Kính mời quý anh chị đọc bài viết dưới đây để hiểu biết thêm về các ứng cử viên tổng thống mỹ phát biểu như thế nào, cách nào câu được nhiều người nghe và tán đồng ý kiến.
Sau ngày bầu cử, quý anh chị có thể quay lại đây để so sánh sự thành công có đến từ lời nói hay việc làm của họ trong quá khứ, hiện tại và trong tương lai hay không nhé.
Cám ơn tác giả bài viết, cám ơn người tiếp chuyển đến tôi.
Caroline Thanh Hương
Trần
Hữu Thục Chữ/nghĩa trong tranh cử
tổng thống Hoa Kỳ
You campaign in poetry. You govern in prose. - (Mario Cuomo)
Trước khi các cuộc vận động tranh cử tổng
thống 2016 bắt đầu, dư luận hầu như chỉ chú ý đến Hillary Clinton (Dân chủ) và
Jeb Bush hay Marco Rubio (Cộng Hòa), chắn mẫm đó là những ứng cử viên thuộc loại
“đảng cử dân bầu”, establishment candidates. Nhưng rồi, rất đột ngột, bên Cộng
Hoà, Donald Trump xuất hiện và bằng những cú ra đòn liên tiếp, đầy hiệu quả,
ông ta lần lượt đánh bại 14 địch thủ, chiếm ngôi đầu bảng. Và cũng đột ngột
không kém, bên Dân Chủ, Bernie Sanders, tưởng chỉ là một nhân vật “đệm” cho
Hillary, càng về sau càng nổi lên như diều gặp gió, đe dọa làm lung lay giấc mơ
làm ứng cử viên nguyên đệ nhất phu nhân. Bây giờ, ván bài đã xong. Hillary và
Trump đã trở thành các ứng cử viên chính thức của hai đảng. Sanders, tuy thua,
nhưng chắc chắn ảnh hưởng của cuộc cách mạng chính trị (political revolution)
mà ông đề xướng sẽ để lại một dấu ấn sâu đậm trong chính trường Hoa Kỳ.
Có thể nói, cuộc tranh cử tổng thống ở Hoa
Kỳ lần này tập trung vào ba nhân vật nổi bật: Hillary (để khỏi lẫn lộn với Bill
Clinton, tôi dùng Hillary để chỉ Hillary Clinton), Sanders, và Trump. Ba khuôn
mặt, ba cách ứng xử, ba quan điểm. Trong lúc Hillary là một chính trị gia
chuyên nghiệp, hiện diện trên chính trường cả mấy thập niên, nhất cử nhất động
của bà ai cũng hiểu rõ, thì Sanders và Trump là hai khuôn mặt mới toanh. Họ nhập
vào cuộc đua như những kẻ “ngoại đạo”. Trump là một đại gia, xuất hiện với một
cá tính mạnh mẽ khác thường; Sanders là một chính trị gia lý tưởng, xuất hiện
như một tư tưởng gia cấp tiến.
Hillary thận trọng, cân nhắc, chuẩn bị,
nghiêm túc.
Sanders sôi nổi, nhiệt tình, lý tưởng, hăm hở, say mê.
Trump bộc trực, bày tỏ, xông xáo, tràn đầy cá tính.
Sanders sôi nổi, nhiệt tình, lý tưởng, hăm hở, say mê.
Trump bộc trực, bày tỏ, xông xáo, tràn đầy cá tính.
Chữ và người
Vận động tranh cử, ở một xứ sở được tự do
diễn đạt như Hoa Kỳ, là một cuộc chạy đua sử dụng chữ. Một cuộc đấu lời/đấuchữ/đấu
nghĩa. Word matters! Chữ đóng vai trò quan trọng. “Chữ,” nói như N. A.
Berdyaev, “có một quyền năng lớn lao trên đời sống chúng ta, đó là một quyền
năng huyền bí. Chúng ta bị chữ quyến rũ và với một mức độ đáng kể, chúng ta sống
trong vương quốc của chúng. Chữ hành động, giống như những quyền năng độc lập,
và độc lập với chính nội dung của chúng.”[1] Chữ không phản
ảnh hiện thực, nhưng lại có tác động vô cùng to lớn vào hiện thực. Nó làm biến
dạng, thay đổi hay thậm chí tạo ra hiện thực. Một lý thuyết hay có thể chuyển đổi
khuôn mặt xã hội và nếp sống hàng ngày. Một cuốn sách, một bản tuyên ngôn, đôi
khi một câu khẩu hiệu có thể huy động người ta lao vào chỗ chết.
Trong một cuộc thăm dò dư luận về trợ cấp
xã hội do National Opinion Research Center thực hiện năm 2006, khi được hỏi tiền
trợ cấp xã hội là để “assistance to the poor” (giúp đỡ cho người nghèo), 65%
người được thăm dò trả lời là chính phủ đã chi ra “too little” (quá ít). Nhưng
nếu thay nhóm từ “assistance to the poor” bằng “welfare” thì 45% trả lời là nhà
nước đã chi ra “too much” (quá nhiều). Mặc dầu “assistance to the poor” và
“welfare” đều có nghĩa là giúp đỡ cho người có lợi tức thấp. Mới đây ở Việt
Nam, chỉ vì dùng từ “tan xác” (thay vì máy bay rơi, hay máy bay bị tai nạn)
trong một cuộc thăm dò ý kiến độc giả để mô tả chiếc máy bay Casa 212 bị tai nạn,
mà nhà báo Mai Phan Lợi bị mất việc, bị điều tra và bị báo nhà nước tố cáo, lên
án dữ dội. Cũng thế Việt Cộng thì khác Cộng Sản; tù nhân lương tâm, bất đồng
chính kiến thì khác phản động. Vân vân.
Trong vận động tranh cử, quy cho đối thủ bằng
một từ hay một nhóm từ ngắn gọn, cụ thể, tính cách tiêu cực và dễ nhớ, có thể
biến chữ thành hiện thực, khiến cho cá nhân đó bị dính liền với chữ y như thể
là một sinh mệnh. Chữ đột nhiên trở thành nhân cách, bản sắc, thói quen hay
quan điểm của người đó. Marco Rubio, ứng cử viên của đảng Cộng Hòa, là một tay
trẻ tuổi hùng biện, nhưng cách ăn nói lập đi lập lại của ông trong khi đi vận động
tranh cử khiến cho ông bị gọi là “robotic” (máy móc). Rubio Robot trở thành một
cách nói ẩn dụ, ám chỉ Rubio. Trong một lần tranh luận tại New Hampshire tháng
2/2016, Marco Rubio (đang có điểm thăm dò dư luận rất cao, ngang ngửa với
Trump) cố gắng thoát khỏi cái nhãn hiệu quái ác này. Nhưng trong khi cố thoát,
ông lập đi lập lại đến bốn lần câu “He knows exactly what he's doing.” Nắm cơ hội
này, Chris Christie, một ứng cử viên khác, chể giễu ngay: “Thấy chưa, đó chỉ là
một phát biểu 25-giây-học-thuộc-lòng” (the memorized 30-second speech). Chỉ
trong vòng ít phút sau, đoạn video quây lại lời nói lập đi lập lại đó lan truyền
khắp mạng lưới điện toán hình ảnh của một Rubio “the memorized 30-second
speech”! Nhóm từ này trở thành biệt danh mới của Rubio! Và với biệt danh này,
Rubio bị thua phiếu một cách thảm hại tại cuộc bầu cử sơ bộ đảng Cộng Hòa diễn
ra vài ngày sau đó tại tiểu bang New Hampshire. Quả là một cách chụp mũ vô cùng
hiệu quả!
Nhưng chính Trump mới là bậc thầy trong
nghệ thuật chụp mũ. Ông gọi các đối thủ, đôi khi khá tùy hứng, bằng những tên
khác nhau: chế giễu dáng người nhỏ nhắn, thấp của Rubio là small Rubio; chế giễu
cái tật hay uống nước của Rubio khi đi vận động sweat Rubio. Chể giễu đối thủ nặng
ký Hillary về việc bà này bỏ phiếu ủng hộ cuộc xâm lăng Iraq (rồi sau đó, xin lỗi)
hay sử dụng email cá nhân (rồi sau đó xin lỗi) là crooked Hillary (Hillary lươn
lẹo). Chế giễu cung cách vận động từ tốn, đơn điệu của Jeb Bush bằng low-energy
Jeb, hoặc chế giễu số tiền quyên góp khá nhiều của Jeb là “puppet of the
donors” (con bù nhìn của những người tài trợ). Trong một lần tranh luận, Trump
gọi Cruz là “Lying Ted” (Ted dối trá). Trong thực tế, không hẳn Cruz dối trá,
nhưng cách nói của ông ta có cái gì ít đáng tin trong lúc Trump thì nghe có vẻ
thành thật. Rõ ràng là Trump cường điệu hóa, nhưng ông ta dường như tin những
điều ông ta nói và nói thẳng ra những gì mình nghĩ. Rốt cuộc, hóa ra, cách chụp
mũ của Trump có hiệu quả: Ted Cruz trông có vẻ dối trá thật! Tóm lại, có thể
nói, chụp mũ là một đòn tu từ độc hiểm, một cách đặt tên tuy đơn sơ, khôi hài
và thậm chí hạ cấp nhưng có một hiệu quả đáng kể. Các đối thủ của Trump trong đảng
Cộng Hòa dường như bất lực, không tìm ra được cách đối phó, ngoài những phản ứng
khá thụ động hay im lặng chịu trận.
Nói chung, cách sử dụng ngôn ngữ của Trump
giản dị nhưng sắc bén hơn các đối thủ. Ông nói ngắn, gọn, trực tiếp, khẳng định,
dứt khoát. Theo cuộc nghiên cứu về ngôn ngữ của các ứng cử viên tổng thống năm
nay,[2] thì trong cách
chọn chữ, Sanders là nhất, trình độ trên học sinh lớp 10, chỉ thua Reagan chút
ít. Kế đó là Rubio, tiếp theo là Hillary và Cruz. Trump xếp hạng chót, tương
đương trình độ lớp 7. Về văn phạm, Rubio cao nhất, trung bình ở lớp 7; Hillary,
Sanders và Cruz thấp hơn nhiều. Còn Trump vẫn ở hạng chót. Về từ vựng, phong phú
và thay đổi nhiều nhất từ diễn văn này đến diễn văn khác là Hillary. Là một
chính trị gia chuyên nghiệp, Hillary hiểu rõ sự khác nhau giữa các loại khán giả
đến nghe, nên thay đổi cho hợp sở thích và quan điểm của mỗi loại người. Trump
vẫn ở hạng chót, với một số lượng từ vựng giới hạn. Tuy thế, do tính cách dễ hiểu
và trực tiếp, cách nói của ông dễ dàng truyền đạt đến nhiều thành phần khác
nhau trong cùng một lúc.Vả lại, là người có xu hướng chống lại cơ chế quyền lực
hiện đương, từ chính phủ ở Washington cho đến bộ máy điều khiển hai đảng Dân Chủ
và Cộng Hòa, Trump xuất hiện như một khuôn mặt mới lạ, không giống cung cách
đơn điệu của các chính trị gia chuyên nghiệp và do đó, dễ lôi cuốn quần chúng,
nhất là những người da trắng quá chán nản với những bế tắc chính trị thường diễn
ra trong chính trường Hoa Kỳ.
Tất nhiên, các chính trị gia và giới học
giả đánh giá thấp Trump. Ít ra là lúc đầu. Lý do rất đơn giản: họ cho rằng thái
độ thận trọng và sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong cung cách ứng xử với quần chúng
là tiêu chuẩn phổ biến, được mọi người chấp nhận. Tiêu chuẩn đó không hẳn lúc
nào cũng hay, cũng đúng và cũng gây nên hiệu quả mong muốn nhưng rõ ràng là một
cách ứng xử đầy ưu thế, nhất là với những người nổi tiếng. Vô hình trung, điều
này tạo thành một trục văn hóa quyền lực bao gồm giới trí thức, ngành truyền
thông và ngành giải trí (academia/media/entertainment Axis). Chữ/nghĩa của
Trump là một nghịch đảo đối với trục văn hóa đó. Thay vì “phải đạo” (political
correctness = PC), ông ta ăn nói bừa phứa theo kiểu “chống-phải đạo” (anti-PC);
thay vì lời nói phải trước sau như một (nhất dĩ quán chi = nhất quán) để tạo sự
tin cậy, Trump là phi-nhất quán. Nhiều lần, Trump flip-flop một cách hồn nhiên,
thậm chí, như một thủ thuật. Hôm nay nói thế này, mai nói thế khác và mốt lại
nói khác nữa. Tất nhiên, đây là khuyết điểm. Nhưng ông tìm cách khai thác nó
như một lợi điểm. Trước khi ông ta đến nói chuyện trong một cuộc tập họp quần
chúng nào đó, thường thì khán giả và báo chí không đoán biết ông ta sẽ nói những
gì, sẽ sỉ nhục hay xúc phạm những ai và sỉ nhục, xúc phạm kiểu nào. Điều này
khêu gợi trí tưởng tượng và sự tò mò của quần chúng, nhất là đối với giới truyền
thông, luôn luôn cần tin giật gân. Chả thế mà, so với các đối thủ, Trump tiêu rất
ít tiền để quảng cáo, nhưng lại hưởng được sự chú ý tối đa của nghành truyền
thông đến nỗi giới kinh tế gia ước tính trị giá đến cả hai tỷ đô la nếu phải
thuê bao trực tiếp.
Bảng phân tích sau đây cho ta một cái nhìn
về cách ăn nói biểu lộ tính cách con người như thế nào:[3]
Theo thứ tự con số từ cao đến thấp, người có vẻ nói láo nhiều nhất là Cruz (+ .88), kế đến là Rubio (-.10), rồi Hillary (-.46), Sanders (-.65) và ít nói láo nhất – có nghĩa là thành thật nhất - là Trump (-.97).
Cruz trông ra vẻ“giáo sư” nhất (+0.89) kế
đến là Sanders (+0.74) rồi Hillary (+0.24). Trump là người ít có vẻ “giáo sư nhất”
(-1.78).
Cũng theo thang điểm trên, người ăn nói ít
đàn bà nhất (hay có tính cách đàn ông nhất) là Sanders (- 3.18). Trong lúc đó,
người ăn nói có vẻ đàn bà nhất lại là Trump (+ 4.24) rồi sau đó mới đến Hillary
(+ 1.14). Nói khác đi, Hillary ít có vẻ đàn bà hơn Trump. Trump “đàn bà” vì hay
đề cập đến “cái tôi” của mình: tôi giàu, tôi giỏi, tôi đúng. Ông sử dụng cách
nói nhắm vào cảm tính người nghe (xây bức tường ở biên giới Mexico-Mỹ, cấm người
Hồi giáo nhập cư), hay nói kiểu xách mé, xuy tì cá nhân, chẳng hạn chế giễu tật
hay uống nước của Rubio. Nói chung, ngôn ngữ của Trump có tính sỉ nhục và
kỳ thị. Những nhà nghiên cứu cho đó là thứ ngôn ngữ gây xúc động
(emotionally-charged language), tuy khó nghe, nhưng lại khiến cho Trump có vẻ
thành thật (hơn các ứng cử viên khác).[4] Trong lúc đó,
Hillary thường dùng những từ nghe kêu (big words), nặng tính suy tư và kế hoạch
hơn là gây xúc động, chẳng hạn như chính phủ, gia đình, kinh nghiệm, thành
tích, y tế, tiền nong, trợ cấp, vân vân. Nghe không có gì mới, nếu không muốn
nói là “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”!
Ăn nói có vẻ là một người thất vọng nhất
là Cruz (+1.16), kế đó là Trump (+.23) và ít thất vọng nhất (lạc quan nhất) là
Rubio.
Người ăn nói có vẻ “tổng thống” nhất là
Hillary (+1.99) kế đó là Sanders (+.92) và ít “tổng thống” nhất là Trump
(-3.17).
Tóm lại, Trump thường chiếm cái “ít nhất”
và “nhiều nhất”.
Văn và thơ
Hillary là người vất vả nhất trong cuộc vận
động tranh sự đề cử của mình vì sự nổi lên bất ngờ của Sanders. Sanders đề ra một
cuộc cách mạng, gọi là cách mạng chính trị (political revolution) dựa vào quần
chúng: tố cáo giới tài phiệt, đòi tăng lương tối thiểu, đòi miễn phí cho sinh
viên đại học. Để chống lại một Hillary sành sõi và là ứng cử viên con cưng của
đảng, được sự hỗ trợ dồi dào về tiền bạc của giới giàu có, Sanders đưa ra hình ảnh
của một Hillary nhận tiền tài trợ của Wall Street và chỉ phục vụ quyền lợi cho
giới tài phiệt. Để lôi kéo thế hệ trẻ, thế hệ millennials (Millennial
Generation = những người trẻ tuổi ra đời trong khoảng trước và sau năm 2000),
Sanders hô hào học đại học miễn phí. Để lôi kéo giai cấp công nhân, Sanders đòi
hỏi tăng lương tối thiểu lên 15 đô la/giờ và đề ra chính sách y tế toàn dân, ai
cũng được bảo hiểm sức khỏe không tốn tiền. Tóm lại, Sanders xuất hiện như một
niềm hy vọng, một hình ảnh mới mẻ và sáng lạn của tương lai. Ngay lập tức, ông
thu hút một cách mạnh mẽ giới trẻ. Trong lúc những cuộc nói chuyện của Hillary
chỉ có chừng vài trăm người tham dự, cao lắm là 1000, hầu hết là giới già, những
cuộc tập họp của Sanders thường rất hoành tráng, rất sôi nổi với sự tham dự cuồng
nhiệt khác thường của hàng chục ngàn người. Điều đó đưa đến chỗ Sanders thắng
Hillary ở rất nhiều tiểu bang, có nơi thắng rất đậm. Có lúc, trước phong trào ủng
hộ Sanders của giới trẻ, tưởng chừng như lịch sử được lập lại: một Hillary
nguyên đệ nhất phu nhân và thượng nghị sĩ nổi danh hoàn vũ thua một Obama da
màu vô danh tiểu tốt một cách cay đắng 8 năm trước đây.
Để chống lại Sanders, Hillary làm gì?
Bà ta sử dụng một ý tưởng khá lạ:
campaign-in-poetry, govern-in-prose. Ý tưởng này xuất phát từ một thành ngữ dân
gian, you campaign in poetry, you govern in prose” (vận đồng bằng thơ, cai trị
bằng văn) đã được Mario Cuomo, vốn là thị trưởng New York, biến thành một ẩn dụ
chính trị dùng làm tiêu đề tranh cử. Quái! Văn thơ thì dính líu gì đến vận động
tranh cử tổng thống? Hillary chẳng phải là nhà văn và Sanders cũng chẳng phải
là nhà thơ. Hãy nghe Hillary giải thích: “Như quý vị biết, ta có thể nói tất cả
mọi sự ta muốn nói trong khi tranh cử, nhưng một khi bầu cử xong rồi, chúng ta
phải cùng nhau làm việc để giải quyết vấn nạn mà đất nước đang gặp phải.” Với một
người từng trải trong chính trường, Hillary biết rõ biến những lời hứa hẹn
thành hiện thực là một điều rất khó. Khi chưa nắm quyền, người ta có thể hứa hẹn
đủ điều, nhưng khi nắm quyền rồi, thực tế không cho phép thực hiện được. Cho
nên, bà không hứa hẹn. Bà không muổn chỉ “hô khẩu hiệu” hay “tranh cãi tu từ”
mà chỉ muốn đưa ra kế hoạch, muốn giải quyết vấn đề bằng kinh nghiệm và kiến thức.
Thì ra thế! Với Hillary, những chính sách
Sanders đề ra trong cuộc tranh cử chỉ là những bài thơ. Thơ thì tùy hứng, tùy
thích, muốn gì nói nấy, không cần quan tâm tới chỗ có thực hiện được hay không.
Nghĩa là những hứa hẹn vu vơ. Còn bà, bà chỉ quan tâm đến việc thực hiện những
gì có thể thực hiện được. Liệu có làm được thì mới đề ra, liệu không làm được
thì …thôi. Chẳng thế mà, các bài diễn văn của Hillary nặng về các sáng kiến và
chính sách, nhưng nhẹ về ước mơ. Trong một lần tranh luận, được hỏi về ưu tiên
hàng đầu là gì, bà liệt kê một lô các điều cần làm, từ sử dụng điện mặt trời
cho đến hạ giá thuốc hay chăm sóc gia đình, vân vân. Theo bà, phe cấp tiến đi
tìm vần thơ, trong lúc bà là một người đam mê những điều cần làm để đưa ra quốc
hội thông qua, nghĩa là bà chỉ muốn viết văn, thứ văn xuôi, văn tả thực.
Hillary cho rằng Sanders hình như tin tưởng rằng ông ta có thể hoàn thành
chương trình của ông như một chiếc đũa thần, vung chiếc đũa lên là…mọi chuyện
thay đổi, là cách mạng hoàn thành. Đây cũng chính là điều mà bà cáo buộc ứng cử
viên trẻ tuổi da đen Obama trước đây. “Lý thuyết không đủ, một tổng thống phải
thực tế,” Hillary phát biểu. Bà không quan tâm đến những ý tưởng nghe rất hay
trên giấy tờ nhưng không bao giờ thực hiện được. Hillary gọi Sanders là ứng cử
viên một-vấn-đề (one-issue candidate); hơn thế nữa, ứng cử viên tưởng tượng
(imaginary candidate).
Trong lúc đó, Sanders tập trung, chuyên
tâm quảng diễn thế giới quan và viễn kiến của mình, không cần biết đến những trở
ngại. Hình ảnh một Sanders tóc tai nhàu nhò, bạc phơ, dáng dấp nghệ sĩ, ăn nói
hùng hồn, nhiệt tình trước hàng chục ngàn thanh thiếu niên ngời ngời sức sống,
là một bài thơ lớn, đủ sức đánh bạt một Hillary đệ-nhất-phu-nhân-thượng-nghị-sĩ-bộ-trưởng-ngoại-giao.
Điều quan trọng không phải là tài hùng biện, nghệ thuật tranh cãi của ông, mà
là niềm cảm hứng và sự say mê của những người trẻ đang khát khao sự thay đổi.
Thành thử, các luận cứ thực tế mà Hillary nêu ra không dễ dàng đánh đổ được cơn
lốc Sanders. Giới trẻ vẫn tìm đến Sanders. Như trước đây giới trẻ tìm đến với
Obama, chỉ vì họ tin rằng “Yes, we can.” Họ mơ mộng. Họ thích được vuốt ve bởi
niềm hy vọng hơn là những trở ngại trong thực tế.
Dường như dần dần, Hillary đã nhận ra điều
đó. Trong những lần vận động về sau, Hillary có thêm vào một ít chất “thơ”:
cũng đòi tăng lương tối thiểu lên 12, rồi 15; cũng phê phán giới tài phiệt, phê
phán Wall Street…Báo chí gọi là bà bị Sanders đẩy dần sang “tả” (tả khuynh). Và
rốt cuộc, bà cũng thắng. Hú hồn! Thực ra, cái cách làm thơ của Hillary chỉ là
thứ thơ gượng, chẳng gây nên tác dụng gì đáng kể. Chẳng qua, ngọn lửa Sanders
cũng chỉ là lửa rơm. Ông khoái trá với giới trẻ mà quên mất giới già, khoái người
da trắng mà quên mất người da màu, khoái mặt nổi mà quên mất bề chìm. Người ta
thà ăn cơm nguội mà yên tâm hơn ăn cơm mới, biết đâu đau bụng! Viết văn dở
còn hơn làm thơ hay.
Thực ra, Hillary chẳng hề viết văn.
Còn Sanders thì chẳng muốn làm thơ. Thậm
chí, ông quên luôn cả người làm thơ cho mình. Do một tình cờ trong khi đi lục
tìm hồ sơ của Sanders tại Burlington tháng 6 năm 2015, một thông tín viên
của tờ Guardian Anh, tìm thấy một bài thơ viết tay có tựa đề là Burlington Snow
(Tuyết Burlington). Tác giả là một nhà thơ tên tuổi Hoa Kỳ, Allen Ginsberg.[5] Ginsberg là
người Mỹ gốc Do Thái, cũng như Sanders. Bài thơ được viết vào một ngày tuyết phủ
tháng 2 năm 1986, khi nhà thơ đến thăm Burlington và thăm người thị trưởng 4
nhiệm kỳ của thành phố này là Sanders. Tuy không hề nhắc đến tên Sanders nhưng
rõ ràng là bài thơ được cảm hứng bởi – và gián tiếp ca ngợi - người thị trưởng
xã hội chủ nghĩa này. Được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới trong thời gian
Sanders đi vận động tranh cử, bài thơ đã tăng thêm niềm cảm hứng cho những người
yêu thơ và các người ủng hộ Sanders.[6]
Bài thơ tìm thấy quả là một tình cờ lý thú
trong cuộc tranh cử năm nay.
Socialist snow on the streets
Socialist talk in the Maverick bookstore
Socialist kids sucking socialist lollipops
Socialist poetry in socialist mouths
—aren’t the birds frozen socialists?
Aren’t the snowclouds blocking the
airfield
Social Democratic Appearances?
Isn’t the socialist sky owned by
the socialist sun?
Earth itself socialist, forests, rivers,
lakes
furry mountains, socialist salt
in oceans?
Isn’t this poem socialist? It doesn’t
belong to me anymore.
(Tạm dịch: Tuyết xã hội chủ nghĩa trên đường
Chuyện trò xã hội chủ nghĩa trong tiệm
sách Maverick
Những đứa bé xã hội chủ nghĩa mút kẹo xã hội
chủ nghĩa
Thơ xã hội chủ nghĩa trong những cái miệng
xã hội chủ nghĩa
phải chăng những con chim cũng là những
nhà xã hội chủ nghĩa lạnh cóng?
Phải chăng những đám tuyết xã hội chủ
nghĩa phủ kín phi trường cũng là Những Diện Mạo Dân Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa?
Phải chăng bầu trời xã hội chủ nghĩa cũng
được sở hữu bởi mặt trời xã hội chủ nghĩa?
Đất đai chính nó cũng là xã hội chủ nghĩa,
rồi rừng, rồi sông, rồi hồ ao, núi rừng rậm rạp, và cả muối trong đại dương
cũng xã hội chủ nghĩa
Và ngay cả bài thơ này cũng xã hội chủ nghĩa? Nó chẳng còn thuộc về tôi nữa rồi)
Và ngay cả bài thơ này cũng xã hội chủ nghĩa? Nó chẳng còn thuộc về tôi nữa rồi)
Bài thơ không có gì đặc sắc, nhưng tạo khá
nhiều ấn tượng vì sự lập đi lập lại nhóm từ “xã hội chủ nghĩa”. Nó không nói đến
hình ảnh một thiên đường hay một xã hội hoàn chỉnh, hạnh phúc mà chỉ đưa ra những
hình ảnh đầy ước mơ của một xã hội, nơi mà mọi sự vật đều nhuốm màu xã hội chủ
nghĩa, từ tuyết trên đường phố cho đến bầu trời, chim chóc, mặt trời…Và kể cả
chính bài thơ. Isn’t this poem socialist? It doesn’t belong to me anymore. À,
thì ra, xã hội chủ nghĩa có nghĩa là phi-cá nhân! Bài thơ mang hơi hướm của một
khôi hài ý nhị.
Rất nhiều lần, nhìn Sanders hùng hồn thuyết
trình về cuộc cách mạng chính trị của ông trước hàng chục ngàn thanh niên sinh
viên học sinh lứa tuổi millennials, tôi không khỏi nhớ lại niềm say mê của thế
hệ chúng tôi ở Việt Nam thời thập niên 1960. Một số bạn tôi say mê lý tưởng Cộng
Sản và tham gia hoạt động. Riêng tôi và nhiều bạn bè khác thì không thích Cộng
Sản, nhưng hầu như ai cũng ước mơ một cuộc cách mạng xã hội: bình đẳng, dân tộc,
giải phóng, không còn áp bức, bất công, không có kẻ giàu người nghèo…Thực tế
cho thấy, trong cả thế kỷ qua, tất cả chỉ là những ước mơ. Cái gọi là xã hội chủ
nghĩa chỉ đưa đất nước vào chỗ lạc hậu, áp bức, chiến tranh, nghèo đói. Những
tưởng các kinh nghiệm cay đắng từ các nước Cộng Sản chủ nghĩa xã hội
trôi hẳn vào lãng quên của lịch sử, ấy thế mà ở nước Hoa Kỳđại tư bản vào thế kỷ
21 này, vẫn còn một Sanders hùng hồn hô hào cách mạng xã hội chủ nghĩa và lôi
kéo hàng trăm ngàn thanh thiếu niên vào cuộc. Chẳng lẽ ông muốn biến Hoa Kỳ
thành một Trung Cộng, Việt Nam? Hay Bắc Hàn, Cu Ba?
Đúng là ông Sanders làm…thơ!
Nói thơ và văn, nhưng chẳng có bài văn nào
cũng chẳng có bài thơ nào. Chỉ là một cái nắp đầy thơ để che đậy một hiện thực
văn xuôi xương xóc!
*
Người và chữ
Sau những ồn ào náo nhiệt đua tranh của những
người muốn thử sức, bây giờ chỉ còn Trump đối diện với Hillary. Một ông/một bà.
Hai ứng cử viên và hai bộ máy tranh cử bắt đầu vận hành. Bây giờ thì không còn
văn. Cũng chẳng còn thơ. Mà là một cuộc đấu loại hoành tráng kéo dài đến tháng
11. Chính sách thì đã có. Chiêu bài cũng đã có. Chiêu thức nào sẽ được sử dụng?
Những vết đen nào trong tiểu sử cá nhân sẽ bị đem ra soi mói, mổ xẻ? Biến động
xảy ra, tạo ảnh hưởng lên cuộc đua?
Riêng tôi, tôi quan tâm đến chữ/nghĩa. Nên
để kết luận bài viết, tôi chọn ra một số lời/chữ điển hình mà Trump và Hillary
phát biểu trong nhiều dịp khác nhau.
Trump:
“My life has been about winning. My life
has not been about losing.” (Đời tôi chỉ toàn là thành công. Đời tôi không hề
thất bại)
“Part of the beauty of me is that I am
very rich.” (Một phần trong cái đẹp ở tôi là tôi rất giàu)
“We can’t continue to allow China to rape
our country” (Chúng ta không thể cho phép Tàu cứ mãi hiếp dâm đất nước chúng
ta)
“With the proper woman you don’t need
Viagra” (Với người phụ nữ thích hợp thì bạn không cần đến Viagra)
“I will build a great wall – and nobody
builds walls better than me, believe me – and I’ll build them very
inexpensively. I will build a great, great wall on our southern border, and I
will make Mexico pay for that wall. Mark my words.” (Tôi sẽ xây một bức tường lớn
– tin tôi đi, chẳng ai xây tường giỏi hơn tôi đâu – và tôi sẽ xây chúng giá rất
rẻ. Tôi sẽ xây một bức tường lớn, thật lớn trên biên giới phía nam nước ta, và
tôi sẽ buộc Mexico phải trả tiền xây tường. Hãy nhớ lời tôi nói.)
“It’s freezing and snowing in New York –
we need global warming!” (Ở New York, trời quá lạnh và tuyết nhiều –
chúng ta cần ấm nóng toàn cầu!)
“I’ve said if Ivanka weren’t my daughter,
perhaps I’d be dating her.” (Tôi đã nói là nếu Ivanka mà không phải là con gái
tôi, có lẽ tôi sẽ hẹn hò với nàng)
Hillary:
"Like it or not, women are always
subject to criticism if they show too much feeling in public." (Dù thích
hay không, phụ nữ luôn luôn dễ bị phê bình nếu họ bày tỏ quá nhiều xúc cảm giữa
chốn công cộng)
"I have a million ideas. The country
can't afford them all." (Tôi có cả triệu ý tưởng. (Nhưng) đất nước không
thể dung chứa tất cả chúng)
"The difference between a politician
and a statesman is that a politician thinks about the next election while the
statesman think about the next generation." (Sự khác nhau giữa một chính
trị gia và một chính khách là chính trị gia thì suy nghĩ về cuộc bầu cử sắp tới
trong khi chính khách thì suy nghĩ về thế hệ sắp tới)
"I think that you can disagree with
people and debate over their positions with issues without engaging in the
politics of personal destruction." (Tôi cho rằng bạn có thể không đồng ý với
người khác và tranh cãi về các vấn đề họ nêu ra mà không mưu đồ phá hoại cá
nhân)
"If I want to knock a story off the
front page, I just change my hairstyle." (Nếu tôi muốn lấy đi một câu chuyện
ra khỏi trang bìa, tôi chỉ cần thay kiểu tóc)
Women are the largest untapped reservoir
of talent in the world. (Phụ nữ là hồ chứa tài năng lớn nhất chưa khai
thác hết của thế giới)
"Human rights are women's rights, and
women's rights are human rights." (Quyền con người là quyền phụ nữ và quyền
phụ nữ là quyền con người)
"I think that if you live long
enough, you realize that so much of what happens in life is out of your
control, but how you respond to it is in your control. That's what I try to
remember." (Tôi cho rằng nếu bạn sống đủ lâu, bạn sẽ nhận ra rằng bạn
không thể kiểm soát hết rất nhiều điều xảy ra trong cuộc đời của bạn, nhưng bạn
có thể kiểm soát được cách mà bạn đối phó với chúng. Đó là điều mà tôi cố nhớ)
Trump: lạ chữ, lạ nghĩa.
Người sao chữ vậy! Phải chăng?
*
Cứ bốn năm một lần, người Mỹ lại lấy
dao kéo ra tự giải phẫu chính mình. Khác với tinh thần tốt khoe xấu che
thường thấy, Mỹ lại tốt khoe, xấu cũng khoe. Vận động tranh cử y như thể là cái
dịp để các ứng cử viên tố cáo chính đất nước mình. Nước Mỹ rốt cuộc, qua tranh
cử, là một con bệnh kinh niên. Cái mã ngoài nào là giàu có, văn minh, tân tiến,
hùng mạnh, nhân quyền, tự do, dân chủ, vân vân và vân vân, qua miệng của các ứng
cử viên, là một đất nước đầy dẫy những điều tiêu cực: bất công, giết người, khoảng
cách biệt lớn lao giữa giàu-nghèo, tham nhũng, kinh tế suy thoái, người giàu
thì trốn thuế, kẻ lợi tức thấp lại đóng thuế nhiều…Sự hiện diện của Sanders với
hàng trăm ngàn sinh viên học sinh ủng hộ cũng như sự hiện diện của Trump với những
chính sách mới lạ, khác thường, cực đoan, cho thấy nước Mỹ đang đối diện với những
vấn nạn lớn lao. Y như thể nước Mỹ này là một cái gì đang hư hỏng, tan rã. Nó cần
một cuộc “cách mạng”: political revolution (Sanders). Nó mất đi tính cách vĩ đại
vốn có, nên phải “make America great again” (Trump). Các tầng lớp nhân dân bị
ngăn cách, không được hưởng thụ quyền lời đồng đều, cần phải phá vỡ các rào cản:
break down all barriers (Hillary).
Ấy thế mà, cái nước Mỹ đó, mới đây, lại vẫn
được Putin, con người Nga kiêu ngạo ấy, thừa nhận: Mỹ vẫn là siêu cường.
Cái gì làm Mỹ trở thành một siêu cường? Có
lẽ vì nó biết giải phẫu chính mình.
Nó biết mình là một con bệnh. Luôn luôn có
bệnh. Nhà nước là một con bệnh. Đảng phái là một con bệnh. Không ai là hào
quang của ai. Không ai là anh hùng của ai. Không ai là sự nghiệp của ai. Không
ai là thần thánh của ai. Không ai phải nợ ai. Không ai phải biết ơn ai. Không
có cái gì là đúng, sai vĩnh viễn.
Vâng, Mỹ là siêu cường.
Một siêu cường bệnh hoạn!
Trần Hữu Thục
(6/2016)
[1]Words and Reality in Societal
Life, Nikolai Alexandrovich Berdyaev (1874-1948).
Xem:
http://www.berdyaev.com/berdiaev/berd_lib/1915_206.html
2Tracking the language of public
figures/Kayla N. Jordan and James W. Pennebaker, University of Texas at Austin.
Xem:
https://wordwatchers.wordpress.com/
3 Bđd
4Donald Trump's language could win him the
presidency, Daily Mail, Jun 25, 2016
Xem:
http://www.dailymail.co.uk/sciencetech/article-3502925/Donald-Trump-s-language-win-presidency-Candidates-use-emotional-words-votes-times-crisis.html
5Allen Ginsberg (1926-1997), thủ lãnh của
phong trào Thế hệ Beat (Beat Generation) Hoa Kỳ, tác gia bài thơ nổi tiếng
“Howl” (Tiếng tru).
6Allen Ginsberg’s Handwritten Poem For
Bernie Sanders, “Burlington Snow” (1986), trang mạng Openculture.
Xem:
http://www.openculture.com/2015/07/allen-ginsbergs-handwritten-poem-for-bernie-sanders-burlington-snow-1986.html
Xin
lưu ý với các bạn hữu Blogger, Website nào muốn trích đăng bài
sưu tầm hay bài viết, thơ, nhạc của groupe chúng tôi về Blog,
WordPress, Google Plus, của các anh chị, xin vui lòng đợi
1 tuần sau khi bài trong Blog của chúng tôi đã đưa ra public.
Riêng phần tiếp chuyển, thì xin cám ơn quý anh chị đã giới thiệu dùm đến người thân quen.
Caroline Thanh Hương
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire