phóng trên lãnh thổ Việt Nam là vào ngày
25/7/1965 – các tổ hợp tên lửa của Trung đoàn tên lửa phòng không số
236 Quân khu phòng không Matxcova (đang có mặt tại Việt Nam) đã bắn hạ
03 chiếc F-4 “Con ma”.
Không
quân Mỹ có vinh dự là Lực lượng không quân đầu tiên trên thế giới đối
đầu với các đợt tấn công bằng tên lửa phòng không ồ ạt. Cho đến tận ngày
cuối cùng của chiến tranh (Việt Nam) - phải nói rằng trên thực tế đã
diễn ra một cuộc chiến thực sự giữa các bộ não của các Trung tâm nghiên
cứu khoa học và các phòng thiết kế Xô Viết và Mỹ.
Chính
họ (các nhà khoa học và thiết kế) là người góp phần quyết định ai mạnh
hơn – không quân hay bộ đội tên lửa phòng không. Hiệu quả tác chiến rất
cao thời kỳ đầu (tức là số lượng tên lửa phải sử dụng để tiêu diệt một
máy bay) của S-75 đã giảm xuống nhiều lần do Mỹ sử dụng phương tiện tác
chiến điện tử, tên lửa chống radar và các chiến thuật mới.
Mặc
dù vậy, người Mỹ vẫn không thể nào giải quyết được vấn đề các tổ hợp
tên lửa phòng không (của Bắc Việt Nam-ND). Đến nay, phía Mỹ đã chính
thức thừa nhận tổn thất của Mỹ từ S-75 (sau đây lần lượt xếp theo các
kiểu máy bay) như sau:
15
máy bay ném bom chiến lược B-52, 02 hoặc 03 máy bay ném bom chiến thuật
F-111, 32 máy bay tiêm kích F-4, 08 F-105, 01 F-104, 11 F-8, 04 máy bay
trinh sát RB-66, 05 RF-101, 01 O-2, 26 máy bay cường kích A-4, 09 A-6,
18 A-7, 03 A-3, 03 A-1, 01 AC-130, 01 máy bay vận tải C-123, 01 máy bay
lên thẳng CH-53.
Thiệt
hại trên thực tế chắc chắn phải cao gấp nhiều lần (số lượng tối đa máy
bay Mỹ bị các tổ hợp tên lửa phòng không (Bắc Việt Nam-ND) bắn rơi
-1.770 chiếc), nhưng bây giờ thì đã rất khó xác định (và cũng không nhất
thiết phải làm thế).
Tổng
cộng từ năm 1965 đến năm 1972 Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 95 tiểu
đoàn (cơ số đạn và tổ hợp phóng –ND) S-75 và 7.658 quả tên lửa phòng
không.
Đến
cuối chiến tranh đã có 6.806 quả đạn đã sử dụng và bị mất (trên lãnh
thổ Trung Quốc), lực lượng còn sẵn sàng chiến đấu đến thời điểm kết thúc
chiến tranh – 43 tiểu đoàn.
Ngoài
ra, vào giai đoạn cuối chiến tranh chống Không quân Mỹ, tổ hợp tên lửa
phòng không vác vai “ Strela-2” cũng được bắt đầu sử dụng. Từ đầu năm
1972 đến tháng 01/1973, các chiến sĩ cộng sản Việt Nam đã dùng
“Strela-2” bắn hạ 29 máy bay Mỹ (01 F-4, 07 O-1, 03 O-2, 04 OV-10, 09
A-1, 04 A-37) và 14 máy bay lên thẳng ( 01 CH-47, 04 AH-1, 09 UH-1).
Ngoài
các chiến sỹ tên lửa phòng không Liên Xô, đặc nhiệm GRU (Tổng cục Tình
báo quân sự Bộ Tổng tham mưu Các lực lượng vũ trang Liên Xô-ND) cũng
tham gia chiến đấu tại Việt Nam, tuy không được công bố công khai nhưng
cũng không ai giấu diếm thái quá.
Ví
dụ, tháng 5/1968 một nhóm đặc nhiệm GRU gồm 9 người đã tấn công một căn
cứ bí mật của Mỹ trên lãnh thổ Campuchia có biệt danh “Flying John”
được sử dụng để tung các nhóm gián điệp- biệt kích vào Bắc Việt Nam và
cứu các phi công của các máy bay Mỹ bị bắn hạ.
Trong
căn cứ này có gần 20 máy bay lên thẳng, trong đó có 04 chiếc máy bay
lên thẳng tấn công mới nhất thời kỳ đó là “ SuperCobra”. Tuy bị hy sinh
03 người, nhưng đặc nhiệm GRU đã đưa được 01 chiếc “Super Cobra” về Bắc
Việt Nam, phá hủy hoặc phá hỏng những chiếc còn lại, giết và làm bị
thương 15 quân nhân Mỹ. Còn bao nhiêu chiến dịch như vậy, rất khó xác
định.
Con
số tổn thất trong tác chiến của Các lực lượng vũ trang Liên Xô trên
lãnh thổ Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 7/1965 đến cuối năm 1974 được
công nhận chính thức là 13 người.
Nhưng
tất nhiên, chính người Việt Nam mới là người giành chiến thắng trong
chiến tranh. Giai đoạn bước ngoặt của cuộc chiến có lẽ là năm 1968. Lần
đầu tiên trong lịch sử người ta mới “ngộ” ra rằng, những hình ảnh trên
truyền hình về chiến tranh có khi còn quan trọng hơn cả chính chiến
tranh.
Ngày 30/01/1968, 84.000 du kích Nam Việt
Nam và các chiến sỹ Bắc Việt đã bắt đầu cuộc Tổng tấn công “Tết Mậu
thân”, công kích mãnh liệt 36 trong 43 tỉnh lỵ Nam Việt Nam. Các chiến
sĩ cộng sản đã chiếm cố đô Huế, những trận chiến ác liệt diễn ra ngay
trên các đường phố Sài gòn.
Toàn
nước Mỹ được tận mắt chứng kiến những hình ảnh này trên màn hình TV
ngay trong nhà của mình. Và đến lúc này thì không ai và không cái gì có
thể thuyết phục được người dân Mỹ nữa – mọi công dân Mỹ đã hiểu rằng
người Mỹ đã thua và cần phải nhanh chóng chấm dứt cuộc chiến.
Đến
đầu năm 1968 thì lực lượng của Quân đội Mỹ, Quân đội Việt Nam Cộng hòa,
Quân đội Úc, Quân đội Nam Hàn đang có tại Nam Việt Nam là 17 sư đoàn bộ
binh, 02 sư đoàn lính thủy đánh bộ, 02 sư đoàn kỵ binh (đường không) –
tổng cộng 1,4 triệu tay súng (trong đó có hơn nửa triệu quân Mỹ- chính
xác hơn là 550.000 ), 500 xe tăng, 4.500 khẩu pháo, 4.100 máy bay và máy
bay lên thẳng.
Chiến
dịch Mậu Thân này đã làm suy yếu rất mạnh tiềm lực tác chiến của những
người cộng sản. Nhưng bản thân một cuộc tấn công quy mô lớn như vậy (vào
các đô thị lớn –ND) cũng làm cho tâm lý –tinh thần của người Mỹ suy sụp
không kém.
Không
những thế, một nhóm (đại đội-ND) binh sỹ Mỹ của sư đoàn bộ binh số 23
dưới sự chỉ huy của trung úy Calley đã thảm sát dân thường tại làng Mỹ
Lai (Sơn Mỹ- nổi tiếng toàn thế giới với cái tên này). Quân nhân Mỹ đã
sát hạt toàn những người dân thường vô tội.
Các
quân nhân của quân đội chính quy (Mỹ-ND) không có kinh nghiệm tác chiến
chống du kích, hơn nữa là chống lại một đối phương cực kỳ thông minh và
cũng cực kỳ cứng rắn như những người du kích cộng sản Việt Nam, - họ
(những người du kích -ND) chiến đấu trong những điều kiện tự nhiên, khí
hậu địa hình quen thuộc (của họ) nhưng lại hoàn toàn xa lạ đối với quân
Mỹ.
Vụ
thảm sát Sơn Mỹ đã tạo ra những sự thay đổi lớn trong Các lực lượng vũ
trang Mỹ . Lầu Năm góc buộc phải ra một sắc lệnh yêu cầu các quân nhân
Mỹ phải tuyệt đối tuân thủ các chuẩn mực của luật chiến tranh. Nhưng
điều đó đã quá muộn. Uy tín của Quân đội Mỹ đã sụp đổ trong con mắt của
toàn thế giới và ngay chính cả trong nhân dân Mỹ.
Nhưng
vấn đề chính của người Mỹ lúc này không chỉ còn là sự xâm nhập của lính
Bắc Việt vào Miền Nam mà còn là sự tha hóa ngay từ bên trong. Cũng chỉ
trong năm 1969, 37 sỹ quan và hạ sỹ quan Mỹ đã bị chính các binh sỹ dưới
quyền bắn (giết) chết.
Trước đây trong Quân đội
Mỹ chưa từng có trường hợp nào như vậy. Còn ngay trong lòng nước Mỹ thì
hiện tượng lính quân dịch (nghĩa vụ- ND) đào ngũ và các hoạt động phản
chiến của nhân dân Mỹ đã trở thành một phong trào không thế nào ngăn
chặn được.
Cuộc chiến tranh thông
tin đã thất bại hoàn toàn (đối với Chính quyền Mỹ) và chính vì thế mà
những thắng lợi quân sự (trong năm 1969) đã không còn một chút ý nghĩa
nào.
Chính quyền Mỹ nhận thức
được rằng trong một đất nước “dân chủ” thì không thể sử dụng một đội
quân “nghĩa vụ” để tiến hành một cuộc chiến tranh mà dư luận xã hội (của
đất nước đó-ND) không thể chấp nhận (cuộc chiến tranh đó-ND).
Đây là lý do vì sao mà
ngay sau khi kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam, Chính quyền Mỹ đã bãi
bỏ chế độ quân dịch và xây dựng Quân đội chuyên nghiệp.
Những thử nghiệm trong
hơn 50 năm qua cho thấy (ví dụ gần đây nhất là Iraq và Pakistan) là một
quân đội đánh thuê (chuyên nghiệp-ND) không thể tiến hành chiến tranh,
nếu như không được dư luận xã hội của nước mình chấp nhận (cuộc chiến
tranh đó- ND).
Có nghĩa là nếu như một
đất nước nào đó có dân chủ thì đất nước đó chỉ có thể tiến hành một kiểu
chiến tranh duy nhất – đó là một cuộc chiến tranh phòng thủ chính nghĩa
(hoặc là không có một cuộc chiến tranh nào).
Nếu như chính phủ muốn
tiến hành một cuộc chiến tranh kiểu khác thì họ buộc phải lựa chọn giữa
chiến tranh hoặc dân chủ hoặc là phải học được cách đánh nhau mà không
có tổn thất (đây là tư duy của tác giả - ông là người rất phản đối thành
lập một đội quân chuyên nghiệp-ND).
Trong các năm 1970 -1971,
người Mỹ đã tiến hành các đợt đột kích sang lãnh thổ Lào và Campuchia
nhằm cắt đứt tuyến chi viện từ Bắc vào Nam. Cuộc tấn công vào Campuchia
mang lại một số kết quả hạn chế, nhưng vụ can thiệp vào Lào đã thất bại
thảm hại. Sau các sự kiện đó, Hà nội quyết định là phải giải quyết dứt
điểm vấn đề.
Ngày 31/3/1972, một đội
quân Bắc Việt Nam quân số không ít hơn 40.000 người và 400 xe tăng –
thiết giáp đã tấn công Nam Việt Nam.
Đây thực sự là một cuộc
chiến tranh cổ điển điển hình giữa các quân đội chính quy. Sau nhiều
trận giao tranh ác liệt, Lực lượng cộng sản đã chiếm được một vùng lãnh
thổ rộng lớn ở phía Bắc Nam Việt Nam nhưng cũng chịu tổn thất nặng. Đến
nỗi mà thời điểm mà Hà nội lên kế hoạch “Tổng tiến công” được xác định
là vào tận năm 1976 (tức 4 năm sau đó).
Nhưng trên thực tế, những
người cộng sản Việt Nam đã đạt những điều mình muốn (qua đợt tấn công
này-ND), Mỹ buộc phải quyết định rút hoàn toàn lính Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Tuy nhiên trước khi (ra khỏi nhà) rút người Mỹ cũng đã đóng sập cửa rất
mạnh bằng cách tiến hành một đợt không kích ồ ạt chống lại Bắc Việt Nam
(chiến dịch “Linebacker-2”) và tự tuyên bố là đã chiến thắng để giữ thể
diện.
Trong chiến dịch này Mỹ
đã ném xuống Bắc Việt Nam gần 50.000 tấn bom, phá hủy 1.600 công trình.
Nhưng cũng trong chiến dịch này Không quân Việt Nam, tuy mất 03 chiếc
MiG-2 1 những đã hạ 02 B-52, 04 F-4, 01 RA-5C.
Các tổ hợp tên lửa phòng
không S-75 đã bắn hạ, theo các số liệu khác nhau là từ 15 đến 32 B-52,
02 F-111, 02 F-4 trong khi chịu tổn thất là 01 tiểu đoàn (tên lửa phòng
không S-75). Có lẽ vì thế mà cái gọi “ chiến thắng” mà Mỹ tự nhận trong
chiến dịch này hoàn toàn không thuyết phục một chút nào.
Đầu
năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ đã phải trả giá bằng 58.169 binh sỹ và sỹ
quan thiệt mạng hoặc mất tích, hơn 200 xe tăng, 3.700 máy bay, 4.800
máy bay lên thẳng, hàng trăm tỷ đô la “cuốn theo chiều gió” và một cú
sốc tâm lý cực mạnh.
Người Mỹ rút đi nhưng để lại cho Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa một khối lượng vũ khí khổng lồ.
Quân đội Nam Việt Nam về
mặt hình thức đã là một trong những quân đội mạnh nhất trên thế giới
(nếu tính về số lượng máy bay chiến đấu thì Quân đội này đứng thứ ba
trên thế giới, chỉ sau Quân đội Mỹ và Quân đội Liên Xô) và hơn Quân đội
Bắc Việt Nam nhiều lần nếu tính về quân số và vũ khí- trang bị kỹ thuật.
Nhưng điều đó đã không còn ý nghĩa gì nữa.
Số phận Chính quyền Nam
Việt Nam đã được định đoạt, và có lẽ những người (cầm quyền) ở Sài gòn
có khi còn hiểu rõ hơn là ở Hà Nội. (Những người cầm quyền) ở Sài Gòn
hiểu rằng người Mỹ sẽ không bao giờ quay trở lại và chỉ còn chờ ngày kết
thúc. Yếu tố tâm lý tỏ ra quan trọng hơn nhiều so với số lượng và chất
lượng vũ khí.
Nhờ có các căn cứ ở Lào
và Campuchia mà quân Bắc Việt có thể tấn công lãnh thổ Nam Việt Nam đồng
thời trên toàn bộ tuyến biên giới (với hai nước này).
Tháng 3/1975, khi Khi
quân Bắc Việt tấn công Tây Nguyên, Sài Gòn cho rằng đây là một cuộc tổng
tấn công nhằm chia cắt Nam Việt Nam thành hai phần. Vì thế họ đã tập
trung lực lượng quanh thủ đô (Sài Gòn), gần như tự nguyện nhường toàn bộ
phía Bắc (Nam Việt Nam-ND) cho lực lượng cộng sản.
Nhưng bất hạnh (đối với
Chính quyền Sài Gòn –ND ) là ở chỗ chính khu vực phía Bắc (Nam Việt
Nam-ND) lại là nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ nhất của Quân đôi
Sài Gòn. Cuộc “di tản” các lực lượng này đã nhanh chóng biến thành một
cuộc tháo chạy hỗn loạn.
Nắm được thời cơ, Hà Nội
không còn một chút do dự gì nữa, tất cả các mặt trận đồng loạt tấn công
và lúc này thì không ai và không cái gì có thể ngăn cản nổi. Quân đội
Việt Nam Cộng Hòa tan rã. Đúng 11 giờ trưa ngày 30/4/1975, lá cờ có ngôi
sao vàng được kéo lên trên đỉnh nóc Dinh tổng thống ở Sài Gòn.
Xét tổng thể, nếu tính từ
góc độ những hệ quả địa chiến lược và tầm ảnh hưởng đối với nghệ thuật
quân sự (thế giới-ND) thì cuộc chiến tranh Việt Nam chỉ đứng sau hai
cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ 20 (Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất và Chiến tranh thế giới lần thứ hai-ND).
Sau khi chiến tranh Việt
Nam kết thúc thì hình thái chiến tranh cổ điển này càng lùi sâu vào quá
khứ. Thay thế hình thái chiến tranh này (chiến tranh cổ điển-ND) là cuộc
chiến tranh công nghệ cao và phương án đáp trả phi đối xứng đối với nó
(công nghệ cao-ND) là các cuộc chiến tranh nổi dậy ( du kích-khủng bố).
Ngoài ra, chiến tranh thông tin ngày càng có ý nghĩa quan trọng, đôi khi còn thay thế hoàn toàn các hình thái chiến tranh khác.
Theo ĐẤT VIỆT
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire