caroline thanh huong

caroline thanh huong
catbui

Libellés

lundi 11 mai 2015

Keith William Nolan viết về Huế, Trận đánh Mậu Thân.



Kính gửi quý anh chị bài viết của

Keith William Nolan – Huế, Trận đánh Mậu Thân

và nghe thêm nếu chưa  đọc thấy




2(Bút ký về trận đánh kéo dài 26 ngày
tết Mậu Thân năm 1968 ở Huế)
Keith William Nolan
hoànglonghải dịch 
Vài lời của người dịch:
            Có hai lý do chính thúc đẩy tôi dịch tác phẩm nầy. Thứ nhất là vì chúng ta biết ít về việc người Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam như thế nào. Tôi là nạn nhân trận đánh Tết Mậu Thân ở Huế, tuy có theo dõi và quan sát tình hình xảy ra tại chỗ và qua báo chí, đài phát thanh, cũng như trong thời gian phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, làm phóng sự phát thanh, phục vụ trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia, tại những vùng quê xa xôi hẻo lánh; tôi cũng không rõ lắm về những người lính Mỹ đã chiến đấu, chịu nguy hiểm, thương vong như thế nào.

Có lẽ điều đó không riêng gì tôi mà thôi. Do đó, tôi dịch cuốn sách nầy để người Việt chúng ta thấy người lính Mỹ đã chiến đấu và hy sinh ra sao, đã giải phóng những vùng ở Huế bị Việt Cộng chiếm đóng và giết chóc đồng bào như thế nào.
            Ngày 9 tháng Giêng âm lịch Tết Mậu Thân, khi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đẩy quân Việt Cộng ra khỏi Bến Ngự, đồng bào khu vực nầy lánh nạn về trường Kiểu Mẫu Huế. Họ vui mừng biết bao nhiêu. Chính tôi cũng như bạn bè gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi, vì vừa thoát khỏi vùng tử địa. Chính gia đình của nhạc sĩ phản chiến Trịnh Công Sơn cũng từ khu nhà cho thuê của Giám Mục Ngô Đình Thục bên cạnh cầu Phú Cam cũng chạy về đây lánh nạn.
Thứ hai là vì gần đây, trong cuộc tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 2004, báo chí và truyền hình Mỹ nhắc lại quá trình hoạt động của ông John Kerry, Thượng Nghị Sĩ. Sau khi tham chiến ở Việt Nam về, ông John Kerry tham gia phong trào phản chiến ở Tiểu Bang Massachusetts, tố cáo rằng lính Mỹ ở Việt Nam đã bắn giết bừa bãi cả trẻ con, đàn bà, hãm hiếp phụ nữ và cướp bóc. Tất cả những gì mà quân đội viễn chinh Pháp (trong đó có người Ma-Rốc, Senegal, v.v…) đã làm trong cuộc chiến tranh Việt Pháp 1945-54, nay ông John Kerry đổ hết lên đầu những chú lính GI của Quân Đội Hoa Kỳ. Đó là một sự vu cáo trắng trợn, bôi đen Quân Đội Mỹ.


            Đọc lời dẫn nhập trong phần sau đây, độc giả sẽ thấy những người lính Mỹ sau khi tham chiến ở Việt Nam, họ phải gánh chịu một tình cảnh hẩm hiu và đáng thương như thế nào. Điều đó, một phần nào đó là do lỗi chính ở ông John Kerry và những người trong phong trào phản chiến của ông ta vậy.
Massachusetts
tháng 9/04
tuệchương
Dẫn nhập
            So với cuộc chiến tranh nổi tiếng như Thế Giới Chiến Tranh thứ Hai mà Mỹ đã tham gia thì ngày nay, trận đánh ở Huế vẫn là một tên tuổi gần gũi. Hơn thế nữa, những người sống sót trở về, thay vì được hoan hô như những anh hùng, và những ai đã ngã xuống phải được tưởng nhớ, thì những điều ấy đã không thành hiện thực. Những người Mỹ từng chiến đấu ở Huế là một phần của một thế hệ kém may mắn, những người chính đất nước họ không thể tách rời chiến tranh ra khỏi chiến binh, và họ là những người bị xa lánh vì đã không từ chối khi trách nhiệm đến với họ. Tuy nhiên, đối với chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến không được dân chúng mong muốn, người dân Mỹ tuồng như quên rằng binh lính của họ đã từng chịu đựng nhiều nỗi gian khổ và thiếu thốn như những người đi trước họ, những người từng được tán dương mạnh mẽ trong Thế giới Chiến tranh thứ Hai.
Cuốn sách nầy (The Battle for Hué) tập trung nói lên những nỗi gian khổ ấy, – một cuộc chiến tàn bạo, kéo dài suốt một tháng, đánh nhau từ nhà nầy qua nhà khác, chính yếu bằng ba đại đội thiếu quân số và thiếu trang bị, thuộc các tiểu đoàn bộ binh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (TQLC/ HK).
Khi các người lính TQLC/ HK đang đánh nhau với kẻ địch ở Huế hồi ấy, tôi mới có ba tuổi. Khi lớn lên thì cuộc chiến đó càng lúc càng mờ nhạt, xa xôi mà người ta coi đó như là những gì xấu xa. Trong niềm im lặng ấy, – pha hợp phức tạp bằng vẻ khiếm nhã của các thầy giáo có trí óc cởi mở của tôi, khi nói về vụ Mỹ Lai, và với những cựu chiến binh nghiện ma túy và thần kinh rối loạn, – đã làm nảy sinh trong tôi sự yêu thích đề tài chiến tranh nầy. Điều làm tôi băn khoăn là nhiều đồng bào tôi chẳng thể chịu đựng được nhiều như thế, hoặc rất ít người quan tâm tới. Điều làm tôi băn khoăn nữa cũng là việc những người bỏ trốn qua Canada hay ở nơi nào đó, để khỏi tham gia chiến tranh Việt Nam, tán dương lòng nhân đạo của họ, trong khi những người không trốn chạy thì phải đối đầu với gian khổ và hiểm nguy một năm trong chiến tranh địa ngục Việt Nam, những người đó bị coi là đã bắn giết đàn bà trẻ em, nghiện hút và non nớt, dễ bịp.
            Tôi bắt đầu tìm kiếm tài liệu cho đề tài tôi ưa thích và tôi tìm được một nguồn tài liệu độc nhứt nhưng thực sự quan trọng: Những người từng có mặt tại trận chiến đó.
Dĩ nhiên cuốn sách nầy được viết bằng cách phỏng vấn những người đó, là một câu chuyện lịch sử nói về thời điểm, chiến thuật, đơn vị, tiếp liệu và những gì đã tạo ra cuộc chiến ở Huế.
            Nhưng những tài liệu hữu ích của các cựu chiến binh nầy, còn có thể nói lên thêm vài điều nữa. Nó mô tả sự hiện hữu hằng ngày của các chiến binh TQLC trong trận chiến dài một tháng đó, những nỗi sợ hãi, chiến thắng, bạn bè mất mát, tình chiến hữu, chán nản và mệt mỏi. Tôi được may mắn nói chuyện với các vị chỉ huy trong trận đánh Huế, lại càng may mắn hơn được nói chuyện với những người lính bộ binh. Cuốn sách nầy hầu hết nói về họ, về trận chiến được nhìn bằng chính mắt họ vậy.
Tôi vẫn thường nhớ ơn một cách sâu xa những cựu chiến binh đã giúp tôi hoàn tất tác phẩm nầy. Tôi cũng từng nói chuyện với những người không ở Huế, và tinh thần những cuộc nói chuyện đó được ghi lại trong sách nầy. Tôi có cơ may chuyện vãn với khoảng 3/4 cựu chiến binh tham dự trận đánh Huế. Một số những người đó, ngày nay là các tướng lãnh, mặc dù rất bận bịu, cũng dành thì giờ xem lại bản thảo của tôi, cũng như rà soát lại tin tức tôi có được. Những người khác, những người lúc ấy còn trẻ, đã giúp tôi công việc nầy, ngay từ khi bắt đầu và kéo dài suốt nhiều năm. Tôi xin cám ơn tất cả mọi người. Tôi xin bày tỏ lòng cám ơn sự giúp đỡ của họ cũng như niềm tin đã đưa tới một kết luận vững chắc.
Các cựu chiến binh đặc biệt giúp đỡ hoàn thành cuốn sách nầy gồm có:
            -Tướng William C. Westmoreland (hồi hưu),
-Tướng Foster C. LaHue (hồi hưu), tướng John J. Tolson (hồi hưu).
            -Đại tá Frank Breth, đại tá James Coolican, đại tá Marcus J. Gravel, đại tá Robert H. Hamilton (hồi hưu), đại tá Myron C. Harrington, đại tá Edward J. LaMontagne (hồi hưu), đại tá Wayne R. Swenson, đại tá Robert H. Thompson (hồi hưu).
            -Trung tá Gordon D. Batcheller, trung tá Terry Charbonneau, trung tá William Harvey, trung tá Ralph J. Salvati (hồi hưu)
            -Thiếu tá James V. DiBernardo (hồi hưu), thiếu tá Harold Pyle (hồi hưu).
            -Đại úy Dale A. Dye, William Dickman,
            -Trung sĩ Frank Thomas, trung sĩ Joseph L. McLaughlin (hồi hưu), trung sĩ Paul Thompson (hồi hưu), trung sĩ Josef Burghardt (hồi hưu), trung sĩ Richard W. Carter, trung sĩ Edward F. Neas, trung sĩ Steve Berntson (hồi hưu).
            -Thiếu úy Richard Lyons (hồi hưu), thiếu úy Patrick Polk (hồi hưu).
            -Hạ sĩ Dan Allbritton (hồi hưu), Peter Braestrup, hạ sĩ Bill Jackson (hồi hưu), hạ sĩ Edward Landry (hồi hưu), hạ sĩ Lewis C. Lawhorn (hồi hưu), hạ sĩ Brian Mayer (hồi hưu), George Schamberger (hồi hưu), và Don Webster.
-Đặc biệt chân thành cám ơn Tướng O.K. Steele (ra trường cùng lớp và cùng năm 1956 với thân phụ tôi, William F. Nolan). Khi là đại tá, làm chỉ huy trưởng một đơn vị Hải Quân đóng tại Washington D.C. Năm 1981, Steele mời tôi đến sống hai tuần với gia đình ông ngay trong doanh trại quân đội. Đó là một cuộc thăm viếng kỳ lạ. Tướng Steele không những kể cho tôi nghe những hồi ức của ông về Huế, chỉ cho tôi thấy hướng thành công do TQLC đạt được, và sắp đặt cho tôi phỏng vấn Bill Harvey và Harold Pyle.
            -Cũng xin bày tỏ lòng cám ơn với Trung Tâm Tư Liệu Lịch Sử Binh Chủng TQLC tại Washington D.C., đã cung cấp cho tôi vô số tin tức cũng như tài liệu liên quan đến TQLC tại Việt Nam. Hai vị trong cơ quan nầy, tướng hồi hưu Edwin H. Simmons và Robert Skidmore đã tận tình giúp đỡ và khuyến khích tôi trong suốt mấy năm tôi tìm kiếm tư liệu ở đây./
Keith W. Nolan
Tháng Tám 1983

ĐƯỜNG NGUYỄN AN NINH – MỘT SỰ TRỞ VỀ

ĐƯỜNG NGUYỄN AN NINH – MỘT SỰ TRỞ VỀTôi gặp Vinh ở Câu Lạc Bộ Doanh Nhân. Dáng người tầm thước, nước da ngăm ngăm rắn rõi, ít ai biết Vinh chỉ mới sống ở Việt nam độ 3 năm nay sau mấy chục năm định cư tại Canada.

SỰ THẬT ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bài 2. Hãi hùng diệt khẩu ở Khởi nghĩa Hòn Khoai – Kỳ cựu cộng sản (Cộng sản NAQ) thì chết và chết cả nhà! Đi lính cho Pháp thì thành cán bộ cấp cao và kể láo!

Bài 2. Hãi hùng diệt khẩu ở Khởi nghĩa Hòn Khoai – Kỳ cựu cộng sản (Cộng sản NAQ) thì chết và chết cả nhà! Đi lính cho Pháp thì thành cán bộ cấp cao và kể láo!A. Bằng chứng và phân tích. Kỳ cựu cộng sản (Cộng sản NAQ) thì chết và chết cả nhà!             1.1 Kỳ cựu cộng sản (Cộng sản NAQ) thì chết             “Ngày 12-7-1941, Pháp đưa 10 đồng chí ra sân vận động Cà Mau để xử bắn. ” (Văn bản 1 – ảnh 1)



































Vài lời của người dịch:
            Có hai lý do chính thúc đẩy tôi dịch tác phẩm nầy. Thứ nhất là vì chúng ta biết ít về việc người Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam như thế nào. Tôi là nạn nhân trận đánh Tết Mậu Thân ở Huế, tuy có theo dõi và quan sát tình hình xảy ra tại chỗ và qua báo chí, đài phát thanh, cũng như trong thời gian phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, làm phóng sự phát thanh, phục vụ trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia, tại những vùng quê xa xôi hẻo lánh; tôi cũng không rõ lắm về những người lính Mỹ đã chiến đấu, chịu nguy hiểm, thương vong như thế nào.

Có lẽ điều đó không riêng gì tôi mà thôi. Do đó, tôi dịch cuốn sách nầy để người Việt chúng ta thấy người lính Mỹ đã chiến đấu và hy sinh ra sao, đã giải phóng những vùng ở Huế bị Việt Cộng chiếm đóng và giết chóc đồng bào như thế nào.
            Ngày 9 tháng Giêng âm lịch Tết Mậu Thân, khi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đẩy quân Việt Cộng ra khỏi Bến Ngự, đồng bào khu vực nầy lánh nạn về trường Kiểu Mẫu Huế. Họ vui mừng biết bao nhiêu. Chính tôi cũng như bạn bè gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi, vì vừa thoát khỏi vùng tử địa. Chính gia đình của nhạc sĩ phản chiến Trịnh Công Sơn cũng từ khu nhà cho thuê của Giám Mục Ngô Đình Thục bên cạnh cầu Phú Cam cũng chạy về đây lánh nạn.
Thứ hai là vì gần đây, trong cuộc tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 2004, báo chí và truyền hình Mỹ nhắc lại quá trình hoạt động của ông John Kerry, Thượng Nghị Sĩ. Sau khi tham chiến ở Việt Nam về, ông John Kerry tham gia phong trào phản chiến ở Tiểu Bang Massachusetts, tố cáo rằng lính Mỹ ở Việt Nam đã bắn giết bừa bãi cả trẻ con, đàn bà, hãm hiếp phụ nữ và cướp bóc. Tất cả những gì mà quân đội viễn chinh Pháp (trong đó có người Ma-Rốc, Senegal, v.v…) đã làm trong cuộc chiến tranh Việt Pháp 1945-54, nay ông John Kerry đổ hết lên đầu những chú lính GI của Quân Đội Hoa Kỳ. Đó là một sự vu cáo trắng trợn, bôi đen Quân Đội Mỹ.

            Đọc lời dẫn nhập trong phần sau đây, độc giả sẽ thấy những người lính Mỹ sau khi tham chiến ở Việt Nam, họ phải gánh chịu một tình cảnh hẩm hiu và đáng thương như thế nào. Điều đó, một phần nào đó là do lỗi chính ở ông John Kerry và những người trong phong trào phản chiến của ông ta vậy.
Massachusetts
tháng 9/04
tuệchương
Dẫn nhập
            So với cuộc chiến tranh nổi tiếng như Thế Giới Chiến Tranh thứ Hai mà Mỹ đã tham gia thì ngày nay, trận đánh ở Huế vẫn là một tên tuổi gần gũi. Hơn thế nữa, những người sống sót trở về, thay vì được hoan hô như những anh hùng, và những ai đã ngã xuống phải được tưởng nhớ, thì những điều ấy đã không thành hiện thực. Những người Mỹ từng chiến đấu ở Huế là một phần của một thế hệ kém may mắn, những người chính đất nước họ không thể tách rời chiến tranh ra khỏi chiến binh, và họ là những người bị xa lánh vì đã không từ chối khi trách nhiệm đến với họ. Tuy nhiên, đối với chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến không được dân chúng mong muốn, người dân Mỹ tuồng như quên rằng binh lính của họ đã từng chịu đựng nhiều nỗi gian khổ và thiếu thốn như những người đi trước họ, những người từng được tán dương mạnh mẽ trong Thế giới Chiến tranh thứ Hai.
Cuốn sách nầy (The Battle for Hué) tập trung nói lên những nỗi gian khổ ấy, – một cuộc chiến tàn bạo, kéo dài suốt một tháng, đánh nhau từ nhà nầy qua nhà khác, chính yếu bằng ba đại đội thiếu quân số và thiếu trang bị, thuộc các tiểu đoàn bộ binh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (TQLC/ HK).
Khi các người lính TQLC/ HK đang đánh nhau với kẻ địch ở Huế hồi ấy, tôi mới có ba tuổi. Khi lớn lên thì cuộc chiến đó càng lúc càng mờ nhạt, xa xôi mà người ta coi đó như là những gì xấu xa. Trong niềm im lặng ấy, – pha hợp phức tạp bằng vẻ khiếm nhã của các thầy giáo có trí óc cởi mở của tôi, khi nói về vụ Mỹ Lai, và với những cựu chiến binh nghiện ma túy và thần kinh rối loạn, – đã làm nảy sinh trong tôi sự yêu thích đề tài chiến tranh nầy. Điều làm tôi băn khoăn là nhiều đồng bào tôi chẳng thể chịu đựng được nhiều như thế, hoặc rất ít người quan tâm tới. Điều làm tôi băn khoăn nữa cũng là việc những người bỏ trốn qua Canada hay ở nơi nào đó, để khỏi tham gia chiến tranh Việt Nam, tán dương lòng nhân đạo của họ, trong khi những người không trốn chạy thì phải đối đầu với gian khổ và hiểm nguy một năm trong chiến tranh địa ngục Việt Nam, những người đó bị coi là đã bắn giết đàn bà trẻ em, nghiện hút và non nớt, dễ bịp.
            Tôi bắt đầu tìm kiếm tài liệu cho đề tài tôi ưa thích và tôi tìm được một nguồn tài liệu độc nhứt nhưng thực sự quan trọng: Những người từng có mặt tại trận chiến đó.
Dĩ nhiên cuốn sách nầy được viết bằng cách phỏng vấn những người đó, là một câu chuyện lịch sử nói về thời điểm, chiến thuật, đơn vị, tiếp liệu và những gì đã tạo ra cuộc chiến ở Huế.
            Nhưng những tài liệu hữu ích của các cựu chiến binh nầy, còn có thể nói lên thêm vài điều nữa. Nó mô tả sự hiện hữu hằng ngày của các chiến binh TQLC trong trận chiến dài một tháng đó, những nỗi sợ hãi, chiến thắng, bạn bè mất mát, tình chiến hữu, chán nản và mệt mỏi. Tôi được may mắn nói chuyện với các vị chỉ huy trong trận đánh Huế, lại càng may mắn hơn được nói chuyện với những người lính bộ binh. Cuốn sách nầy hầu hết nói về họ, về trận chiến được nhìn bằng chính mắt họ vậy.
Tôi vẫn thường nhớ ơn một cách sâu xa những cựu chiến binh đã giúp tôi hoàn tất tác phẩm nầy. Tôi cũng từng nói chuyện với những người không ở Huế, và tinh thần những cuộc nói chuyện đó được ghi lại trong sách nầy. Tôi có cơ may chuyện vãn với khoảng 3/4 cựu chiến binh tham dự trận đánh Huế. Một số những người đó, ngày nay là các tướng lãnh, mặc dù rất bận bịu, cũng dành thì giờ xem lại bản thảo của tôi, cũng như rà soát lại tin tức tôi có được. Những người khác, những người lúc ấy còn trẻ, đã giúp tôi công việc nầy, ngay từ khi bắt đầu và kéo dài suốt nhiều năm. Tôi xin cám ơn tất cả mọi người. Tôi xin bày tỏ lòng cám ơn sự giúp đỡ của họ cũng như niềm tin đã đưa tới một kết luận vững chắc.
Các cựu chiến binh đặc biệt giúp đỡ hoàn thành cuốn sách nầy gồm có:
            -Tướng William C. Westmoreland (hồi hưu),
-Tướng Foster C. LaHue (hồi hưu), tướng John J. Tolson (hồi hưu).
            -Đại tá Frank Breth, đại tá James Coolican, đại tá Marcus J. Gravel, đại tá Robert H. Hamilton (hồi hưu), đại tá Myron C. Harrington, đại tá Edward J. LaMontagne (hồi hưu), đại tá Wayne R. Swenson, đại tá Robert H. Thompson (hồi hưu).
            -Trung tá Gordon D. Batcheller, trung tá Terry Charbonneau, trung tá William Harvey, trung tá Ralph J. Salvati (hồi hưu)
            -Thiếu tá James V. DiBernardo (hồi hưu), thiếu tá Harold Pyle (hồi hưu).
            -Đại úy Dale A. Dye, William Dickman,
            -Trung sĩ Frank Thomas, trung sĩ Joseph L. McLaughlin (hồi hưu), trung sĩ Paul Thompson (hồi hưu), trung sĩ Josef Burghardt (hồi hưu), trung sĩ Richard W. Carter, trung sĩ Edward F. Neas, trung sĩ Steve Berntson (hồi hưu).
            -Thiếu úy Richard Lyons (hồi hưu), thiếu úy Patrick Polk (hồi hưu).
            -Hạ sĩ Dan Allbritton (hồi hưu), Peter Braestrup, hạ sĩ Bill Jackson (hồi hưu), hạ sĩ Edward Landry (hồi hưu), hạ sĩ Lewis C. Lawhorn (hồi hưu), hạ sĩ Brian Mayer (hồi hưu), George Schamberger (hồi hưu), và Don Webster.
-Đặc biệt chân thành cám ơn Tướng O.K. Steele (ra trường cùng lớp và cùng năm 1956 với thân phụ tôi, William F. Nolan). Khi là đại tá, làm chỉ huy trưởng một đơn vị Hải Quân đóng tại Washington D.C. Năm 1981, Steele mời tôi đến sống hai tuần với gia đình ông ngay trong doanh trại quân đội. Đó là một cuộc thăm viếng kỳ lạ. Tướng Steele không những kể cho tôi nghe những hồi ức của ông về Huế, chỉ cho tôi thấy hướng thành công do TQLC đạt được, và sắp đặt cho tôi phỏng vấn Bill Harvey và Harold Pyle.
            -Cũng xin bày tỏ lòng cám ơn với Trung Tâm Tư Liệu Lịch Sử Binh Chủng TQLC tại Washington D.C., đã cung cấp cho tôi vô số tin tức cũng như tài liệu liên quan đến TQLC tại Việt Nam. Hai vị trong cơ quan nầy, tướng hồi hưu Edwin H. Simmons và Robert Skidmore đã tận tình giúp đỡ và khuyến khích tôi trong suốt mấy năm tôi tìm kiếm tư liệu ở đây./
Keith W. Nolan
Tháng Tám 1983

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire