Một chút quê mùa, một chút dư hương ngày tháng cũ, một chút gia đình ông bà giờ đã xa, gợi cho người tha phương không khỏi chạnh lòng.
Kính gửi quý anh chị câu chuyện ngắn của chị Diễm Buồn, mà không biết có phải cô gái trong truyện là tác giả hay không...
Cứ đọc thử mà tìm chút mình trong không gian quê nhà êm đềm của một thời bình an, anh chị nhé.
Cám ơn chị Diễm Buồn đã gửi bài viết đến groupe Cát Bụi.
Kèm theo bài viết là những món ăn được sưu tầm trên net, có thể tự làm cho những ngày Tết sắp đến.
Caroline Thanh Hương
CÓ NHỮNG MÙA XUÂN
DTDB
Mặt trời đã ngã về hướng tây, cơn nắng
cuối mùa đông vẫn còn chập chờn trên cỏ cây hoa lá, và ngọn gió lành lạnh làm
giùn mình nổi ốc khi quét lên da thịt. Nhưng cây cối ở vườn sau, ngõ trước đã
nhú mầm để đâm chồi nẩy lộc khi tiết trời chớm vào xuân. Mấy cây xoài năm nay
trổ sớm đã có những trái non bằng đầu ngón chân, bằng đầu ngón tay lẫn lộn với
bông màu vàng nghệ. Những chùm cam sành đã mởn da, sai quằn nhánh, cây bưởi
thanh trà, cây quít đường sau nhà có những chùm, da cũng đã thẳng. Có trái màu
xanh pha phơn phớt vàng. Cây quít ta ở trước cổng vào mới có trái chiếng. Mới
lứa đầu nên quít không được nhiều, nhưng trái nào trái nấy lớn gần bằng cái
chén ăn cơm, vỏ màu vàng nghệ, nõn nà phơi phới nổi bật, lồ lộ trong cành lá
rậm rạp xanh biêng biếc.
-
Bình An đâu rồi cháu? Chiều nay có đi lễ chùa với bà không?
Tiếng của bà nội từ trong nhà vọng ra. Con
Bình An đang mê ngồi đánh búng hột me với mấy đứa nhỏ hàng xóm ở ngoài sân. Nó
vẫn không rời chỗ, mà lớn tiếng trả lời để cho nội nó nghe:
- Dạ
thưa bà có, mà chừng nào mới đi vậy bà?
Bà nội bước ra hàng hiên, gom mấy tàu lá
chuối xiêm phơi nắng dốt dốt để sáng sớm ngày mai bà cùng con dâu gói bánh tét,
bánh ích. Trước là cúng ông bà, sau cho con cháu có ăn trong trong ba ngày Tết.
Một năm chỉ có mấy ngày nên dù nghèo nhưng cũng phải dành dụm gói ghém sao cho
cái Tết được sum sê thì suốt năm mới được dồi dào khá giả chớ. Sau cúng rước
Ông bà là bữa cơm đoàn tụ của gia đình. Trước khi chúng về, bà sẽ cho mỗi đứa
vài đòn bánh đem về nhà để ăn Tết.
Bà nội lên tiếng bảo:
-
Vậy thì nghỉ chơi đi cháu, vào tắm rửa sạch sẽ rồi đi kẻo trời tối.
Con Bình An “dạ”, nhưng vẫn còn ngồi lì chờ
cho hết bàn đánh búng với lũ bạn của nó rồi mới chịu chạy u vô nhà.
Lọt lòng mẹ mới có 3 tháng, Bình An được bà
nội đem về quê ở làng Mỹ Đức Tây thuộc quận Cái Bè (Cái Bè sau chia ra làm hai
quận, làng Mỹ Đức Tây thuộc về quận Giáo Đức) tỉnh Mỹ Tho, chắt chiu nuôi
dưỡng. Bởi cô vừa bị sanh thiếu tháng, mẹ cô lại nghe theo lời ông thầy bói
ngồi dưới gốc cây bả đậu bên Giếng Nước (thành phố Mỹ Tho), trên đường ra bắc
Rạch Miễu để đi về chợ Bến Tre. Ông coi và nói cho bà biết, hai mẹ con cô khắc
tuổi với nhau phải sống xa, đến hết căn hạn mới ở gần được…
Nhờ thế mà Bình An mới được sống ở làng quê
có cây lành trái ngọt, có dòng sông Mỹ Tây êm đềm chảy qua đến ngã Ba Đình thì
nhập vào sông Mỹ Đông cùng các nhánh sông khác chảy vào Cửu Long Giang rồi đi
ra biển Tân Thành. Nhứt là cô được ấp ủ bằng tình thương yêu cưng chiều vô bờ
bến của nội. Và cô được sống an an, bình bình ở vùng quê Nam có nghĩa, có tình
suốt quãng đời của thời thơ ấu.
Cho đến mùa hè năm đó, ba mẹ đem Bình An về
thành thị để sống chung với gia đình. Vì tựu trường cô được vào học lớp 4, mà
trường xã ở quê nội chỉ có từ lớp 1 đến lớp 3 thôi.
Bình An khóc ròng, dẫy dụa không chịu đi vì
phải xa bà. Cô được bà nội dỗ dành cùng với lời hứa hẹn của cha mẹ. Cứ vào
những ngày lễ nghỉ, ngày Tết, hè (không đi học), thì phải đưa cô về quê ở với
bà nội. Mấy anh chị của Bình An thường hay trêu ghẹo, xéo xắc, nhiếc mắng, háy
nguýt bảo cô em gái nhỏ của mình:
-
Mầy thiệt là ngu dại. Ngày Tết ngày lễ ở thành thị vui và sướng hơn
trong làng xã dưới quê nội nhiều chớ. Ở dưới quê Tết có gì vui đâu mà ham về?
Có năn nỉ cho thêm tiền tao cũng không thèm… Tết ở đây bọn tao được ăn ngon, đi
coi chiếu bóng, đi thăm vườn bách thú, được mặc quần áo đẹp, và có lì xì…
Bình An không thèm trả lời anh
chị mình mà trề môi liếc xéo lại họ. Rồi cô nghĩ thầm trong bụng: “Vui cái con khỉ khô á! Không biết gì hết
trọi cũng nhiều chuyện! Chiếu bóng nói tiếng Tây, tiếng u, cao bồi, đâm chém,
hun hít… dù có phụ đề Việt ngữ nhưng cũng dở òm chớ hay ho gì đó. Vậy mà cũng
coi thiệt là uổng tiền! Còn ở vườn thú có mấy con khỉ leo trèo, miệng khọt
khẹt, ị đái tùm lum. Xí, bộ ở thôn quê không có lì xì sao? Nội, cô, chú… họ
hàng có lúa, có nếp, có trái cây bán đều đều nên cho còn nhiều hơn. Mấy người
bà con ở thành thị làm lãnh lương tháng, mọi thứ… cái gì cũng phải mua có tiền
dư đâu mà cho nên kẹo thấy mồ! Ngày thường không phải lễ, Tết ở quê nội, trưa
nắng cùng mấy đứa hàng xóm đi bắt chim, câu cá, bắt ốc… Chiều đi thả
diều, bắt chuồng chuồng. Mưa giông đi lượm xoài rụng, lượm cốc, mận… Ăn rau,
cải, cá thịt tươi. Vào mùa lúa, đêm trăng sáng bà nội, thím Hai nấu chè, nấu
cháo ăn để đạp lúa trâu… Ôi biết bao nhiêu cảnh êm đềm bao nhiêu thứ chỉ ở thôn
quê mới có, chớ thị thành làm sao có được đây?” Cô tự cho mình nghĩ đúng, đắc ý khoái chí cười tủm
tỉm một mình.
Chợ nổi Cái Bè nằm tại vàm Cái Bè
Hè năm đó, Bình An được mẹ dẫn vào ghi tên
học lớp 4 ở trường Nữ Tiểu học Trưng Vương. Trường có 2 tầng, ở trung tâm thành
phố Mỹ Tho. Mặt tiền trường hướng về đường ông bà Nguyễn Trung Long. Sau lưng
cách cái sân cỏ rộng và hàng rào dây kẽm gai là trường Trung học Bán Công Thiên
Hộ Dương. Thời gian nầy ba của Bình An đang làm ở Tòa Hành Chánh tỉnh Định
Tường.
Trong bữa cơm chiều hôm nọ, ba cô vui vẻ
bảo cho cả nhà nghe:
-
Tết năm nay nhà mình có mặt Bình An. Vậy mẹ nó phải mua sắm thêm những
món ăn Bình An ưa thích. Để nhà mình ăn mừng cái Tết cả nhà được đoàn tụ...
Mấy anh
chị vui mừng reo lên. Vì những ngày Tết không phải học bài, sẽ được đi chơi, sẽ
được mặc quần áo mới, sẽ ăn được những món ngon… Cho nên chị nầy đòi may quần
áo đẹp, anh kia bảo mẹ nấu món mình ưa thích. Họ vui vẻ nói cười liếng láu với
nhau
Riêng Bình An không nói gì cả. Quay mặc
nhìn ra ngoài cửa sổ, và cơm vào miệng chan nước mắt! Mẹ ngạc nhiên lính quýnh
hỏi nhanh:
- Tại sao con khóc, chuyện gì mà con khóc vậy?
Cô không
trả lời lại khóc ồ lớn tiếng hơn! Ba lấy làm lạ cũng hỏi vồn:
- Tại sao con khóc? Mấy chị anh ăn hiếp Bình An
của ba hả? Hãy nói để ba đánh đòn chúng nó, nói đi con. Nầy các con, đứa nào ăn
hiếp em?
Các anh
chị mở to mắt ngạc nhiên! Bình An tức tưởi, cô nói nhanh qua màn nước mắt:
- Không ai ăn hiếp hết! Tết con phải về nội! Con phải về
quê nội ăn Tết. Con muốn ăn Tết với bà!
Mấy
anh chị xì xò, háy ngúyt... Đứa trề môi, kẻ méo miệng tỏ ý chọc ghẹo em mình. Ba cô hỏi:
- Con đã ăn Tết ở quê nội bao nhiêu năm rồi.
Năm nay ăn Tết với gia đình mới vui con à. Nhứt là ăn Tết ở thành phố có chợ
bán hoa, bán bánh mứt… Ngày Tết có múa lân, đốt pháo bông, và còn nhiều thứ
khác để vui xuân lắm…
Cô nhìn
ba, phụng phịu cụt ngủn cắt lời:
-
Con muốn về quê ăn Tết. Tết ở thành phố không vui chút nào hết!
Thấy con
vẫn một mực đòi về quê ăn Tết với mẹ mình, và ông cũng biết bà nhớ cháu lắm. Ba
cô có ý nhượng bộ, ông dịu giọng hỏi:
-
Tết ở quê vui ra sao? Con
kể cho ba nghe. Nếu Tết ở thôn quê thiệt vui như lời con nói, thì ba sẽ cho con
về ăn Tết với nội.
Bình An quẹt vội nước mắt còn đọng trên má.
Nhưng nét mặt tươi rói, đôi mắt tròn xoe sáng ngời nhìn cha, cô bảo:
- Ba
có biết không? Mỗi năm từ mùng 8, mùng 9 tháng chạp là con theo chú Út đi lẫy
lá các cây mai ở xa mương nước. Rằm thì lẫy lá các cây sát mé nước. Như vậy nó
sẽ trổ bông một lượt và đúng vào ngày Tết đó ba. Bà nội cho giã gạo, xay nếp
chứa đầy lu, đầy hũ từ cả tháng trước. Con đi theo mấy chú tảo mộ ông bà. Nghĩa
là làm cỏ và quét lá cho sạch sẽ để ông bà dưới mộ mừng Tết đó mà. Sau khi cúng
xong chú cho con hột vịt luộc cúng trong bộ tam sên (gồm có 3 món: thịt ba rọi,
tôm càng, hột vịt luộc chẻ hai). Còn tôm và thịt thì đem về để bà nội trộn gỏi
bắp chuối. Bà còn đặt bác Hai ở xóm trên tráng bánh tráng nhúng nước, bánh tráng
dừa, bánh tráng ngọt. Quết bánh phồng nếp, bánh phồng khoai. Nhổ cải bẹ xanh có
ngồng trổ bong vàng trồng ngoài liếp vô làm dưa. Sáng ngày 23 tháng chạp, bà
nội hối thím Tư nấu chè, nấu xôi… Chú Tư hái trái cây tươi tốt, đợi đến nước
lớn chiều bà cúng đưa ông Táo về Trời. Nhà nhà đều cúng! Mùi hương, trầm,
nhang, hoa quả, thức ăn theo gió phảng phất nồng nàn ấm cúng từ nhà nầy qua nhà
khác, xóm nầy qua xóm khác, làng nọ qua làng kia...
Bình An thấy vui trong lòng, vì anh chị không chọc ghẹo mình nữa. Cô tiếp:
-
Những ngày cận Tết từ đầu làng đến cuối thôn mọi người quét dọn, sơn
phết, trang hoàng nhà cửa từ trong ra ngoài sân sạch sẽ, vẻn vang, mát mắt…
Miễu thờ ông Thổ Thần bên vàm rạch được thay giấy hồng đơn, vẽ chữ mới, cúng
bánh trái, mứt, trà, rượu. Trong nhà cái bếp, hỏa lò, nồi, cột nhà, lu, hũ,
bàn, ghế, giường ngủ, cột nhà vv… Mọi thứ đều được bà nội cho cắt giấy đỏ (giấy
hồng đơn) hình vuông dán lên hết để mọi thứ đều được ăn Tết. Ngoài sân thì các
cây mận, xoài, cam, quít, bưởi, ổi, dừa, cau… Tất cả các loại cây bên ngoài
cũng đều được dán giấy đỏ, để ăn Tết như các đồ vật trong nhà vậy đó ba…
Bình An say sưa kể. Trong khi các anh chị
nhíu mày, chu mỏ chú ý lắng nghe. Ba mẹ cô nhìn nhau gật gù cười chúm chím. Cô
hồn nhiên khua tay, đá chân, mắt ngời sáng thao thao lấy giọng, tiếp:
- Ba
mẹ còn nhớ chú Tám Kẹo không? Chú Tám khéo tay nên bà nội năm nào cũng nhờ chú
chưng dùm hai dĩa lớn trái cây (mâm ngũ quả) có: Cầu, dừa, đủ, xoài, dâu, thơm…
Nhưng không được cúng trong mâm ngủ quá các loại chuối. Ba má có biết tại sao
không? Vì chuối nhũi… năm mới không tốt đâu đó!
Ba cô đang hớp ngụm nước. Không kềm được
trước những lời dí dỏm của con, ông bật cười làm nước văn tùm lum. Ngại làm con
gái mất hứng, má cô đỡ lời:
- Ụa
bộ có vậy sao con?
Bình An
mỉm miệng cười rạng rỡ, gật đầu:
- Dạ, đúng như vậy. Con thấy những nhà lân cận
không ai cúng chuối trong ngày Tết. Bà nội luôn dặn những người trong nhà ngày
tư ngày Tết phải giữ gìn lời nói bởi: “Lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Mặt mày phải vui
vẻ, ăn nói ngọt ngào, có tình có nghĩa để từ đầu năm cho đến cuối năm mới được
an lành, may mắn. Ở thôn quê người ta làm lạp xưởng, gói bì, gói nem, gói bánh
tét, bánh ích chớ không phải đặt mua như ở thị thành. Sáng 30 Tết bà nội kho
thịt, cá, trứng với nước dừa xiêm. Làm chả, trộn gỏi, chiên bánh phồng tôm “Sa
Giang” ngon đáo để. Bà cho nấu rất nhiều món ăn để cúng rước ông Táo. Cúng rước
ông bà về ăn Tết với gia đình, cháu, con…
Bình An dừng lại, mặt đầy vẻ hân hoan:
- Ba à, tối đêm Giao thừa con theo nội đi
hái lộc ở chùa thật là vui. Chùa từ trong ra ngoài rất đông người đến cầu
phước, cầu an mong năm mới toàn gia được: “Tấn
thời, tấn lộc, tấn bình an”. Bên Công Giáo thì giáo dân đến giáo đường ở
nhà thờ. Đúng giờ Giao thừa, tiếng chuông nhà thờ, trống, chiêng, đại hồng
chung, tiếng mõ, chuông… rền vọng khắp chốn. Ôi! không gian trong giờ đón Giao
thừa ở làng thôn thiệt là thiêng liêng, ấm cúng vô cùng đó ba ơi…
Bình An khi thấy anh chị mình chăm chú lắng
tai nghe, phấn khởi trong lòng cô cười mỉm chi:
- Từ mùng một Tết đến mùng bốn Tết. Chu mẻ mẹt ơi, mọi nhà mỗi ngày cúng những món ăn ngon tuyệt trần: *Mùng một Tết cúng chay, nội làm gỏi cuốn chay, chả giò, đậu xào, canh chua, mì căn kho sả ớt, đậu hũ chiên chua ngọt… Tất cả những món chay nội nấu cúng, ăn ngon vô cùng. *Mùng Hai cúng bánh hỏi, thịt heo quay nóng hổi da còn dòn khưu khứu và bánh bò đổ bằng đường cát trắng tinh. Có cả cháo vịt luộc chấm nước mắm gừng nữa. *Mùng Ba cúng gà xé phai trộn gỏi bắp chuối. Chưn gà để nguyên phơi khô ra Giêng nội nhờ ông Ba đoán quẻ ở làng bên coi nhà cửa, làm ăn, cây trái… trong năm có được tươi tốt không. *Mùng Bốn cúng Tất. Các món ăn, cùng bánh kẹo được bày ra cúng ở ngày nầy.
Cô dừng lại uống ngụm nước, liếc mấy anh
chị mỉm cười:
- Ở
thôn quê, những ngày tư ngày Tết con cháu đưa gia đình đi thăm viếng ông bà,
cha mẹ, họ hàng để đền ơn, đáp nghĩa. Họ cùng vui xuân trẩy hội, ở chùa, ở
đình, hoặc ở nhà thờ… Đó là tùy theo tôn giáo của mỗi gia đình. Từng nhóm, từng
nhóm trẻ, già, trai thanh, gái tú, áo quần mới đủ màu đủ sắc: hồng, xanh, đỏ,
tím, vàng… Tóc chải vẻn vang, trâm cài lược giắt. Người nào mặt mày cũng tươi
vui, hớn hở đi rải rác khắp các nẻo đường quê. Gia đình nào đông con nít thì họ
chèo ghe, hay bơi xuồng trên sông, trên rạch… Gặp nhau ai nấy cũng vui vẻ hỏi
chào. Tay bắt mặt mừng, dáng điệu tao nhã, lời lẽ lịch thanh, và không quên
chúc lành chúc phúc cho nhau từ đầu năm đến cuối năm. Còn nhiều, còn nhiều lắm
ba mẹ ơi… Con đã có những mùa xuân đẹp ở quê nội. Nếu ai có thời sống trong
làng xã ở thôn quê mới biết, mới hưởng được cái đậm đà thắm thiết của những
ngày Tết Nguyên Đán. Và chỉ ở thôn quê mới có và thấy được mùa xuân rõ rệt.
* Mùa Xuân năm nay, Bình An không còn bé nữa. Cô đã trở thành thiếu nữ xinh xắn, dễ thương ở lứa tuổi 18 đang học lớp Đệ Nhứt trường Trung học tỉnh. Cô biết tư lự nhìn trăng, biết ngắm sao, biết buồn mà không biết tại sao mình buồn? Có lúc ngồi suy tư một mình, cô thường hay hát nho nhỏ những khúc nhạc lính, hay ngâm nho nhỏ những câu thơ tình…
* Trước ngày Tết Nguyên Đán năm 1968, Bình An về nhận
việc ở thành phố Mỹ Tho. Ôi, đó là mùa xuân tang thương! Khi giặc tràn đến nơi
nào thì nhà cửa đổ nát, tan tành, thê lương! Nhứt là hai bên đường từ ngã ba
Trung Lương chạy dài vào thành phố.
Cô còn nhớ mấy ngày trước Tết, nơi đây là
những ngôi nhà khang trang, những ngôi biệt thự có sân trước vườn sau trồng hoa
thơm, kiểng lạ, cây ăn trái, và những hàng quán bán buôn sầm uất dọc theo hai
bên đường. Nhưng hôm nay mới mùng bốn Tết Mậu Thân, đó là ngày cúng Tất! Trước
mắt cô tiêu điều, hắt hiu, thê lương, ảm đạm! Và ai đi qua chốn đó vẫn còn nghe
khen khét mùi cây cột cháy xém, mùi heo, gà, chó… gia súc bị chết cháy… Và biết
đâu có cả thân thể con người bị cháy trong đống than hồng còn âm ỷ, hay lẫn lộn
trong đống gạch vụn đâu đây! Nhớ đến, cô còn rùng mình sợ hãi tưởng chừng đã bỏ
mạng trong những trận mưa pháo dập vào thành phố tối đêm mùng một rạng ngày
mùng hai Tết! Sau những tràng pháo kích nổ long trời lở đất, rồi tiếng kêu la
cầu cứu của những nạn nhân, hòa với tiếng khóc thảm thiết của thân nhân người
mới chết.
Trong trận thảm sát Tết Mậu Thân, giặc đã
giết biết bao nhiêu vạn người từ Bến Hải đến Cà Mau! Gia đình Bình An đã chịu
nỗi đau sầu về cái tang chung đó. Con bà dì ruột của cô là giáo sư Tân và đứa
con trai 2 tuổi cũng tử vong trong cái Tết thê lương nầy.
* Bình An kết hôn vào mùa xuân năm 1969. Phu quân cô là anh chàng lính chiến miền xa thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh, có biệt danh là Sét Miền Tây. Tiền đồn của chàng trấn giữ mãi tận Cà Mau, miệt rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ. Kể từ đó, cô mới biết, mới thấu hiểu thế nào là nỗi nhớ thương của một chinh phụ lo sợ cho sự an nguy của chồng. Và sự trống trải quạnh hiu của gia đình trong những ngày xuân chồng xa nhà!
* Mùa Xuân năm 1970 bóng chồng vẫn miệt mày chốn sơn
khê. Đến mùa thu năm đó, Bình An
sanh đứa con gái đầu lòng.
* Cuối đông, đầu Xuân năm 1971 Bình An sanh thêm đứa con
trai. Nàng được tin chồng qua những cánh thư từ tiền tuyến đưa về. Lúc thì
chàng ở Tịnh Biên, nay Châu Đốc, mai Vị Thanh, Cờ Đỏ, Tháp Mười, Phước Thành…
Vì Quê hương chinh chiến, mẹ con nàng sống trong phập phồng âu lo cho sự an
nguy của chồng của cha!
* Mùa xuân năm 1972. Rồi vào hè năm đó, phu quân của
Bình An và đồng đội kéo quân về giải tỏa An Lộc. Chàng bị thương, và giải ngũ
vào Tết năm 1974.
* Mùa Xuân năm 1975. Sau ngày 30 tháng 4 miền Nam bị
giặc cưỡng chiếm. Nước Việt Nam hoàn toàn rơi vào tay Cộng sản. Cùng chung số
phận những quân, dân, cán, chánh của Việt Nam Cộng Hòa, chồng của Bình An cũng
bị giặc đày vào tù, mà bọn chúng đã đặt cho một cái tên hoa mỹ hay ho là “Học
tập cải tạo” Sau nầy, có khi cô nghĩ rằng suốt cả cuộc đời còn lại của
chồng, của những người cùng chung số phận bị giặc đọa đày. Khi nào đó vô tình
nghe ai nhắc đến, hay bất chợt nhìn thấy mấy chữ “Học tập cải tạo” là tâm hồn họ sẽ nhức nhối, máu uất hận tràn
dâng(?)
* Mùa xuân năm 1979. Gia đình của Bình An
gồm có chồng và hai con (một gái, một trai) không đón, nhưng mùa xuân vẫn đến
trên trại tỵ nạn Cộng sản Đông Nam Á Galang ở Nam Dương quần đảo. Gió xuân phơi
phới thổi qua vùng hải đảo có những người Việt đi tìm tự do. Trại tỵ nạn có
giáo đường trong nhà thờ vang vang lời cầu nguyện và tiếng thánh ca. Trong
chùa, nơi Phật đường tiếng mõ câu kinh, có lời chân thành cầu nguyện quyện. Hương
trầm nhang hòa theo gió bay cao.
Ở hải đảo không chờ mà xuân vẫn đến. Họ đón
xuân không có hoa cúc, hoa mai, không dưa hấu, bánh tét, bánh ích, dưa cải, dưa
giá, cá kho… Nhưng họ đón xuân bằng cả tấm lòng! Ở trại có mấy chục ngàn người
tỵ nạn, thì có bấy nhiêu nỗi thống khổ của kẻ bỏ nhà, bỏ nước, liều chết vượt
hiểm nguy trên biển cả để bôn đào.
“Phàm con người là thế đó! Có tự do trong tay không biết giữ gìn! Để
khi mất rồi phải chạy đi tìm có khi bị mất cả tánh mạng!”
* Mùa
xuân năm 1980, Chicago là thành phố của tiểu bang Illinois thuộc về miền Trung
Tây nước Mỹ. Và nơi đây nổi tiếng là một trong những vùng về mùa đông lạnh nhứt
nước nầy. Cái Tết đầu tiên gia đình Bình An được tiếp đón bằng một trận bão
tuyết kéo dài cả tuần lễ. Các trường học, chợ búa đều đóng cửa. Chánh phủ chở
đến từng thùng thức ăn, từ đồ hộp, thịt thà, trái cây, rau cải… Để ở các ngã tư
đường kêu gọi dân chúng đến lấy về ăn.
Ngồi nhìn tuyết rơi phai phái ngoài trời
qua khung cửa kiếng. Bình An hồi tưởng về những sự việc đã qua. Nhớ lúc giặc
tràn vào, cô bị mất việc, nhà thiếu ăn, thêm buồn rầu chồng bị cầm giam trong
tù cải tạo. Cộng vào đó bị dồn dập nắng gió, ốm đau, hãi hùng trên đường vượt
biên bôn đào. Nỗi âu lo, sống thiếu thốn lây lất những tháng ngày ở trại tỵ nạn
nơi hải đảo. Nên sau gần 6 năm trời gặp lại bà chị (đi du học trước ngày nước
mất, ra đón ở phi trường) Hai chị em mừng tủi ôm nhau khóc sướt mướt. Câu đầu
tiên của chị hỏi cô em gái Bình An của mình rằng:
- Bộ bên nhà khổ lắm hả? Sao trông mầy teo
nhách và như con gà tử mị vậy? Mầy còn già hơn cả bà Sáu Lé gánh nước mướn
trong xóm trước khi tao rời nước.
Chị của
Bình An thật tình hỏi em! Bởi bà Sáu Lé gánh nước 8, 9 năm về trước đã già cúp
bình thiết, lưng khòm, ốm tanh ốm hôi mà chị em cô thường gọi lén bà là bà Sáu
Teo Héo. Nghe chị hỏi mình như vậy, làm cô nàng tủi thân vừa khóc rấm rứt mà
mắc tức cười. Cô gật gật đầu trả lời chị:
-
Khổ, khổ lắm! Không khổ thì làm sao phải trốn chui trốn nhủi để liều
chết bỏ nước mà ra đi cho đành?
Thân
hình Bình An đã ốm còi, ốm cọc như chị mình nói, mà gặp phải cơn bão tuyết có
gió lạnh trừ 60, trừ 70 độ. Có hôm trời lạnh trừ 20, trừ 30 độ F. Lò sưởi trong
nhà chạy xầm xập 24/24 giờ. Eo ơi, vậy mà vẫn lạnh tái, lạnh tê. Hồi tưởng
những Tết Nguyên Đán nơi quê nhà, lòng cô càng xao xác, nhớ thương.
Thời gian qua thiệt là mau như cơn gió lốc!
Nhớ mùa xuân năm nào Bình An còn là một cô bé tí teo đón xuân bên bà nội. Thuở
dân miền Nam có đời sống ấm no, an cư lạc nghiệp, thanh bình thạnh trị, biển
lặng sông trong dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và các đời Tổng Thống ở
Chánh thể Cộng Hòa… Ngày đầu năm, cô được bà dẫn đi lễ chùa, cùng chúng bạn
trong xóm chạy sau đoàn lân có ông Địa nhảy múa tưng bừng theo tiếng trống,
tiếng chiêng, tiếng chập chả tùng xèng, tùng xèng vui tươi hạnh phúc.
Cộng Sản cai trị cả nước Việt Nam đã mấy
mươi năm rồi. Người Việt lưu vong cũng đã có bấy nhiêu mùa xuân xa xứ! Theo
dòng thời gian và vận nước nổi trôi, cô bé Bình An năm xưa bây giờ đã đổi thay.
Cô đã đổi thay dáng vóc, sắc diện. Cô có nét nhăn trên vầng trán, mắt phải mang
kính mỗi lần đọc sách hoặc nhìn xa. Mái tóc bồng đen xõa quá bờ vai đã đổi màu…
Nhưng tình quê hương vẫn nung nấu, nỗi nhớ thương vẫn se thắt cõi lòng và đã
bám theo cô suốt quãng đường lưu lạc. Những mùa xuân xa xứ lần lượt trôi qua,
vui ít, buồn nhiều. Bình An mơ ước có một ngày quê hương tàn bóng giặc…
Tết năm nầy cô không còn đón xuân ở vùng
trời hắt hiu lạnh giá Chicago nữa. Vì lý do sức khỏe của phu quân, gia đình cô
đã dời về tạm cư ở vùng nắng ấm California. Nhưng Bình An cảm thấy tâm hồn mình
luôn xót xa, nhớ thương thắt thẻo. Vì
“Nắng nơi đây vẫn là nắng ấm. Nhưng không sao bằng nắng ấm quê hương…”
California, cuối Đông
Tệ xá Diễm Diễm
Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
ĐT: (530) 822 5622
Email:
dtdbuon@hotmai.com
Đối với đồng bào miền Tây sông nước, mâm cơm cúng rước ông bà về ăn Tết cùng cháu con là một công việc hệ trọng, là một mỹ tục vô cùng cần thiết. Đó là cung cách bày tỏ sự hiếu đễ của họ đối với những bậc sinh thành đã qua đời. Và đó cũng là cách đo phẩm chất của con người miền cuối đất.
Dĩa thịt kho rệu bắt mắt, gợi thèm – Ảnh: Giang Vũ |
Thịt kho rệu còn có tên gọi thịt kho hột vịt hay thịt kho tàu. Đây là món ăn rất dễ thực hành. Nguyên liệu gồm: thịt ba rọi hay thịt đùi, nước dừa xiêm, hột vịt tươi, đường, muối, ớt sừng trâu, tỏi, nước mắm nhĩ. Lựa những miếng thịt mới xả còn rất tươi, đem về nhà rửa với nước muối cho thật sạch, cắt từng miếng bự cỡ nửa bàn tay xòe, cột lại hình chữ thập bằng chỉ để khi nấu chín miếng thịt không bung, bở. Sau đó ướp thịt với đường, muối, tỏi, ớt sừng trâu đập giập. Hột vịt luộc chín, ngâm trong nước lạnh hoặc nước lạnh có chút nước đá nhằm gỡ vỏ phần lòng trắng hột vịt còn nguyên vẹn, đẹp mắt. Cho nước dừa xiêm vô nồi bự, nấu sôi, thả thịt vào kho trên ngọn lửa lớn khoảng 20 phút thì hạ lửa nhỏ cho sôi liu riu. Một giờ đồng hồ sau, cho hột vịt vào, kho khoảng 3 giờ đồng hồ thì miếng thịt mềm, nước kho thịt chuyển sang màu cánh gián mà không cần dùng nước màu. Nếu muốn kho đúng tên gọi “thịt kho tàu” thì người Hoa dùng xì dầu, cho nên món ăn của họ có màu đen hơi xỉn.
Còn có một bí quyết để món thịt kho rệu “thơm” độc đáo, người ta tiến hành theo cách sau: Thịt ba rọi hay thịt đùi rửa sạch, cắt miếng, cột hay không, tùy. Nấu nồi nước dừa xiêm. Nồi nước sôi, thả tỏi vào. Khi tỏi tỏa mùi thơm lựng thì cho thịt đã ướp gia vịvào, kho một thời gian thì cho hột vịt lột bỏ vỏ vào, nêm nếm vừa ăn, kho trên ngọn lửa liu riu. Món thịt kho nầy ngoài rệu còn có mùi thơm đặc biệt của tỏi, khi kho mùi thơm tỏa đi xa, gợi thèm.
Có thể nói thịt kho rệu là món chủ lực trong mâm cơm cúng rước ông bà về ăn Tết cùng cháu con. Cúng xong, cả nhà quây quần bên nhau chén tạc chén thù, nhưng ai cũng thích gắp từng miếng thịt kho, hột vịt kho để thưởng thức tài nghệ các bà nội trợ trong gia đình. Đũa vừa chạm tới thì miếng thịt đã “rời” ra và nó càng “rệu” khi cho vào miệng. Chỉ nhai nhẹ là mỡ béo, là thịt ngọt tan tràn mặt lưỡi. Cái sự “béo” của miếng thịt, của lòng đỏ miếng hột vịt chưa kịp “ngậy” trong miệng đã tan biến vì vị chua dịu của món dưa chua.
Dưa chua Nam bộ được thực hành bằng hai loại. Một bằng cải “tùa xại”. Một bằng giá sống. Để có dưa cải, người ta dùng cải “tùa xại” rửa sạch, phơi hai ba nắng tốt, đem nhận vào hũ nước vo gạo pha giấm đường, dùng lá chuối hoặc tấm bọc nylon đậy kín, gài chặt. Chỉ hai ba ngày sau là cải chua, có màu vàng đẹp, dùng được. Tuy nhiên, người dân huyện Phong Điền (TP Cần Thơ) có cách muối dưa cải ngon cực kỳ. Mua cải tốt về rửa sạch, phơi ba nắng, rửa sạch lần cuối, ướp muối đường, nhận vô vịm, chế nước muối nấu sôi để nguội. Đường cát thắng vàng, trộn với muối không quá mặn, nấu, để nguội, chế vào cải, dùng lá chuối đậy kín, gài chặt bằng thanh tre. Sáu bảy ngày sau dưa ăn được và có màu vàng nghệ đẹp mắt. Đặc biệt là để có những miếng dưa ngon “tuyệt chiêu” là phải dùng nước sông, không được sử dụng nước cây hoặc nước máy. Khi ăn xắt khúc dưa. Làm cách nầy dưa cải để được lâu, không bị “lầy”, ăn bao giờ còn giòn tanh tách.
Còn món dưa giá có nhiều cách làm. Đơn giản là giá, hẹ xắt khúc rửa sạch cho vào vịm nước pha giấm muối đường chua ngọt mặn theo nhu cầu. Cách làm nầy ăn nhanh nhất, chỉ cần vài tiếng đồng hồ sau là dùng được. Sau khi thành phẩm người ta có thể trộn thêm cà rốt, hẹ, một ít ngó sen, nếu chua quá thì cho thêm một chút đường. Nhưng dưa giá ngon là dưa giá được làm khá công phu. Mua giá mới, trắng, đẹp, rửa sạch, xối nước sôi cho héo. Cứ 1 lít nước pha vào 2 muỗng cà phê đường, ¼ muỗng muối, cho giá vào tô sành hay keo thủy tinh, rồi cho nước muối đường vào ngập giá, lấy lá chuối đậy lại, hôm sau là dùng được. Nếu để hai ngày, dưa giá rất chua, xả lại bằng nước nấu giấm đường, tỏi ớt để nguội cho vào giá sẽ ngon trở lại. Dưa giá sau khi thành phẩm trắng giòn, đạt yêu cầu.
Có thể nói, thịt heo kho rệu là một thứ “fast food”. Sau khi cúng rước ông bà xong, mấy ngày Tết ruổi rong thăm thú, vui chơi, về nhà chỉ cần lấy nồi thịt kho giữ trong ngăn mát tủ lạnh ra, để nguội, nấu sôi là đã có ngay thức ăn.Thịt kho rệu ăn với bánh tét hoặc bánh chưng thì không gì “hòa điệu” bằng. Ngon hết ý.
Ba ngày Tết qua mau, nồi thịt kho rệu vừa mới hết, lại bắt đầu kho tiếp nồi khác để cúng đưa ông bà đi, gọi là “cúng tất”. Đây lại là dịp để cháu con hàn huyên tâm sự bên nhau, thưởng thức vị ngon của món thịt kho rệu, dưa cải, dưa giá lần nữa, trước khi chia tay đường ai nấy đi để bắt đầu lại cuộc sống đang chờ trong năm mới.
Phương Kiều
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire