Cám ơn anh Quách Vĩnh Thiện.
Caroline Thanh Hương
Tháng 11 - 2001 Số 1
Truyện trò với đầu lâu - Lê Phụng
Nhấn vào đường dẫn bên trái để vaò đọc bài trong Truyền Thông.
Nói Với Người Chết |
Thăm Mả Cũ Bên Đường - Tản Đà Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh - Nguyễn Du |
Về Với Đạo |
Nam Hoa Kinh - Trang Tử Phóng Cuồng Ngâm - Trần Tung |
Hòa Ca Tín Ngưỡng |
Đạo Ý - Nguyễn Du Lương Thái Tử Phân Kinh Thạch Đại - Nguyễn Khuyến Kinh Vu Lan Bồn - Kinh Cầu Hồn |
Hiện Sinh và Cái Chết |
Đời Đáng Chán Hay Không Đáng Chán - Tản Đà |
Nhị Trùng và Đức Tin |
Hồn Là Ai, Ave Maria - Hàn Mạc Tử |
Thư của Ban Thường Vụ | Phạm Hữu Trác |
Lời Giới Thiệu |
T.M. Nhóm Chủ Trương Phạm Hữu Trác |
Cùng trong mạch
văn truyện trò với người quá cố, sách Nam Hoa Kinh, của Trang Tử, chương XVII,
tựa đề Chí Lạc, bản dịch của Nhượng Tống, chép truyện sau đây:
Thầy Trang
sang Sở, thấy cái đầu lâu rỗng, có hình trọc lốc, xâu bằng chiếc roi ngựa, nhân
mà hỏi rằng:
- Kìa ngươi tham sống mất lẽ, mà đến nỗi này chăng? Hay ngươi có truyện mất nước, có tội búa rìu mà đến nỗi này chăng? Hay ngươi có nết chẳng hay, thẹn nỗi để xấu cho cha mẹ vợ con mà đến nỗi này chăng? Hay ngươi chết đói chết rét mà đến nỗi này chăng? Hay vì xuân thu ngươi đã đáng thế này chăng?
Nói thế rồi, với chiếc đầu lâu làm gối mà nằm. Nửa đêm đầu lâu hiện lên trong chiêm bao mà rằng:
- Lời ngươi nói giống như kẻ biện sĩ.. Phàm những truyện ngươi nói, đều là lụy cho đời người. Chết thì không có những cái ấy. Ngươi muốn nghe thuyết chết chăng?
Thầy Trang đáp:
- Phải!
Đầu lâu nói:
- Chết thì không vua ở trên, không tôi ở dưới. Cũng không có truyện bốn mùa. Theo đó lấy trời Đất làm Xuân Thu. Dù cái sung sướng của kẻ ngoảnh mặt sang Nam mà làm vua cũng không thể hơn được.
Thầy Trang không tin hỏi:
- Tôi sai thần Tư Mệnh lại làm sống lại hình người, cho ngươi nẩy ra xương thịt da dẻ; trả lại cho cha mẹ, vợ con, làng xóm kẻ quen biết cho ngươi, ngươi muốn thế chăng?
Đầu lâu cau mày, nhăn trán mà rằng:
- Tôi sao có thể bỏ cái sung sướng của ông vua quay mặt sang nam, mà lại chịu cái khó nhọc ở nhân gian.
Trang Tử tên
là Trang Châu, theo truyền thuyết sống trong thời Chiến Quốc, khoảng 369-289
trước Công Nguyên. Tư Mã Thiên dành một chương trong sách Sử Ký viết về Trang Tử,
nói rằng Trang Tử người xứ Mông, nhưng không ghi là người nước nào. Sau này nhiều
học giả viết về Trang Tử, có người nói xứ Mông thuộc nước Lương, có người nói
thuộc nước Tống, cùng thời với Mạnh Tử, Huệ Tử tại Trung Quốc và với Aristote,
Zénon, Epicure tại Âu Châu.
Sự tích Trang Tử rất mơ hồ, chỉ biết là ông sống trong cảnh thanh bần, gần như cơ hàn, nhưng luôn luôn thanh thản trong cảnh tiêu dao, không chịu bó thân ra làm quan. Ông đánh bạn với Huệ Tử người nước Tống, dầu tư tưởng hai người trái ngược nhau rất xa. Trang Tử để lại bộ Nam Hoa Kinh gồm 33 thiên. Quách Tượng chia làm ba phần: nội thiên gồm 7 thiên, ngoại thiên gồm 15 thiên và tạp thiên gồm 11 thiên. Căn cứ trên mạch văn thì 7 nội thiên biểu thị những nét trọng yếu của học thuyết Trang Tử, ngoại thiên và tạp thiên phần nhiều bàn rộng những vấn đề đã phô diễn trong nội thiên. Nhiều người cho rằng ngoại thiên và tạp thiên do nhiều người khác viết . Tuy nhiên cũng có nhiều đoạn có tư tưởng cùng văn phong không kém gì nội thiên. Bản Nam Hoa Kinh do Quách tượng để lại la bộ cổ nhất nay con sót lại.
Cái học của Trang Tử bắt nguồn từ sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nhưng cũng có nhiều điều khác biệt. Sách của Lão Tử phổ thông tại Trung Quốc ngay từ thời Tiền Hán (206 TCN-9SCN) và sách của Trang Tử mãi tới đời Hậu Hán (25-220) mới được phổ biến. Đến cuối đời Hán, học thuyết của Lão Tử và Trang Tử gồm chung thành kinh sách Lão Trang. Người nay phân tách thấy rằng sách của Lão Tử dành cho các nhà cầm quyền trị nước đương thời với giải pháp vô vi , và sách của Trang Tử giúp con người thoát khỏi truyện giàng buộc chốn nhân gian. Chỗ tương đồng giữa Lão và Trang là cùng có nhiều điểm tương phản với những học thuyết đương thời.
Ngày nay, sách của Trang Tử không những vẫn là nguồn cảm hứng của văn thi sĩ Đông Á mà còn là nguồn cảm hứng của giới văn nghệ sĩ Âu Mỹ trong dòng văn học tục tiền tiến, muốn sáng tác ngoài lề lối phép tắc của triết học, khoa học, xã hội cũng như tôn giáo. Cách thức đọc sách Trang Tử vì thế thay đổi nhiều để hợp với ước mong kể trên.
Lời Trang Tử đối thoại với đầu lâu đối chiếu với bài văn tế của Nguyễn Du và bài thơ của Tản Đà cho thấy là Trang Tử, quả như lời Lê Quý Đôn viết trong Vân Đài Loại Ngữ , thực là ông tổ thi văn Đông Á.
Điểm đáng chú ý là kết luận của ba bản văn hướng theo ba ngả khác hẳn nhau.
Bắt đầu là kết luận của đoạn văn trò truyện với đầu lâu của Trang Tử.
Các nhà bình Nam Hoa Kinh danh tiếng như Quách Tượng thời thế kỷ IV cũng như Tân Điền Tả Hữu Cát, Tsuda Saukichi, đời nay đều cho là truyện này không phải do Trang Tử sáng tác, vì lẽ nội dung câu truyện xa lạ so với toàn thể Nam Hoa Kinh. Ngoài ra trong đoạn cuối người viết sơ suất cho chiếc đầu lâu xương khô còn cả lông mày đễ nheo mắt, cũng như còn lưỡi để nói và còn khả năng hưởng thụ niềm vui của cái sống gắn liền với cái chết.
Nhưng nếu để những nhận xét thực tế đó sang bên, như Trang Tử thường làm trong việc sáng tác Nam Hoa Kinh, và chỉ đọc riêng câu truyện, người đọc chợt thấy rằng chính mình mang suốt đời trên cổ chiếc đầu lâu của mình. Chính mình nheo cặp lông mày, và chính mình đang sống lúc này và vẫn mang theo cái chết bên mình. Như vậy người đọc tự giải thoát khỏi giàng buộc của sách vở cổ kim bàn về Trang Tử .
Điều phê phán sách Trang Tử trên đây cũng hoàn tất một chức năng khác: nhận xét căn cứ trên thực tế khiến người đọc nhận thấy mạch văn trong truyện tách rời thực tế. Việc tách rời thực tế này phải chăng là ý muốn của tác giả muốn nói với người đọc về những điều vượt ra ngoài thực tại?
Quan điểm vui cái sống gắn liền với cái chết là điều Trang Tử nhiều lần bàn tới. Ngoại thiên Chí Lạc chép truyên quen thuộc sau đây, thường gọi là truyện Trang Tử gõ bồn:
Sự tích Trang Tử rất mơ hồ, chỉ biết là ông sống trong cảnh thanh bần, gần như cơ hàn, nhưng luôn luôn thanh thản trong cảnh tiêu dao, không chịu bó thân ra làm quan. Ông đánh bạn với Huệ Tử người nước Tống, dầu tư tưởng hai người trái ngược nhau rất xa. Trang Tử để lại bộ Nam Hoa Kinh gồm 33 thiên. Quách Tượng chia làm ba phần: nội thiên gồm 7 thiên, ngoại thiên gồm 15 thiên và tạp thiên gồm 11 thiên. Căn cứ trên mạch văn thì 7 nội thiên biểu thị những nét trọng yếu của học thuyết Trang Tử, ngoại thiên và tạp thiên phần nhiều bàn rộng những vấn đề đã phô diễn trong nội thiên. Nhiều người cho rằng ngoại thiên và tạp thiên do nhiều người khác viết . Tuy nhiên cũng có nhiều đoạn có tư tưởng cùng văn phong không kém gì nội thiên. Bản Nam Hoa Kinh do Quách tượng để lại la bộ cổ nhất nay con sót lại.
Cái học của Trang Tử bắt nguồn từ sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nhưng cũng có nhiều điều khác biệt. Sách của Lão Tử phổ thông tại Trung Quốc ngay từ thời Tiền Hán (206 TCN-9SCN) và sách của Trang Tử mãi tới đời Hậu Hán (25-220) mới được phổ biến. Đến cuối đời Hán, học thuyết của Lão Tử và Trang Tử gồm chung thành kinh sách Lão Trang. Người nay phân tách thấy rằng sách của Lão Tử dành cho các nhà cầm quyền trị nước đương thời với giải pháp vô vi , và sách của Trang Tử giúp con người thoát khỏi truyện giàng buộc chốn nhân gian. Chỗ tương đồng giữa Lão và Trang là cùng có nhiều điểm tương phản với những học thuyết đương thời.
Ngày nay, sách của Trang Tử không những vẫn là nguồn cảm hứng của văn thi sĩ Đông Á mà còn là nguồn cảm hứng của giới văn nghệ sĩ Âu Mỹ trong dòng văn học tục tiền tiến, muốn sáng tác ngoài lề lối phép tắc của triết học, khoa học, xã hội cũng như tôn giáo. Cách thức đọc sách Trang Tử vì thế thay đổi nhiều để hợp với ước mong kể trên.
Lời Trang Tử đối thoại với đầu lâu đối chiếu với bài văn tế của Nguyễn Du và bài thơ của Tản Đà cho thấy là Trang Tử, quả như lời Lê Quý Đôn viết trong Vân Đài Loại Ngữ , thực là ông tổ thi văn Đông Á.
Điểm đáng chú ý là kết luận của ba bản văn hướng theo ba ngả khác hẳn nhau.
Bắt đầu là kết luận của đoạn văn trò truyện với đầu lâu của Trang Tử.
Các nhà bình Nam Hoa Kinh danh tiếng như Quách Tượng thời thế kỷ IV cũng như Tân Điền Tả Hữu Cát, Tsuda Saukichi, đời nay đều cho là truyện này không phải do Trang Tử sáng tác, vì lẽ nội dung câu truyện xa lạ so với toàn thể Nam Hoa Kinh. Ngoài ra trong đoạn cuối người viết sơ suất cho chiếc đầu lâu xương khô còn cả lông mày đễ nheo mắt, cũng như còn lưỡi để nói và còn khả năng hưởng thụ niềm vui của cái sống gắn liền với cái chết.
Nhưng nếu để những nhận xét thực tế đó sang bên, như Trang Tử thường làm trong việc sáng tác Nam Hoa Kinh, và chỉ đọc riêng câu truyện, người đọc chợt thấy rằng chính mình mang suốt đời trên cổ chiếc đầu lâu của mình. Chính mình nheo cặp lông mày, và chính mình đang sống lúc này và vẫn mang theo cái chết bên mình. Như vậy người đọc tự giải thoát khỏi giàng buộc của sách vở cổ kim bàn về Trang Tử .
Điều phê phán sách Trang Tử trên đây cũng hoàn tất một chức năng khác: nhận xét căn cứ trên thực tế khiến người đọc nhận thấy mạch văn trong truyện tách rời thực tế. Việc tách rời thực tế này phải chăng là ý muốn của tác giả muốn nói với người đọc về những điều vượt ra ngoài thực tại?
Quan điểm vui cái sống gắn liền với cái chết là điều Trang Tử nhiều lần bàn tới. Ngoại thiên Chí Lạc chép truyên quen thuộc sau đây, thường gọi là truyện Trang Tử gõ bồn:
Vợ thầy
Trang chết. Thầy Huệ sang thăm, Thì thầy Trang ngồi xổm, gõ bồn mà hát. Thầy Huệ
hỏi:
- Bác ở cùng người ta mãi đến lúc mình già, chết không khóc, cũng đủ rồi! Lại gõ bồn mà hát, chẳng cũng quá lắm sao?
Thầy Trang đáp:
- Không phải thế, riêng tôi đâu có thể không ngậm ngùi. Nhưng xét ban đầu hắn vốn không có sống...Chẳng những không có sống, mà còn vốn không có hình... Chẳng những không có hình, mà còn vốn không có khí. Lẫn ở giữa khoảng lờ mờ, biến mà có khí. Khí biến mà có hình. Hình biến mà có sống. Nay lại biến mà sang chết. Những cái đó cùng nhau làm Xuân, Thu, Đông, Hạ, bốn mùa thường đi. Người đương nằm khểnh ngủ ở trong nhà lớn, mà ta lu loa theo mà khóc lóc, tôi tự cho thế là chẳng hiểu về mệnh, cho nên thôi.
- Bác ở cùng người ta mãi đến lúc mình già, chết không khóc, cũng đủ rồi! Lại gõ bồn mà hát, chẳng cũng quá lắm sao?
Thầy Trang đáp:
- Không phải thế, riêng tôi đâu có thể không ngậm ngùi. Nhưng xét ban đầu hắn vốn không có sống...Chẳng những không có sống, mà còn vốn không có hình... Chẳng những không có hình, mà còn vốn không có khí. Lẫn ở giữa khoảng lờ mờ, biến mà có khí. Khí biến mà có hình. Hình biến mà có sống. Nay lại biến mà sang chết. Những cái đó cùng nhau làm Xuân, Thu, Đông, Hạ, bốn mùa thường đi. Người đương nằm khểnh ngủ ở trong nhà lớn, mà ta lu loa theo mà khóc lóc, tôi tự cho thế là chẳng hiểu về mệnh, cho nên thôi.
Thiên XXII,
Trí Bắc Du, chép:
Sống là bạn
của chết. Chết là đầu của sống [...] Cái sống của người ta là sự họp lại của
khi. Họp lại thì là sống. Tan ra thì là chết. Nếu sống chết là bạn, ta lại lo
gì
Như vậy theo
quan điểm của Trang Tử thì sống chết cùng một thể, thế nên cứ vui sống cái sống
gắn liền với cái chết.
Chiếc đầu lâu có cặp lông mày sống với trời đất, lấy trời đất làm Xuân Thu, sung sướng như ông Vua trên ngai vàng. Đó là cái vui của đầu lâu trong cuộc sống thực tại mà Trang Tử nhận ra. Đến đêm Trang Tử dùng đầu lâu làm gối, niềm vui của đầu lâu truyền sang Trang Tử, tạo ra cuộc trò truyện trong mơ giữa Trang Tử và đầu lâu. Cuộc trò truyện này là cuộc trò truyện giữa cái ta của đầu lâu với niềm tư duy hóa cùng muôn vật của Trang Tử. Cuộc đối thoại này cũng tương tự như cuộc đối thoại giừa Tử Tự, Tử Dư, Tử Lai chép trong thiên VI, Đại Tông Sư trong nội thiên sách Nam Hoa Kinh:
Chiếc đầu lâu có cặp lông mày sống với trời đất, lấy trời đất làm Xuân Thu, sung sướng như ông Vua trên ngai vàng. Đó là cái vui của đầu lâu trong cuộc sống thực tại mà Trang Tử nhận ra. Đến đêm Trang Tử dùng đầu lâu làm gối, niềm vui của đầu lâu truyền sang Trang Tử, tạo ra cuộc trò truyện trong mơ giữa Trang Tử và đầu lâu. Cuộc trò truyện này là cuộc trò truyện giữa cái ta của đầu lâu với niềm tư duy hóa cùng muôn vật của Trang Tử. Cuộc đối thoại này cũng tương tự như cuộc đối thoại giừa Tử Tự, Tử Dư, Tử Lai chép trong thiên VI, Đại Tông Sư trong nội thiên sách Nam Hoa Kinh:
Ai có thể lấy
"không" làm đầu, lấy sống làm lưng, lấy chết làm xương cùng? Ai biết
sống chết, còn mất là một thì Ta sẽ cùng họ là thể lấy
Bốn người nhìn nhau cười, không ai thấy nghịch trong lòng, đoạn cùng nhau đánh bạn.
Bốn người nhìn nhau cười, không ai thấy nghịch trong lòng, đoạn cùng nhau đánh bạn.
Cuộc đối thoại
này là cuộc độc thoại giữa tự ngã với tự ngã và cũng là sự cộng hưởng giữa
tự ngã với đại ngã.
Người người đêm đêm đi ngủ ai chẳng gối lên đầu lâu của mình. Cuộc đối thoại giữa đầu lâu và Trang Tử như vậy thành cuộc đối thoại chung cho mọi người với chính mình. Hình ảnh niềm vui của đầu lâu trong cuộc đối thoại này tương đồng với cái vui làm bướm của Trang Châu.
Chiếc đầu lâu khô khốc và rỗng tuếch này có nhiều lý do khiến không có ai đoạt nổi để đầu lâu vui làm đầu lâu. Vốn là cái đầu lâu lăn lóc bên đường, nhưng khác với mọi chiếc đầu lâu vô chủ khác, chiếc đầu lâu này là của riêng một người, chiếc đầu lâu này là đầu lâu của Ta. Nay đã khô khốc, chiếc đầu lâu không còn sợ diều hâu, chó sói hay dòi bọ tới làm rầy. Chiếc đầu lâu rỗng tuếch, không còn cách nào rỗng hơn được nữa. Chiếc đầu lâu rỗng tuếch đó là cái Ta cùng kỳ lý.
Người người đêm đêm đi ngủ ai chẳng gối lên đầu lâu của mình. Cuộc đối thoại giữa đầu lâu và Trang Tử như vậy thành cuộc đối thoại chung cho mọi người với chính mình. Hình ảnh niềm vui của đầu lâu trong cuộc đối thoại này tương đồng với cái vui làm bướm của Trang Châu.
Chiếc đầu lâu khô khốc và rỗng tuếch này có nhiều lý do khiến không có ai đoạt nổi để đầu lâu vui làm đầu lâu. Vốn là cái đầu lâu lăn lóc bên đường, nhưng khác với mọi chiếc đầu lâu vô chủ khác, chiếc đầu lâu này là của riêng một người, chiếc đầu lâu này là đầu lâu của Ta. Nay đã khô khốc, chiếc đầu lâu không còn sợ diều hâu, chó sói hay dòi bọ tới làm rầy. Chiếc đầu lâu rỗng tuếch, không còn cách nào rỗng hơn được nữa. Chiếc đầu lâu rỗng tuếch đó là cái Ta cùng kỳ lý.
Chiếc đầu
lâu khô khốc, không còn thịt da, không còn mạch máu, nên không còn già đi hơn
được nữa, cái đầu lâu sống làm đâu lâu trong cái chết, có cái niềm vui lấy trời
đất làm Xuân Thu.
Lấy trời đất làm Xuân Thu này là lời dịch câu:
Lấy trời đất làm Xuân Thu này là lời dịch câu:
dĩ thiên địa
vi Xuân Thu
Câu này dùng
điệp ngữ quen thuộc: dĩ [a] vi [b], có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Trước hết, điệp ngữ này rất thông dụng trong thi văn Á Đông. Bài văn quen thuộc dùng điệp ngữ này là Bài Tửu Đức Tụng của Lưu Linh, một trong Trúc Lâm Thất Hiền, người đời Tấn, Trung Quốc. Lưu Linh mở đầu bài tụng rượu này năm câu sau:
Trước hết, điệp ngữ này rất thông dụng trong thi văn Á Đông. Bài văn quen thuộc dùng điệp ngữ này là Bài Tửu Đức Tụng của Lưu Linh, một trong Trúc Lâm Thất Hiền, người đời Tấn, Trung Quốc. Lưu Linh mở đầu bài tụng rượu này năm câu sau:
Hữu đại nhân
tiên sinh
Dĩ thiên địa
vi nhất triêu
[Dĩ] vạn kỳ
vi tu du
[Dĩ] nhật
nguyệt vi kinh dũ
[Dĩ] bát lưu
vi đình cù ...
Trong sách Cổ
Học Tinh Hoa, Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân dịch là:
Có một vị đại
nhân
Lấy giời đất làm một buổi
Lấy muôn năm làm một chốc
Lấy mặt trời mặt trăng làm cửa ngõ
Lấy thiên hạ làm sân đường ....
Lấy giời đất làm một buổi
Lấy muôn năm làm một chốc
Lấy mặt trời mặt trăng làm cửa ngõ
Lấy thiên hạ làm sân đường ....
Trong bài
Côn Sơn Ca, Nguyễn Trãi cũng dùng điệp ngữ này trong hai câu mở đầu:
Côn Sơn hữu
tuyền [...] ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu
thạch [...] ngô dĩ vi đạm tịch
dịch là:
Núi Hun có
suối [...] ta nghe thay đàn huyền
Núi Hun có đá [...] ta lấy làm chiếu ngồi
Núi Hun có đá [...] ta lấy làm chiếu ngồi
Như vậy điệp
ngữ dĩ [a] vi [b] hiểu là lấy [a] làm [b] hay là coi [a] như [b].
Watson dịch câu này thành:
Watson dịch câu này thành:
Our springs
and autumns are endless as heaven and earth.
Trên thực tế
không thể lấy Trời Đất làm Xuân Thu như lời đầu lâu được: trời đất là không
gian, xuân thu là thời gian. Nhưng lời đầu lâu nói không hẳn là sai vì trời đất
thay đổi theo mùa, khiến nhìn trời đất thay đổi có thể đoán được thời gian. Hiểu
như vậy thời cách vừa dịch vừa giảng của Watson, một dịch giả Nam Hoa Kinh và
nhiều tác phẩm văn học Trung Quốc, không phải là sai.
Cách ghi thời gian như vậy là cách đám
người di tản vào Đào Nguyên tránh nạn Tần Thủy Hoàng ghi nhận thời gian trong áng thơ Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm, người nhà Tấn, Trung Quốc:
Cách ghi thời gian như vậy là cách đám
người di tản vào Đào Nguyên tránh nạn Tần Thủy Hoàng ghi nhận thời gian trong áng thơ Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm, người nhà Tấn, Trung Quốc:
Thảo vinh thức
tiết hòa
Mộc suy tri
phong lệ
Tuy vô ký lịch
chí
Tứ thời tự
thành tuế
dịch là:
Cỏ tươi biết
tiết tốt trời
Cây vàng biết gió đến hồi lạnh căm
Chẳng dùng lịch cũ ghi năm
Bốn mùa một tuổi chẳng nhầm chẳng sai
Cây vàng biết gió đến hồi lạnh căm
Chẳng dùng lịch cũ ghi năm
Bốn mùa một tuổi chẳng nhầm chẳng sai
Trong kinh
Pháp Hoa, phẩm Thọ Lượng Như Lai, Phật thích Ca dùng hình ảnh không gian để biểu
thị thời gian trải qua từ thuở Phật chứng quả Vô Thượng Chánh Giác như sau:
Này, thiện
nam tử, ta thành Phật đến nay đã lâu đến số trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên
kiếp rồi. Giả tỷ có người nghiền nát vô số năm trăm ngàn vạn ức thế giới ba
ngàn này thành hột bụi, giả tỷ người ấy đi qua phương đông đặt một hột bụi ấy ở
một nước, và cứ thế lần lượt đặt phương đông tất cả hạt bụi trong khắp vô số
trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên nước. Này thiện nam tử, các ông nghĩ thế nào?
Có ai suy nghĩ, tính toán, ước lượng được con số của toàn thể thế giới ấy không
?
Bồ Tát Di Lặc cùng đại chúng bạch Phật rằng:
Thế Tôn, không ai tính biết số thế giới vô lượng vô biên ấy được [...]
Phật bèn nói với đại chúng Bồ Tát rằng:
Các thiện nam tử, này ta nói rõ cho các ông nghe. Những thế giới ấy mà người kia đặt một hạt bụi, tất cả những hạt bụi ấy, mỗi hạt bụi ví như một kiếp, ta thành Phật từ ấy đến nay còn nhiều hơn số trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên ấỵ
Bồ Tát Di Lặc cùng đại chúng bạch Phật rằng:
Thế Tôn, không ai tính biết số thế giới vô lượng vô biên ấy được [...]
Phật bèn nói với đại chúng Bồ Tát rằng:
Các thiện nam tử, này ta nói rõ cho các ông nghe. Những thế giới ấy mà người kia đặt một hạt bụi, tất cả những hạt bụi ấy, mỗi hạt bụi ví như một kiếp, ta thành Phật từ ấy đến nay còn nhiều hơn số trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên ấỵ
Thiền sư Nhật
bản Bạch Ẩn viết về thời gian đứng thẳng đơn giản như sau:
Mười phương
thế giới thu vào một điểm hiện tiền; quá khứ hiện tại, vị lai tụ trong một niệm
đương thời.
Có người hiểu
lấy trời đất làm Xuân Thu
là coi không gian đồng nhất với thời gian. Wu Kuang Ming đưa ra hình ảnh không gian bốn chiều của Einstein làm thí dụ cho mối tương quan giữa trời đất và xuân thu của Trang Tử . Dầu ngày nay đã có nhiều phim ảnh giải thích không gian bốn chiều này, nhưng cũng còn quá trừu tượng với những người không có ý niệm về vật lý lý thuyết.
Đằng khác, theo ngôn ngữ giới nghiên cứu về tôn giáo, ý niệm thời gian đứng thẳng, temps vertical, nối liền những hình ảnh đã xẩy ra trong quá khứ với những hình ảnh sẽ tới trong tương lai tại hai địa điểm khác nhau về cùng một thời điểm ở cùng một địa điểm . Đó là hình ảnh Biến Hình trong Kinh Thánh, Luca 9:28-31:
là coi không gian đồng nhất với thời gian. Wu Kuang Ming đưa ra hình ảnh không gian bốn chiều của Einstein làm thí dụ cho mối tương quan giữa trời đất và xuân thu của Trang Tử . Dầu ngày nay đã có nhiều phim ảnh giải thích không gian bốn chiều này, nhưng cũng còn quá trừu tượng với những người không có ý niệm về vật lý lý thuyết.
Đằng khác, theo ngôn ngữ giới nghiên cứu về tôn giáo, ý niệm thời gian đứng thẳng, temps vertical, nối liền những hình ảnh đã xẩy ra trong quá khứ với những hình ảnh sẽ tới trong tương lai tại hai địa điểm khác nhau về cùng một thời điểm ở cùng một địa điểm . Đó là hình ảnh Biến Hình trong Kinh Thánh, Luca 9:28-31:
28các ông Phêro, Gioan và Giacôbê.29
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo người đổi khác, y phục Người trở nên trắng
tinh chói loà. 30Và kià, có hai nhân vật đàm đạo với người, đó là
ông Môsê và Êlia. 31Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất
hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Hai ông Môsê
và Êlia là những nhân chứng của Cựu Ước, trước ngày chúa Giêsu đem ba môn đệ
lên núi hàng ngàn năm. Câu truyện trao đổi giữa hai nhân chứng Cựu Ước với Chúa
Giêsu là truyện sẽ xẩy ra trong tương lai tại thành Giêrusalem.
Như vậy, trong khoảng khắc tại núi Tabor, những hình ảnh hàng ngàn năm trước,biểu thị bởi hình ảnh hai nhà tiên tri tại Ai Cập, liên kết cùng với nhưng viễn ảnh sẽ xẩy trong tương lai tại Giêrusalem: thời gian và không gian đồng nhất, đó là thời gian đứng thẳng. Thời gian dó ở ngoài không gian thời gian khác biệt của chúng ta trên trái đất này.
Phải chăng thời gian đứng thẳng là thông số định nghiã vấn đề siêu hình trong cả ba tôn giáo: Đạo Giáo, Phật giáo cũng như Công Giáo?
Trở về cái vui của đầu lâu trong cõi chết, trong truyện của Trang Tử. Niềm vui này Trang Tử nhiều lần nhắc tới trong Nam Hoa Kinh, hoặc bằng ngụ ngôn, hoặc bằng trùng ngôn hoặc bằng chí ngôn. Dụ ngôn thường được nhắc nhở tới là truyện nàng Lệ Cơ trong thiên Tề Vật Luận mà Nguyễn Duy Cần dịch như sau:
Như vậy, trong khoảng khắc tại núi Tabor, những hình ảnh hàng ngàn năm trước,biểu thị bởi hình ảnh hai nhà tiên tri tại Ai Cập, liên kết cùng với nhưng viễn ảnh sẽ xẩy trong tương lai tại Giêrusalem: thời gian và không gian đồng nhất, đó là thời gian đứng thẳng. Thời gian dó ở ngoài không gian thời gian khác biệt của chúng ta trên trái đất này.
Phải chăng thời gian đứng thẳng là thông số định nghiã vấn đề siêu hình trong cả ba tôn giáo: Đạo Giáo, Phật giáo cũng như Công Giáo?
Trở về cái vui của đầu lâu trong cõi chết, trong truyện của Trang Tử. Niềm vui này Trang Tử nhiều lần nhắc tới trong Nam Hoa Kinh, hoặc bằng ngụ ngôn, hoặc bằng trùng ngôn hoặc bằng chí ngôn. Dụ ngôn thường được nhắc nhở tới là truyện nàng Lệ Cơ trong thiên Tề Vật Luận mà Nguyễn Duy Cần dịch như sau:
Lệ Cơ, con
gái của một vị phong nhân xứ Ngại, gả cho vua nước Tần. Khi về nhà
chồng, lụy ướt dầm bâu. Kịp khi đến hoàng cung, cùng vua đồng sàng, nếm mùi
sô hoạn, rồi lại hối giọt lệ ngày xưa.
Rồi Trang Tử
kết luận:
Ta biết đâu
kẻ chết lại không hối hận vì mình đã mong được sống thêm?
Hiểu như vậy
thì cái chết hiện hình trong chiếc đầu lâu bên đường của cái sống. Cái chết kề
bên như trời che như đất chở, và hiện cái sống trải dài ngày này qua ngày khác,
Xuân này sang Thu kia. Như vậy cái sống của ta kề bên cái chết, và thế thì sao
còn ham sống, sao còn ghét chết?
Biết đâu chẳng đúng như lời đầu lâu nói với Trang Tử trong mộng: chết còn vui sướng hơn sống nữa.
Thế là vượt ra ngoài câu truyện sống chết ngang nhau.
Tiếp đó Nam Hoa Kinh chép truyện thầy Liệt nói với đầu lâu:
Biết đâu chẳng đúng như lời đầu lâu nói với Trang Tử trong mộng: chết còn vui sướng hơn sống nữa.
Thế là vượt ra ngoài câu truyện sống chết ngang nhau.
Tiếp đó Nam Hoa Kinh chép truyện thầy Liệt nói với đầu lâu:
Thầy Liệt đi
chơi, ăn ở giữa đường, chợt thấy chiếc đầu lâu trăm tuổi, vạch cỏ bồng chỉ vào
nó mà rằng:
- Chỉ tôi với bác là biết: ta chưa từng chết, chưa từng sống. Bác quả yên chăng? Tôi quả vui chăng?
- Chỉ tôi với bác là biết: ta chưa từng chết, chưa từng sống. Bác quả yên chăng? Tôi quả vui chăng?
Thế là quên
hẳn cả cái sống cùng cái chết. Đó là về tới đạo. Đó là đạt được thuật chí lạc.
Đạt được chí lạc, về tới Đạo và quên hẳn cái sống và cái chết là hình ảnh của Trần Tung trong bài ngâm sau đây:
Đạt được chí lạc, về tới Đạo và quên hẳn cái sống và cái chết là hình ảnh của Trần Tung trong bài ngâm sau đây:
Phóng Cuồng
Ngâm
Thiên địa diếu
vong hề hà mang mang
Trượng phu
ưu du hề phương ngoại phương
Hoặc cao cao
hề vân chi sơn
Hoặc thâm
thân hề thủy chi dương
Cơ tắc xan hề
hòa la phạn
Khốn tắc
miên hề hà hữu hương
Hứng thời
xuy hề vô khổng địch
Tĩnh xứ phần
hề giải thoát hương
Quyện tiểu
phại hề hoan hỉ địa
Khát bão xuyết
hề tiêu dao thang
Quy Sơn tác
lân hề mục thủy cổ
Tạ tam đồng
chu hề ca Thương Lương
Phỏng Tào
Khê hề ấp Lữ Thị
Yết thạch đầu
hề sài Lão Bàng
Lạc ngô lạc
hề Bố Đại lạc
Cuồng ngô
cùng hề Phổ hóa cuồng
Đốt đốt phù
vân hề phú qúy
Hu hu quá
khích hề niên quang
Hồ vi hề
quan đồ hiểm trở
Phả nại hề
thế thai viêm lương
Thâm tắc lệ
hề thiểm tắc yết
Dụng tắc
hành hề xả tắc tàng
Phóng tứ đại
hề mạc bả trọc
Liễu nhất
sinh hề hưu bôn mang
Thích ngã
nguyện hề đắc ngã sở
Sinh tử
tương bức hề ư ngã hà phương.
dịch là:
Phóng Cuồng
Ngâm
Ngắm nhìn trời
đất hề sao thênh thang
Chống gậy ngao du hề phương ngoài phương
Hoặc vời vợi hề mây đầu non
Hoặc thăm thẳm hề nước ngàn trùng
5Đói thì ăn hề hòa la phạn
Mệt thì ngủ hề hà hữu hương
Gặp hứng hề thổi sáo không lỗ
Chốn tĩnh hề đốt giải thoát hương
Mỏi ta nghỉ hề đất hoan hỉ
10Khát ta uống hề tiêu dao thang
Cùng hội Quy Sơn hề chăn trâu nước
Cùng thuyền Tạ Tam hề hát khúc Thương Lương
Thăm Tào Khê hề lậy Lữ Thị
Viếng thạch đầu hề bạn Lão Bàng
15Vui hề niềm vui Bố Đại vui
Cuồng hề cái cuồng Phổ Hóa cuồng
Hỡi ôi mây nổi hề cảnh phú qúy
Ô hô năm tháng hề ngựa qua song
Nói chi hiểm trở đường mây
20Đà quen hề ấm lạnh thói thường
Nông thì vén hề sâu thì lội
Dùng thì làm hề xả thì tàng
Buông hình hài hề không nắm giữ
Rồi một đời hề chẳng đi hoang
25Thỏa nguyện ta hề đúng chỗ ta
Sống chết ép dồn hề ta đâu ngại ngùng.
Chống gậy ngao du hề phương ngoài phương
Hoặc vời vợi hề mây đầu non
Hoặc thăm thẳm hề nước ngàn trùng
5Đói thì ăn hề hòa la phạn
Mệt thì ngủ hề hà hữu hương
Gặp hứng hề thổi sáo không lỗ
Chốn tĩnh hề đốt giải thoát hương
Mỏi ta nghỉ hề đất hoan hỉ
10Khát ta uống hề tiêu dao thang
Cùng hội Quy Sơn hề chăn trâu nước
Cùng thuyền Tạ Tam hề hát khúc Thương Lương
Thăm Tào Khê hề lậy Lữ Thị
Viếng thạch đầu hề bạn Lão Bàng
15Vui hề niềm vui Bố Đại vui
Cuồng hề cái cuồng Phổ Hóa cuồng
Hỡi ôi mây nổi hề cảnh phú qúy
Ô hô năm tháng hề ngựa qua song
Nói chi hiểm trở đường mây
20Đà quen hề ấm lạnh thói thường
Nông thì vén hề sâu thì lội
Dùng thì làm hề xả thì tàng
Buông hình hài hề không nắm giữ
Rồi một đời hề chẳng đi hoang
25Thỏa nguyện ta hề đúng chỗ ta
Sống chết ép dồn hề ta đâu ngại ngùng.
Trần Tung
(1230-1291) là con trưởng Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Khi ông qua đời, vua Trần Thánh Tông phong tước cho ông là Hưng Niên Vương.
Trong ba cuộc chinh chiến chống quân Nguyên, ông đều góp công lớn. Khi giặc
tan, ông không tham dự việc triều chính. Ông theo học thiền sư Tiêu Dao cuối đời
nhà Lý, sau đó ông theo học thiền sư Tức Lự. Ông học Phật và học cả Lão, nhưng
suốt đời không xuất gia. Ông để lại bộ Thượng Sĩ Ngữ Lục.
Phóng Cuồng Ngâm là một trong những áng thơ đậm mầu Thiền và sắc Đạo. Bốn câu mở đầu mở ra cảnh tiêu dao khoảng khoát mà người đọc thơ thường gặp trong thơ Việt Âm. Từ câu thứ năm tới câu thứ mười sáu, mỗi câu dường như một hình ảnh rút từ sách Nam Hoa Kinh hay từ kinh sách Thiền Tông. Lần lượt thi liệu trong sáu câu đầu là những hoạt động thông thường trong đời sống hàng ngày. Đói ăn, khát uống, mệt ngủ, mỏi nghỉ, vui thổi sáo, tĩnh niệm hương. Nhưng hòa la phạn chẳng phải là cơm mà là tiếng phiên âm chữ phạn pravarana, nghĩa là lời sám hối vào dịp cuối khóa hạ; hà hữu hương chẳng phải câu hỏi làng nơi đâu mà là thuật ngữ Đạo học chỉ cõi Đạo; hoan hỉ địa là chốn nào chẳng ai hay, vì đó là hạnh Bồ Tát cần đạt tới để lợi tha; giải thoát hương, theo sách Lục Tổ Bảo Đàn là trạng huống tự tâm không vướng mắc bất kỳ nơi chốn nào, không niêm điều thiện không niệm điều ác; sáo không lỗ chưa từng có ai được thưởng thức, bởi đó là hình ảnh rút từ thơ Ngu Tập gửi Trừng Trạm Đường:
Phóng Cuồng Ngâm là một trong những áng thơ đậm mầu Thiền và sắc Đạo. Bốn câu mở đầu mở ra cảnh tiêu dao khoảng khoát mà người đọc thơ thường gặp trong thơ Việt Âm. Từ câu thứ năm tới câu thứ mười sáu, mỗi câu dường như một hình ảnh rút từ sách Nam Hoa Kinh hay từ kinh sách Thiền Tông. Lần lượt thi liệu trong sáu câu đầu là những hoạt động thông thường trong đời sống hàng ngày. Đói ăn, khát uống, mệt ngủ, mỏi nghỉ, vui thổi sáo, tĩnh niệm hương. Nhưng hòa la phạn chẳng phải là cơm mà là tiếng phiên âm chữ phạn pravarana, nghĩa là lời sám hối vào dịp cuối khóa hạ; hà hữu hương chẳng phải câu hỏi làng nơi đâu mà là thuật ngữ Đạo học chỉ cõi Đạo; hoan hỉ địa là chốn nào chẳng ai hay, vì đó là hạnh Bồ Tát cần đạt tới để lợi tha; giải thoát hương, theo sách Lục Tổ Bảo Đàn là trạng huống tự tâm không vướng mắc bất kỳ nơi chốn nào, không niêm điều thiện không niệm điều ác; sáo không lỗ chưa từng có ai được thưởng thức, bởi đó là hình ảnh rút từ thơ Ngu Tập gửi Trừng Trạm Đường:
Kỳ đáo Tây
Trúc vô khổng địch
Xuy thành động
địa thái bình ca.
dịch là:
Từ tới Tây
Trúc sáo không lỗ
Khúc Thái Bình rung đất động trời.
Khúc Thái Bình rung đất động trời.
Còn tiêu
dao thang chẳng ai từng được uống, bởi tiêu dao là hình ảnh chữ tự do Trang
Tử bàn tới trong chương mở đầu sách Nam Hoa Kinh.
Sáu câu tiếp theo, Trần Tung lần lượt nói tới truyện làm láng giềng với Quy Sơn chăn trâu nước, chung thuyền cùng Tạ Tam hát khúc Thương Lương, về chùa Tào Khê lậy Lục Tổ, tới Thạch đầu thăm Lão Bàng, vui niềm vui Bố Đại, cuồng cái cuồng Phổ Hóa.
Thiền sư Quy Sơn, tên thật là Triệu Linh Hựu (771-853), thuộc thế hệ thứ ba dòng Thiền Tông Tào Khê, cùng đồ đệ là Tuệ Tĩnh tức Ngưỡng Sơn lập ra phái Quy Ngưỡng. Tào Khê là một địa danh thuộc Thiều Châu, có chuà Bảo Lâm xây từ đời nhà Đường, nơi Lục Tổ Huệ Năng (?-713) người họ Lữ đất Lĩnh Nam, được Ngũ Tổ Hoãng Nhẫn Trao y bát.
Tạ Tam là một nhân vật đến nay chưa ai rõ tông tích, Thương Lương là tên một khúc sông Hán Thủy. Khúc Thương Lương chép trong sách Mạnh Tử, thiên Ly Lâu, là một khúc hát có câu quen thuộc:
Sáu câu tiếp theo, Trần Tung lần lượt nói tới truyện làm láng giềng với Quy Sơn chăn trâu nước, chung thuyền cùng Tạ Tam hát khúc Thương Lương, về chùa Tào Khê lậy Lục Tổ, tới Thạch đầu thăm Lão Bàng, vui niềm vui Bố Đại, cuồng cái cuồng Phổ Hóa.
Thiền sư Quy Sơn, tên thật là Triệu Linh Hựu (771-853), thuộc thế hệ thứ ba dòng Thiền Tông Tào Khê, cùng đồ đệ là Tuệ Tĩnh tức Ngưỡng Sơn lập ra phái Quy Ngưỡng. Tào Khê là một địa danh thuộc Thiều Châu, có chuà Bảo Lâm xây từ đời nhà Đường, nơi Lục Tổ Huệ Năng (?-713) người họ Lữ đất Lĩnh Nam, được Ngũ Tổ Hoãng Nhẫn Trao y bát.
Tạ Tam là một nhân vật đến nay chưa ai rõ tông tích, Thương Lương là tên một khúc sông Hán Thủy. Khúc Thương Lương chép trong sách Mạnh Tử, thiên Ly Lâu, là một khúc hát có câu quen thuộc:
Nước Thương
Lang trong ta giặt giải mũ.
Nước Thương Lang đục ta rửa chân.
Nước Thương Lang đục ta rửa chân.
Nên có thể
nghĩ rằng Tạ Tam là người cùng hội cùng thuyền với Trần Tung trước cửa Khổng.
Bốn nhân vật Thạch Đầu, Lão Bàng, Bố Đại và Phổ Hóa, là bốn nhân vật tiêu biểu cho những triết giả Phật học. Thạch Đầu là tên hiệu của thiền sư Hy Thiên (700-790) dựng am trên núi Hành Sơn. Lão Bàng, tức cư sĩ Bàng Uẩn , tác giả sách Đạo Nguyên vốn là nhà nho, sau theo học Phật. Thoại kể rằng khi ngộ đạo, Lão Bàng mang hết của cải ném xuống hồ Động Đình, có người hỏi sao không mang của ra bố thí, thì Lão Bàng trả lời: ta từng lụy về bố thí, nên nay đem của mà dìm đi. Bố Đại là một vị hòa thượng, hàng ngày mang túi vải đi hành khất, rồi đem chia cho con trẻ. Phổ Hóa là một thiền sư ngông cuồng cổ quái trong Thiền Tông Trung Quốc. Hàng ngày sư ra chợ đánh mõ rao: Sớm mai đánh mõ, đầu hôm đánh mõ. Một hôm ông đánh mõ rao là mình sắp chết. Thiền sư Lâm Tế đem cho một cỗ áo quan. Sư đánh mõ mời làng xóm ra xem sư chết ở cửa Đông. Nhưng sư không chết, hẹn tiếp hôm sau ở cửa Tây, sư vẫn không chết, rồi cửa Nam, tới cửa Bắc. Đúng ngày thứ tư, sư đánh mõ, vào nằm trong áo quan, đậy nắp lại. Thiên hạ tới mở nắp áo quan ra thì không thấy sư đâu nữa, chỉ nghe tiếng mõ mỗi lúc một xa
Điểm đáng chú ý là hành động của ba nhân vật nhắc trên đây biểu thị hình ảnh nhiều câu trong Nam Hoa Kinh.
Lão bàng không mang của ra bố thí mà mang dìm xuống hồ phải chăng là thuận với một câu trong chương Đại Tông Sư:
Bốn nhân vật Thạch Đầu, Lão Bàng, Bố Đại và Phổ Hóa, là bốn nhân vật tiêu biểu cho những triết giả Phật học. Thạch Đầu là tên hiệu của thiền sư Hy Thiên (700-790) dựng am trên núi Hành Sơn. Lão Bàng, tức cư sĩ Bàng Uẩn , tác giả sách Đạo Nguyên vốn là nhà nho, sau theo học Phật. Thoại kể rằng khi ngộ đạo, Lão Bàng mang hết của cải ném xuống hồ Động Đình, có người hỏi sao không mang của ra bố thí, thì Lão Bàng trả lời: ta từng lụy về bố thí, nên nay đem của mà dìm đi. Bố Đại là một vị hòa thượng, hàng ngày mang túi vải đi hành khất, rồi đem chia cho con trẻ. Phổ Hóa là một thiền sư ngông cuồng cổ quái trong Thiền Tông Trung Quốc. Hàng ngày sư ra chợ đánh mõ rao: Sớm mai đánh mõ, đầu hôm đánh mõ. Một hôm ông đánh mõ rao là mình sắp chết. Thiền sư Lâm Tế đem cho một cỗ áo quan. Sư đánh mõ mời làng xóm ra xem sư chết ở cửa Đông. Nhưng sư không chết, hẹn tiếp hôm sau ở cửa Tây, sư vẫn không chết, rồi cửa Nam, tới cửa Bắc. Đúng ngày thứ tư, sư đánh mõ, vào nằm trong áo quan, đậy nắp lại. Thiên hạ tới mở nắp áo quan ra thì không thấy sư đâu nữa, chỉ nghe tiếng mõ mỗi lúc một xa
Điểm đáng chú ý là hành động của ba nhân vật nhắc trên đây biểu thị hình ảnh nhiều câu trong Nam Hoa Kinh.
Lão bàng không mang của ra bố thí mà mang dìm xuống hồ phải chăng là thuận với một câu trong chương Đại Tông Sư:
quên người để
hòa theo Đạo riêng của mình.
Truyện Bố Đại
đi hành khất rồi mang của Bố thí chia cho con nít là hành động biểu thị cho câu
chép trong chương Ứng Đế Vương:
Nhận mọi thứ
thụ lãnh từ trời mà chẳng giữ gì riêng cho mình.
Câu truyện
cuồng của Phổ Hóa cũng nhắc lại một đoạn trong chương Đại Tông Sư:
Tưởng rằng sẽ
hóa biết đâu rồi không hóa.
Tưởng là sẽ không hóa biết đâu là mình đã hóa ...Sắp đặt sẳn sàng rồi mà quên mất sự sinh hóa mới vào được cõi trời vắng lặng.
Tưởng là sẽ không hóa biết đâu là mình đã hóa ...Sắp đặt sẳn sàng rồi mà quên mất sự sinh hóa mới vào được cõi trời vắng lặng.
Hình ảnh này
phải chăng có liên quan tới những triết thuyết bên trời Tây, đứng trước cái chết,
đẩy hiện tại vào quá khứ hay buộc hiện tại vào tương lai, là điều để cho những
nhà nghiên cứu triết học đối chiếu giải đáp.
Trong mười câu cuối bài Phóng Cuồng Ngâm, Trần Tung luận giải về nghịch lý khéo nuôi cái sống là khéo liệu lo cái chết mà Trang Tử nhiều lần đề cập tới trong Nam Hoa Kinh. Trần Tung nhắc tới lời Trang Tử viết trong chương Thu Thủy: cuộc sống muôn vật ngắn ngủi như bóng ngựa qua khe cửa. Ý niệm coi hoạn đồ là hiểm trở là câu truyện Trang Tử từ chối ra làm quan mà chỉ muốn sống kiếp rùa lê đuôi trong bùn bến sông Bộc. Hai câu kế tiếp Trần Tung cho thấy nếp sống dửng dưng trước đổi thay thời thế.
Bốn câu kết luận bài ngâm là kinh nghiệm sống buông bỏ của Trần Tung: chẳng nắm giữ cả hình hài ắt thỏa nguyện, không còn bị lẽ sống chết bức bách.
Trong mười câu cuối bài Phóng Cuồng Ngâm, Trần Tung luận giải về nghịch lý khéo nuôi cái sống là khéo liệu lo cái chết mà Trang Tử nhiều lần đề cập tới trong Nam Hoa Kinh. Trần Tung nhắc tới lời Trang Tử viết trong chương Thu Thủy: cuộc sống muôn vật ngắn ngủi như bóng ngựa qua khe cửa. Ý niệm coi hoạn đồ là hiểm trở là câu truyện Trang Tử từ chối ra làm quan mà chỉ muốn sống kiếp rùa lê đuôi trong bùn bến sông Bộc. Hai câu kế tiếp Trần Tung cho thấy nếp sống dửng dưng trước đổi thay thời thế.
Bốn câu kết luận bài ngâm là kinh nghiệm sống buông bỏ của Trần Tung: chẳng nắm giữ cả hình hài ắt thỏa nguyện, không còn bị lẽ sống chết bức bách.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire