Ngay từ thời còn “cắp sách đến trường”, sức học của Phan Bội Châu
đã vượt xa các bạn đồng môn, khiến thầy dạy phải nhiều lần khuyên nên
hãm bớt cái tài của mình lại. Tất nhiên cụ không thể không tuân nghe,
nhưng “chứng nào tật ấy”, bài làm của cụ bao giờ cũng “vượt rào”, đến
nỗi thầy “giận” mà cho điểm thấp, thậm chí phê “liệt” (hỏng)!
Chuyện kể rằng, cụ Phan, tục danh là
San, nguyên xuất thân con nhà hàn nho hiếu học, mới 15 tuổi đã có tiếng
“thần đồng”, năm 18 tuổi đỗ đầu xứ trong một kỳ hạch tuyển các thí sinh
tại tỉnh Nghệ An, nên người đời lúc bấy giờ gọi ông là “Đầu xứ San”.
Tuy học giỏi văn hay, tài cao chí lớn
hơn người, nhưng qua mấy khoa thi Hương đều bị hỏng! Không thất chí,
Phan xin thụ giáo cụ đồ Sơn ở làng Đông Chử, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An lúc bấy giờ để nhờ thầy chỉ dẫn lối hành văn cho hợp với thể thức
khoa trường, cho khỏi phụ lòng ao ước của nghiêm đường.
Mấy ngày đầu, Đầu xứ San làm bài nào cũng bị thầy phê “liệt”! Tức mình, bèn hỏi tôn sư:
- Thưa thầy, San tuy không tài giỏi, hay
ho gì hơn ai, song các sĩ phu đều công nhận San là kẻ có học thức ít
nhiều, chẳng rõ vì lẽ gì mà từ ngày tới tập bài với thầy đến giờ không
bài nào mà khỏi bị phê “liệt” cả?
Cụ Sơn đáp:
- Tôi cũng công nhận anh học giỏi và hay
chữ hơn tôi. Song anh chưa đỗ Hương thí, mà đã hành văn theo lối thi
Hội, thi Đình, nên tôi phải phê “liệt”, để anh nhớ mà thay đổi lối văn
chương cho trúng tuyến mà thôi.
- Vậy xin thầy chữa cho một bài để làm kiểu mẫu.
- Được, tôi sẽ sửa cho anh một bài để
anh bắt chước. Hành văn trước hết cần phải gạt bỏ những chữ phù phiếm,
đừng cầu kỳ lập dị, và nhứt là phải sát với đề mục.
Nhờ vậy, từ đó trở đi, trong những lần
thi “viết hương” (hạn thời gian làm bài là tàn một cây hương), bài nào
Phan cũng được phê “Ưu” hoặc “Bình”.
Tài học Đầu xứ San vượt hẳn các đồng
môn. Giai thoại văn học: sáng sớm hôm ấy, có một người khăn đen áo dài,
mang trầu rượu đến xin thầy một đôi câu đối để phúng điếu Nhạc đường, cụ
liền bảo các học trò mỗi người làm một câu, để cụ chọn mà trao cho
người ấy.
Trong khi mọi người còn đang nghĩ ngợi, Đầu xứ San đã làm xong hai câu như sau:
Nữ tắc viết vô, thiên lý khởi ưng vô thống hận/ Tử tuy vân bán, nhân tình thúy khả bán ai tư.
(Con gái được coi không, nhưng lẽ trời há lại không đau xót? Con rể tuy là phần nửa, nhưng lòng người ai nở nửa sầu thương?).
Đọc, thầy khen ngợi Đầu xứ San thật là hay chữ, và chọn lấy câu ấy đưa cho người nọ.
Cuối năm học, cụ Sơn bảo Đầu xứ San
rằng: “Anh hãy thu xếp mà về nghỉ ngơi một đôi tháng đặng đi dự thi
Hương khoa (Đinh Dậu, 1897). Thế nào anh cũng giựt giải nguyên trường
Nghệ An. Quyết không tay nào tranh được anh đâu”.
Vâng lời, đến tháng 3 năm sau, Đầu xứ San dự thi...
Tại “trường đệ nhứt”, Phan làm bài Kinh
nghĩa, và nạp quyển trước hồi trống thu không. Các bài ấy đều được các
quan sơ khảo, phân khảo, phúc khảo và giám khảo chấm phê “Ưu” và “Bình”.
Nhưng thật trớ trêu, sang “trường đệ nhị”, giữa lúc Phan đang cắm cúi
làm bài, bỗng có người từ lều khác chạy ào sang hỏi chữ, bị quan trường
phát hiện nên hoảng sợ bỏ chạy, đang cơn quýnh quáng vứt lại một quyển
sách nhỏ, chữ viết li ti như kiến.
Luật lệ trường thi bao giờ cũng cấm sĩ
tử mang “tài liệu” vào và cũng cấm ngặt chạy qua lều người khác để trò
chuyện, trao đổi, do đó cụ Phan bị khép tội “Hoài hiệp văn tự”, lập tức
“giải giam cứu”, để rồi phải lãnh án “chung thân bất đắc ứng thí”.
Sau, do văn chương lỗi lạc mà các quan
đại thần biết đến, mới tâu lên. Vua Thành Thái cho minh xét tận tường,
nên cuối cùng cho tiêu hủy bản án kỳ quặc ấy. Thế là Phan được tiếp tục
ứng thí trong những kỳ thi tới. Và, như chúng ta đều đã biết, trong một
khoa thi sau đó, năm Canh Tý (1900) cụ đỗ Thủ khoa tại trường thi Nghệ
An – có 30 người thi đậu.
Nhờ được giám khảo vốn là thầy dạy của
mình cho biết, lần này nhờ cố hãm bớt “cái tài” của mình lại, nên quan
trường công đồng táo bạo là, cho yết riêng tên cụ một bảng. Vinh diệu
biết dường nào!
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire