Kính gửi quý anh chị tài liệu sưu tầm trên net về
Trận Ban Mê
Thuột tháng 3-1975
©
Trọng Đạt
Chân thành cám ơn tác giả bài viết post trong trang Blog này.
NIỆM KHÚC CĂM HỜN (The Exodus Song) Hoàng Thái Vũ par Huong-Hoa
Sau ngày ký
Hiệp định Paris, miền Nam Việt Nam mạnh hơn miền Bắc. Tháng 11 năm 1972 TT
Nixon vội cho chuyên chở tới VNCH gần 600 máy bay các loại gồm: 208 máy bay
phản lực gồm chiến đấu và oanh tạc cơ loại nhẹ và khoảng 360 trực thăng các
loại, 23 phi cơ thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết
giáp M-48 (Nixon No More Vietnams trang 170-171).
Trong khi ấy
BV bị thiệt hại nặng và thảm bại trong trận muà hè đỏ lửa, tính tới tháng
9/1972 có vào khoảng từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn cán binh CS bị giết, khoảng
700 chiến xa bị phá hủy (Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang
587), ngoài ra trận oanh tạc dữ dội Giáng sinh 1972 bằng B-52 đã gây thiệt hại
rất nặng cho hạ tầng cơ sở BV như kho hàng, đường xe lửa, nhà máy điện, phi
trường….
Mặc dù mạnh
hơn miền Bắc rất nhiều nhưng miền Nam không được phép đánh ra Bắc mà chỉ được ở
yên trong thế tự vệ chờ địch tới, điều này ai cũng biết cả. Khoảng gần một năm
sau tình hình bắt đầu thay đổi, cán cân quân sự nghiêng về phía BV. Ngay sau
khi ký Hiệp định Paris, CSBV vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định, chiến tranh vẫn
tiếp diễn, trong khi miền Nam VN bị cắt quân viện dần dần , miền Bắc vẫn được
CS quốc tế tiếp viện dồi dào, về chi tiết tôi sẽ nói sau. Cuộc chiến tranh giữa
hai miền là một cuộc chiến viện trợ tiếp liệu, cả hai bên đều không tự sản xuất
được vũ khí đạn dược mà phải tùy thuộc vào quân viện bên ngoài, bên nào nhiều
tiếp liệu, vũ khí đạn dược thì bên đó thắng.
Tình hình chung hai bên
Năm 1973 có
thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ Hiệp Định Ba Lê 28/1 cho tới tháng
10/1973 và giai đoạn bạo lực cách mạng sau tháng 10/1973.
Từ sau ngày
ký Hiệp Định Ba Lê đến tháng 10/1973 tình hình tương đối yên tĩnh. Tháng 6/1973
Quốc hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại
Đông Dương Việt, Miên, Lào. Ngày 1/7/1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ
giữa tháng 8/1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10/1973
Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (War Powers Act),
Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Thấy thời cơ
thuận lợi đã tới, Bắc Việt bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang
quân sự bạo lực. Đại Hội 21 của Bộ Chính Trị tại Hà Nội trong tháng 10 quyết
định đấu tranh quân sự, trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, phát triển tuyến
đường xa lộ Đông Trường Sơn
Theo Henry
Kissinger (Years of Renewal trang 478) sau khi ký Hiệp định Paris, BV bắt đầu
cho xây hệ thống đường xâm nhập tiếp liệu chằng chịt dài tổng cộng 20 ngàn km
từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, rộng 8m, hàng ngàn km ông dẫn dầu cung cấp
cho hàng chục ngàn xe vận tải.
Sau Hiệp
định khoảng gần một năm, Quốc hội Mỹ cắt giảm quân viện xương tủy VNCH mỗi năm
50%, từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700
triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá,
tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Dưới thời TT
Nixon, chính phủ đã đề nghị Quốc hội cấp 1 tỷ 4 viện trợ quân sự cho miền nam
VN năm 1975, Ủy ban quốc phòng Thượng viện do Nghị sĩ John Stennis làm chủ tịch
cắt bớt còn 1 tỷ, nay dưới thời TT Ford Ủy ban chuẩn chi Thượng viện do Nghị sĩ
John McClellan làm chủ tịch cắt 300 triệu còn 700 triệu (Years of Renewal trang
472).
Theo bản tin
của BBC.com ngày 10/5/2006 một buổi hội thảo qui mô tổng
kết cuộc chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức tại Sài Gòn trong hai ngày 14 và
15/4/2006. Trong số các bài đọc ở hội thảo, tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang
Lạng thuộc Viện Lịch sử Quân sự Cộng sản Việt Nam có bài tham luận về nguồn chi
viện của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc
trong cuộc chiến. Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666
tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng
vũ khí. Như vậy số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.
Theo
Kissinger (Years of Renewal trang 481) Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết
tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu
tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov
tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước
đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong
những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn
Đánh hơi
thấy Mỹ quẳng miếng xương Đông Dương, CS quốc tế và CSVN nhanh tay ra vồ ngay
lấy. Cuối tháng 10/1974 Bộ Chính Trị Hà Nội quyết định kế hoạch tác chiến năm
1975, tranh thủ bất ngờ, tấn công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976
tiến hành Tổng công kích. Trong giai đoạn 1969-1972 sự vận chuyển súng đạn của
CS vào Nam gặp nhiều khó khăn vì bị không quân Việt-Mỹ ném bom, bắn phá nhưng
kể từ sau ngày ký Hiệp Định Paris 1/1973, BV đã dùng 16 ngàn xe vận tải chở
súng đạn qua xa lộ Đông trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh một cách tự do
thoải mái nên giai đoạn 1973-1975 Hà Nội đã đem được nhiều vũ khí đạn dược vào
Nam gấp mấy lần giai đoạn trước ( 1969-1972)
Trong khi ấy
Tổng Thống Thiệu không có một nhận định nào rõ ràng về lực lượng cũng như kế
hoạch sắp tới của CS. Ngày 9/12/1974 , khoảng một tuần trước khi BV tấn công
Phước Long, tại dinh Độc Lập trong một phiên họp cao cấp quân sự gồm Hội đồng
Tướng lãnh và các vị Tư lệnh Quân khu, ông Thiệu cho biết trong năm 1975 BV có
thể đánh với qui mô lớn nhưng không bằng năm 1968 và 1972, địch chưa có đủ khả
năng đánh vào các thị xã lớn, dù đánh cũng không giữ được! BV chỉ đánh các thị
xã nhỏ như Phước Long, Gia Nghĩa. Về điểm này Frank Snepp, trong Decent
Interval, Tướng BV Văn Tiến Dũng và ông Cao Văn Viên đã ghi nhận gần giống nhau
như vậy, ông Thiệu lạc quan cho rằng BV chưa phục hồi sau trận mùa hè đỏ lửa
1973.
Từ tháng 10 năm 1974 Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt đã trình bày kế hoạch tác chiến lên Bộ Chính Trị và Quân uỷ Trung ương, họ đã chọn chiến trường Cao Nguyên làm chủ yếu, Văn Tiến Dũng đã ghi nhận trong hồi ký.
Từ tháng 10 năm 1974 Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt đã trình bày kế hoạch tác chiến lên Bộ Chính Trị và Quân uỷ Trung ương, họ đã chọn chiến trường Cao Nguyên làm chủ yếu, Văn Tiến Dũng đã ghi nhận trong hồi ký.
“Tháng 10
năm 1974, trời cuối thu bắt đầu lạnh, gợi cho các cán bộ quân sự chúng tôi nhớ
đến mùa chiến dịch sắp đến. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp nghe Bộ Tổng
tham mưu trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược. . . . …Hội nghị nhất trí
thông qua phương án của Bộ Tổng tham mưu, chọn chiến trường Tây nguyên làm
hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn và rộng khắp năm 1975”
(Đại thắng mùa xuân trang 24)
BV cho rằng
TT Thiệu đã bố trí lực lượng mạnh ở hai đầu, tại Quân khu 1 và 3 thì bố trí
nhiều đơn vị chủ lực, nhiều chiến xa, đại bác và máy bay chiến đấu, còn tại
Quân khu II ta chỉ để 2 Sư đoàn 22 BB và 23 BB. Quân khu II rộng nhất toàn quốc
gồm 12 tỉnh, VNCH phải trải quân giữ đất nhiều nên khả năng phòng thủ yếu. Bộ
chính trị CSBV đã đồng ý kế hoạch nêu trên và chọn Tây nguyên để làm hướng
chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công năm 1975. Hà Nội đã chọn chiến trường
Tây Nguyên (Quân khu II) làm chủ yếu vì tại đây lực lượng VNCH yếu hơn ba quân
khu I, II, IV.
Đại tá Phạm
Bá Hoa nói hồi ông học tại trường Đại Học Quân Sự năm 1960 có được đọc một tài
liệu nói “Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm được cao nguyên miền Trung thì
người đó sẽ nắm phần chiến thắng”, Cộng Sản cũng nói ai làm chủ Tây Nguyên thì
làm chủ chiến trường. Bắc Việt chủ trương tấn công Quân khu II trước phần vì
VNCH phòng thủ yếu tại đây vả nó là vị trí yết hầu. Một phần vì ông Thiệu không
chủ trương giữ Quân khu II, một vùng cao nguyên cẵn cỗi mà trong thâm tâm đã có
ý tưởng bỏ vùng núi rừng miền Trung rút quân về vùng đất mầu mỡ Quân khu III và
IV, trên thực tế lãnh thổ quá rộng, không đủ lực lượng trừ bị để tăng cường
Sau khi lựa
chọn chiến trường Tây Nguyên, Bắc Việt lựa chọn địa điểm tấn công, tại buổi họp
của Quân Uỷ Trung Ương Bắc Việt ngày 9/11/1974 Lê Đức Thọ tay trùm CSBV tham dự
để nâng cao quyết tâm chiếm cho được Ban Mê Thuột, Thọ nói “Phải đăt vấn đề dứt
khoát là giải phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không
đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào?” (Sách đã dẫn Trang 31)
Bắc Việt đã
chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước ngày tấn công trong khi ta chưa
có tin tức tình báo rõ rệt. Chiến dịch Tây nguyên được mang mật danh 275.
Ngày
13/12/1974 Bắc Việt đưa gần ba Sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày 7/1 tỉnh
này hoàn toàn lọt vào tay địch. Tổng số 4,500 binh sĩ, sĩ quan chỉ còn 850
người sống sót. Tỉnh trưởng Phươc Long. Quận trưởng Phước Bình mất tích, 3,000
trong số 30 ngàn dân trốn thoát, một số viên chức hành chánh bị CS hành quyết,
thất bại tại Phước Long là đương nhiên vì một Tiểu đoàn bộ binh và 5 Tiểu đoàn
địa phương quân không thể chống lại 3 Sư đoàn CS.
Chính phủ
VNCH không tăng viện cho Phước Long vì không đủ khả năng thực hiện tiếp tế, cứu
viện bằng trực thăng vận từ Biên Hoà. Nói về mặt kinh tế chính trị Phước Long
kém quan trọng hơn Tây Ninh, Pleiku, Huế… Hà Nội cho đánh Phước Long để thăm dò
Mỹ, khi thấy Mỹ chỉ phản đối xuông thì họ làm tới.
Sau trận
Phước Long TT Thiệu biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên đầu năm 1975
nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì địch nghi binh tối đa. Phía VNCH không đoán
được ý định của họ, theo Tướng Hoàng Lạc trước khi Văn Tiến Dũng vào Nam, Giáp
đã dặn dò Dũng phải nghi binh tối đa để đánh lạc hướng Nguỵ.
Tình hình
chính trị quân sự VNCH năm 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt Nam
là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 1971 rút
xuống còn 12 tỷ mỗi năm vì Mỹ đang rút quân. Khi nửa triệu quân đồng minh đã
rút đi, VNCH phải một mình gánh vác tất cả chiến trường với tiền viện trợ bị
cắt giảm từ cuối 1973 mỗi năm 50%.
Việc cắt
giảm đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của cựu Đại tướng Cao Văn Viên,
trong cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH (NNCCVNCH) trang 86, 87. Hậu quả là năm
1974 không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm
số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm
70%. Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ.
Đạn dược chỉ
còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn một
tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn tấn
một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn đủ đạn tất cả các loại súng
cho 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần (Sách đã
dẫn trang 92)
Theo sử gia
Bill Laurie, cấp số đạn súng lớn như đại bác 105 ly, 155 ly, 175 ly.. năm 1975
đã bị cắt giảm trên 90% . Theo Tướng Cao Văn Viên vì thiếu cơ phận thay thế, xe
tăng, giang thuyền, máy bay …nằm ụ chờ rỉ sét. Thiếu thuốc men, số tử vong tăng
cao, tinh thần xuống thấp.
Không quân
VNCH năm 1975 có 2075 máy bay các loại, đứng thứ tư trên thế giới về số lượng.
Binh chủng Thiết giáp có 2,200 chiến xa và thiết xa các loại. Pháo binh có
khoảng 1,500 khẩu đại bác . Hải quân có 1,600 tầu chiến và giang thuyền các
loại. Đây chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế nhiều máy bay, xe tăng.. hư
hỏng thiếu cơ phận thay thế phải nằm ụ. Lục quân VNCH có hơn một triệu quân
trong đó 40% là chủ lực quân vào khoảng 400 ngàn người gồm những lực lượng tác
chiến và yểm trợ, 50% là ĐPQ , Không quân, Hải quân, Cảnh sát. Quân đội VNCH
được tổ chức theo lối Mỹ, một người lính tác chiến có năm người yểm trợ như
hành chánh tài chánh, quân y, quân trang, quân dụng. Trên thực tế lực lượng
chiến đấu chỉ vào khoảng từ 170 cho tới 180 ngàn người. Lính nhà nghề chỉ có 13
Sư đoàn chủ lực và 17 Liên đoàn Biệt động quân tương đương khoảng hơn 2 Sư đoàn
(trên thực tế một Liên đoàn có hơn 1000 người). Tổng cộng ta có vào khoảng 15
Sư đoàn chính qui (nếu kể cả BĐQ). Lực lượng được bố trí toàn quốc như sau.
Quân khu
Một: 5 Sư đoàn (1, 2, 3, Nhẩy Dù, TQLC), 4 Liên đoàn BĐQ.
Quân khu Hai: 2 Sư đoàn (22, 23), 7 Liên đoàn BĐQ
Quân khu Ba: 3 Sư đoàn (5, 18, 25), 4 Liên đoàn BĐQ
Quân khu Bốn: 3 Sư đoàn (7, 9, 21)
Địa phương quân VNCH năm 1975 có khoảng 325 ngàn người,
Quân khu Hai: 2 Sư đoàn (22, 23), 7 Liên đoàn BĐQ
Quân khu Ba: 3 Sư đoàn (5, 18, 25), 4 Liên đoàn BĐQ
Quân khu Bốn: 3 Sư đoàn (7, 9, 21)
Địa phương quân VNCH năm 1975 có khoảng 325 ngàn người,
Tổng cộng
VNCH có 15 Sư đoàn chủ lực (nếu kể cả BĐQ) tức 45 trung đoàn, đem chia cho 44
tỉnh toàn quốc thì trung bình mỗi tỉnh chỉ có một Trung đoàn chính qui bảo vệ
trong khi BV có khả năng tập trung hằng chục Trung đoàn để tấn công một địa
điểm vì họ không phải trải quân giữ đất như Miền Nam. Theo ông Cao Văn Viên
trên thực tế quân số VNCH thiếu hụt do nạn đào ngũ, mỗi năm mất khoảng một phần
tư (1/4) quân số, ngoài ra ta cũng phải kể nạn lính ma lính kiểng. (NNCVNCH
trang 79)
Lực lương
chính qui Bắc Việt năm 1975 gồm 4 Quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương một Quân
đoàn). Mỗi quân đoàn gồm 3 sư đoàn và các lữ đoàn phòng không, pháo binh, thiết
giáp, công binh.. Tổng cộng họ có 15 sư đoàn bộ binh, khoảng 6 trung đoàn đặc
công và hơn 10 trung đoàn độc lập. Toàn bộ lực lượng tương đương với 20 Sư đoàn
bộ binh chưa kể các đơn vụi cơ giới, yểm trợ
So về lực
lượng chính qui, nhân lực thì quân đội BV đã nhiều hơn quân đội VNCH , họ không
phải phòng thủ, mỗi khi tấn công họ dồn lại tạo một mũi dùi mạnh. Trong khi đó
Quân đội chủ lực VNCH đã ít hơn lại phải trải rộng từ Cà Mâu ra Bến Hải để giữ
đất, như đã nói trên ta có 13 sư đoàn, kể cả 15 liên đoàn Biệt động quân thì có
tương đương 15 sư đoàn hay 45 trung đoàn, miền nam có 44 tỉnh, trung bình một
tỉnh chỉ có một trung đoàn bảo vệ. Theo hồi ký Văn tiến Dũng tại Cao nguyên về
bộ binh BV đông hơn VNCH 5 lần, pháo binh gấp 2 VNCH (sách đã dẫn trang 49) vì
họ tập trung
Khoảng 80%
chủ lực quân CSBV đã có mặt tại miền Nam đầu năm 1975, họ để lại Quân đoàn 1
(gồm 3 Sư đoàn) tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị. Sau khi Quân khu II và
I của VNCH sụp đổ, Bắc Việt đưa hết cả 3 Sư đoàn trừ bị vào Nam. Trong giai
đoạn 1973-1975 Hà Nội cho chuyên chở vũ khí vào Nam thoải mái vì không bị oanh
kích nên số lượng vũ khí đạn dược năm 1975 của họ tại miền Nam nhiều gấp hai
hoặc gấp ba lần năm 1972.
Pháo binh và
Thiết giáp BV đưa vào Nam được ước lượng không chính xác khoảng hơn 500 khẩu
trọng pháo và hơn 500 xe tăng.
So sánh với
tình hình năm 1972 ta thấy năm 1975 quả là bi đát, năm Quân khu II gồm 12 tỉnh,
diện tích rộng lớn nhất, bằng nửa Việt Nam Cộng Hoà mà chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh
(22 và 23) và 7 Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ, toàn bộ lực lượng chưa tới ba
Sư đoàn là nơi yếu thế nhất đã được BV chiếu cố tấn công. Quân khu II dân số
trên 3 triệu gồm các tỉnh Cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Lâm Đồng,
Quảng Đức, Phú Bổn, Tuyên Đức, phía Đông là các tỉnh duyên hải gồm Bình định,
Khánh Hoà, Bình Thuận… có 3 thành phố chính là Nha Trang, Qui Nhơn, Tuy Hòa, dân
số tại đây thưa thớt hơn các quân khu khác. Sư đoàn 23 BB bảo vệ Cao nguyên, sư
đoàn 22BB chịu trách nhiệm các tỉnh duyên hải.
Diễn tiến trận đánh
Tư Lệnh Quân
đoàn II Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh phó Quân đoàn Chuẩn Tướng Trần Văn
Cẩm, Tư Lệnh phó Quân khu Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tham mưu trưởng Đại tá Lê
Khắc Lý. Tại Ban Mê Thuột chủ lực quân của VNCH gồm 2 Tiểu đoàn (1, 3) thuộc
Trung đoàn 53 đóng tại phi trường Phụng Dực (có nhân chứng nói chỉ có một tiểu
đoàn) và ba Tiểu đoàn Địa phương quân. Theo Bút ký của Nguyễn Định, Ban Mê
Thuột như một thành phố bỏ hoang, các đơn vị chủ lực đã được đưa tăng cường cho
Pleiku và các nơi khác. Cũng theo ông này lực lượng của ta tại đây kể cả Nghĩa
quân, Cán bộ xây dựng nông thôn, Nhân dân tự vệ cũng không quá 2,000 người. Con
số Nguyễn Định đưa ra có lẽ quá thấp vì quân số tại các tỉnh nhỏ như Phước
Long, Bình Long đã vào khoảng trên dưới 3,000 người, lực lượng VNCH tại Ban Mê
Thuột chắc hẳn không dưới 3,000 hoặc 4,000 người vì đó là một tỉnh lớn.
Lực Lượng CS
tại Quân khu II theo tài liệu Bắc Việt như sau:
“Lực lượng
ta tham gia chiến dịch gồm: 5 sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn
bộ binh (25, 271, 95A, 95B), trung đoàn đặc công (14, 27), trung đoàn xe tăng-
thiết giáp 273, 2 trung đoàn pháo binh (40, 675), 3 trung đoàn phòng không
(232, 234, 593), 2 trung đoàn công binh (7, 575), trung đoàn thông tin 29, 6
tiểu đoàn vận tải, nhiều đơn vị bảo đảm của Bộ và lực lượng vũ trang địa phương
các tỉnh diễn ra chiến dịch. Riêng lực lượng Mặt trận Tây Nguyên tham gia chiến
dịch gồm 36 tiểu đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn đặc công, 13 tiểu đoàn pháo mặt đất,
18 tiểu đoàn phòng không, 3 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp với tổng số quân
44.900 người.
Về vũ khí
trang bị: có 88 pháo lớn, 1.561 súng chống tăng và hàng vạn súng bộ binh, 6 cơ
cấu bắn B-72, 343 súng phòng không, 32 xe tăng, 25 xe bọc thép, 679 xe ô tô các
loại. Ngoài ra còn có 21.800 cán bộ chiến sĩ làm lực lượng dự bị ở phía sau và
hoạt động ở các hướng khác.
Bộ tư lệnh
chiến dịch gồm: Hoàng Minh Thảo (Tư lệnh), Đặng Vũ Hiệp (Chính uỷ) Trich trong:
Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975,
trang 90, 91.)
Như thế lực
lượng CS tại Cao nguyên gồm 5 Sư đoàn BB và 4 Trung đoàn độc lập tương đương
với 6 Sư đoàn, gấp hơn hai lần chủ lực quân VNCH, tổng số nhân lực kể cả lực
lượng dự bị là 66,700 người. Bắc Việt đã được Nga, Tầu viện trợ cho nhiều vũ
khí tối tân, ngoài ra họ còn được trang bị nhiều hoả tiễn tầm nhiệt hiện đại.
Theo nhận định của phía CS, họ tập trung lực lượng tại khu vực chủ yếu nên tại
đây bộ binh BV đông hơn VNCH gấp 5 lần, xe tăng coi như ngang nhau, pháo binh
gấp 2. (Hồi ký ĐTMX Văn tiến Dũng trang 49)
Ngày
5/2/1975 Văn Tiến Dũng từ phi trường Gia Lâm đáp máy bay xuống Đồng Hới rồi vào
Quảng Trị, tới sông Bến Hải, y đi xuồng máy tới Bộ chỉ huy chiến dịch tại phía
Tây Gio Linh để chỉ đạo toàn bộ chiến dịch.
Ban Mê Thuột
là tỉnh lỵ của Darlac, dân số 250,000 người gồm Kinh, thượng, Tầu và các chủ
đồn điền Pháp và Ý, (cũng có tài liệu nói dân số 150,000 người), thị xã gồm
60,000 người. Tỉnh có nhiều đồn điền cà phê, cao su, nhiều thắng cảnh đẹp,
nhiều gỗ quí, dân chúng đa số sống bằng nghề trồng trọt, làm đồn điền. Ban Mê
Thuột có vị trí chiến lược quan trọng, phía bắc nối liền Pleiku, Kontum, Phú
Bổn.. phía Nam đi Quảng Đức, Phước Long, phía Đông nối liền Nha Trang.
Trước khi
mặt trận diễn ra, theo Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, BV đưa
những tin tức giả qua điện thoại để nghi binh, kế đó tấn công bất ngờ, đông
đảo, nghi binh tối đa, họ vờ đánh Pleiku để nhử quân đội VNCH lên giải toả rồi
cắt các đường dẫn đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường sau cùng ba mặt giáp công.
Các Trung đoàn, Sư đoàn BV cắt các đường giao thông 19, 14, 21 nghi binh thu
hút quân đội VNCH về phía Bắc (tức Pleiku) sau đó ồ ạt tấn công thị xã Ban Mê
Thuột.
Theo hồi ký
Văn tiến Dũng BV không đóng quân sẵn ở vị trí xuất phát tấn công mà tập kết từ
xa vận động đến, chuyển quân bằng xe molotova, đây là lần đầu tiên BV đánh trận
bằng xe hơi. BV bỏ qua vòng ngoài bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối hợp với lực
lượng đặc công đã có sẵn trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài, họ không đánh
theo lối bóc vỏ. (Sách đã dẫn trang 69)
Ngày
1/3/1975 Sư đoàn 968 Bắc Việt chiếm đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường
Cù Hanh, Pleiku. Ngày 3/3 Trung đoàn 95 và Sư đoàn 3 CS ngăn chận quốc lộ 19
tại An Khê. Ngày 5/3 Trung đoàn 25 CS cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An và Khánh
Dương, cắt đường Nha Trang-Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng cường Trung đoàn 45
tại Thanh An và cho 2 Tiểu đoàn BĐQ và thiết giáp giải toả quốc lộ 19. Ngày 7/3
Sư đoàn 320 CS chiếm Thuần Mẫn, ngày 9/3 Sư đoàn 10 CSBV tấn công Đức Lập,
Quảng Đức, căn cứ núi lửa bị tràn ngập.
BV cô lập
Ban Mê Thuột cả Bắc và Nam mà Tướng Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông lại
nghĩ chúng nghi binh vờ đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ tư
lệnh Quân đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn BĐQ thuộc Liên đoàn 21 từ
Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột. Sự sai lầm của Tướng Phú
đã được CS khai thác triệt để, họ nghi binh tối đa để đánh lừa ông và gọi đây
là cuộc chiến tranh cân não.
Ngày 9/3
Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột đã triệu phiên họp khẩn cấp tại toà hành chánh và báo
động đỏ, cắm trại 100%. Hai giờ sáng ngày 10/3 đặc công Việt cộng trong thị xã
đột nhập phi trường phá huỷ một máy bay, 3 Sư đoàn CS 316, 10, 320 với ba mũi
tấn công thị xã phối hợp với đặc công đã nằm bên trong. CS pháo kích ầm ầm như
phong ba bão táp vào các vị trí của quân trú phòng rồi đưa xe tăng, xe kéo
pháo, phòng không, quân xa.. ồ ạt tiến về thị xã từ xa, lần đầu tiên BV đánh
trận bằng xe hơi.
Trận bão lửa
đã được Nguyễn Định ghi nhận .
“…Tiếng rít
của hoả tiễn và đạn đạo 130 ly khủng khiếp như xé cả không gian mà người ta
thực sự chưa từng nghe thấy một lần trong đời. Những tiếng nổ cứ liên tục như
những dây pháo đại không ngừng, làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả
thành phố như cảnh tượng động đất được thấy trên màn bạc . . Thành phố đã như
con tầu chao nghiêng trong bão tố.”(Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký.)
Theo hồi ký
Văn Tiến Dũng (trang 69), trong một đêm BV đã đưa được một lực lượng đông đảo
12 Trung đoàn gồm bộ binh và các đơn vị xe tăng, pháo binh, phòng không..
khoảng ba Sư đoàn vào trận địa đúng thời gian. Họ bỏ qua các đồn bót dọc đường,
tiến về thị xã, bắc phà cho cả đoàn xe vượt sông Serepok, các mũi tiến công đã
tiến vào đúng thời gian. Địch chia làm 3 mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trại
Mai Hắc Đế, cánh thứ hai đánh phi trường Phụng Dực (có 2 Tiểu đoàn thuộc Trung
đoàn 53) tại đây 4 xe tăng bị bắn cháy, 200 tên địch bị hạ, cánh thứ ba đánh
phi trường L19 để tiến vào thị xã tấn công tiểu khu, khi vào thị xã 10 xe tăng
đã bị ĐPQ bắn cháy.
Vào buổi
chiều Cộng quân chiếm được một nửa thành phố, ĐPQ, nghĩa quân, cảnh sát vẫn
chiến đấu anh dũng tại nhiều nơi. Tướng Phú cho trực thăng vận Liên đoàn 21 BĐQ
xuống Buôn Hô từ đó hành quân vào thị xã tiến chiếm Tiểu khu Ban Mê Thuột nhưng
Liên đoàn không đạt được mục tiêu vì sự điều quân vị kỷ của Chuẩn Tướng Lê
Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB. Nhiều tài liệu và nhân chứng cho thấy ông
điều động Liên đoàn 21 đưa gia đình, vợ con ông về Trung tâm huấn luyện cách
Ban Mê Thuột vài cây số để ông đưa trực thăng xuống bốc đi.
Cảnh hoang
tàn ghê rợn của thành phố đã được Nguyễn Định mô tả như sau.
“Mười sáu
giờ ngày thứ hai 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình tại
thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh còn được
trấn giữ.
Trong thành
phố tiếng súng nổ đã im, nhưng cảnh hoang tàn của thị xã thật không cách nào tả
cho xiết. Những khu phố bị cháy không ai dập tắt. Đóm lửa, tro tàn, và bụi khói
bao phủ khung trời thị xã như một màn sương đục. Mặt đường lỗ loang những dấu
đạn cầy. . . . Rải rác trên các khu phố những vũng máu và thây người, kẻ bị
thương, bị chết không ai săn sóc. Thị xã không hẳn là bãi tha ma, mà là hỗn độn
của một thế giới nửa sống nửa chết.” (Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút
ký.)
Và dưới đây
lúc sáu giờ chiều.
“Trong nội
vi thị xã, cho đến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, trận chiến được coi
như kết thúc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Những đống
tro tàn của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói và gạch vụn gợi cho người ta cái
cảm xúc của một chiến trường tàn cuộc lạnh lẽo rợn người”. ( Nguyễn Định,
BMTNĐCC.)
Sáng 11/3
không quân oanh tạc lầm vào Bộ Chỉ Huy của Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột cắt
đứt liên lạc với Quân đoàn II. Bắc Việt cho tăng cường Sư đoàn 320 tiếp tục tấn
công phi trường Phụng Dực, Trung đoàn 53 cầm cự đến ngày 17/3 thì chấm dứt,
Phạm Huấn cho biết họ chiến đấu quả cảm tới người cuối cùng, nhưng cũng có tài
liệu nói một số ít thoát ra khỏi vòng vây chạy vào rừng. Nguyễn Định nói các
lực lượng trú phòng như ĐPQ, nghĩa quân, Cảnh sát đã chiến đấu hết sức mình
nhưng phải chịu thua trước số đông áp đảo của địch.
Ngày 11/3 Bộ
Tư Lệnh Sư đoàn 23 lập kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột.
-Trung đoàn
45 được trực thăng vận từ đèo Tử Sĩ đến quận Phước An để tiến vào hướng Đông
thị xã.
- Liên đoàn
7 BĐQ được không vận từ Sài Gòn ra thay trung đoàn 44, Trung đoàn này sẽ được
trực thăng vận tới Phước An.
Ngày 13/3
Trung đoàn 45 tiến về Ban Mê Thuột bị chận đánh cầm chân tại vòng đai thị xã,
Liên đoàn 21 Biệt động quân bị đánh rút ra khỏi phi trường L19, cuộc trực thăng
vận Trung đoàn 44 bị hủy bỏ, pháo binh chỉ còn hai khẩu 105 ở Phước An, không
quân gặp nhiều khó khăn vì BV xử dụng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7. Ngày 15/3 Tổng
thống Thiệu hủy bỏ kế hoạch tái chiếm và cho lệnh rút khỏi Phước An. Trung đoàn
trưởng Trung đoàn 44 thất vọng nói “ không có một tia hy vọng nào giải cứu Ban
Mê Thuột”. Cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột thất bại vì ta không đủ lực
lượng vả lại các đường dẫn vào Ban Mê Thuột đã bị cắt hết.
Nguyên nhân, hậu quả
BV lấy được
nhiều chiến lợi phẩm của VNCH, Cục trưởng hậu cần BV khoe là họ đã lấy được
nhiều lương thực, xe cộ, nhiều đạn trong kho Mai Hắc Đế, Ban Mê Thuột. Tác giả
Nguyễn Đức Phương đã nhận xét về diễn tiến trận đánh chiếm Ban Mê Thuột của
Cộng quân như sau. “Do những thất lợi về phương tiện vận chuyển và yếu tố quân
số của QLVNCH, kế hoạch tấn công Ban Mê Thuột của Tướng Văn Tiến Dũng khá đơn
giản, bao gồm hai yếu tố bí mật bất ngờ và tập trung đông quân số để áp đảo
địch quân. Đầu tiên đánh vào một số diện tại quân khu 2 để lôi cuốn các đơn vị
QLVNCH có nhiệm vụ giải toả. Sau đó cắt đứt các trục lộ giao thông chính dẫn
đến mục tiêu đồng thời chiếm các phi trường để ngăn chận tiếp viện bằng đường
hàng không để sau cùng cường tập tiêu diệt điểm với chiến thuật ba mũi giáp
công” (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 716.)
Hậu quả của
trận Ban Mê Thuột không thể lường trước được. Một ngày sau khi BV tấn công Ban
Mê Thuột, Tổng Thống Thịêu mở phiên họp tại Dinh Độc Lập ngày 11/3 gồm Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Quang, Phụ tá
an ninh Quốc Gia. Nội dung nói về kế hoạch di tản Quân khu I và II về giữ Quân
khu III và IV và chỉ giữ một phần duyên hải Vùng II vì lãnh thổ quá rộng không
đủ lực lượng bảo vệ. Ngày 14/3 trong một phiên họp tại Cam ranh với Hội Đồng
Tướng Lãnh ông Thiệu quyết định di tản toàn bộ chủ lực thuộc Quân đoàn II về
duyên hải qua tỉnh lộ 7.
Trận Ban Mê
thuột mở đầu cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Việt Nam. BV có yếu tố bất
ngờ, bảo mật, Ban Mê Thuột không thuận lợi cho việc phòng thủ. Từ tháng 2/1975,
Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đã báo cáo tin tức cho thấy BV chuẩn bị đánh Ban Mê
thuột do tù binh, hồi chánh viên khai báo kế hoạch của địch. Các cuộc hành quân
Phượng Hoàng của Cảnh sát, nghĩa quân, những người khai thác lâm sản… đã báo
cáo cho chính quyền Ban Mê Thuột biết tin tức về địch xuất hiện gần thị xã.
Khi Tồng
thống Thiệu đến ăn Tết với Trung đoàn 44, Trung tá Trưởng phòng 2 Sư đoàn 23 đã
trình lên Tổng thống, ông bèn lệnh cho Tướng Phú điều Sư đoàn 23 trở lại Ban Mê
Thuột nhưng Tướng Phú tin Cộng quân sẽ đánh Pleiku, chúng giả vờ nghi binh tại
Ban Mê Thuột. Tướng Nguyễn cao Kỳ sau này cho biết chúng ta không bị bất ngờ
khi CS tấn công Ban mê Thuột, ông Cao Văn Viên đã được thông báo cho biết kế
hoạch đánh Ban Mê Thuột, theo ông Kỳ Tướng Viên đã bàn với Tướng Thiệu, Phú về
kế hoạch phòng thủ Ban Mê thuột. Tướng Phú cứ nhất quyết ông nắm vững tình
hình, địch sẽ đánh Pleiku, sự thực ông đã mắc kế nghi binh của CS, không ai cản
được ông ấy. Bộ TTM của QĐVNCH đã cảnh báo Tướng Phú coi chừng BV đánh Ban Mê
Thuột nhưng ông vẫn khăng khăng địch sẽ đánh Pleiku.
Theo Đại tá
Nguyễn Trọng Luật, CS biết phía VNCH hay nghe lén truyền tin của họ và họ đã
đưa những tin giả để đánh lừa ta. Tướng Phú đã mắc lừa kế nghi binh của CS,
theo Tướng Hoàng Lạc trước ngày Văn Tiến Dũng lên đường vào Nam, Võ Nguyên Giáp
đã dặn Dũng phải nghi binh tối đa để đánh hoả mù. Yếu tố bất ngờ của Ban Mê
Thuột cũng như Tết Mậu Thân ở chỗ không ai tiên đoán được tầm mức rộng lớn của
nó. Bộ Tư lệnh Quân đoàn II không thể ngờ được Bắc Việt đã đưa vào Quân Khu II
đến 6 Sư đoàn vì thiếu tin tình báo, không đánh giá đúng mức lực lượng địch
Yếu tố địa
hình Ban Mê Thuột không có chướng ngại thiên nhiên như Kontum để trì hoãn sự
tiến quân của CSBV, diện tích rộng hơn Kontum Pleiku nhiều. Ban Mê Thuột trên
thực tế không có vòng đai phòng thủ liên tục, quá nhiều đồn điền san sát nhau,
địch có thể lợi dụng ngụy trang. Những cánh rừng già phía Tây Bắc đã được công
binh CS chuẩn bị sẵn.
Tại Ban Mê
Thuột tấn công bằng chiến xa rất khó, Pleiku với những đồi thoai thoải dễ hơn
nhưng BV đã cho công binh dọn đường trước, họ cưa 2 phần 3 các gốc cây lớn, cây
không bị đổ, máy bay thám thính ở trên cao nhìn xuống không thấy dấu hiệu gì,
CS ngụy trang rất khéo ngay từ thời chiến tranh Việt Pháp 1946-1954 cũng vậy.
Khi mặt trời lặn chiến xa cứ việc ủi sập cây mà tiến vào thị xã dễ dàng. Hai
giờ sáng Cộng quân pháo ầm ầm vào thị xã như vũ bão để che lấp tiếng động cơ xe
chạy, đến 7 giờ xe tăng địch đã vào trong thành phố.
Tướng Phú
mới lên nhậm chức Tư lệnh quân đoàn có vài tháng nên không nắm vững tình hình
cho lắm, không có uy tín với Bộ Tổng tham mưu. Ông nhậm chức Tư lệnh quân khu
ngày 5/11/1974 do Phó Tổng thống Trần văn Hương đề nghị thay thế Tướng Nguyễn
Văn Toàn bị kết án tham nhũng, không do Tổng Tham mưu trưởng đề nghị nên trước
khi ra đơn vị, lên trình diện Bộ Tổng Tham mưu đã không được Tướng Cao Văn Viên
tiếp đón. Theo Phạm Huấn, Quân đoàn II lủng củng nội bộ, nhiều sĩ quan cao cấp
tại Quân đoàn vô kỷ luật, bất mãn không hợp tác với Tướng Phú, ông mới nhậm
chức chưa đủ thời gian nắm vững tình hình. Ngoài ra 2 tháng trước khi sẩy ra
trận Ban Mê Thuột, theo Nguyễn Đức Phương quân số Quân đoàn II không tới 70%,
thiếu tiểu đội trưởng. Tham mưu trưởng với Bộ tham mưu bất hợp tác, hai Tướng
phó tư lệnh hữu danh vô thực, các đơn vị chỉ phòng ngự mà không có một cuộc
hành quân thăm dò nào để tìm diệt địch.
Nhiều người
qui trách nhiệm cho Tướng Phú đã để mất Ban Mê Thuột, Phạm Huấn cho rằng ông
không đủ khả năng nắm giữ một Quân đoàn. Mặc dù đã có tin tức tình báo cho hay
Việt Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, ngay cả Tướng Viên và ông Thiệu đã nhắc nhở
Tướng Phú coi chừng Việt Cộng tấn công Ban mê Thuột nhưng ông vẫn nói mình nắm
vững tình hình, vẫn một mực tin rằng địch sẽ đánh Pleiku, không ai cản được ông
vì đã bị mắc lừa kế nghi binh của CS.
Dư luận chung
của giới chức cao cấp quân sự và các ký giả, sử gia.. đều cho rằng Tướng Phú là
người không đủ khả năng để chỉ huy một đại đơn vị nên đã để mất Ban Mê Thuột.
Ông Cao Văn Viên cho rằng việc thay đổi chức vụ Tư Lệnh Quân khu II là một
trong những nguyên do đưa tới sự thất thủ Ban Mê Thuột, ý ông nói cựu Tư lệnh
Quân khu II Nguyễn Văn Toàn có nhiều kinh nghiệm và khả năng hơn Tướng Phú.
Ngoài ra tại
Quân khu II lực lượng BV rất mạnh, họ đã đưa vào chiến dịch Tây nguyên tới gần
6 Sư đoàn trong khi ta chỉ để 2 Sư đoàn chủ lực và 7 Liên đoàn Biệt động quân
lại phải trải ra phòng thủ nhiều nơi trong Quân khu. Theo Nguyễn Đức Phương dù
biết trước Ban Mê Thuột bị tấn công để tăng cường yểm trợ cũng khó mà giữ được,
VNCH chỉ có thể đưa tới mặt trận một, hai Trung đoàn hoặc một vài Liên đoàn
biệt động quân vì không còn quân trừ bị, cái khó nó bó cái khôn. Nguyễn Đức
Phương cho rằng qua kinh nghiệm Mùa hè đỏ lửa 1972, mặc dù đã tập trung Sư đoàn
23 BB tại Kontum nhưng việc phòng thủ khó có thể thành công nếu không có yểm
trợ của máy bay chiến lược B-52, mặt trận Ban Mê Thuột chỉ có sự yểm trợ của
không quân chiến lược B-52 mới có thể cứu vãn tình thế, nhưng từ nay yểm trợ
của B-52 không bao giờ có được.
Như đã nói ở
trên lực lượng hai bên đã rất chênh lệch CS lại đánh lén, thì họ phải thắng.
Theo Nguyễn Đức Phương nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để gây tổn thất
nặng nề cho BV thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận khác hy vọng
không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp đổ.
Chúng ta có thể kết luận Ban Mê Thuột thất thủ vì.
-Lực lượng
và hỏa lực hai bên quá chênh lệch, BV đã đưa vào trận địa khoảng 3 Sư đoàn, gấp
mười lần quân trú phòng trong khi VNCH chỉ có hai tiểu đoàn (1, 3) thuộc Trung
đoàn BB 53, còn lại là phụ lực quân, cảnh sát. Trận giội bão lửa được Văn tiến
Dũng kể lại trong hồi ký (trang 68) và Nguyễn Định trong bút ký cho thấy hỏa
lực địch áp đảo của địch
- Sự sai lầm của Tướng Phú khi cho rằng CSBV tấn công Pleiku trước, ông đã mắc lừa kế nghi binh của đối phương.
-Lãnh thổ rộng thu hút gần hết chủ lực quân, lực lượng tổng trừ bị không còn.
-Chủ lực quân VNCH tại quân khu II thiếu hụt không đủ để chống lại áp lực mạnh của BV
-Thiếu tin tức tình báo.
- Sự sai lầm của Tướng Phú khi cho rằng CSBV tấn công Pleiku trước, ông đã mắc lừa kế nghi binh của đối phương.
-Lãnh thổ rộng thu hút gần hết chủ lực quân, lực lượng tổng trừ bị không còn.
-Chủ lực quân VNCH tại quân khu II thiếu hụt không đủ để chống lại áp lực mạnh của BV
-Thiếu tin tức tình báo.
Nhưng phải
nói rằng yếu tố chính là VNCH đã bị cắt giảm hỏa lực tới xương tủy. Trước đó
vài tháng, tại Phước Long quân đội VNCH lâm vào tình trạng kiệt quệ đạn dược.
Mấy tuần sau khi Phước Long mất, ngày 24 và 25/1/1975 TT Thiệu gửi hai bức thư
cho TT Ford phản đối CSBV tấn công chiếm Phước Long vi phạm trắng trợn Hiệp
định Paris. Kissinger trong Years of Renewal trang 490 nói TT Thiệu diễn tả
cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết giáp.
Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm hầu
còn đạn xử dụng
Trận Ban Mê
Thuột đã đưa tới sụp đổ Quân đoàn II và những sụp đổ kế tiếp lớn lao hơn thế,
đó là một khúc quành bi thảm trong cuộc chiến tranh dài nhất của thế Kỷ.
©
Trọng Đạt
Tài Liệu tham khảo.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1990
Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006.
Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing.
Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991.
Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002.
Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, doanket.orgfree.com
Nguyễn Trọng Luật: Nhìn Lại Trận Đánh Ban Mê Thuột, doanket.orgfree.com
Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005.
Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006
Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1990
Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006.
Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing.
Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991.
Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002.
Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, doanket.orgfree.com
Nguyễn Trọng Luật: Nhìn Lại Trận Đánh Ban Mê Thuột, doanket.orgfree.com
Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005.
Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006
Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006.
LS. Lê Công Định - Trận đánh Ban Mê Thuột 40 năm trước
·
LS. Lê Công Định
Khoảng 2 giờ
sáng ngày 10/3/1975, khi Ban Mê Thuột còn đang trong giấc nồng, người dân và
binh lính Việt Nam Cộng Hòa bỗng bị đánh thức dậy bằng tiếng pháo kích đinh tai
của Cộng quân Bắc Việt. Đó là đợt tấn công khởi đầu các chiến dịch quân sự dẫn
đến sự sụp đổ của Quân đoàn 2 nói riêng và toàn bộ Nam Việt nói chung sau đó.
Đúng 7 giờ sáng ngày 11/3/1975, Cộng quân bắt đầu nã pháo vào Bộ Tư lịnh Sư
đoàn 23 bộ binh, một trong hai sư đoàn chủ lực của Quân đoàn 2.
Đánh vào Ban
Mê Thuột, Cộng quân bố trí đội hình tiến công trên 3 hướng, tạo thành 5 mũi
tiến công sắc, nhọn: hướng Bắc 2 mũi, hướng Nam 2 mũi, riêng hướng Tây 1 mũi
thọc sâu và thẳng vào mục tiêu chính là Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 23.
Vào 10 giờ 30 phút ngày 11/3/1975, tức sau gần 33 giờ, Ban Mê Thuột thất thủ.
Bắc Việt
chọn Ban Mê Thuột đánh trận mở màn vì vị trí này tuy then chốt nhưng được phòng
thủ kém nhất sau hàng loạt hành động nghi binh hoàn hảo của Cộng quân khiến các
tướng lĩnh Sài Gòn chuyển hướng nghĩ rằng Pleiku phải là mục tiêu tấn công
chính. Trước đó một ngày, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lịnh Quân đoàn 2, dù đã
đến thị sát Ban Mê Thuột, vẫn không hề ngờ rằng mối đe dọa bị tấn công sẽ trở
thành sự thật khốc liệt chôn vùi binh nghiệp của ông chỉ vài giờ sau.
Trên phương
diện nghệ thuật quân sự đây là một trong những trận đánh đẹp và hiểm hóc bậc
nhất của lịch sử thế giới hiện đại, bởi chiếm Ban Mê Thuột đã tạo ra đột biến
về chiến lược, làm sụp đổ toàn bộ Tây Nguyên, vốn là địa bàn quân sự đặc biệt
quan trọng đối với cả Nam phần. Trên thực tế, mất Tây Nguyên toàn hệ thống
phòng ngự chiến lược của quân đội Sài Gòn bị chia cắt và rối loạn.
Sau 40 năm,
trận Ban Mê Thuột đã đi vào dĩ vãng, nhưng bài học của nó vẫn nguyên vẹn như
ngày nào: phòng thủ Tây Nguyên là điều tối quan trọng trong chiến lược quốc
phòng nói chung của đất nước. Sự xâm chiếm của kẻ thù ngày nay không nhất thiết
lộ liễu bằng quân đội. Thoạt đầu là kế hoạch ảnh hưởng và chi phối về kinh tế,
kế đến là sự thâm nhập và bám trụ của một đội ngũ nhân lực ngày càng đông, sau
đó là hành động gây rối loạn xã hội và nhân tâm. Đến thời điểm cần thiết, một
đạo quân xuất hiện từ phía biên giới, xuất kỳ bất ý chiếm giữ Tây Nguyên bằng
vũ lực, chia cắt hoàn toàn Nam Phần trong tầm tay.
Nhắc chuyện xưa không chỉ đơn thuần
ôn cố, mà còn nhằm tri tân. Đánh nhau trong nhà, giết hại và hạ nhục anh em
mình thì hả hê, dương dương tự đắc. Vài mươi năm sau, đối diện kẻ thù bên ngoài
thì sợ hãi đến mức hèn hạ, chỉ trơ mắt nhìn đất đai và hải đảo từng bước rơi
vào tay bọn cướp. Một quân đội từng tự hào bách chiến, bách thắng thuở nào,
thấm nhuần nghệ thuật quân sự sau bao năm chinh chiến, chẳng lẽ giờ đây chỉ còn
biết đấu võ mồm thôi? Mới tổ chức lễ hội kỷ niệm chiến thắng Đống Đa đại phá
quân Thanh của vua Quang Trung, chẳng lẽ lại quên soi gương tiền nhân để còn
biết tự hổ thẹn? Ông bà ta có câu “khôn nhà dại chợ” thật đầy ý nghĩa!
Written By Hai Hoang Van on Thứ Ba, ngày 10 tháng 3
năm 2015 | 10.3.15
Lực Lượng Ðịch: Dưới
quyền điều động của Bộ Tư Lệnh mặt trận Ban Mê Thuộc A75 do Tướng Văn Tiến
Dũng, Ðinh Ðức Thiện và Lê Ngọc Hiền chỉ huy gồm khoảng 25,000 người.:
- SÐ F10. chủ lực tấn
công BMT.
- SÐ320 chỉ có danh vì
đã bị thiệt hại nặng khi đụng độ với Nhảy Dù ở Thượng Ðức.
- SÐ316 CSBV tử Nam
Lào tiến sang
- SÐ968
- SÐ3CSBV Sao Vàng làm
nghi binh.
- 4 Trung Ðoàn Bộ Binh
95A, 95B, 25 và 271.
- 5 Trung Ðoàn pháo
binh gồm 48 khẩu pháo dủ loại và phòng không.
- 1 Trung Ðoàn Chiến
Xa, một Trung Ðoàn Ðặc Công.
- 2 Trung Ðoàn Công
Binh, Một Trung Ðoàn Thông Tin.
- Các đơn vị hậu cần,
Quân xa…
Lực Lượng Bạn : Tổng
cộng khoảng 4,000 người
- Trung Đoàn 53 Bộ
Binh ( chỉ còn 2 Tiểu Đoàn).
- Liên Đoàn 21 BĐQ.
- Các Tiểu Đoàn Địa
Phương Quân.
- Lực lượng Cảnh Sát
Quốc Gia.
Từ sau ngày ký Hiệp
Ðịnh Paris ngừng bắn 27/1/1973 tình hình Việt Nam tương đối yên tĩnh. Tháng
6-1973 Quốc hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự
tại Ðông Dương Việt Miên Lào. Ðầu tháng 7-1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng
từ giữa tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự của Mỹ trên toàn cõi Ðông Dương.
Tháng 10-1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh,
Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Cộng Sản Bắc Việt nhận
thấy thời cơ đã đến, bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang bạo
lực. Trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, Sửa chửa và tu bổ hệ thống đường
mòn HCM. Tại Quân khu 1, lấn chiếm một số căn cứ của Việt Nam Cộng Hòa, tháng
9, tháng 10 một số đơn vị thuộc tỉnh Thừa Thiên phải di tản. Năm 1973 Bắc Việt
vẫn chưa phục hồi sau trận Mùa Hè 1972, chưa thể tổ chức được cuộc tấn công qui
mô lớn.
Sau khi ký Hiệp định
Paris, Bắc Việt cho khởi công xây tuyến đường xa lộ hành lang 613, song song
với đường mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm trong địa phận Việt Nam Cộng Hòa từ Ðồng
Hới cho tới Lộc Ninh gọi là “Xa Lộ Đông Trường Sơn”, đến đầu 1975 thì công
trình hoàn thành dài 1,200 km.gồm 5 hệ thống đường dài 5,500 km, 21 đường trục
ngang dài 1,020 km. Dọc theo xa lộ Ðông Trường Sơn là hệ thống ống dẫn dầu dài
5000 km qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục nghìn xe cơ
giới các loại. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe ủi đất, hàng vạn bộ đội, công
nhân, thanh niên xung phong, dân công .. ngày đêm phá núi san đèo, xây cống,
lắp đường, dựng cầu đường rộng 8 m.. các xe vận tải cỡ lớn, các chiến xa loại
nặng chạy được hai chiều với tốc độ cao cả bốn mùa, đã ngày đêm chuyển hàng
trăm nghìn tấn vũ khí đạn dược quân trang quân dụng cho chiến trường.
Bắc Việt đã xử dụng
16,000 xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ thuật, đạn dược, lương thực chuẩn
bị cho chiến trường miền Nam trong suốt hai năm 1973 và 1974. Đường dây liên
lạc hữu tuyến cũng đã kéo dài tới Lộc Ninh. Từ Hà Nội đã nói chuyện thẳng được
với nhiều chiến trường.
Ngày 22-5-1974 Hạ Viện
Mỹ phủ quyết đề nghị gia tăng quân viện 1.4 tỷ Mỷ Kim cho Việt Nam Cộng Hòa của
Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, tới 23/9/1974 Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ đồng thanh chấp
thuận Quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa là 700 triệu, như vậy từ 1/7/1974 VNCH
chỉ nhận được một nửa số quân viện cần thiết, trong số 700 triệu này thì 300
triệu đã được dùng để trả lương cho nhân viên cơ quan DAO (Phòng Tùy Viên Quân
Sự).
Tướng Nga Kulikov, Phụ
tá Bộ trưởng Quốc phòng Nga tới Hà Nội xúi giục Bắc Việt tấn công xâm chiếm
Miền Nam và hứa giúp thêm vũ khí đạn dược. Cuối tháng 10-1974 Bộ Chính Trị Bắc
Việt quyết định kế hoạch tác chiến năm 1975. Văn Tiến Dũng đã xác nhận trong
Đại Thắng mùa xuân :
“Quyết tâm chiến lược
của Bộ chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976: Năm
1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976
tiến hành Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam”, “Võ
Nguyên Giáp, Bí thư Quân Uỷ Trung Ương, kết luận xác định khu vực và mục tiêu
chiến trường Tây nguyên làm chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và
nhiệm vụ chiến dịch, hướng phát triển, sử dụng lực lượng, gợi ý về cách đánh,
nhấn mạnh đến phương châm mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, phải nghi binh rất nhiều
để làm cho địch tập trung sự chú ý vào bảo vệ phía Bắc Tây nguyên.”
Như thế Bắc Việt đã
chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước trong khi ta không có một nhận
định hoặc tin tức tình báo nào rõ rệt. Ngày 13/12/1974 Bắc Việt đưa ba sư đoàn
tấn công Phước Long, đến ngày 7/1/ 1974 tỉnh này hoàn toàn lọt vào tay địch.
Sau khi tỉnh lỵ Phước Long thất thủ CSBV yên chí thấy phía Mỹ không phản ứng.
Sau đó ngày 8/1/1975 Lê Duẫn nói “tình hình đã sáng tỏ, chúng ta quyết tâm hoàn
thành kế hoặch 2 năm”.Tướng Trần Văn Trà ,Tư Lệnh mặt trận B2 / CSBV đệ trình
kế hoạch tấn công Ban Mê Thuộc, để khởi đầu chiến dịch tấn chiếm Nam Việt Nam,
được Bộ Tông Tham Mưu Bắc Việt chấp thuận với khẩu hiệu “ Mạnh bạo, bí mật và
nghi binh “.Để tấn công Ban Mê Thuột, Trà chuẩn bị 5 Sư Đoàn chính quy, 15
Trung Đoàn Thiết Giáp, Pháo Binh, Phòng Không, Truyền Tin và Công Binh với tổng
số bộ đội lên đến 80,000 người.
Sau trận Phước Long,
Bộ TTM ta biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên nhưng chưa biết chắc
chỗ nào vì chúng nghi binh tối đa, ta không đoán được ý định của địch, theo
Tướng Hoàng Văn Lạc “trước khi Văn Tiến Dũng vào Nam, Giáp đã dặn dò Dũng phải
nghi binh thật nhiều để đánh lạc hướng ta”.
Tình hình chính trị
quân sự Việt Nam Cộng Hòa 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt Nam là
20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 71 rút
xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Khi Mỹ đã rút gần hết chỉ còn 24,200 người trong năm
1972 thì Việt Nam phải một mình gánh vác chiến trường với tiền viện trợ ngày
một bị cắt giảm. Năm 1973 viện trợ quân sự là 2,1 tỷ, năm 1974 chỉ còn 1,4 tỷ,
năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương cho nhân viên
Phòng Tùy Viên Quân Sự (DAO) của Mỹ.
Ðảng Dân chủ nắm đa số
tại Quốc Hội Mỹ chủ trương rút quân bỏ Việt Nam không cần đếm xỉa gì tới bạn
đồng minh cũng như danh dự cho nước Mỹ. Họ tìm sơ hở của Cộng Hòa để phá phách
kiếm phiếu, Dân Chủ thường mị dân, o bế dân nghèo, giới bình dân khố rách áo
ôm, đám trốn quân dịch, phản chiến… để lấy lòng; họ thắng lợi đúng lúc người
dân chống đối chiến tranh Việt Nam dữ dội. Ðảng nọ phá đảng kia, miền Nam Việt
Nam chết oan vì bị nằm giữa cái thế trâu bò húc nhau giữa Cộng Hòa và Dân Chủ.
Hậu quả của của việc
cắt giảm quân viện khiến chúng ta lâm vào tình trạng thiếu hụt, năm 1972 một số
lớn xăng dầu đạn dược đã được dốc vào mùa hè đỏ lửa. Hậu quả là Không Quân đã
phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ
huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng
cắt giảm hoạt động 50%, 600 tầu chiến các loại nằm ụ. Ðạn dược chỉ còn đủ đánh
tới tháng 5, tháng 6 -1975, hỏa lực giảm 60%.
Năm 1972 ta xử dụng 66
ngàn tấn đạn một tháng từ tháng 7-1974 đến tháng 3-1975 ta chỉ còn xử dụng 18
ngàn tấn một tháng, thiếu thuốc men, số tử thương tăng cao, tinh thần binh sỉ
xuống thấp. Ngày 9/8/1974 Nixon từ chức mang theo những lời hứa hẹn với Tổng
Thống Thiệu xuống tuyền đài.
Việt Nam Cộng Hòa nay
đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thù trong giặc ngoài. Ðồng Minh thì phản bội,
lãnh đạo bất tài, tham ô, sợ chết…kẻ thù thừa nước đục thả câu xua đại binh tấn
công như vũ bão.
Tin tức Tình Báo về
cuộc điều quân của địch: Trong phần trình bày về trận chiến tại Cao nguyên, Đại
Tướng Cao Văn Viên đã phân tích về kế hoạch tấn công của CSBV như sau: “Cộng
Sản chuẩn bị kế hoạch quân sự của họ trong sự tin tưởng và phấn khởi vì thái độ
yên lặng của Hoa Kỳ từ sau biến cố Phước Long .Nhiều biến chuyển và hoạt động
của địch cho thấy Vùng II sẽ là mặt trận mở màn cho các cuộc tấn công sắp đến
của CS”. Vào cuối tháng 1/1975, sư đoàn 320 CSBV hoạt động tại Đức Cơ được báo
cáo là đang di chuyển về hướng Nam của Cao nguyên Đắc Lắc. Quân đoàn 2 liền báo
động nhưng không có hành động nào đáng kể ngoài một số phi vụ oanh kích các
đoàn xe tiếp tế của địch. Suốt trong tháng Hai, nhiều đoàn xe tiếp tế của CQ
gồm hàng trăm chiếc vận tải bị phát giác và bị tấn công bằng Không quân VNCH.
Các bằng chừng khác là
các sư đoàn CSBV như 312, 314, 316 cũng được báo cáo là đã di chuyển xuống miền
Nam, nhưng đến đâu thì chưa được xác nhận. Sư đoàn 316 CSBV sau đó bị phát giác
là tiến về Ban Mê Thuột bằng đường Nam Lào.
Những cuộc hành quân
truy lùng tin tức địch đã được thực hiện liên tục. Các đơn vị Nghĩa Quân (NQ)
và Cảnh Sát Quốc Gia (Cảnh Sát Quốc Gia) tại Ban Mê Thuột vào cuối tháng 2 năm
1975, đã phát giác dấu xích xe tăng T-54 của địch.
Các đơn vị Nghĩa Quân
và Cảnh Sát Quốc Gia Bản Đôn cũng đã cung cấp tin tức về sự di chuyển của quân
Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Bandon. Các tin tình báo của những tình báo
viên trong những tháng 2 và 3/1975, khi đi khai thác lâm sản ở khu vực phía tây
thị xã (Bandon) và Tây Nam thị xã 62 km cũng đả báo cáo cho Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac tin tức về các đường dây điện thoại, ống dẫn
dầu và dấu xích chiến xa T-54 của cộng quân.
Ngày 14 tháng 2/1975,
7 chiếc xe be khai thác lâm sản, trong lúc làm cây ở khu vực Nam Tây-Nam thị xã
Ban Mê Thuột 82 km đã bị Cộng quân cưỡng chiếm, các nạn nhân cũng đã khai trình
Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh và Phòng 2 Tiểu Khu những tin tức về lực
lượng cộng quân.
Tháng 2/1975, một nữ
cán binh thuộc Trung Đoàn 25 Địa Phương của Cộng quân ra hồi chánh với một đơn
vị thuộc tiểu khu Darlac đã cung cấp tin tức về sư đoàn F10 của Cộng quân đang
di chuyển về khu vực Nam thị xã Ban Mê Thuột, đồng thời cho biết Trung Đoàn 25
Địa Phương sẽ mở chiến dịch tại khu vực Khánh Dương, nằm trên Quốc Lộ 21, ranh
giới gữa Khánh Dương và Phước An – Ban Mê Thuột.
Ngày 5 tháng 3, 1975
một cuộc phục kích tại phía đông Buôn Dak Gang cách bắc Đức Lập 10 cây số. Lực
lượng chi khu đã bắt được một tù binh thuộc Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt, và
tài liệu tiết lộ Bắc quân sẽ đại tấn công Quảng Đức và Ban Mê Thuột để mở đầu
chiến dịch Tây Nguyên 1975.
Đặc biệt là cuộc hành
quân ngày 7 tháng 3/1975 (ba ngày trước khi Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột),
của một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac, đã bắt được một tù binh Cộng Sản, quân
hàm Thiếu Úy, trong toán tiền thám của Sư đoàn 320 Điện Biên trong lúc y đang
giăng dây điện thoại ở khu vực Buôn La Sup, thuộc xã Cư Ming, Bandon, Quận Ban
Mê Thuột.
Qua sự thu thập từ
những tin tức này cho thấy là Cộng Quân đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn
và kế hoạch tấn công Ban Mê Thuột dần dần thấy rõ hơn.
Nhưng nguồn tin này,
cũng như nguồn tin tình báo tương tự của tiểu khu Ban Mê Thuột, đã không được
Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và Quân đoàn II “xếp hạng” là những nguồn tin
quan trọng và đã không có những phản ứng thích nghi.
Giai đoạn tiên khởi,
CQ muốn cắt đứt quốc lộ 14, 19 và 21 để tách vùng Cao nguyên ra khỏi vùng đồng
bằng của Quân khu 2 và đồng thời ngăn chận lực lượng VNCH đến tăng cường. Sư
đoàn 320 CSBV chuyển lên đóng tại các vị trí nằm về hướng Bắc của Ban Mê Thuột
để vô hiệu hóa tất cả các đồn đóng dọc theo Quốc lộ 14. Tất cả những sự chuẩn
bị này CQ cho tiến hành bí mật để hòng tạo yếu tố bất ngờ.
Đại tướng Cao Văn Viên
phân tích tiếp: “Phòng 2 của Tình Báo Quân đoàn 2 đã có đầy đủ ước lượng về
hoạt động và mục tiêu của địch quân vào giữa tháng 2/1975, nhưng những báo động
này không được vị Tư lệnh Quân đoàn cứu xét một cách cẩn thận. Tướng Phú cho
rằng việc địch di chuyển đến Ban Mê Thuột chỉ là nghi binh, trong khi thật sự
Pleiku mới là mục tiêu của CSBV. Do đó cách bố phòng của Quân đoàn 2 đã nói lên
lối suy nghĩ của vị tư lệnh Quân đoàn”.
Lực lượng phòng thủ
Ban Mê Thuột :
Vì thế, toàn bộ Sư
đoàn 23 Bộ binh được đưa về hoạt động phòng ngự quanh Pleiku, việc phòng thủ
Ban Mê Thuột ủy nhiệm cho Liên Đoàn 21Biệt động quân, Địa phương quân, Nghĩa
quân tỉnh và Cảnh Sát. Vào đầu tháng 3/1975 khi có báo động về Sư đoàn 320 CSBV
chuyển đến Ban Mê Thuột, Quân đoàn 2 chỉ đưa một phần Trung đoàn 53 (chỉ có 2
Tiểu Đoàn) trở lại Ban Mê Thuột. Trung đoàn này lúc bấy giờ được giao nhiệm vụ
hành quân quanh khu vực phía Nam phi trường Phụng Dực, còn lực lượng Biệt Động
Quân thì trấn giữ tại khu vực Buôn Hô chừng 32 km về hướng Đông Bắc. Các toán
thám sát của Sư đoàn 23 BB và Nha Kỹ Thuật QL.VNCH được tung ra chung quanh
trại Bản Đôn để theo dõi các hoạt động của sư đoàn 320 CSBV nhưng chỉ phát giác
được một số đơn vị nhỏ cấp đại đội CQ địa phương.
Như vậy, lực lương
quốc gia phòng thủ Ban Mê Thuộc tổng cộng khoảng 4,000 người gồm những quân
nhân hậu cứ của Bộ Tư
Lệnh (BTL) Sư Đoàn 23 Bộ Binh, hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 (quân số chủ lực
của các đơn vị này đã được điều động về Pleiku và Kontum từ trước Tết ). Ban Mê
Thuột thực sự là một thành phố bỏ ngỏ không lực lượng bảo vệ. Do vậy, vấn đề
phân nhiệm phòng thủ tuy có kế hoạch nhưng chẳng thắm vào đâu so với lực lượng
tấn công thiện chiến và đông đảo gấp 20 lần của đối phương.
- Lực lượng phòng thủ
phía Nam là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh gồm các phòng các ban các sở
trực thuộc.
- Lực lượng phòng thủ
phía Tây, khu vực trọng yếu và nguy hiểm nhất, gồm các đơn vị hậu cứ của Thiết
đoàn 8 kỵ binh và kho đạn (trại Mai hắc Đế) cùng với Trung Tâm Yểm Trợ tiếp vận
(đại đội hành-chánh tài-chánh ).
- Lực lượng phòng thủ
phía Đông do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ Binh đảm trách. Xa hơn là Chi
Khu Ban Mê Thuột và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Ban Mê Thuột phối hợp với
nhau để chịu trách nhiệm vấn đề phòng thủ mặt nầy.
- Lực lượng phòng thủ
mặt Bắc thị xã là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac cùng với một đơn vị
206 Cảnh Sát Dã Chiến.
- Nội vi thị xã và các
chốt điểm trọng yếu đều do lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đảm trách, và được bố
trí như sau:
* Hai chốt cảnh sát
đặt tại Trường Trung Học và cuối đường Phan Chu Trinh là các chốt ở cửa Bắc.
* Cuối đường Tự Do
được giao cho Cục Cảnh Sát Cư Kplong và một tiểu đội Cảnh Sát Dã Chiến.
* Cửa ngỏ phía Nam có
Cục Cảnh Sát Cư Ê Bư và một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến chịu trách nhiệm.
* Cửa Tây thị xã giao
cho Cục Cảnh Sát thị xã Cục Lạc chịu trách nhiệm. Các cao ốc trong toàn thị xã
và các khách sạn đều được Cảnh Sát Quốc Gia đóng chốt.
* Các đơn vị trừ bị
gồm có một tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 Bộ Binh đóng tại phi trường Phụng Dực,
cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km, có một pháo đội 105 ly, trong khi pháo binh của
Cộng quân lại là loại 130 ly, và hỏa tiển 122 ly, tầm xa và sức công phá hoàn
toàn cách biệt.
* Ngoài ra, doanh trại
các tiểu đoàn Pháo binh, Công binh, Truyền tin, Tiếp vận thống thuộc Sư đoàn 23
bộ binh đóng gần thị xã đều tận dụng quân số tại hàng để tổ chức phòng ngự
trong phạm vi trách nhiệm.
Riêng về trách nhiệm
của tiểu khu Darlac, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật đã cho điều động tiểu đoàn 204
Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về thị xã.
Cô lập Ban Mê Thuột:
Các trận đánh nhằm
nghi binh & cô lập Ban Mê Thuộc trước ngày 10/3/1975
Bắc Việt đưa kế hoạch
tấn công bất ngờ và đông đảo, nghi binh tối đa, chúng vờ đánh Pleiku để nhử ta
lên giải tỏa rồi cắt các đường dẫn đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường sau cùng
ba mặt giáp công.
Bắc Việt dùng các
Trung Đoàn, Sư Đoàn cắt các đường giao thông 19, 14, 21 nghi binh thu hút quân
đội VNCH về phía Bắc để bất thần tấn công Ban Mê Thuột. Chúng không để sẵn quân
ở vị trí xuất phát tấn công mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua vòng ngoài,
bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối hợp với lực lượng đặc công đã len lỏi sẵn
trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài.
Ngày 1-3-1975 sư đoàn
968 Bắc Việt tấn chiếm các đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường Cù Hanh,
Pleiku.
Ngày 4/3/1975 Trung
Đoàn 95B Việt Cộng và Sư đoàn 3 Sao Vàng tấn công ngăn chận quốc lộ 19 tại An
Khê như muốn tấn công Pleiku, cắt đường giao thông Pleiku và Nha Trang.
Ngày 5/3/1975 Trung
Đoàn 25 Việt Cộng cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An và Khánh Dương, cắt đường Nha
Trang – Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng cường trung đoàn 45 tại Thanh An và
cho 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân và Thiết Giáp giải tỏa quốc lộ 19 nhưng không
thành công.
Ngày 7/3/1975 sư đoàn
320 Việt Cộng chiếm quận lỵ Thuần Mẫn trên Quốc lộ 14 nằm giữa đường Pleiku đi
Ban Mê Thuột.
Ngày 9-3 hôm nay Sư
đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt nhất định san bằng quận Đức Lập để tiến quân về Ban
Mê Thuột. Chi khu bị tấn công từ 6 giờ sáng, VC đã dùng pháo binh 130 ly và SKZ
82 ly bắn vào Chi khu và Chi đoàn Chiến xạ, địch đã làm tê liệt các chiến xa
của ta ngay từ phút đầu và sau đó quân chính qui Cộng sản Bắc Việt mở “trận địa
chiến” đánh ban ngày, các công sự phòng thủ trên mặt đất sập hết. Tình hình Đức
Lập vô cùng nguy ngập. Các đồn phụ đã bị “bứt”. Tiểu đoàn Địa phương quân đóng
tại Núi Lửa cách Đức Lập 9 cây số bị địch tràn ngập sau một trận đánh đẫm máu.
Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và một số cấp chỉ huy khác bị Việt cộng sát hại.
Tương Phú bốc máy liên
hợp liên lạc thẳng với Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng quận Đức Lập. Ông
được báo cáo Trung tá Quận trưởng đã bị thương, hiện ở ngoài chỉ huy và điều
khiển những khẩu đại bác 105 ly bắn trực xạ vào Cộng quân. Chi khu cầm cự cho
đến sáng, khi mặt trời bắt đầu lên. Đúng 10 giờ 30 phút quận Đức Lập biến thành
biển lửa.
Như thế Việt Cộng đã
cô lập Ban Mê Thuột cả Bắc và Nam mà Tướng Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku,
ông lại nghĩ chúng nghi binh vờ đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của
Bộ tư lệnh Quân Đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn Biệt đông quân thuộc
Liên Đoàn 21 từ Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột.
Sự sai lầm của tướng
Phú đã được Việt Cộng khai thác triệt để: “Từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 9 tháng 3
năm 1975, trước khi tiến công vào Buôn Ma Thuột, ta triển khai thế chiến dịch,
thu hút sự chú ý của địch về hướng Công tum, Plây cu, cắt các đường, cô lập mục
tiêu chủ yếu. Cho nên đến lúc ta sắp nổ súng đánh vào Buôn Ma Thuột, địch mới
biết. Chúng báo động và muốn tăng cường lực lượng nhưng không kịp nữa rồi, lực
lượng đã bị căng giữ ở các nơi khác” (ÐTMX trang 90)
Mặt Trận Ban Mê Thuột
Ngày 9/3/1975 Thiếu
Tướng Phú bay lên BMT thị sát kế hoạch phòng thủ, ứng chiến của thành phố ra
lệnh cấp phát hỏa tiển chống chiến xa M72 và hỏa tiển TOW cho các đơn vị. Từ 12
giờ trưa đến 5 giờ chiều ngày 9/3/1975, Tướng Phú họp với Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ
binh, các Tiểu khu trưởng Ban Mê Thuột và Quảng Đức để duyệt xét tình hình các
mặt trận.
Sau khi chấp nhận
những đề nghị của các giới chức liên hệ và cho những chỉ thị cần thiết, ông ra
lệnh cho Đại tá Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Đức bay về trước. Tại Ban Mê Thuột, để
cho có sự thống nhất chỉ huy, Tương Phú bổ nhiệm Đại tá Quang, Tư lệnh phó Sư
đoàn 23 làm Tư lệnh chiến trường Ban Mê Thuột.
Các Tư lệnh mặt trận
phải ra lệnh đôn đốc các đơn vị chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu trong 2, 3 tháng
liên tiếp; tổ chức những cuộc hành quân xa ngoài thị xã và vị trí phòng thủ.
Kho xăng, kho đạn phải
được phân tán, đề phòng đặc công Cộng sản Bắc Việt đánh phá. Lệnh thiết quân
luật mỗi nơi được ủy nhiệm cho các Tư lệnh mặt trận toàn quyền định đoạt.
Đến 10.00 giờ đêm,
thành phố Ban Mê Thuộc được lệnh báo động đỏ, tập họp tất cả binh sỉ chuẩn bị
tác chiến.
Ngày 10/3/1975, từ
1giờ 20 đến 2 giờ 15 sáng, các chốt điểm Cảnh Sát Dã Chiến ở cửa Bắc và cửa Tây
thị xã đã phát giác các tổ trinh sát tiền phong của Cộng quân và liên tiếp báo
về Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac.
2 giờ 20 sáng ngày 10
tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu thực hiện trận mưa pháo theo chiến thuật tiền
pháo hậu xung bằng đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly vào các cứ điểm quân sự như
Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kho đạn Mai Hắc Đế và phi
trường L19.
Những tiếng nổ của hỏa
tiển 122 ly và đại pháo 130 ly khủng khiếp làm vỡ tung hết các cửa kiếng và
rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng động đất. Các nhà cao tầng bị rung
chuyển cực mạnh. Thành phố đã như con tàu chao nghiêng trong bão tố. Một số các
nhà xây thô sơ quanh các khu vực quân sự đã bị sụp đổ, và trận mưa pháo liên tiếp
không ngừng đổ xuống các cứ điểm quân sự cho đến 6 giờ sáng.
Bốn giờ sáng, chiến xa
T-54 và bộ đội Cộng Sản chia làm nhiều mũi tấn công vào phi trường L19, kho đạn
Mai Hắc Đế , Tiểu Khu Darlac, Tòa Hành Chánh Tỉnh, BTL Sư Đoàn 23 BB, Hậu cứ
Trung Đoàn 53 BB sát phi trường Phụng Dực với chiến thuật biển người.
Trận đánh quyết định
giữa Nam-Bắc đã diển ra. Nhưng lực lượng giữa hai bên quá ư chênh lệch, như
trứng chọi với đá nếu so sánh cả về quân số, vũ khí, chiến cụ. Địch đã ở thế
thượng phong ngay từ lúc đầu! 6 giờ 15 sáng, xe phóng thanh của Ty Thông Tin
đậu tại Ngã 6 thị xã phát lời kêu gọi của Đại Tá Tỉnh Trưởng yêu cầu đồng bào
bình tỉnh, ai ở nhà nấy, tình hình an ninh tại thị xã vẩn còn yên tỉnh. 6 giờ
20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một góc phía Bắc của phi trường L19 bị Cộng quân
tràn ngập.7 giờ 15 các chốt cảnh sát xin lệnh rút khỏi vị trí phòng thủ vì áp
lực địch quá mạnh, dân chúng từ khu vực Buôn A-Lê B, Tân Mai, cửa Nam thị xã lũ
lượt chạy vào trung tâm thành phố.
8 giờ 30 , Kho đạn Mai
Hắc Đế thất thủ. Viên Đại Úy chỉ huy trưởng bị tử thương.
9 giờ 20, chiến xa
T-54 và bộ đội cộng quân chia làm nhiều mũi tấn công vào thị xã. Một mũi từ
cuối đường Phan Chu Trinh (cửa Bắc ) tràn chiếm khu vực nhà thờ Chính Tòa, ngã
Sáu thị xã, cách Bộ Chỉ HuyTiểu Khu 800 mét. Mũi phía Nam, từ khu vực Buôn A-Lê
B, đồi La San, theo đại lộ Thống Nhất tiến đánh khu vực tư dinh Tỉnh Trưởng, Ty
Ngân Khố. Một mũi khác, từ hướng chùa Khải Đoan, đánh chiếm ngã tư Nguyễn Tri
Phương Phan Bội Châu, và mặt Tây thị xã cũng đã bị Cộng quân tấn chiếm. Ngoài
mặt trận chính Ban Mê Thuột, Cộng quân tấn công khắp nơi. Các trận bắc Kontum,
nam Pleiku, bắc Bình Định, Quảng Đức và trên 2 quốc lộ 19, 21 đều bị áp lực
nặng nề.
Mặt trận Ban Mê Thuột
ngày 10/3/1975
MẶT TRẬN TIỂU KHU
DARLAC
Từ 9 giờ 30 sáng ngày
10 tháng 3/1975, các mũi tiến quân của Cộng quân từ hướng Bắc và hướng Tây Bắc
đã hoàn toàn tràn ngập trung tâm thành phố và tập trung nổ lực tấn công Bộ Chỉ
Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống Nhất. Bộ đội và chiến xa T-54 của Cộng quân
từ khuôn viên nhà thờ chính tòa tràn qua ngã Sáu, chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy,
khu cư xá sĩ quan, nằm trên Ngã Ba đại lộ Thống Nhất và đường Lê Lợi.
Lực lượng phòng vệ Bộ
Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liệt. Một chiếc T-54 của Cộng quân bị bắn
cháy. Dù với chiến thuật biển người và đại bác 100 ly trang bị cho T-54 bắn
trực xạ không ngừng nhưng Cộng quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống công sự
phòng thủ này. Tinh thần chiến đấu và lòng dũng cảm của những chiến sĩ thuộc
Tiểu Khu quả thật không thể tưởng tượng. Cứ mỗi đợt tiến công của Cộng quân là
những tràng đại liên, M-79 (súng phóng lựu) và M-16 từ các công sự phòng thủ
xối xả phản kích làm cho bước tiến quân của Cộng quân đã phải ngừng lại.
Cộng quân lui về cố
thủ khu vực cư xá sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên Thùy, đồng thời chia quân tràn qua
đại lộ Thống Nhất đánh chiếm Tòa Án, bưu điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ, và
tiếp tục thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly từ các chiến xa T-54 và
đại bác130 ly cùng hỏa tiễn 122 ly từ hướng Tây thị xã (khu vực Bandon) đổ vào
Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.
11giờ 20, một chiếc
T-54 của Cộng quân tiến vào cổng trước Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trên đường Thống
Nhất đã bị bắn hạ. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Tiểu Khu càng lên cao.
11 giờ 45, hai chiếc
Commando Car (thiết giáp với bốn bánh cao su, không xích sắt) của Thiết Đoàn 8
từ hướng chùa Khải Đoan theo đường Quang Trung qua Tôn Thất Thuyết để tiến về
đánh bọc hậu lực lượng của Cộng quân đang công hãm Tiểu Khu. Nhưng khi đến ngã
Ba Ama Trang Long Tôn Thất Thuyết, các chiến sĩ Thiết Đoàn 8 bị lực lượng của
Cộng quân từ ngã Sáu tràn xuống chận đánh. Hai chiếc Commando Car bị Cộng quân
bắn cháy trước Bar Quốc Tế. Nhưng các chiến sĩ của Thiết Đoàn 8 đã len theo khu
phố Ama Trang Long để tiến về hướng Tiểu Khu.
Khu chợ Ban Mê Thuột,
từ đường Quang Trung chạy dọc theo đường Y Jút đến Ama Trang Long bị trúng đạn
pháo và bốc cháy dữ dội. Nhà hàng Thanh Thế mới khai trương, cũng tân kỳ không
thua gì nhà hàng Thanh Thế ở đại lộ Lê Lợi Saigon, giờ đây đang là một biển
lửa. Dãy phố bên kia đường Ama Trang Long, đối diện với nhà hàng Thanh Thế như
tiệm Rồng Vàng, nằm mặt sau của Ty Cảnh Sát cũ đã là một bãi gạch vụn. Khu phố
nằm trên đường Y Jút, đối diện với chợ Ban Mê Thuột như nhà của Bác Sĩ Tôn Thất
Hối đã bị sập.
Lực lượng Biệt Ðộng
Quân tại Buôn Hô được điều động về tiếp cứu Ban Mê Thuộc nhưng gập hỏa lực mạnh
mẻ của các chốt kháng cự trên đường đi. Một lực lượng Thiết Giáp và ÐPQ đang
hành quân tại Budrang cũng được lệnh trở lại nhưng bị cầm chân ở một cây cầu
phía Nam tỉnh lỵ khoảng 10 km.
Đến 11 giờ 45 các
chiến sĩ của Tiểu Khu Darlac vẫn cố thủ. Lực lượng của cộng quân từ 2 mặt, phía
Bắc và mặt tiền Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đã bám sát hệ thống công sự phòng thủ của
Tiểu Khu. Những trận đánh xáp lá cà đẫm máu đã xảy ra dọc theo hệ thống công sự
phòng thủ nầy.
13 giờ 15 trưa ,Trung
Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu bị trúng pháo, mọi liên lạc truyền tin bị
phá hủy.
14 giờ 20 Bộ Chỉ Huy
Tiểu Khu Tỉnh Darlac thất thủ, sau hơn 7 tiếng đồng hồ giao tranh với lực lượng
biển người của Cộng quân có chiến xa T-54, và các loại đại pháo yểm trợ, mà
không có được một đơn vị bạn nào tiếp cứu. BCH Tiểu Khu phải di tản và sát nhập
với BTL tiền phương của SĐ23BB.
Sáu mươi ngàn dân thị
xã Ban Mê Thuột mãi mãi ghi nhớ chiến công, lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật
của các chiến sĩ Tiểu Khu Darlac. Trong những giờ phút lâm nguy đã cố gắng và
hy sinh để làm tròn bổn phận cho đến hết sức mình với những trận tấn công và đánh
xáp lá cà cùng lực lượng biển người của quân thù, đến giờ phút cuối đành di tản
Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để bảo toàn lực lượng.
MẶT TRẬN PHÍA BẮC THỊ
XÃ
Những Trận Đánh Oanh
Liệt của Các Chiến Sĩ Cảnh Sát Quốc Gia Thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh
Darlac.
Trong kế hoạch phòng
thủ thị xã Ban Mê Thuột, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac là một trong
những đơn vị chịu trách nhiệm về một khu vực phòng thủ nặng nề nhất, từ nội vi
thị xã đến cả một mặt Bắc, bao gồm phi trường trực thăng và phi trường L19.
Phòng thủ phi trường L19 là đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU), trực thuộc Bộ Chỉ Huy
Cảnh Sát Tỉnh.
Với những tin tức nhận
được của mạng lưới tình báo cơ hữu và của các đơn vị bạn, vị chỉ huy trưởng
Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, Trung Tá Trần Quang Vĩnh đã sẵn sàng kế hoạch phòng thủ
và phản công cho đơn vị hằng tháng trước. Ông đã bổ nhiệm Đại Úy Nguyễn Ngọc
Tuấn, Đại Đội Trưởng đại đội Cảnh sát Dã Chiến 206 làm phụ tá đặc trách hành
quân.
2 giờ 20 sáng ngày 10
tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu tấn công phi trường L19, (khu vực phòng thủ của
Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, do Đại Đội Thám Sát chịu trách nhiệm), bằng
đại bác 130 ly và hỏa tiễn 122 ly.
Đến 4 giờ sáng ngày 10
tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu dùng lực lượng bộ binh với chiến thuật biển
người và xe tăng T-54 tấn công phi trường L19. Đơn vị Thám Sát Tỉnh chống trả
quyết liệt và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia. Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn
liền liên lạc với Tiểu Khu xin Đại Đội 1/224 tiếp viện. Nhưng Đại Đội 1/224 đã
không thể chọc thủng vòng vây của Cộng quân ở mặt Bắc Phi trường L19.
6 giờ 20, một đoạn
vòng đai ở khu vực phía Bắc phi trường bị chọc thủng. Lực lượng Cộng quân tràn
ngập khu vực này, và đơn vị Thám Sát Tỉnh đã phải lui về phòng tuyến phòng thủ
phía sau với những tổn thất nặng nề về nhân sự.
Sau khi tràn ngập các
vị trí phòng thủ, 9 giờ 20, lực lượng Cộng quân từ mặt Bắc thị xã, tức là khu
vực phía Bắc phi truờng L19 bắt đầu tấn công Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh
Darlac, nằm trên đường Tự Do để xâm nhập trung tâm thành phố.
Lợi dụng hệ thống công
sự phòng thủ và các dãy hàng rào kẽm gai bảo vệ phi trường L19 nằm bên kia
đườngTự Do, lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã chận đứng các mũi tiến quân của Cộng
quân. Các chiến sĩ Cảnh Sát dù chỉ được trang bị M-16, M-79 và lựu đạn nhưng đã
anh dũng phản công quyết liệt trước những đợt tấn công của Cộng quân, không cho
địch tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ.
Chính nhờ lòng dũng
cảm chiến đấu, kỷ thuật tác chiến, và hệ thống chỉ huy chặt chẽ , mà một mặt
phía Đông thị xã Ban Mê Thuột, từ khu đường Tự Do, chạy dài xuống Bà Triệu,
Hùng Vương, Trường Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột, chưa có bóng dáng của Cộng
quân. Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã trấn giữ một khu vực an toàn
mà có lẽ họ không thể nào ngờ được, đó là con đường di tản duy nhất sau này cho
các đơn vị phải rút lui vào phút cuối.
15 giờ 40 với áp lực
của địch, và để bảo toàn đơn vị, Thiếu tá Hàn Văn Thành, chỉ huy phó Bộ Chỉ Huy
Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã ra lệnh mở đường máu đem đơn vị ra khỏi thị xã
về Cây Số 5, phối hợp với các đơn vị trực thuộc và Chi Khu Ban Mê Thuột để tiếp
tục phản công quân thù. 16 giờ Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình thị xã Ban
Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn còn kháng cự.
Trong thành phố, tiếng
súng nhỏ đã im, nhưng cảnh tan hoang của thị xã thật không cách nào tả xiết.
Rải rác trên các khu phố, những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết
không ai săn sóc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Bóng
dáng của Cộng quân như tử thần đến chiêu hồn những kẻ còn sống và đe dọa mọi
người.
Trong gần suốt 14 giờ
đồng hồ, các đơn vị quân đội, Cảnh Sát, Nghĩa Quân, Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông
Thôn Tỉnh và Nhân Dân Tự Vệ toàn thị xã đã tận hết sức mình để chống trả với
lực lượng biển người, chiến xa và đại bác của Cộng quân mà không có được một
đơn vị bạn nào tiép cứu.
Và giữa những giờ phút
quyết liệt này, người ta nhận được tin vào lúc 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng
3/1975, một đơn vị Biệt Động quân từ cửa Bắc thị xã (bến xe Cây Số 3) đã xâm
nhập trung tâm thành phố. Tin tức này được loan truyền đến hầu hết các đơn vị
đang chiến đấu trên khắp các cửa ngõ thị xã, và mỗi người lính, từ cấp chỉ huy
cho đến binh sĩ đều vui mừng hy vọng chiến trường sẽ xoay hướng.
Nhưng cho đến một giờ
chiều, tin tức về Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn im hơi lặng tiếng, mà chiến
trường mỗi lúc càng quyết liệt hơn, cho đến khi người ta biết rằng đơn vị Biệt
Động Quân tiến vào thị xã sáng nay là chỉ để giải cứu gia đình vợ con của Chuẩn
Tướng Lê Trung Tường, vị Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã.
Tin này quả thật là
một tác động tâm lý, không những làm cho các đơn vị tham chiến mà cả toàn thị
xã có cảm nghĩ Ban Mê Thuột đã bị bỏ rơi. Tuy nhiên với tinh thần và trách
nhiệm của một người lính, các đơn vị có mặt tại thị xã vẫn anh dũng chiến đấu
với niềm tin lực lượng tổng trừ bị, và đặc biệt là hai Trung Đoàn 44 và 45 Bộ
Binh nhất định sẽ được gởi đến.
ĐÊM KINH HOÀNG
Từ 6 giờ chiều ngày 10
tháng 3/1975, bộ đội Cộng quân bắt đầu chia thành từng toán nhỏ lục soát khắp
cùng các khu phố và những điểm tập trung của người chạy loạn như chùa Khải
Đoan, trường Bồ Đề, trường Tàu ở đường Y Jút. Họ thanh lọc dân chúng, bắt đi
những thanh niên nam nữ, và truy lùng các viên chức chánh phủ, sĩ quan và binh
lính.
Khắp cùng các ngõ phố,
bọn đặc công và du côn, thi nhau lập công, đập phá các cửa tiệm, dinh thự, tư
gia, những nơi mà họ cho là có kẻ thù ẩn trốn, là Việt gian, phản động, làm
việc cho Mỹ Ngụy, hoặc có nợ máu với nhân dân. Chúng thi nhau lục soát các
trường học, nhà thờ, bức tượng ở nhà thờ quân đội, cạnh trường Hưng Đức cũng bị
chúng đập nát, đồng thời lùng bắt những người có thù hằn với chúng, và lôi đốt
hết các loại sách báo, giáo khoa, tự điển, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đặc
biệt là những ấn phẩm viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh văn, Pháp văn.
Một lần nữa, ngọn lửa
tượng trưng cho sự hủy diệt lại bùng lên khắp cùng thị xã. Cảnh hôi của, hôi
người, trả thù cá nhân lan tràn khắp nơi. Thành phố bây giờ là một xã hội không
tổ chức, không luật pháp, và tai họa thảm khốc đã diễn ra khắp cùng các ngõ
phố. Những hình phạt dã man thời tiền sử đã được đem ra thực hiện. Hình ảnh của
chết chóc và khủng bố đang bao trùm lên thị xã nhỏ bé này và đè nặng xuống tâm
hồn mỗi dân đinh của toàn thành phố.
Sự ngu dốt của kẻ
chiến thắng, hay sự dã man và thiếu trình độ của cấp lảnh đạo chính là tai họa
và thảm trạng tàn khốc cho một xã hội. Xã hội miền Nam, và dân trí của nền Cộng
Hòa miền Nam đã có một trình độ văn hóa và kỷ thuật cách xa gấp bội so với miền
Bắc, nên bộ đội Cộng quân, sau khi đã kiểm soát toàn thị xã, lập tức đi dò tìm
những ”đài địch,” và đã dùng súng B-40, B-41, hoặc đại bác 100 ly trang bị trên
chiến xa T-54 bắn vào các tư gia có trụ ăng ten trên nóc nhà, vì họ cho rằng đó
là vị trí đặt các máy truyền tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà các trụ ăng
ten TV là những ”đài địch ” ấy đã có khắp trong toàn thị xã. Thảm thương thay
cho thành phố Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân của thị xã này.
Trong đêm này, không
biết có bao nhiêu gia đình tan hoang, bao nhiều người bị chết oan, đánh đập,
hoặc bị đấu tố mang thương tích hay tàn khuyết, mà vợ con, thân nhân, bạn bè
chỉ đứng nhìn mà không dám kêu van. Máu và lệ đã đổ, nhưng không chảy ra từ
khoé mắt, mà lại tuôn ngược vào lòng. Trời ở quá cao mà Phật cũng rất xa, nên
con người đã là chủ của con người trong đêm nay, với đầy đủ quyền uy và hung
dữ. Đêm kinh hoàng, đêm của địa ngục và Sa Tăng.
Nhưng cái quan trọng
của những kẻ chiến thắng không phải là những thứ đó, Cái quan trọng đối với kẻ
chiến thắng trong cuộc chiến 20 chọi 1 này là vơ vét tất cả những gì họ có thể
vơ vét: Kho dự trữ lương thực trung ương, nằm trên đường Tự Do, Kho Quân Nhu,
Quân Cụ, dụng cụ y khoa và dược phẩm, thuốc men của các bệnh viện như Quân Y
Viện, Dân Y Viện, Trạm xá, nhà hộ sinh, các cửa tiệm thuốc Tây, các đại lý gạo,
cửa hàng bách hóa của tư nhân trong toàn thành phố ….
Suốt đêm, người ta
nhìn thấy những đoàn Molotova chở đầy hàng hóa vật dụng của thành phố đi về
hướng Bandon, phía Tây thị xã.
BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23
BỘ BINH VÀ TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG
Bây giờ là 4 giờ 20
sáng ngày 11 tháng 3/1975, khu suối Đốc Học với những vườn rau tàn tạ đầy dấu
dép râu và dấu xích chiến xa, khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Dân Y
Viện Ban Mê Thuột, chỉ còn thấy được ngọn đèn Signal chơ vơ trên trụ truyền
tin. Những đóm màu đỏ của hỏa châu càng nhỏ hơn, như ánh mắt của loài thú hoang
trong rừng đêm.
Cái lặng lẽ của đêm
trường và cái yên tĩnh của chiến trường càng làm cho người ta liên tưởng tới
một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra. Lâu lâu một tràng đại liên hoặc những loạt
súng nhỏ không phân biệt được AK-47 hay M-16 bắn ra. Và như vậy là đã hơn 24
giờ đồng hồ, từ lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, lực lượng phòng thủ hậu
cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh đã chống trả không ngừng trong suốt 24 giờ, và
không hiểu sẽ còn cầm cự được bao lâu nữa.
Qua hệ thống truyền
tin, người ta nhận được tín hiệu của Chi Khu Ban Mê Thuột, và Đại Tá Dậu, chỉ
huy trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân còn ở ngoài vòng đai thị xã, ở mặt Bắc,
mà chưa chọc thủng được phòng tuyến của Cộng quân để tiến vào thị xã. Hy vọng
duy nhất trong lúc này, là hai chiếc L-19 đang bay trên đầu Bộ Tư Lệnh, dầu
rằng màng lưới phòng không với đại liên 37 ly của Cộng quân vẫn không ngừng tấn
công.
5 giờ 55 sáng ngày 11
tháng 3/1975, chiến trường vẫn còn yên tĩnh, Ở cửa Nam thị xã, lực lượng phòng
thủ tư dinh tỉnh trưởng, nằm trên đại lộ Thống Nhất vẫn còn cầm cự.
6 giờ 30 sáng ngày 11
tháng 3/1975, từ khuôn viên trường tiểu học Nguyễn Du, sau lưng Sở Học Chánh
Ban Mê Thuột, những chiếc T-54 của Cộng quân, và lực lượng bộ binh tùng thiết
đang thực hiện một cuộc chuyển quân bao vây hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
Vòng vây này đang được thắt chặt, như một màng lưới dày đặc chung quanh vòng
đai phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Và 6 chiếc T-54, nhìn được từ hướng Tây-Nam, đang dàn
hàng ngang tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Với kinh nghiệm
của những người lính, ai cũng hiểu Bộ Tư Lệnh khó lòng cầm cự được trong vòng
vài ba giờ đồng hồ tới.
Trong khi đó, những
tiếng súng nhỏ, và đại bác 100 ly, cùng lúc gầm lên như những giây pháo nổ
không ngừng, làm rung chuyển cả một vùng trời. Cộng quân bắt đầu nổ lực tấn
công hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Và tại cửa Nam thị xã, bộ binh và
chiến xa T-54 cũng ráo riết tấn công lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng.
8 giờ 15 sáng ngày 11
tháng 3/1975, tư dinh tỉnh trưởng bị T-54 ủi sập các bức tường vòng đai, và
pháo sập các tầng lầu. Trung úy Trung đội trưởng bị trọng thương. Tư dinh tỉnh
trưởng đã thất thủ, chốt điểm cuối cùng ở cửa Nam thị xã đã bị Cộng quân tràn
ngập, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh bây giờ như người hùng cô đơn vẫy vùng dưới
trời mưa đạn của quân thù.
NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG
CỦA BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH
Lực lượng phòng thủ Bộ
Tư Lệnh gồm hai đại đội và một số các phòng ban chuyên môn, trong đó có đại đội
tổng hành dinh, chuyên trách về hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ chốt là
các Trung Đoàn 44 và 45 đang hành quân vùng Pleiku. Trung Đoàn 53 chỉ có hai
tiểu đoàn ở Ban Mê Thuột, và một trung đội Pháo Binh 105 ly, nhưng một tiểu
đoàn lại đã điều động lên giải tỏa Quận Đức Lập, một quận vừa bị Cộng quân tràn
ngập vào sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3/1975. Tiểu đoàn còn lại phòng thủ Phi
trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột về phía Đông Đông-Bắc 7 km.
Cho đến 8 giờ 20 sáng
ngày 11 tháng 3/1975, đơn vị quân lực còn có mặt tại thị xã Ban Mê Thuột chỉ là
hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Cộng quân biết rõ điều này, và càng hiểu
rằng Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ trở về chiếm lại giang sơn của
họ. Và đặc biệt là Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang có mặt ngoài vòng đai thị
xã ở cửa Bắc.
Liên Đoàn 21 Biệt Động
Quân được đổ xuống Buôn Hô, một quận cách thị xã Ban Mê Thuột 35 km về hướng
Bắc lúc 4 giờ 30 chiều ngày 10 tháng 3/1975. Đến 9 giờ tối cùng ngày đã tiến
sát vào vòng đai thị xã, nhưng chưa chọc thủng được vòng vây của Cộng quân.
Tiểu Khu Darlac lúc bấy giờ đã rút ra khỏi thị xã. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23
cố thủ trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh, nên không có được một đơn vị nào làm đầu
cầu cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân tiến vào thị xã.
Điểm đáng tiếc là 10
giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đơn vị tiền sát của liên đoàn đã đột nhập thị
xã, di tản gia đình vị tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã, nhưng lại
không được lệnh ở lại làm điểm tựa cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đến giải cứu
thị xã sau này.
Từ 6 giờ 45 sáng ngày
11 tháng 3/1975, Cộng quân đã bố trí xong lực lượng thắt chặt vòng văy hậu cứ
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly
trang bị trên chiến xa T-54, bắn trực xạ, đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly từ
hướng Bandon dồn dập đổ xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Đồng thời, chiến xa và bộ đội
Cộng quân dàn hàng ngang tấn công bốn mặt vòng đai Bộ Tư Lệnh. Lực lượng phòng
thủ Bộ Tư Lệnh đã chống trả quyết liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công, và đánh cận
chiến với quân thù.
10 giờ 10 phút, một
phi vụ A-37 của Không Quân thả bom nhầm vào Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn
toàn bị phá hủy.
10 giờ 30 sáng ngày 11
tháng 3/1975, một đoạn hệ thống công sự ở mặt Tây và phía Nam Bộ Tư Lệnh đã bị
chọc thủng. Bộ đội và chiến xa của Cộng quân tràn vào hậu cứ Sư Đoàn 23 Bộ Binh
như nước vỡ bờ. Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, Đại Tá Nguyễn Trọng
Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, mở đường máu đem đơn vị
thoát khỏi hậu cứ, bỏ lại Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đinh trong một tình huống
vô cùng bi thảm. Ban Mê Thuột lâm chung. Sáu mươi ngàn dân như một đàn gà con
mất mẹ. Đêm đen phủ xuống thành phố này cùng với nổi hải hùng và tuyệt vọng
mênh mong.
MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG
PHỤNG DỤC VÀ TRUNG ĐOÀN 53 BỘ BINH
Thị xã Ban Mê Thuột đã
hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân từ chiều hôm qua, ngày 10 tháng 3/1975, và đơn
vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh
rút khỏi thị xã này lúc 10 giờ 38 phút ngày 11 tháng 3/1975. Nhưng Trung Đoàn
53 Bộ Binh, phòng thủ Phi Trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km về
hướng Đông Bắc vẫn cố thủ và cương quyết chống lại lực lượng biển người và
chiến xa T-54 của Cộng quân.
Cùng lúc tấn công vào
thị xã Ban Mê Thuột 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân đã không bỏ
sót Trung Đoàn 53. Chiến xa và bộ đội của Cộng quân, với đại bác 130 ly, và hỏa
tiển 122 ly yểm trợ đã không ngừng luân phiên tấn công Trung Đoàn 53. Và sau
khi đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng rời bỏ Ban Mê Thuột, Cộng quân
càng tập trung lực lượng tấn công Trung Đoàn 53 ác liệt hơn.
Trận đánh thư hùng
giữa Trung đoàn 53 Bộ binh và một lực lương quân chính qui CS Bắc Việt đã được
tăng cường thêm đông hơn gấp 10 lần xảy ra lúc 5 giờ sáng. Đó cũng là lần xuất
trận đầu tiên của Sư đoàn 316, sư đoàn tổng trừ bị của Bắc Việt tại mặt trận
phi trường Phụng Dực trên chiến trường Cao nguyên.
Trung Đoàn Trưởng
Trung Đoàn 53 Bộ Binh là Trung Tá Võ Ân. Biết rõ ý đồ của Cộng quân, nhưng ông
cũng hiểu rằng Phi Trường Phụng Dực là điểm tiếp liệu, tiếp vận duy nhất cho
lực lượng tổng trừ bị là sư đoàn Nhảy Dù sẽ đến giải cứu Ban Mê Thuột sau này,
đồng thời đơn vị của ông là lực lượng đầu cầu và liên lạc duy nhất cho các đơn
vị bạn về sau. Do vậy, ông đã ra lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết
kiệm đạn dược và mọi phương tiện quân y, dược cụ, cố gắng chiếm dụng vũ khí của
địch để chống lại kẻ địch, và phải nhất định bắn trúng mục tiêu.
Trong suốt thời gian 6
ngày đêm, Trung Đoàn 53 Bộ Binh không những đã đánh tan nhiều đợt tấn công biển
người của Cộng quân, mà còn tịch thu nhiều loại vũ khí cá nhân cũng như súng
cộng đồng để tiêu diệt T-54 và hàng trăm xác quân thù bỏ lại chiến trường. Sự
tổn thất nặng nề nhất của Cộng quân trong mặt trận Ban Mê Thuột, hơn 200 nhân
mạng, không biết được con số bị thương, và hàng chục T-54 bị phá hủy bằng chính
B-40, B-41 của Cộng quân do Trung Đoàn 53 tịch thu tại mặt trận Phi trường
Phụng Dực.
Góp phần đáng kể vào
việc kéo dài trận chiến là một đại đội chừng 70 binh sĩ tinh nhuệ, gan lì, được
huấn luyện đặc biệt và quyết tâm chiến đấu đến cùng. Tham gia trận chiến Ban Mê
Thuột ngay từ ngày đầu, và là đơn vị sau chót rút khỏi đấy là Đại Đội Thám Báo
mà Thiếu Uý Nguyển Công Phúc là một trung đội trưởng.
Đại đội đã chiến đấu
trong hoàn cảnh cô đơn, cam go, căng thẳng và thiếu thốn súng đạn, lương thực.
Họ đã gây tổn thương nặng cho một tiểu đoàn địch, giúp Trung Đoàn 53 của bạn
chống trả lại những đợt tấn công mãnh liệt của đối phương, đồng thời chấm tọa
độ hướng dẫn pháo binh bạn bắn vào những vị trí địch.
Một trong những yếu tố
để đại đội đạt được thành tích trên và tồn tại mà chiến đấu bền bỉ nhất ở Ban
Mê Thuột là Cộng quân không biết vị trí đóng quân kín đáo và bất ngờ của đại
đội. Cộng quân khi tấn công Trung Đoàn 53 đã bị thúc mạnh vào cạnh sườn vì
không biết có đại đội thám báo nằm quanh những ụ đất dùng để che chở cho máy
bay ở phi trường và gần rừng cao su phía ngoài căn cứ của trung đoàn. Đại đội
mới nhận vị trí đóng quân ở đấy vào buổi chiều. Chỗ đóng quân lại không phải là
doanh trại. Quanh phi trường lại có những bãi trống, địch tiến quân dễ bị phát
hiện.
Trong những giờ đầu
của cuộc tấn công, Phúc theo dõi tình hình mặt trận qua máy truyền tin. Được
trang bị hệ thống truyền tin tối tân hơn những đơn vị bộ binh thông thường
khác, đại đội thám báo có thể liên lạc với những đợn vị bạn theo hàng dọc, mà
cả với mấy đơn vị theo hàng ngang như quân đoàn, sư đoàn và không đoàn ở Nha
Trang. Nhờ vậy Phúc biết thêm một số diễn tiến ở trận chiến.
Từ sáng sớm ngày 10
tháng 3/1975 cho đến hết ngày 15 tháng 3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh chỉ với
một tiểu đoàn Bộ Binh, và Pháo đội 105 ly đã anh dũng chiến đấu với một lực
lượng Cộng quân nhiều gấp bội, có chiến xa và đại bác đủ loại, mà không cần
biết đến Ban Mê Thuột đã thất thủ và đài BBC trong bản tin phát đi vào đêm 14
tháng 3/1975, đã loan tin Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị xóa tên trong quân sử Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 15 tháng 3/1975,
một phi vụ yểm trợ tiếp liệu cuối cùng cho Trung Đoàn 53 đã không rơi đúng điểm
ấn định mà lại rơi xuống khu vực Vườn Ương ở Hồ thực nghiệm.
Ngày 16 tháng 3/1975,
Trung Đoàn 53 Bộ Binh hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Hết
đạn dược và thuốc men, Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Võ Ân đành phải ra lệnh rút
khỏi phi trường Phụng Dực. Điểm liên lạc, tiếp vận duy nhất cho Ban Mê Thuột đã
lọt vào tay Cộng quân. Nhưng Trung Tá Ân, đúng là người hùng của quân lực, và
Trung Đoàn 53 Bộ Binh anh dũng là những người con yêu của Tổ Quốc, đã làm khiếp
đảm quân thù, và đem vinh quang về cho một quân đội kiêu hùng của nền Cộng Hòa
miền Nam.
Với lịch sử của Sư
Đoàn 23 Bộ Binh, và thực tế của mặt trận Ban Mê Thuột, nếu thị xã Ban Mê Thuột
được Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh phòng thủ, thì cho dầu Cộng Sản Bắc Việt có
quân số nhiều hơn vài ngàn người trong cuộc tấn công này, Ban Mê Thuột và 60
ngàn dân đã không rơi vào biển đêm của lịch sử dân tộc. Và Sư Đoàn 23 Bộ Binh
vĩnh viễn sẽ là một đơn vị kiêu hùng của một quân lực kiêu hùng bất diệt.
QĐ2 Tiếp cứu BMT :
Ban Mê Thuộc lọt vào
tay CS, khởi đầu cho việc sụp đổ của Miến Nam Tự Do. Buổi sáng khi 2 trái bom
500 cân Anh của Không quân đánh sập một đầu hầm Trung tâm Hành quân của Bộ Tư
lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, một số sĩ quan trong bộ tham mưu đã thoát lên được.
Đại tá Quang ra lịnh rút quân vọt ra khỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là
“Suối Bà Hoàng” – cách BTL Sư đoàn 250m.
Cũng may mùa này là
mùa khô nên suối cạn. Đáy suối lại thấp hơn mặt đất tới 15m nên rất dễ cho việc
ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất đông, chừng 100 người. Xa xa tiếng phát
thanh tuyên truyền của địch quân gần Chùa của Tỉnh hội Phật giáo Ban Mê Thuột
kêu gọi các binh sĩ ta đầu hàng. Cộng quân lúc này đầy khắp các ngả đường trong
thành phố cùng với những đoàn xe tăng của chúng.
Sau cùng Đại tá Quang
quyết định mọi người phải phân tán mỏng để tránh sư phát giác của địch quân.
Đại tá Quang, Vị Tư lịnh chiến trường Ban Mê Thuột sẽ đi về hướng Nam, đến gần
cầu khoảng cách 14km và tìm đường về Nha Trang. Còn Đại tá Nguyễn Trọng Luật
cùng với Phó Tỉnh trưởng Hành chánh Nguyễn Ngọc Vỵ đi về hướng Tây, nhằm về khu
cà phê của Trung tướng Hoàng và chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc Ban Mê Thuột
và từ đó tìm về Nha Trang. Riêng các binh sỉ thì phân tán mỏng và tìm cách trở
về Nha Trang. Hy vọng lúc đó sẽ tập họp lại để tiếp tục chiến đấu.
Cũng thời gian này
trên Quốc lộ 14, từ Đức Lập về Ban Mê Thuột, bộ Chỉ huy Hành quân nhẹ của Trung
đoàn 53 Bộ binh cùng với một tiểu đoàn, được lệnh rút từ vùng hành quân phía
đông bắc quận Đức Lập về tiếp cứu Ban Mê Thuột, cũng bị Việt cộng phục kích
chận đánh. Trung tá Trung đoàn Phó Trung đoàn 53 và hầu hết các sĩ quan đều bị
tử trận hoặc bị địch bắt. Cánh quân này coi như bị tan rã trước khi tới được
trận địa Ban Mê Thuột.
Đến xế trưa ngày 11
tháng 3, bên cạnh Đại tá Quang chỉ còn có người Thiếu úy, Sĩ quan Tùy viên và
một người lính. Không thể đi tới được phi trường Phụng Dực và cũng không còn
phương tiện truyền tin để liên lạc, ba người đã lẩn tránh trong một vườn cà phê
mấy tiếng đồng hồ, đợi đêm tối nhắm hướng nam đi về phía Quảng Đức.
Khoảng 2 giờ sáng ngày
12 tháng 3, Đại Tá Quang và tùy tùng trốn khỏi Trung Tâm Hành Quân, đi được
khoảng 6 cây số đường rừng, ngay khi vừa tới sát một làng Thương, thì bị Việt
cộng nổ súng, xông ra vây bắt. Đại tá Quang vẫn còn mang cấp bậc trên cổ áo và
xưng danh là Tư lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chúng đã trói lại, lột giầy và
liệng xuống hố. Chừng một giờ sau, chúng được lệnh dẫn Đại tá Quang đi suốt
đêm. Tới chiều hôm sau, ngày 13 tháng 3, được cởi trói, cho đi giầy vào và chở
đi bằng xe Molotova sang Cam Bốt để khai thác.
Riêng cánh Đại Tá
Nguyễn Trọng Luật khi chạy đến vườn cà phê của Trung Tướng Thái Hoang Hoàng,tất
cả cũng bị Cộng quân dàn quân chận bắt hết.Riêng Đại Tá Luật bị chúng bắt lên
một xe thiết giáp chở đi mất.
Những cơ sở đầu não ở
Ban Mê Thuột bị VC đánh chiếm trong hai ngày đầu. Mấy ngày sau Sài Gòn chưa
nhìn nhận Ban Mê Thuột thất thủ vì chiến trận còn tiếp diễn ở Trung Đoàn 53 khu
vực gần phi trường nằm phía ngoài thị xã.
Ngày 12 tháng 3/1975,
Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 tổ chức cuộc đổ quân tăng viện để
tái chiếm Ban Mê Thuột. Lực lượng chính của cuộc phản công là Trung đoàn 45 Bộ
binh (BB) và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB đang phòng ngự
tại Pleiku. Về phía Không quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các phi đoàn
của Sư đoàn 6 Không quân, BTL đặt tại Pleiku, còn có các phi đoàn trực thăng
của Sư đoàn 1 Không quân (Đà Nẵng) và Sư đoàn 4 Không quân (Cần Thơ), với hơn
100 trực thăng đủ loại kể cả các loại Chinook.
-Theo lịch trình đổ
quân, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 45 BB và đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 BB
được trực thăng vận trước tiên. Tiếp đến, các Chinook móc theo các khẩu đại bác
105 thả xuống khu vực đổ quân của lực lượng đặc nhiệm tại quận lỵ Phước An.
-1 giờ 10 trưa ngày 12
tháng 3/1975, Thiếu tướng Phú từ bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 bay đến Ban Mê Thuột
trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực tiếp điều quân. Tới Ban Mê Thuột vào khoảng 2
giờ chiều, Tướng Phú đã liên lạc với đơn vị trưởng của các đơn vị đang chiến
đấu ở quanh Ban Mê Thuột như trung đoàn 53 BB ở phi trường Phụng Dực, Liên đoàn
21 Biệt Động Quân, các tiểu đoàn Địa phương quân Darlac. Cùng đi theo cánh quân
cứu viện còn có Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 Quân đoàn 2, được Tướng Phú
chỉ định giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac thay thế Đại tá
Nguyễn Trọng Luật được ghi nhận là mất tích. Cùng đi theo Đại tá Tiếu, còn có
bộ chỉ huy lưu động của Tiểu khu Darlac vừa thành lập
.
Tuy nhiên, sự phản
công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không hữu hiệu, các Trung Đoàn 44 và
45 được đổ xuống Phước An dùng làm bàn đạp để tiến về thành phố Bàn Mê Thuột.
Nhưng Phước An vào lúc đó trở thành một trung tâm tản cư của những người dân
chạy thoát ra từ Ban Mê Thuộc. Ở đây nhiều binh sỉ gặp lại gia đình tự động lẫn
vào đám đông bỏ ngũ. Một số các binh sỉ khác tự động rời hàng ngũ đi tìm thân
nhân mất tích. Một đạo quân giải vây trong tình trạng như thế chắc chắn không
thể hoạt động được. Bốn ngày sau, SĐF10 của CSBV tiến chiếm Phước An. Hy vọng
giải vây BMT bị tan vở.
Chiều ngày 12 tháng
3/1975, cùng lúc tấn chiếm tại chiến trường Ban Mê Thuột, thì tại Pleiku,Cộng
quân cũng đã pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường quân sự Cù Hanh và bộ Tư
lệnh Quân đoàn 2.
Trưa ngày 14 tháng 3,
1975, trong khi Sư đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về giải cứu
Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An ninh
Quân sự của Tổng thống, đã họp mật với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân
đoàn 2-Quân khu 2.Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
ra lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân
đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung
thuộc lãnh thổ Quân khu 2.
Thay lời kết:
Bắc Việt tung vào trận
địa tấn công Ban Mê Thuột 3 sư đoàn chủ lực, toàn bộ lực lượng vào khoảng 30
ngàn người, gấp 7 lần lực lượng trú phòng (khoảng 4000). Chủ lực quân ta chỉ có
hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn 53 còn lại là Địa Phương Quân, Sảnh Sát, lực
lượng đã quá chênh lệch địch lại đánh lén, đánh trộm thì chúng phải dành chắc
phần thắng trong tay. Sự thất thủ của Ban Mê Thuột là chuyện đương nhiên; dù biết
trước phòng thủ cũng vẫn thua. Nhưng nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để
gây tổn thất nặng nề cho địch thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận
khác hy vọng không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp
đổ tan tành mau chóng. Tuy nhiên sự sai lầm của Tướng Phú chỉ là phương diện
chiến thuật, Ban Mê Thuột mất vì tại Quân khu 2 ta không đủ lực lượng chống lại
áp lực địch gồm 5 Sư đoàn chủ lực cộng thêm 15 Trung Đoàn biệt lập và cơ giới,
lại thêm những lệnh lạc bất thường thiếu nghiên cứu vì cấp lãnh đạo của ta đã
sai lầm về lảnh đạo và chiến lược..
-----------------------------
Tài liệu tham khảo :
- Những Ngày Cuối Của
VNC , của Cao Văn Viên Bản dịch Việt Ngữ của Nguyễn Kỳ Phong, nhà xuất bản
Vietnambliography 2003.
- Ban Mê Thuột, ngày
đầu cuộc chiến của Nguyễn Định trên trang Web History of the Viet NamWar.
- Mặt Trận Ban Mê
Thuột ngày 10/3/1975 của Vương Hồng Anh đăng trên Việt Báo từ 3/2000.
- Những Trận đánh lịch
sử trong chiến tranh VN 1963-1975 của Nguyễn Đức Phương, Đại Nam xuất bản 1993.
- Trận Ban Mê Thuột
3/1975, Khúc quanh lịch sử của Trọng Đạt trên trang nhà Quốc Gia Hành Chánh
2007
- Mặt Trận Ban Mê
Thuột của Phạm Huấn trên trang nhà http://doanket.orgfree.com
- Ðại thắng Mùa Xuân
của Văn Tiến Dũng trên trang web: http://vnthuquan.net
- Nhìn lại trận đánh
BAN MÊ THUỘT 1975 của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật trênhttp://doanket.orgfree.com
Cựu Đại Úy Võ Trung
Tín: Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-545-0105
Cựu Đại Úy Nguyễn Hữu
Viên: Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
Chúng tôi rất mong
được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì vấn
đề thời gian đã trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp.
Điện Thoại:
714-545-0105 email: votrungtin@hotmail.com
© Đàn Chim Việt
Email:Hoanghtham9@gmail.com
Ban Mê Thuộc
tháng 3-1975. Khúc Quanh Bi Thảm
Trọng Ðạt
Cuộc chiến
tranh lớn nào cũng có một mặt trận kết thúc cho toàn bộ:
Ngày
2-2-1943 Quân Ðức đầu hàng người Nga tại Stalingrad, Hitler mất nguyên lộ quân
số 6 gần 300 ngàn người gồm những lực lượng tinh nhuệ nhất, với Hitler gió đã
đổi chiều, Satlingrad đánh dấu khởi đầu cho sự bại trận của Ðức Quốc Xã. Ngày
4-6-1942 ngoài khơi Midway, trận hải chiến kinh hoàng Mỹ- Nhật diễn ra, trong
một ngày Nhật bị mất 4 hàng không mẫu hạm, hơn 300 máy bay, khoảng 3,000 thuỷ
thủ.. rồi dần dần thua cuộc chiến Thái Bình Dương. Tại Bắc Việt ngày 7-5-1954
Pháp bại trận Ðiện Biên Phủ, thua luôn cuộc chiến tranh Ðông Dương. Ngày
10-3-1975 Bắc Việt tấn công ồ ạt chiếm Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thiệu hốt hoảng
cho rút quân theo đường tỉnh lộ 7B đưa tới sự thảm bại lớn nhất trong cuộc
chiến tranh tại miền Nam nước Việt và sự sụp đổ Quân đoàn 2, từ đó đưa tới sụp
đổ Quân đoàn 1 và rồi đưa tới Sài Gòn thất thủ ngày 30-4-1975, kết thúc cuộc
chiến tranh dài nhất của thế kỷ. Ban Mê Thuột là một khúc quành bi thảm, được
coi như trận đánh quyết định vận mạng của Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1973 có
thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ Hiệp Ðịnh Ba Lê 28-1 cho tới tháng
10-1973 và giai đoạn bạo lực cách mạng sau tháng 10-1973.
Từ sau ngày
ký Hiệp Ðịnh Ba Lê đến tháng 10-1973 tình hình tương đối yên tĩnh. Tháng 6-1973
Quốc hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạït động quân sự Mỹ tại
Ðông Dương Việt, Miên, Lào. Ngày 1-7-1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ
giữa tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Ðông Dương. Tháng 10-1973
Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (War Powers Act),
Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Thấy thời cơ
thuận lợi đã tới, Bắc Việt bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang
quân sự bạo lực. Ðại Hội 21 của Bộ Chính Trị tại Hà Nội trong tháng 10 quyết
định đấu tranh quân sự, trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, phát triển tuyến
đường xa lộ Ðông Trường Sơn. Tại Quân khu 1, một số căn cứ của Việt Nam Cộng
Hoà bị Cộng quân tiến chiếm, tháng 9, tháng 10 một số đơn vị thuộc tỉnh Thừa
Thiên phải di tản. Năm 1973 Bắc Việt vẫn chưa phục hồi sau trận Mùa hè 1972,
chưa thể tổ chức được cuộc tấn công qui mô lớn.
Sau khi ký
Hiệp định Paris, Hà Nội cho khởi công xây tuyến đường xa lộ Ðông Trường Sơn hay
hành lang 613, song song với đường mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm trong địa phận
Việt Nam Cộng Hoà từ Ðồng Hới cho tới Lộc Ninh, đến đầu 1975 thì công trình
hoàn thành dài 1,200 km. Dọc theo Ðông Trường Sơn là hệ thống dẫn dầu từ Quảng
Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe máy ủi, hàng
vạn bộ đội, công nhân, thanh niên xung phong, dân công .. ngày đêm phá núi san
đèo, xây cống, lắp đường, dựng cầu.. đường rộng 8 m.. xe vận tải cỡ lớn chạy
hai chiều được, ngày đêm chở hàng trăm nghìn tấn đạn dược quân nhu cho chiến trường.
Họ đã xử dụng 16 ngàn xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ thuật, đạn dược,
lương thực… chuẩn bị cho chiến trường miền Nam trong hai năm 1973 và 1974.
Chiều dài toàn bộ hệ thống chiến lược Trường Sơn tới 1975 là 16 ngàn km gồm 5
hệ thống đường trục dài 5,500 km, 21 đường trục ngang dài 1,020 km, một đường
hệ thống dẫn dầu dài 5,000 km.
Ngày
22-5-1974 Hạ Viện Mỹ phủ quyết đề nghị gia tăng quân viện cho Việt Nam Cộng
Hoà. Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện đề nghị 1 tỷ 4, tới 23-9-1974 Lưỡng Viện Quốc
Hội Mỹ đồng thanh chấp thuận 700 triệu như vậy từ 1-7-1974 VNCH chỉ nhận được
một nửa số quân viện cần thiết, trong số 700 triệu này kể cả số tiền để dùng để
trả lương cho nhân viên cơ quan tùy viên quân sự DAO.
Trong khi
ấy, Tướng Nga Kulikov, Phụ tá Bộ trưởng quốc phòng tới Hà Nội xúi dục Bắc Việt
tấn công xâm chiếm Miền Nam và hứa giúp thêm vũ khí đạn dược. Cuối tháng
10-1974 Bộ Chính Trị Bắc Việt quyết định kế hoạch tác chiến năm1975, tranh thủ
bất ngờ, tấn công rộng lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành
Tổng công kích. Theo BBC.vietnammese.com 10-5-2006, tại buổi hội thảo
ngày 14 và 15-4-2006 tại Sài Gòn của Viện lịch sử Quân sự VN, các "đồng
chí" Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng đã công bố nguồn chi viện của các
nước XHCN anh em về giai đoạn 1973-1975 như sau:Tổng số 724,512 tấn hàng (gồm
75,267 tấn hàng hậu cần và 649,264 tấn hàng vũ khí) trong đó của Nga là 65,601
tấn, của Trung Quốc 620,354 tấn, các nước XHCN khác 38,557 tấn. Trong giai đọan
1973-75 BV nhận được 649,264 tấn hàng vũ khí coi như tương đương với 648,666
tấn trong giai đoạn 1969-1972, về hàng hậu cần BV nhận được 75,267 tấn chỉ bằng
1/4 số hàng hậu cần trong giai đoạn 1969-1972 (316,130 tấn).
Trong giai
đoạn 1969-1972 sự vận chuyển súng đạn của CS vào Nam gặp nhiều khó khăn vì bị
không quân Việt-Mỹ ném bom, bắn phá nhưng kể từ sau ngày ký Hiệp Ðịnh Paris
1-1973, BV đã dùng 16 ngàn xe vận tải chở súng đạn qua xa lộ Ðông trường Sơn
hay đường mòn Hồ Chí Minh một cách tự do thoải mái nên giai đoạn 1973-75 Hà Nội
đã đem được nhiều vũ khí đạn dược vào Nam gấp mấy lần giai đoạn trước (
1969-1972)
Năm 1974
tình hình chiến sự nặng hơn trước nhất là tại miền Trung. Trận đánh lớn nhất là
Trận Thượng Ðức từ giữa tới cuối năm 74, Thượng Ðức là một quận thuộc tỉnh
Quảng Nam nằm trên tỉnh lộ 4 nối liền Quốc lộ 1 ở phía Ðông và quốc lộ 14 ở
phía Tây. Thượng Ðức cách Ðà Nẵng 60 km và cách biên giới Việt Lào vào khoảng
50 km, các đường giao liên của BV thuộc Ðông Trường Sơn khi nối vào QL 14 sẽ
tới Thượng Ðức, đây là cửa ngõ để tiến xuống vùng duyên hải Quảng Nam, Ðà Nẵng.
Ngày
29-7-1974 Trung đoàn 29 BV bắn hoả tiễn vào Thượng Ðức và phi trường Ðà nẵng,
bộ đội CS tấn công các cứ điểm bên ngoài thị trấn. Chi khu TÐ mất liên lạc với
năm cứ điểm của nghĩa quân và bộ binh, hôm sau chi khu trưởng bị thương do pháo
kích nhưng quân phòng thủ đẩy lui được các đợt tấn công. CS tiếp tục pháo TÐ
gây thiệt hại nhân mạng cho BÐQ trú phòng. BV tăng cường thêm một Trung đoàn đế
tấn công TÐ. Tình hình Quận Thượng Ðức bắt đầu nguy ngập vì đạn dược và thực
phẩm đã cạn vì không được tiếp tế từ nhiều ngày qua.
Ngày 6-8 Bộ
TTM cho tăng cường Sư đoàn Dù vào Quảng Nam nhưng ngày 6 và 7 BV pháo hằng
nghìn quả và tấn công tràn ngập quận lỵ, trưa 7-8 BÐQ phải rút lui. Các Tiểu
đoàn Dù tấn công các cao điểm quanh TÐ như ngọn đồi 1062, 1235.. nhưng bị địch
đẩy lui. Sau nhiều ngày chiến đấu đến ngày 19-9 lính Nhẩy Dù đã chiếm được đồi
1062 . BV cử Trung đoàn 31 đến Thượng Ðức thay Trung đoàn 66. Các Tiểu đoàn Dù được
máy bay yểm trợ giao chiến với BV, hai bên giằng co nhau ngọn đồi 1062, trận
đánh ác liệt và đẫm máu.
Các Tiểu
đoàn 1, 2, 11 Dù được tung vào mặt trận thay thế các đơn vị đang chiến đấu. BV
thất bại nặng nên cuối cùng rút khỏi đồi 1062, Cộng quân tấn công tiểu đoàn 2
Dù tại bờ sông Vu Gia nhưng thất bại. Ðịch vẫn chiếm giữ đồi 1235, cuối năm
1974 chỉ còn hai tiểu đoàn Dù ở lại cao điểm 1062, trận Thượng Ðức coi như chấm
dứt.. Tính đến giữa tháng 10-1974 BV mất khoảng 1200 cán binh riêng tại mặt
trận này, quân Dù cũng thiệt hại nặng, các đơn vị thiệt hại tới 50% quân số.
Trận Thượng
Ðức là Trận lớn nhất năm 1974, quận lỵ thất thủ do cường độ pháo của địch trong
khi yểm trợ không quân của VNCH sút giảm vì thiếu nhiên liệu. Trận này cho thấy
BV đã được Nga Sô, Trung Cộng tiếp tế dồi dào hơn trước rất nhiều. Thượng Ðức
là một quận nghèo nàn nhưng vị trí chiến lược thật quan trọng, nó là một trong
những nút quan trọng của hệ thống đường mòn Hồ chí Minh tức là hệ thống đường
tiếp liệu Ðông Trường Sơn. Sự chiến đấu kiên cường của các đơn vị Dù đã ngăn
cản BV ngay tại cửa ngõ vào Ðà Nẵng
Trong khi ấy
vì thiếu tin tức tình báo, Tổng Thống Thiệu không có một nhận định nào rõ ràng
về lực lượng cũng như kế hoạch sắp tới của CS. Ngày 6 tháng 12 năm 1974 (có tài
liệu nói ngày 9-12), khoảng một tuần trước khi BV tấn công Phước Long, tại dinh
Ðộc Lập trong một phiên họp cao cấp quân sự gồm Hội đồng Tướng lãnh và các vị
Tư lệnh Quân khu, ông Thiệu cho biết trong năm 1975 BV có thể đánh với qui mô
lớn nhưng không bằng năm 1968 và 1972, địch chưa có đủ khả năng đánh vào các
thị xã lớn, dù đánh cũng không giữ được! chỉ đánh các thị xã nhỏ như Phước
Long, Gia Nghĩa. Theo Nguyễn Ðức Phương VNCH chưa có một nhận định nào, một tin
tức chính xác nào về âm mưu của Hà Nội.
"Từ
năm 1974, Chuẩn Tướng F.P Serong đã nhận xét như sau:
. . . . . .
. . . . . . . .
Hiện tại Bộ
TTM/QLVNCH đang mơ hồ và lung túng trước quá nhiều phương kế mà CS có thể thi
hành:
"CS
sẽ chờ đợi cho đến khi nền kinh tế của Sài Gòn sụp đổ;
"Chờ
đơi một cuộc đảo chánh tại Sài Gòn;
"Mở
rộng chiến dịch giành dân chiếm đất;
"Mở
một cuộc tổng tấn công tương tự như năm 1972;
"Mở
một cuộc tổng tấn công tương tự như trong năm 1968;
"Một
hỗn hơp giữa hai phương sách sau cùng".
Chiến Tranh
Việt Nam Toàn Tập, trang 805
Trong phiên
họp nêu trên ông Thiệu cho biết sẽ tăng cường phòng thủ đồng bằng sông Cửu Long
và không chú trọng vào Cao Nguyên Quân khu 2, hôm ấy Bắc Việt đã gài được gián
điệp nằm vùng để lấy những tin tình báo quan trọng.
Từ tháng 10
năm 1974 Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt đã trình bày kế hoạch tác chiến lên Bộ Chính
Trị và Quân uỷ Trung ương, họ đã chọn chiến trường Cao Nguyên làm chủ yếu, Văn
Tiến Dũng đã ghi nhận trong hồi ký.
"Tháng
10 năm 1974, trời cuối thu bắt đầu lạnh, gợi cho các cán bộ quân sự chúng tôi
nhớ đến mùa chiến dịch sắp đến. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp nghe Bộ
Tổng tham mưu trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược ……
. . . . . .
. . .
Hội nghị
nhất trí thông qua phương án của Bộ Tổng tham mưu, chọn chiến trường Tây nguyên
làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn và rộng khắp năm
1975"
Văn Tiến
Dũng cho rằng ông Thiệu đã bố trí lực lượng sai, mạnh ở hai đầu, tại Quân khu 1
và 3 thì bố trí nhiều đơn vị chủ lực, nhiều chiến xa, đại bác và máy bay chiến
đấu, còn tại Quân khu 2 ta chỉ để 2 Sư đoàn 22 BB và 23 BB. Quân khu 2 gồm 12
tỉnh, phải trải quân giữ đất nhiều nên khả năng phòng thủ yếu. Bộ chính trị
CSBV đã đồng ý kế hoạch nêu trên và chọn Tây nguyên để làm hướng chiến trường
chủ yếu trong cuộc tiến công năm 1975. Hà Nội đã chọn chiến trường Tây Nguyên
(QK-2) làm chủ yếu vì tại đây lực lượng VNCH yếu hơn QK-3 và QK-1, nay ngày
6-12 ( có tài liệu nói 9-12) BV lại có thêm tin tình báo cho biết ông Thiệu
không tăng cường thêm cho QK-2 nên họ càng quyết tâm tấn công địa bàn này
trước.
Ðại tá Phạm
Bá Hoa nói hồi ông học tại trường Ðại Học Quân Sự năm 1960 có được đọc một tài
liệu nói "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm được cao nguyên miền Trung
thì người đó sẽ nắm phần chiến thắng", Cộng Sản cũng nói ai làm chủ Tây
Nguyên thì làm chủ chiến trường. Bắc Việt chủ trương tấn công Quân khu 2 trước
phần vì VNCH phòng thủ yếu vả lại nơi đây là vị trí yết hầu. Một phần vì ông
Thiệu không chủ trương giữ Quân khu 2, một vùng cao nguyên cẵn cỗi mà trong
thâm tâm đã có ý tưởng bỏ vùng núi rừng miền Trung rút quân về vùng đất mầu mỡ
Quân khu 3 và 4, vả lại cái khó nó bó cái khôn, lãnh thổ quá rộng, lực lượng
phòng thủ không đủ để trải ra khắp nơi y như một người đắp cái chăn ngắn, hễ
kín đầu thì hở chân, kín chân thì lại hở đầu.
Sau khi lựa
chọn chiến trường Tây Nguyên, Bắc Việt lựa chọn địa điểm tấn công, tại buổi họp
của Quân Uỷ Trung Ương Bắc Việt ngày 9-11-1974 theo lời kể lại của Văn Tiến
Dũng, Lê Ðức Thọ người thực sự cầm đầu BV cũng vào họp để nâng cao quyết tâm
chiếm cho được Ban Mê Thuột , Thọ nói
"Phải
đăt vấn đề dứt khoát là giải phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sưđoàn ở Tây
Nguyên mà không đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào?"
Như thế Bắc
Việt đã chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước ngày tấn công trong khi
ta không có một nhận định hoặc tin tức tình báo nào rõ rệt. Chiến dịch Tây
nguyên được mang mật danh 275.
Một tháng
sau vào ngày 13-12-1974 Bắc Việt đưa ba Sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày
7-1 tỉnh này hoàn toàn lọt vào tay địch. Tổng số 4,500 binh sĩ, sĩ quan chỉ còn
850 người sống sót. Tỉnh trưởng Phươc Long. Quận trưởng Phước Bình mất tích,
3,000 trong số 30 ngàn dân trốn thoát, một số viên chức hành chánh bị CS hành
quyết, thất bại tại Phước Long là đương nhiên vì một Tiểu đoàn bộ binh và 5
Tiểu đoàn địa phương quân không thể chống lại 3 Sư đoàn CS.
Chính phủ
VNCH không tăng viện cho Phước Long vì không đủ khả năng thực hiện tiếp tế, cứu
viện bằng trực thăng vận từ Biên Hoà. Nói về mặt kinh tế chính trị Phước Long
kém quan trọng hơn Tây Ninh, Pleiku, Huế… Người ta cũng cho rằng chính phủ
Thiệu vờ bỏ rơi Phước Long để chờ Mỹ cứu. Hà Nội cho đánh Phước Long để thăm dò
Mỹ, khi thấy Mỹ chỉ phản đối xuông thì họ làm tới.
Sau đó ngày
8-1-1975 Lê Duẫn nói.
"Tình
hình đã sáng tỏ, chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoặch 2 năm".
Sau trận
Phước Long Tổng Thống Thiệu biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên đầu
năm 1975 nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì địch nghi binh tối đa. Phía VNCH không
đoán được ý định của họ, theo Tướng Hoàng Văn Lạc trước khi Văn Tiến Dũng vào
Nam, Giáp đã dặn dò Dũng phải nghi binh tối đa để đánh lạc hướng Nguỵ.
Tình hình
chính trị quân sự VNCH năm 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt Nam
là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 1971 rút
xuống còn 12 tỷ mỗi năm vì Mỹ đang rút quân. Khi họ đã rút gần hết chỉ còn
24,200 người trong năm 1972 thì Việt Nam Cộng Hòa phải một mình gánh vác tất cả
chiến trường với tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm. Năm 1973 viện trợ quân sự
là 2,1 tỷ, năm 1974 chỉ còn 1,4 tỷ, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó
kể cả ngân khoản để trả lương cho nhân viên DAO của Mỹ.
Ðảng Dân chủ
nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ chủ trương rút quân bỏ Việt Nam không cần đếm xỉa gì
tới bạn đồng minh cũng như danh dự cho nước Mỹ. Về tiền nong và thực lực Dân
Chủ yếu kém so với Cộng Hoà nên họ chỉ tìm sơ hở của Cộng Hoà để thọc gậy bánh
xe kiếm phiếu. Dân Chủ thường o bế dân nghèo, giới bình dân cu li cu leo, khố
rách áo ôm, đám trốn lính, phản chiến. .. để lấy lòng, họ thắng lợi đúng lúc
người dân chống đối chiến tranh Việt Nam dữ dội. Ðảng nọ phá đảng kia, miền Nam
Việt Nam chết oan vì nằm giữa cái thế trâu bò húc nhau giữa Cộng Hoà, Dân Chủ.
Hậu quả của
việc cắt giảm quân viện khiến cho miền Nam lâm vào tình trạng thiếu hụt, năm
1972 một số lớn săng dầu đạn dược đã được dốc vào mùa hè đỏ lửa 1972. Việc cắt
giảm đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của cựu Ðại tướng Cao Văn Viên,
trong cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH, hậu quả là năm 1974 không quân đã phải cho
hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn
luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt
giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ. Ðạn dược chỉ còn đủ đánh
tớiù tháng 4 -1975, hoả lực giảm 60%, năm 1972 ta xử dụng trên 66 ngàn tấn đạn
một tháng từ tháng 7-1974 đến tháng 3-1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn
tấn một tháng. Theo sử gia Bill Laurie, cấp số đạn súng lớn như đại bác 105 ly,
155 ly, 175 ly.. năm 1975 đã bị cắt giảm như sau:
Năm 1972-1975
tỉ lệ giảm:
Ðạn 105 ly,
180 viên giảm còn 10 viên 94%
Ðạn 155 ly,
150 viên giảm còn 5 viên 97%.
Ðạn 175 ly,
30 viên giảm còn 3 viên 90%. ..mọi thứ bị cắt xén đến tận xương tủy. Theo Tướng
Cao Văn Viên vì thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, giang thuyền, máy bay …nằm ụ
chờ rỉ sét. Thiếu thuốc men, số tử vong tăng cao, tinh thần xuống thấp. Ngày
9-8-1974 Nixon từ chức mang theo những lời hứa hẹn với ông Thiệu xuống tuyền
đài.
Việt Nam
Cộng Hoà nay đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thù trong giặc ngoài. Ðồng Minh
thì phản bội, lãnh đạo bất tài… kẻ thù thừa cơ nước đục thả câu xua đại binh
tấn công như vũ bão. Trước khi vào trận đọ sức quyết liệt chúng tôi xin so sánh
lực lượng hai bên.
Không quân
VNCH năm 1975 có 2075 máy bay các loại, đứng thứ tư trên thế giớiù về số lượng.
Binh chủng Thiết giáp có 2200 chiến xa và thiết xa các loại, (trong đó chỉ có
khoảng 40% là xe M-41 và M-48, còn lại là M-113 và các loại xưa cũ). Pháo binh
có khoảng 1500 khẩu đại bác (trong đó hơn 50% là súng 105 ly, 25% là súng 155 ly,
15% là súng 175 ly). Hải quân có 1600 tầu chiến và giang thuyền các loại. Lục
quân VNCH có hơn một triệu quân trong đó 40% là chủ lực quân chính qui vào
khoảng 400 ngàn người gồm những lực lượng tác chiến và yểm trợ, 50% là ÐPQ ,
Không quân, Hải quân, Cảnh sát. Quân đội VNCH được tổ chức theo lối Mỹ, một
người lính tác chiến có năm người yểm trợ như hành chánh tài chánh, quân y,
quân trang, quân dụng… nên lực lượng chiến đấu chỉ vào khoảng từ 160 cho tới
180 ngàn người. Lính nhà nghề chỉ có 13 Sư đoàn chủ lực (11 SÐ BB, 2 SÐ tổng
trừ bị) và 15 Liên đoàn Biệt động quân ( có tài liệu nói 17 Liên Ðoàn) tương
đương khoảng hơn 2 Sư đoàn, trên thực tế một Liên đoàn có hơn 1000 người). Tổng
cộng ta có vào khoảng 15 Sư đoàn chính qui (nếu kể cả BÐQ). Lực lượng được bố
trí toàn quốc như sau.
Quân khu
Một: 5 Sư đoàn (1, 2, 3, Nhẩy Dù, TQLC), 4 Liên đoàn BÐQ.
Quân khu
Hai: 2 Sư đoàn (22, 23), 7 Liên đoàn BÐQ
Quân khu Ba:
3 Sư đoàn (5, 18, 25), 4 Liên đoàn BÐQ
Quân khu
Bốn: 3 Sư đoàn (7, 9, 21)
Ðịa phương
quân VNCH năm 1975 có 325 ngàn người,
Tổng cộng
VNCH có 15 Sư đoàn chủ lực (nếu kể cả BÐQ) đem chia cho 44 tỉnh toàn quốc thì
trung bình mỗi tỉnh chỉ có một Trung đoàn chính qui bảo vệ trong khi BV có khả
năng tập trung hằng chục Trung đoàn để tấn công một địa điểm vì họ không phải
trải quân giữ đất như Miền Nam.
Lực lương
chính qui Bắc Việt năm 1975 gồm 4 Quân đoàn và Ðoàn 232 (tương đương một Quân
đoàn).
Quân đoàn
Một: 3 Sư đoàn bộ binh 308, 312, 320B, Sư đoàn 367 pháo phòng không và các Lữ
đoàn xe tăng 202, Lữ đoàn 45 pháo binh, Lữ đoàn công binh 299…
Quân đoàn
Hai: 3 Sư đoàn bộ binh 304, 324, 325, và Sư đoàn 327 pháo phòng không, Lữ đoàn
xe tăng 203, Lữ đoàn pháo binh 164, Lữ đoàn công binh 219…
Quân đoàn
Ba:3 Sư đoàn bộ binh 10, 316, 320, hai Trung đoàn pháo binh 40 và 675, hai
Trung đoàn phòng không 234, 593 Trung đoàn xe tăng 273, Trung đoàn 7 công binh…
Quân đoàn
Bốn: 3 Sư đoàn bộ binh 6, 7, 341 và các Trung đoàn 24 pháo binh, Trung đoàn
phòng không 71, Trung đoàn công binh 25, Trung đoàn đặc công 429…
Ðoàn 232
gồm: 3 Sư đoàn bộ binh 3, 5, 9 và Sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng 16 Sư đoàn.
Ngoài ra Bắc Việt còn có trên 10 Trung đoàn độc lập tương đương với khoảng 4 Sư
đoàn, toàn bộ chủ lực quân của CSBV vào khoảng 20 Sư đoàn bộ binh trên 300 ngàn
người cộng với các Trung đoàn Pháo binh, Thiết giáp, Phòng không, Công binh…
Bộ đội CS
không có lương nên không có ban tài chánh, họ cũng không có quân y để chăm lo
thương binh… nói chung đơn vị "không tác chiến" ít hơn VNCH. Năm 1973
Bắc Việt có vào khoảng từ 500 ngàn cho tới 570 ngàn quân, khoảng 290 ngàn để
lại miền Bắc, 100 ngàn đóng tại Miên, Lào, còn lại đưa vào miền Nam. Bắc Việt
có thể huy động 1 triệu 600 ngàn du kích để phòng thủ bờ biển, phòng không…Năm
1974 tình hình sôi động BV đã đưa phần lớn chủ lực quân vào miền Nam
Khoảng 80%
bộ binh chính qui BV đã có mặt tại miền Nam đầu năm 1975, họ để lại Quân đoàn 1
(gồm 3 Sư đoàn) tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị sau khi Quân khu 2 và 1
của VNCH sụp đổ, Bắc Việt đưa hết cả 3 Sư đoàn trừ bị vào Nam. Năm 1976 báo
Quân Ðội Nhân Dân tiết lộ vũ khí đạn dược của BV tại miền Nam năm 1975 gấp 3
lần năm 1972. Sự thật như chúng ta đã thấy ở trên viện trợ vũ khí đạn dược của
CS Quốc tế cho BV năm 1975 ngang với năm 1972 nhưng giai đoạn 1969-1972 đường
Trường Sơn bị không quân Việt Mỹ oanh kích dữ dội, số lượng vũ khí đạn được đem
vào bị hạn chế, trái lại giai đoạn 1973-1975 BV chuyên chở vũ khí vào Nam thoải
mái vì không bị oanh kích nên số lượng vũ khí đạn dược năm 1975 của họ tại miền
Nam nhiều gấp hai hoặc gấp ba lần năm 1972.
Pháo binh và
Thiết giáp BV đưa vào Nam được ước lượng không chính xác khoảng hơn 500 khẩu
trọng pháo( phần nhiều là trọng pháo 130 ly) và hơn 500 xe tăng. Về xe tăng và
pháo binh, VNCH trội hơn địch về số lượng nhưng về mặt phẩm thì không bằng, thiết
giáp của ta gồm M-113, M-41 và M-48, chỉ có M-48 mới tương đương với xe tăng
T-54 của BV. Ðại bác 130 ly CSBV có tầm viễn xạ tối đa 30 cây số trong khi đại
bác 105 ly và 155 ly của miền Nam chỉ bắn tối đa được 11 và 15 cây số .
So sánh với
tình hình năm 1972 ta thấy năm 1975 quả là bi đát, năm 1972 lực lượng BV tại
miền Nam chỉ có khoảng 10 Sư đoàn, VNCH có đầy đủ tiếp liệu đạn dược, lại được
không quân Mỹ yểm trợ B52 trải thảm tối đa và vận chuyển quân lính. Ðến năm
1975 đạn dược nhiên liệu thiếu hụt vì cắt giảm, lực lượng địch tăng lên gấp đôi
khoảng 20 Sư đoàn, ta lại không được B52 yểm trợ oanh tạc và vận chuyển. Về
chiến thuật chiến lược cả hai bên vẫn y như cũ, Cộng quân vẫn là tiền pháo hậu
sung, công đồn đả viện, lấy thịt đè người… không có gì mới lạ. BV có ưu thế hơn
VNCH trong sự lựa chọn chiến trường, luôn luôn ở thế tấn công đúng theo nguyên
tắc quân sự Lénine, "chủ động tiến công tiêu diệt địch, phòng ngự là con
đường chết của vũ trang khởi nghĩa".
Phía VNCH
vẫn là trải quân giữ đất, vẫn theo chính sách đóng đồn có từ thời Pháp thuộc.
Từ sau Hiệp Ðịnh Paris, ông Thiệu không có kế hoạch chính trị, quân sự gì mới
mẻ, chỉ ngồi chờ địch tới và hy vọng vào sự yểm trợ của không quân Mỹ, không có
kế hoạch phá vỡ sự xâm nhập hay truy lùng địch, ông quá tin tưởng vào lời hứa
của Mỹø.
Quân khu 2
gồm 12 tỉnh, diện tích rộng lớn nhất, bằng nửa Việt Nam Cộng Hoà mà chỉ có 2 Sư
đoàn bộ binh và 7 Liên đoàn Biệt động quân, toàn bộ lực lượng tương đương với
ba Sư đoàn, khoảng 10 Trung đoàn. Tính trung bình một tỉnh chưa được một Trung
đoàn chủ lực bảo vệ, là nơi yếu thế nhất đã được BV chiếu cố tấn công. Quân khu
2 dân số trên 3 triệu gồm các tỉnh Cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Lâm
Ðồng, Quảng Ðức, Phú Bổn, Tuyên Ðức, phía Ðông là các tỉnh duyên hải gồm Bình
định, Khánh Hoà, Bình Thuận… có 3 thành phố chính là Nha Trang, Qui Nhơn, Tuy
Hòa, dân số tại đây thưa thớt hơn các quân khu khác.
Tư Lệnh Quân
đoàn 2 Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh phó Quân đoàn Chuẩn Tướng Trần Văn
Cẩm, Tư Lệnh phó Quân khu Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tham mưu trưởng Ðại tá Lê
Khắc Lý. Tại Ban Mê Thuột chủ lực quân của VNCH gồm 2 Tiểu đoàn (1, 3) thuộc
Trung đoàn 53 đóng tại phi trường Phụng Dực và các Tiểu đoàn Ðịa phương quân.
Có tài liệu nói lực lượng VNCH tại Ban Mê Thuột khoảng 4,000 người phần nhiều
là ÐPQ, cảnh sát. Theo Bút ký của Nguyễn Ðịnh, Ban Mê Thuột như một thành phố
bỏ hoang, các đơn vị chủ lực đã được đưa tăng cường cho Pleiku và các nơi khác.
Theo ông lực lượng của ta tại đây kể cả Nghĩa quân, Cán bộ xây dựng nông thôn,
Nhân dân tự vệ cũng không quá 2000 người. Con số Nguyễn Ðịnh đưa ra có lẽ quá
thấp vì quân số tại các tỉnh nhỏ như Phước Long, Bình Long đã vào khoảng trên
dưới 3,000 người, lực lượng VNCH tại Ban Mê Thuột chắc hẳn không dưới 3,000
hoặc 4,000 người vì đó là một tỉnh lớn.
Lực Lượng CS
tại Quân khu 2 theo tài liệu Bắc Việt như sau:
"Lực
lượng ta tham gia chiến dịch gồm: 5 sưđoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung
đoàn bộ binh (25, 271, 95A, 95B), trung đoàn đặc công (14, 27), trung đoàn xe
tăng- thiết giáp 273, 2 trung đoàn pháo binh (40, 675), 3 trung đoàn phòng
không (232, 234, 593), 2 trung đoàn công binh (7, 575), trung đoàn thông tin
29, 6 tiểu đoàn vận tải, nhiều đơn vị bảo đảm của Bộ và lực lượng vũ trang địa
phương các tỉnh diễn ra chiến dịch. Riêng lực lượng Mặt trận Tây Nguyên tham
gia chiến dịch gồm 36 tiểu đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn đặc công, 13 tiểu đoàn
pháo mặt đất, 18 tiểu đoàn phòng không, 3 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp với tổng
số quân 44.900 người.
Về vũ khí
trang bị: có 88 pháo lớn, 1.561 súng chống tăng và hàng vạn súng bộ binh, 6 cơ
cấu bắn B-72, 343 súng phòng không, 32 xe tăng, 25 xe bọc thép, 679 xe ô tô các
loại. Ngoài ra còn có 21.800 cán bộ chiến sĩ làm lực lượng dự bị ở phía sau và
hoạt động ở các hướng khác.
Bộ tư lệnh
chiến dịch gồm: Hoàng Minh Thảo (Tư lệnh), Ðặng Vũ Hiệp (Chính uỷ).
(Dương Ðình
Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90,
91.)
Như thế lực
lượng CS tại Cao nguyên gồm 5 Sư đoàn BB và 4 Trung đoàn độc lập (tương đương
một Sư đoàn), tổng cộng BV có 6 Sư đoàn BB gấp hai lần chủ lực quân VNCH, tổng
số nhân lực kể cả lực lượng dự bị là 66,700 người. Bắc Việt đã được Nga, Tầu
viện trợ cho nhiều vũ khí tối tân, ngoài ra họ còn được trang bị nhiều hoả tiễn
tầm nhiệt hiện đại. Vì Cộng quân tập trung lực lượng tại khu vực chủ yếu nên bộ
binh BV trội hơn VNCH gấp 5 lần, xe tăng coi như ngang nhau, pháo binh gấp 2.
Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm Hoàng Minh Thảo (Tư Lệnh), Ðặng Vũ Hiệp (Chính Ủy),
trực tiếp chỉ đạo chiến dịch Tây nguyên là Ðại Tướng CS Văn Tiến Dũng.
Ngày
5-2-1975 Văn Tiến Dũng từ phi trường Gia Lâm đáp máy bay xuống Ðồng Hới rồi vào
Quảng Trị, tới sông Bến Hải, y đi xuồng máy tới Bộ chỉ huy chiến dịch tại phía
Tây Gio Linh để chỉ đạo toàn bộ chiến dịch.
Tại Ban Mê
Thuột có tài liệu nói chủ lực quân của CSBV là 25 ngàn người vào khoảng gấp 6,
7 lần phía VNCH. Ban Mê Thuột là tỉnh lỵ của Darlac, dân số 250 ngàn người gồm
Kinh, thượng, Tầu và các chủ đồn điền Pháp và Ý, (cũng có tài liệu nói dân số
150 ngàn người), thị xã gồm 60 ngàn người. Tỉnh có nhiều đồn điền cà phê, cao
su, nhiều thắng cảnh đẹp, nhiều gỗ quí, dân chúng đa số sống bằng nghề trồng
trọt, làm đồn điền. Ban Mê Thuột có vị trí chiến lược quan trọng, phía bắc nối
liền Pleiku, Kontum, Phú Bổn.. phía Nam đi Quảng Ðức, Phước Long, phía Ðông nối
liền Nha Trang.
Bắc Việt đưa
kế hoạch tấn công bất ngờ, đông đảo, nghi binh tối đa, họ vờ đánh Pleiku để nhử
quân đội VNCH lên giải toả rồi cắt các đường dẫn đến Ban Mê Thuột, chiếm phi
trường sau cùng ba mặt giáp công. Ðịch dùng các Trung đoàn, Sư đoàn cắt các
đường giao thông 19, 14, 21 nghi binh thu hút quân đội VNCH về phía Bắc sau đó
ồ ạt tấn công thị xã. Họ không đóng quân sẵn ở vị trí xuất phát tấn công mà tập
kết từ xa vận động đến, chuyển quân bằng xe molotova, đây là lần đầu tiên BV
đánh trận bằng xe hơi. BV bỏ qua vòng ngoài bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối
hợp với lực lượng đặc công đã có sẵn trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài, họ
không đánh theo lối bóc vỏ.
Phần diễn
tiến trận đánh chúng tôi dựa vào tài liệu của các tác giả Nguyễn Ðức Phương,
Cao Văn Viên, của phía CS… và tham khảo thêm các bài viết khác.
Ngày
1-3-1975 Sư đoàn 968 Bắc Việt chiếm đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường
Cù Hanh, Pleiku. Ngày 3-3 Trung đoàn 95 và Sư đoàn 3 CS ngăn chận quốc lộï 19
tại An Khê. Ngày 5-3 Trung đoàn 25 CS cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An và Khánh
Dương, cắt đường Nha Trang-Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng cường Trung đoàn 45
tại Thanh An và cho 2 Tiểu đoàn BÐQ và thiết giáp giải toả quốc lộ 19. Ngày 7-3
Sư đoàn 320 CS chiếm Thuần Mẫn, ngày 9-3 Sư đoàn 10 CSBV tấn công Ðức Lập,
Quảng Ðức, căn cứ núi lửa và 23 bị tràn ngập.
BV cô lập
Ban Mê Thuột cả Bắùc và Nam mà Tướng Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông
lại nghĩ chúng nghi binh vờ đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ tư
lệnh Quân đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn BÐQ thuộc Liên đoàn 21 từ
Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột. Sự sai lầm của Tướng Phú
đã được CS khai thác triệt để, Văn Tiến Dũng nghi binh tối đa để đánh lừa Tướng
Phú, y gọi đây là cuộc chiến tranh cân não.
Ngày 9-3
Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột đã triệu phiên họp khẩn cấp tại toà hành chánh và báo
động đỏ, cắm trại 100%. Hai giờ sáng ngày 10-3 đặc công Việt cộng trong thị xã
đột nhập phi trường phá huỷ một máy bay, 3 Sư đoàn CS 316, 10, 320 với ba mũi
tấn công thị xã phối hợp với đặc công đã nằm bên trong. Ðịch pháo kích ầm ầm
như phong ba bão táp vào các vị trí của quân trú phòng rồi đưa xe tăng, xe kéo
pháo, phòng không, quân xa.. ồ ạt tiến về thị xã từ xa, lần đầu tiên BV đánh
trận bằng xe hơi.
Trận bão lửa
đã được Nguyễn Ðịnh ghi nhận .
"….Tiếng
rít của hoả tiễn và đạn đạo 130 ly khủng khiếp như xé cả không gian mà người ta
thực sự chưa từng nghe thấy một lần trong đời. Những tiếng nổ cứ liên tục như
những dây pháo đại không ngừng, làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả
thành phố như cảnh tượng động đất được thấy trên màn bạc. . . . . . . .
. . . .
Thành phố đã như con tầu chao nghiêng trong bão tố."
Ban Mê Thuột
Ngày Ðầu Cuộc Chiến, bút ký.
Theo tài
liệu Cộng Sản, trong một đêm BV đã đưa được một lực lượng đông đảo 12 Trung
đoàn gồm 9 Trung đoàn bộ binh và các Trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng
không..vào trận địa đúng thời gian. Họ bỏ qua các đồn bót dọc đường, tiến về
thị xã, bắc phà cho cả đoàn xe vượt sông Serepok, các mũi tiến công đã tiến vào
đúng thời gian. Ðịch chia làm 3 mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trại Mai Hắùc
Ðế, cánh thứ hai đánh phi trường Phụng Dực (có 2 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 53)
tại đây 4 xe tăng bị bắn cháy, 200 tên địch bị hạ, cánh thứ ba đánh phi trường
L19 để tiến vào thị xã tấn công tiểu khu, khi vào thị xã 10 xe tăng đã bị ÐPQ
bắn cháy.
Vào buổi
chiều Cộng quân chiếm được một nửa thành phố, ÐPQ, nghĩa quân, cảnh sát vẫn
chiến đấu anh dũng tại nhiều nơi. Tướng Phú cho trực thăng vận Liên đoàn 21 BÐQ
xuống Buôn Hô từ đó hành quân vào thị xã tiến chiếm Tiểu khu Ban Mê Thuột nhưng
Liên đoàn không đạt được mục tiêu vì sự điều quân vị kỷ của Chuẩn Tướng Lê
Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23, ông điều động Liên đoàn 21 đưa gia đình, vợ
con ông về Trung tâm huấn luyện cách Ban Mê Thuột vài cây số để ông đưa trực
thăng xuống bốc đi.
Cảnh hoang
tàn ghê rợn của thành phố đã đượïc Nguyễn Ðịnh mô tả như sau.
"Mười
sáu giờ ngày thứ hai 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình
tại thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ tư lệnh sưđoàn 23 bộ binh còn
được trấn giữ.
Trong thành
phố tiếng súng nổ đã im, nhưng cảnh hoang tàn của thị xã thật không cách nào tả
cho xiết. Những khu phố bị cháy không ai dập tắt. Ðóm lửa, tro tàn, và bụi khói
bao phủ khung trời thị xã như một màn sương đục. Mặt đường lỗ loang những dấu
đạn cầy. . . . . .
. . . . . .
Rải rác trên các khu phố những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết
không ai săn sóc. Thị xã không hẳn là bãi tha ma, mà là hỗn độn của một thế
giới nửa sống nửa chết."
Ban Mê Thuột
Ngày Ðầu Cuộc Chiến, bút ký.
Và dưới đây
lúc sáu giờ chiều.
"Trong
nội vi thị xã, cho đến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, trận chiến được
coi như kết thúc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Những
đống tro tàn của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói và gạch vụn gợi cho người ta
cái cảm xúc của một chiến trường tàn cuộc lạnh lẽo rợn người".
Nguyễn Ðịnh,
BMTNÐCC.
Sáng 11-3
không quân oanh tạc lầm vào Bộ Chỉ Huy của Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột cắt
đứt liên lạc với Quân đoàn 2. Bắc Việt cho tăng cường Sư đoàn 320 tiếp tục tấn
công phi trường Phụng Dực, Trung đoàn 53 cầm cự đến ngày 17 -3 thì chấm dứt,
Phạm Huấn cho biết họ chiến đấu quả cảm tới người cuối cùng, nhưng cũng có tài
liệu nói một số ít thoát ra khỏi vòng vây chạy vào rừng. Nguyễn Ðịnh nói các
lực lượng trú phòng như ÐPQ, nghĩa quân, Cảnh sát.. đã chiến đấu rất anh dũng,
họ đã làm hết sức mình để chống lại các đợt tấn công nhưng phải chịu thua trước
số đông áp đảo của BV.
Ngày 11-3 Bộ
Tư Lệnh Sư đoàn 23 lập kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột.
-Trung đoàn
45 được trực thăng vận từ đèo Tử Sĩ đến quận Phước An để tiến vào hướng Ðông
thị xã.
- Liên đoàn
7 BÐQ được không vận từ Sài Gòn ra thay trung đoàn 44, Trung đoàn này sẽ được
trực thăng vận tới Phước An.
Ngày 13-3
Trung đoàn 45 tiến về Ban Mê Thuột bị chận đánh cầm chân tại vòng đai thị xã,
Liên đoàn 21 Biệt động quân bị đánh bật ra khỏi phi trường L19, cuộc trực thăng
vận Trung đoàn 44 bị hủy bỏ, pháo binh chỉ còn hai khẩu 105 ở Phước An, không
quân gặp nhiều khó khăn vì BV xử dụng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7. Ngày 15-3 Tổng
thống Thiệu hủy bỏ kế hoạch tái chiếm và cho lệnh rút khỏi Phước An. Trung đoàn
trưởng Trung đoàn 44 thất vọng nói " không có một tia hy vọng nào giải cứu
Ban Mê Thuột". Cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột thất bại vì ta không
đủ lực lượng vả lại các đường dẫn vào Ban Mê Thuột đã bị Cộng quân cắt hết.
BV cho biết
đã chiếm được 24 xe tăng, 355 xe cộ các loại, phá huỷ gần 400 xe cộ, chiếm được
3,200 tấn đạn dược, hàng triệu lít nhiên liệu, phá hủy bắn rơi 50 phi cơ, chiếm
được 3200 súng các loại, 42 khẩu pháo và súng cối. Cộng quân lấy được nhiều
chiến lợi phẩm củaVNCH, họ nói hậu cần tiêu hao ít mà còn lấy được nhiều vũ khí
đạn dược của địch. Cục trưởng hậu cần Ðinh Ðức Thiện khoe là họ đã bỏ một vốn
mười lời, đã lấy được nhiều lương thực đạn dược đủ dùng cho cả năm sau, y cũng
nói đã lấy được nhiều xe, nhiều đạn trong kho Mai Hắc Ðế, Ban Mê Thuột. Ông
Nguyễn Ðức Phương đã nhận nhận xét về diễn tiến trận đánh chiếm Ban Mê Thuột
của Cộng quân như sau.
"Do
những thất lợi về phương tiện vận chuyển và yếu tố quân số của QLVNCH, kế hoạch
tấn công Ban Mê Thuột của Tướng Văn Tiến Dũng khá đơn giản, bao gồm hai yếu tố
bí mật bất ngờ và tập trung đông quân số để áp đảo địch quân. Ðầu tiên đánh vào
một số diện tại quân khu 2 để lôi cuốn các đơn vị QLVNCH có nhiệm vụ giải toả.
Sau đó cắt đứt các trục lộ giao thông chính dẫn đến mục tiêu đồng thời chiếm
các phi trường để ngăn chận tiếp viện bằng đường hàng không để sau cùng cường
tập tiêu diệt điểm với chiến thuật ba mũi giáp công"
(Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang
716.)
Hậu quả của
trận Ban Mê Thuột không thể lường trước được. Một ngày sau khi BV tấn công Ban
Mê Thuột, Tổng Thống Thịêu mở phiên họp tại Dinh Ðộc Lập ngày 11-3 gồm Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm, Ðại tướng Cao Văn Viên Trung tướng Ðặng Quang, Phụ tá
an ninh Quốc Gia. Nội dung nói về kế hoạch di tản Quân khu 1 và 2 về giữ Quân
khu 3 và 4 và chỉ giữ một phần duyên hải vùng 2 vì lãnh thổ quá rộng không đủ
lực lượng bảo vệ. Ngày 14-3 trong một phiên họp tại Cam ranh với Hội Ðồng Tướng
Lãnh ông Thiệu quyết định di tản toàn bộ chủ lực thuộc Quân đoàn 2 về duyên hải
qua tỉnh lộ 7B.
Trận Ban Mê
thuột mở màn cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Việt Nam. BV có yếu tố bất
ngờ, bảo mật. Ban Mê Thuột không thuận lợi cho việc phòng thủ. Từ tháng 2-1975,
Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã báo cáo tin tức cho thấy BV chuẩn bị đánh Ban Mê
thuột do tù binh, hồi chánh viên khai báo kế hoạch của địch. Các cuộc hành quân
Phượng Hoàng của Cảnh sát, nghĩa quân, những người khai thác lâm sản… đã báo
cáo cho chính quyền Ban Mê Thuột biết tin tức về địch xuất hiện gần thị xã.
Khi Tồng
thống Thiệu đến ăn Tết với Trung đoàn 44, Trung tá Trưởng phòng 2 Sư đoàn 23 đã
trình lên Tổng thống, ông bèn lệnh cho Tướng Phú điều Sư đoàn 23 trở lại Ban Mê
Thuột nhưng Tướng Phú tin Cộng quân sẽ đánh Pleiku, chúng giả vờ nghi binh tại
Ban Mê Thuột. Nguyễn cao Kỳ sau này cho biết chúng ta không bị bất ngờ khi CS
tấn công Ban mê Thuột, rằng ông Cao Văn Viên đã được thông báo cho biết kế
hoạch đánh Ban Mê Thuột, theo ông Kỳ Tướng Viên đã bàn với Tướng Thiệu, Phú về
kế hoạch phòng thủ Ban Mê thuột. Tướng Phú cứ nhất quyết ông nắm vững tình
hình, địch sẽ đánh Pleiku, sự thực ông đã mắc kế nghi binh của địch, không ai
cản được ông ấy. Bộ TTM của QÐVNCH đã cảnh báo Tướng Phú coi chừng BV đánh Ban
Mê Thuột nhưng ông vẫn khăng khăng địch sẽ đánh Pleiku, ông nói mình đã nắm
vững tình hình.
Văn Tiến
Dũng đã ghi lại kế hoạch nghi binh của y như sau:
"Ðịch
vẫn chú ý phòng thủ Bắc Tây nguyên nhiều hơn. Ta lại tăng cường hoạt động nghi
binh: huy động nhân dân vùng giải phóng ở Công tum và Plây cu rầm rậïp kéo đi
làm đường, chữa đường….
Ngày 1 tháng
3, sưđoàn 968 diệt hai đồn trên đường số 19… Ðịch lại càng khẳng định ta chuẩn
bị địa bàn đểđánh Plây cu. Chúng vội điều trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn lên Thanh
An ngày 3 tháng 3. Thấy địch đã 'mắc câu', tôi nhắc đồng chí Hoàng Minh Thảo
chỉ thị cho sưđoàn 968 đánh mạnh hơn nữa, tăng thêm đạn lớn cho sưđoàn bắn vào
sân bay Cù Hanh và dặn đồng chí Thanh Sơn, sưđoàn trưởng, là phải thực hiện
'đánh một la mười'.
....Phạm văn
Phú càng cố sống cố chết tăng cường phòng thủ bắc Tây nguyên, chủ yếu là Plây
cu. Hắn tung các liên đoàn Biệt động quân 4 và 6 thọc ra phía Tây Bắc Công tum
và Tây bắc Plây cu để tìm sưđoàn 10 và sưđoàn 320…
Như thế ta
thấy rõ Tướng Phú đã mắc lừa kế nghi binh của CS, theo Tướng Hoàng Lạc trước
ngày Văn Tiến Dũng lên đường vào Nam, Võ Nguyên Giáp đã dặn Dũng phải nghi binh
tối đa để đánh hoả mù. Yếu tố bất ngờ của Ban Mê Thuột cũng như Tết Mậu Thân ở
chỗ không ai tiên đoán được tầm mức rộng lớn của nó. Bộ Tư lệnh quân đoàn 2
không thể ngờ được Bắc Việt đã tung vào QK-2 đến 6 sư đoàn, điều này cũng chứng
tỏ ta thiếu tin tình báo, đã không đánh giá đúng mức lực lượng địch. Trong một
buổi họp cao cấp quân sự tại dinh Ðộc Lập vào ngày 6-12 năm 1974 dưới sự chủ
toạ của Tổng Thống Thiệu. Buổi hội nghị gồm các Tư lệnh quân khu và các sĩ quan
cao cấp của 4 Vùng, hội nghị quân sự này đã nhận định rằng BV chưa phục hồi sau
các trận đánh trong mùa hè đỏ lửa 1972, rằng B.V chưa thể đánh vào các thành
phố có chăng chỉ đánh các tỉnh lỵ nhỏ.
Yếu tố địa
hình Ban Mê Thuột không có chướng ngại thiên nhiên như Kontum để trì hoãn sự
tiến quân của CSBV, diện tích rộng hơn Kontum Pleiku nhiều. Ban Mê Thuột trên
thực tế không có vòng đai phòng thủ liên tục, quá nhiều đồn điền san sát nhau,
địch có thể lợi dụng ngụy trang. Những cánh rừng già phía Tây Bắc đã được công
binh CS chuẩn bị sẵn.
Tại Ban Mê
Thuột tấn công bằng chiến xa rất khó, Pleiku với những đồi thoai thoải dễ hơn
nhưng BV đã cho công binh dọn đường trước, họ cưa 2 phần 3 các gốc cây lớn, cây
không đổ, máy bay thám thính ở trên cao nhìn xuống không thấy dấu hiệu gì, CS
có tài ngụy trang rất khéo ngay từ thời chiến tranh Việt Pháp 1947-1954 cũng
vậy. Khi mặt trời lặn chiến xa cứ việc ủi sập cây mà tiến vào thị xã dễ dàng.
Hai giờ sáng Cộng quân pháo ầm ầm vào thị xã như vũ bão để che lấp tiếng động
cơ xe chạy, đến 7 giờ xe tăng địch đã vào trong thành phố.
Tướng Phú
mới lên nhậm chức Tư lệnh quân đoàn có vài tháng nên không nắm vững tình hình
cho lắm, không có uy tín với Bộ Tổng tham mưu. Ông nhậm chức Tư lệnh quân khu
ngày 5-11-1974 do Phó Tổng thống Trần văn Hương đề nghị thay thế Tướng Nguyễn
Văn Toàn bị kết án tham nhũng, ông không do Tổng Tham mưu trưởng đề nghị nên
trước khi ra đơn vị, lên trình diện Bộ Tổng Tham mưu đã không được Tướng Cao
Văn Viên tiếp đón. Theo Phạm Huấn, Quân đoàn 2 lủng củng nội bộ, nhiều sĩ quan
cao cấp tại Quân đoàn vô kỷ luật, bất mãn không hợp tác với Tướng Phú, ông mới
nhậm chức chưa đủ thời gian nắm vững tình hình. Ngoài ra 2 tháng trước khi sẩy
ra trận Ban Mê Thuột, theo Nguyễn Ðức Phương quân số Quân đoàn 2 không tới 70%,
thiếu tiểu đội trưởng. Tham mưu trưởng với Bộ tham mưu bất hợp tác, hai Tướng
phó tư lệnh hữu danh vô thực, các đơn vị chỉ phòng ngự mà không có một cuộc
hành quân thăm dò nào để tìm diệt địch.
Nhiều người
qui trách nhiệm cho Tướng Phú đã để mất Ban Mê Thuột, Phạm Huấn cho rằng ông
không đủ khả năng nắm giữ một Quân đoàn. Mặc dù đã có tin tức tình báo cho hay
Việt Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, ngay cả Ðại Tướng Viên và ông Thiệu đã nhắc nhở
Tướng Phú coi chừng Việt Cộng tấn công Ban mê Thuột nhưng ông vẫn nói mình nắm
rất vững tình hình, vẫn một mực tin rằng địch sẽ đánh Pleiku, không ai cản được
ông vì đã bị mắc lừa kế nghi binh của CS.
Dư luận
chung của giới chức cao cấp quân sự và các ký giả, sử gia.. đều cho rằng Tướng
Phú là người không đủ khả năng để chỉ huy một Quân đoàn nên đã để mất Ban Mê
Thuột, ông Cao Văn Viên cho rằng Tướng Nguyễn Văn Toàn có khả năng hơn Tướng
Phạm văn Phú, việc thay đổi chức vụ Tư Lệnh Quân khu 2 là một trong những
nguyên do đưa tới sự thất thủ Ban Mê Thuột.
Tuy vậy
trách nhiệm của Tướng Phú chỉ có một phần thôi, đó là sự sai lầm về chiến thuật.
Tại Quân khu 2 lực lượng địch rấtù mạnh, họ đã đưa vào chiến dịch Tây nguyên
tới 6 Sư đoàn trong khi ta chỉ để 2 Sư đoàn chủ lực và 7 Liên đoàn Biệt động
quân. Dù biết trước Ban Mê Thuột bị tấn công để tăng cường yểm trợ cũng vẫn
thua, VNCH chỉ có thể yểm trợ cho mặt trận một, hai Trung đoàn hoặc một vài
Liên đoàn biệt động quân vì không còn quân trừ bị, cái khó nó bó cái khôn. Dẫu
tăng cường phòng thủ Ban Mê Thuột vẫn không đủ sức chống lại 12 trung đoàn CS
vả lại họ có khả năng đưa thêm nhiều quân vào trận địa.
Nguyễn Ðức
Phương cho rằng qua kinh nghiệm Mùa hè đỏ lửa 1972, mặc dù đã tập trung Sư đoàn
23 BB tại Kontum nhưng việc phòng thủ khó có thể thành công nếu không có yểm
trợ của máy bay chiến lược B-52, như thế tại mặt trận Ban Mê Thuột chỉ có sự
yểm trợ của không quân chiến lược B-52 mới có thể cứu vãn tình thế, nhưng từ
nay yểm trợ của B-52 không bao giờ có được.
Văn Tiến
Dũng nói nếu VNCH biết trước kế hoạch tấn công của BV thì y sẽ có cách đánh
khác, nghĩa là tăng cường thêm nhiều Trung đoàn để chiếm Ban Mê Thuột. Như đã
nói ở trên lực lượng hai bên đã rất chênh lệch CS lại đánh lén, đánh trộm thì
họ phải dành chắc phần thắng trong tay. Theo Nguyễn Ðức Phương sự thất thủ của
Ban Mê Thuột là chuyện đương nhiên dù biết trước để phòng thủ cũng vẫn thua,
nhưng nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để gây tổn thất nặng nề cho BV thì
có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận khác hy vọng không đưa tới tình
trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp đổ tan tành.
Ban Mê Thuột
mất vì tại Quân khu 2 ta không đủ lực lượng chống lại áp lực địch, đó là khuyết
điểm về chiến lược. Ông Thiệu bố trí mạnh hai đầu, có nghĩa là để Quân khu 1 và
Quân khu 3 mạnh, Quân khu 2 ở giữa yếu là nơi địch chủ trương tấn công toàn
diện. , vì thế quân Khu 2 đã không đủ sức chống lại áp lực địch đưa tới sự thất
thủ Ban Mê Thuột nhanh chóng, chỉ trong một ngày trời địch đã làm chủ tình hình
tại một thị xã rộng lớn.
Tuy nhiên sự
sai lầm của ông Thiệu cũng khó mà tránh khỏi, cái khó nó bó cái khôn, hơn nửa
triệu quân Ðồng minh Hoa Kỳ, Ðại Hàn, Úc đã rút đi từ 1972, năm 1975 VNCH phải
một mình gánh vác cả chiến trường bốn Vùng chiến thuật với sự thiếu thốn về
quân số và về tiếp liệu đạn dược, dầu muốn bố trí lực lượng cho hợp lý cũng
không phải là chuyện dễ vì thiếu quân trừ bị, các lực lượng trừ bị hiện đã phải
dàn ra khắp nơi lãnh thổ.
Thiếu tin
tình báo, ông Thiệu đã tỏ ra khinh địch khi cho rằng Bắc Việt không đủ khả năng
tấn công vào các thành phố lớn như năm 1972.
Chúng ta có
thể kết luận Ban Mê Thuột thất thủ vì .
-Trước hết
phải nói do cái khó nó bó cái khôn, lãnh thổ quá rộng thu hút gần hết chủ lực
quân, lực lượng tổng trừ bị không còn.
- Áp lực
CSBV rất mạnh.
- Thiếu tin
tức tình báo, đánh giá sai thực lực đối phương.
- Sự sai lầm
của Tướng Phú khi cho rằng BV tấn công Pleiku trước, ông đã bị mắc lừa kế nghi
binh của BV.
Trận Ban Mê
Thuột đã đưa tới sụp đổ Quân đoàn 2 và những sụp đổ kế tiếp lớn lao hơn thế, đó
là một khúc quành thật bi thảm trong cuộc chiến tranh dài nhất của Thế Kỷ.
Trọng Ðạt
( Trích
trong cuốn Tấn Thảm Kịch Việt Nam 1975, xuất bản 2007 )
Tài Liệu
tham khảo.
Nguyễn Ðức
Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Ðức
Phương: Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Ðại Nam.
Cao Văn
Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003
Phạm Huấn:
Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn:
Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Văn Tiến
Dũng: Ðại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005.
Trần Ðông
Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006.
Dương Ðình
Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp
T.P.H.C.M 2005.
Hoàng Lạc,
Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Lam Quang
Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing.
The Word
Almanac Of The Viet Nam War: John S. Bowman - General Editor, A Bison-book
1958.
Stanley
Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991.
Marilyn B.
Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in
documents, Oxford University Press 2002.
Nguyễn Ðịnh:
Ban Mê Thuột Ngày Ðầu Cuộc Chiến, bút ký, internet.
Trần Việt
Ðại Hưng: Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam 1975, Sài Gòn Nhỏ Dallas
2002.
Thiếu Tướng
Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Ðỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số
7-10-2005.
Người Mỹ Và
Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 (vô danh)
Lewis
Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Ðỗ Cung dịch, Người Việt
Dallas số 26-4-2006.
Trần Gia
Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004
Tú Gàn: Trở
Lại Trận Ban Mê Thuột, Sài Gòn Nhỏ Dallas Tháng 4-2005.
Trung Tướng
Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Ðầu, Sài Gòn nhỏ Dallas 28-4-2006.
NIỆM KHÚC CĂM HỜN (The Exodus Song) Hoàng Thái Vũ par Huong-Hoa
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire