Tháng 4 năm nay cũng là tháng 4 buồn, vì từ ngày mất nước đến nay, chúng ta, những người lưu vong từ những năm 1975, đều nhớ về lịch sử của những ngày đau thương nhất.
Với kỷ niệm ngày dần xa, nhưng tin tức, bài vỡ ngày càng nhiều, năm nay, kính mời quý anh chị ôn lại lịch sử đấu tranh hào hùng của những tướng tá Việt Nam Cộng Hoà, lòng yêu nước ngập tràn con tim.
Bao chiến binh miền nam Việt Nam đã chống đỡ, đánh trả quân miền Bắc tràn xuống, với vũ khí ngày càng ít dần đi, với viện trợ thưa thớt của người Mỹ khi muốn chấm dứt cuộc chiến mà họ không thể thắng.
Tướng miền Nam không ít người tài giỏi, sẵn sàng hy sinh vì mệnh nước, vì quân mình, không bỏ anh em, không bỏ bạn bè.
Ngày hôm nay, lịch sử đã chứng minh nước Việt Nam còn hay mất, ai cũng đã mắt thấy, tai nghe và đã hiểu tất cả như một cơn ác mộng.
Mời quý anh chị ôn lại dỹ vãng với lời tường thuật chiến trường của ông Văn Nguyên Dưỡng, người bạn thân và đồng đội với tướng Lê Văn Hưng.
Một trận chiến An Lộc đã đòi hỏi bao hy sinh anh dũng của bao chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa năm 1972 để miền Nam còn tồn tại đến năm 1975.
Cám ơn các bài viết của ông Văn Nguyên Dưỡng đã gửi đến groupe cho chúng tôi và mời quý anh chị nào thích nghe đọc truyện thì cũng có thể không cần kính mà nằm nghe lại những thành tích của quân đội VNCH.
Caroline Thanh Hương
Dưới đây là những đường dẫn để nghe đọc truyện
1/
2/
3/
4/
5/
bài
6/
7/
8/
9/
HỒI
KÝ VỀ TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ TRẬN AN LỘC
LESSONS
FROM THE VIETNAM WAR
Lời Bạt: Kính thưa Độc giả các Diễn Đàn,
Trong ngày 30-04-2012, Tòa soạn TCDV nhận được bài viết
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ NHỮNG SỰ THỰC Ở CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC TRONG MÙA HÈ 1972
• Tác giả là một Huynh Trưởng của chúng tôi, Trung Tá Nguyễn Văn Dưỡng (xin xem Tiểu sử bên dưới), qua Mỹ Ông đã trở lại trường và tốt nghiệp Cao học Chính trị học về “Ngoại giao & Giao tế Quốc tế”, Hoa Kỳ.
• TT Dưỡng hay Văn Nguyên Dưỡng là người đã “tử thủ” An Lộc cùng với Chuẩn Tướng ANH HÙNG Lê Văn Hưng.
Bổn báo chủ nhiệm đã mất một người bạn đồng khoá 25SQTĐ tại trận chiến này, cố Đại úy Lê Văn Hiếu, TĐ52BĐQ, đã nằm lại nơi đây, năm ngoái, một người bạn cùng binh chủng, nguyên Đại úy Đoàn Trọng Hiếu đã lo việc “cải tang” cho hơn 60 anh em đồng đội đã hy sinh tại Bình Long An Lộc, trong đó có cố Đại úy Lê văn Hiếu.
Bài viết của HT Dưỡng rất chi tiết và tỉ mỉ, ông đã mô tả các trận tấn công của VC như thế nào và quân dân ta đã giữ vững An Lộc ra sao, xin mời qúy vị theo dõi.
Như thường lệ, vì hai bài viết rất dài nên Tòa Soạn cũng chia ra nhiều kỳ để các DĐ đăng được đầy đủ. Qúy vị nào cần ngay cả bài, liên lạc với TCDV, chúng tôi sẽ gởi đến hầu qúy vị.
Germany, ngày 01-05-2012
- Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
(Kỷ niệm ngày GĐ chúng tôi được chiếc tàu CAP ANAMUR vớt ngoài biển đông hồi 10 giờ 47 phút NGÀY 01-05-1980)
Trong ngày 30-04-2012, Tòa soạn TCDV nhận được bài viết
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ NHỮNG SỰ THỰC Ở CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC TRONG MÙA HÈ 1972
• Tác giả là một Huynh Trưởng của chúng tôi, Trung Tá Nguyễn Văn Dưỡng (xin xem Tiểu sử bên dưới), qua Mỹ Ông đã trở lại trường và tốt nghiệp Cao học Chính trị học về “Ngoại giao & Giao tế Quốc tế”, Hoa Kỳ.
• TT Dưỡng hay Văn Nguyên Dưỡng là người đã “tử thủ” An Lộc cùng với Chuẩn Tướng ANH HÙNG Lê Văn Hưng.
Bổn báo chủ nhiệm đã mất một người bạn đồng khoá 25SQTĐ tại trận chiến này, cố Đại úy Lê Văn Hiếu, TĐ52BĐQ, đã nằm lại nơi đây, năm ngoái, một người bạn cùng binh chủng, nguyên Đại úy Đoàn Trọng Hiếu đã lo việc “cải tang” cho hơn 60 anh em đồng đội đã hy sinh tại Bình Long An Lộc, trong đó có cố Đại úy Lê văn Hiếu.
Bài viết của HT Dưỡng rất chi tiết và tỉ mỉ, ông đã mô tả các trận tấn công của VC như thế nào và quân dân ta đã giữ vững An Lộc ra sao, xin mời qúy vị theo dõi.
Như thường lệ, vì hai bài viết rất dài nên Tòa Soạn cũng chia ra nhiều kỳ để các DĐ đăng được đầy đủ. Qúy vị nào cần ngay cả bài, liên lạc với TCDV, chúng tôi sẽ gởi đến hầu qúy vị.
Germany, ngày 01-05-2012
- Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
(Kỷ niệm ngày GĐ chúng tôi được chiếc tàu CAP ANAMUR vớt ngoài biển đông hồi 10 giờ 47 phút NGÀY 01-05-1980)
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
& VĨNH ĐỊNH NVD BÚT DANH CỦA NGUYỄN VĂN DƯỠNG TRUNG TÁ NGÀNH QUÂN BÁO QLVNCH KHÓA 5 – VÌ DÂN THỦ ĐỨC Tác phẩm*War studies: -The Tragedy of the Vietnam War (McFarland 2008). -Lessons of the VietnamWar (S.A.C.E.I.Forum # 6, 2009). -The Death of Historian Pham van Son (S.A.C.E.I. Forum # 7, 2010).
Thi ca:
VÙNG ĐÊM SƯƠNG MÙ. TUYỂN TẬP THƠ VND. TRƯỜNG CA TRÊN BÃI CHIẾN.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH ĐỊNH NGUYỄN VĂN DƯỠNG
Sinh tháng 1, năm 1934, Thị xã Cà mau,
Tỉnh Bạc liêu, Nam Việt.
Động viên Khóa 5 SQTB tháng 5, năm 1954. Tốt nghiệp Thiếu úy ngày 1 tháng 2, năm 1955
*BINH NGHIỆP
Trung đội trưởng & Đại đội Trưởng, TĐ1/43,
Sư đoàn 15 Khinh Chiến, 1955-1957.
Huấn luyện viên Trường Quân Báo & CTTL/QLVNCH, 1958-1963. Sĩ Quan Tham Mưu, Phòng II/BTTM/QLVNCH, 1964-1966. Chỉ huy phó & Q.Chỉ huy trưởng TTQB, 1966-1968. Trưởng Phòng 2, BTL/SĐ 22BB, 1969-1970. Trưởng Phòng 2, BTL/SĐ5BB, 1971-1974. Tham dự Trận chiến An Lộc mùa Hè 1972. Sĩ quan Tham mưu, Phòng II/BTTM/QLVNCH, 1974-30/4/1975.
*HUẤN LUYỆN QUÂN SỰ
Tốt nghiệp:
• Khóa ANQĐ, Trường Quân Báo QLVNCH, Sài Gòn,
1958.
• Khóa Tình Báo Lãnh thổ, Bộ Tư lệnh Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn
Đông, Singapore, 1961.
• Khóa An ninh & Phản tình báo, 1962.
• Khóa Tình báo Chiến trường (Field Operations Intelligence),1965,
Trường Tình báo Lục quân Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Okinawa.
• Khóa Tình báo Cao cấp, Trường Tình báo Lục quân Hoa Kỳ, Maryland,
1968
*TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN
- Cao học Chính trị học về “Ngoại giao &
Giao tế Quốc tế”, Hoa Kỳ.
*TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ
Sau ngày 30, tháng 4, 1975, bị tập trung cải
tạo -hay đi ở tù CSVN- cùng với hàng trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH, CSQG,
Công chức Cao cấp, các lãnh tụ tôn giáo và các đảng phái chính trị
Quốc Gia, ở các vùng Thượng du, Trung du Bắc Việt và miền Nam. Ra tù
năm 1988. Định cư ở Hoa Kỳ tháng 9, năm 1991.
-Tập thơ “VÙNG ĐÊM SƯƠNG Mù” làm từ năm 1965 và được Nhà XB Mai Lĩnh
xuất bản năm 1966 ở Sài Gòn.
-Tập thơ “TRƯỜNG CA TRÊN BÃI CHIẾN” và nhiều bài thơ ngắn khác làm
trong 13 năm ở các Trại Tù CSVN.
-Sang Hoa Kỳ, sau khi tốt nghiệp Cao học, chuyển Luận án thành sách.
Nhà XB McFarland North Carolina xuất bản tháng 9, năm 2008, tựa đề
“The Tragedy of the Vietnam War”. Cung Trầm Tưởng viết bài góp ý và
giới thiệu, được đăng nhiều lần trên báo chí Việt ngữ. Văn Nguyên
Dưỡng viết cho vài tạp chí văn học ở Hoa Kỳ và Canada.
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG
VÀ NHỮNG SỰ THỰC Ở CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC
TRONG MÙA HÈ 1972
**!**
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
|
KỲ 1
1. QUÂN ĐOÀN III & VÙNG 3 CHIẾN
THUẬT VỚI TƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ VÀ TƯỚNG NGUYỄN VĂN MINH
Trung tướng Nguyễn văn Minh nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III
và Vùng 3 Chiến Thuật (QĐIII & V3CT) sau khi vị tướng lãnh lỗi
lạc nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) Trung tướng Đỗ
Cao Trí, tử nạn trực thăng trên không phận tỉnh lỵ Tây Ninh vào
ngày 23 tháng 2, năm 1971.
Trước đó ở cả bốn Vùng Chiến Thuật, QLVNCH đã mở những cuộc
hành quân sâu vào căn cứ địa của lực lượng Cộng Sản Bắc Việt
(CSBV) dọc theo biên giới Việt-Miên-Lào và truy diệt chúng xa hơn
vào lãnh thổ Miên và Lào. (Về lý do vì sao QLVNCH tổ chức các
cuộc hành quân vượt biên sang Cao Miên và Lào, sẽ trình bày
trong một dịp khác, hoặc xin mời đọc “The Tragedy of The Vietnam
War” của tác giả, ở tiểu mục “A Controversal Escalation of the War
in Indochina”, do McFarland xuất bản tháng 9, 2008, từ trang 135
đến 141).
Lực lượng hành quân QĐIII & V3CT của Tướng Đỗ Cao Trí đạt thành
quả lớn lao nhất. Từ tháng 4, 1970, đã đánh bạt Sư đoàn Công
trường 7 CSBV (SĐ-7/CSBV) và Sư đoàn Công Trường 9 Cộng Sản của
TWC/MN (SĐ-9/CS) ra khỏi các căn cứ địa quan trọng Lưỡi Câu, ở
biên giới tây bắc Bình Long và Mỏ Vẹt ở biên giới tây nam Tây
Ninh, đồng thời phá tan các căn cứ hậu cần lớn, nhỏ, của Trung
Ương Cục Miền Nam (TWC/MN) cơ quan chính trị và quân sự đầu não
của CSBV ở Nam Việt Nam; hạ hơn 11,000 quân CSBV, bắt hơn 2,200 tù
binh và thu hoặc phá hủy hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược, trang
bị và hậu cần của chúng. Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản của
TWC/MN (SĐ-5/CS) lúc đó đã rút sang Cao Miên hoạt động bên ngoài
biên giới Kiến Phong và đang là mục tiêu của QĐIV & V4CT.
Ở mặt trận phía bắc, dọc Liên Quốc lộ 7, các Chiến đoàn QĐIII
& V3CT vượt qua các đồn điền cao su Mimot, Krek và Chup, đến tận
Tonle-Bet đông ngạn Sông Mékong ngang thành phố Kampong-Cham -nơi
trú đóng Bộ Tham Mưu Quân Khu I của Tướng Fan Muong thuộc Quân
lực Quốc gia Cao Miên (Forces Armées Nationales Khmères -FANK). Ở
mặt trận phía nam, trên Liên Quốc lộ 1, các Chiến đoàn khác
của Tướng Trí cũng tiến đến bên ngoài thành phố Sway-Riêng yểm
trợ cho các đơn vị của Đại tá Dap Duon, Tỉnh trưởng của tỉnh
phía đông Cao Miên này, giáp với tỉnh Tây Ninh của Việt Nam.
Suốt trong gần một năm hiện diện trên lãnh thổ Miên, QLVNCH đã
liên lạc với chính quyền quân sự Cao Miên, đưa khoảng trên dưới
vài chục nghìn đồng bào Việt Nam ở đó trở về nước. Chính
Tướng Đỗ Cao Trí đã làm việc này. Nỗi bận tâm của Trung tướng
trong các cuộc Hành quân Toàn Thắng trên lãnh thổ Miên không chỉ
nhằm tiêu diệt lực lượng CSBV và các căn cứ hậu cần quan trọng
của chúng ở biên giới Miên, hay chỉ để yểm trợ cho lực lượng
quân đội non yếu của Tướng Lon Nol (Ông này là Tổng Tham Mưu
Trưởng Quân Đội Miên, vừa làm cuộc đảo chính lật đổ Norodom
Sihanouk trong tháng 3, 1970, khi Sihanouk công du nước ngoài) nhưng
còn để giải thoát hàng chục nghìn Việt kiều bị chính quyền
địa phương của chính phủ Lon Nol nghi ngờ là Việt Cộng, bắt
giam giữ. Trung tuần tháng 4, 1970, tôi được Trung tướng Trí cử
sang làm Sĩ quan Liên lạc ở Tỉnh Sway-Riêng thay thế Đại tá Lê
Đạt Công lúc đó là Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT. Tôi nhận rõ chỉ
thị và hiểu rõ mối quan tâm của Trung tướng Trí về vấn đề
Việt kiều ở Miên. Vì vậy, khi biết nhu cầu cần được yểm trợ
của Đại tá Đap Duon, Tỉnh trưởng Sway-Riêng, và sau khi thoả mãn
được vài điều khá quan trọng, việc đầu tiên của tôi là yêu cầu
Đại tá Đap Duon đưa đến thăm viếng số đồng bào chừng hai nghìn
người bị chính quyền Miên tập trung giam giữ ở Trường Tiểu học
tỉnh lỵ. Trước cổng Trường này, tôi hứa với đại diện Việt
kiều nạn nhân ở đó là sẽ trình nguyện vọng muốn về nước của
đồng bào lên Tướng Trí, Tư lệnh QĐIII & V3CT. Tôi đã làm như đã
hứa.
Trong tháng 5, 1970, khi được Tướng Trí uỷ thác sang Kompong-Cham
làm Sĩ quan Liên lạc ở Bộ Tư lệnh Quân khu I Cao Miên của Tướng
Fan Muong, với một toán trên mười sĩ quan, hạ sĩ quan Phòng 2,
Phòng 3, và Truyền tin của QĐIII & V3CT. Ở Komgpong-Cham, tôi cũng
yều cầu Trung tá Ly Tai Sun, Tư lệnh phó của Fan Muong, nhất
định phải đưa tôi đi xem nơi đồng bào Việt Nam bị họ bắt giam
giữ. Hơn vài nghìn Việt kiều, kể cả đàn bà và trẻ con, chen
chúc dưới các đường giao thông hào khá sâu và rộng --mà người
Pháp gọi là tranchées-- trong khuôn viên chiếc sân rộng lớn của
Bộ Tư lệnh Quân Khu trong thành phố. Việc này chỉ diễn ra vào
buổi sáng sau khi tôi đã yêu cầu Tướng Trí cho Không Quân Việt
Nam (KQVN), đánh giải tỏa Bộ Tư lệnh Quân Khu I, bị Tiểu đoàn
J-16 Đặc công và các đơn vị chính qui của CSVN tấn công và bao
vây từ đêm trước. Khi chỉ vào nhóm Việt kiều bị giam giữ dưới
các giao thông hào đó, Ly Tai Sun nói với tôi bằng tiếng Việt:
-“Nếu hôm nay Ông không gọi được KQVN đánh giải cứu chúng tôi,
thì số người này sẽ bị bắn hết.” Đó là nguyên văn câu nói của
tên Trung tá này. Từ ngày toán Liên lạc của chúng tôi đến
Kompong-Cham, tôi tiếp xúc với Thiếu tá John Fernandez Tham Mưu
trưởng, Ly Tai Sun Tư lệnh phó và Tướng Tư lệnh Fan Muong bằng
tiếng Pháp, vì tôi không biết tiếng Miên, tôi chưa hề nghe các
Sĩ quan Miên này nói một câu tiếng Việt nào. Đột nhiên nghe Ly
Tai Sun bật lên câu nói ghê tởm đó, tôi nói với hắn, “Thì ra Ông
là người Việt Nam, họ Lý. Ông nói vậy có nghĩa là các Ông sẽ
giết hết số Việt kiều này và cả toán Liên lạc của chúng tôi,
đúng không? Hắn cười. Tôi nói tiếp: -“Chắc là Ông chưa lường
được hậu quả lớn lao sau này.” Lý Tài Sun, hay Lý Đại Sơn --tên
thật của Sun-- không nói gì thêm. Tức tốc, tôi vào gặp Tướng
Fan Muong nói việc Ly Tai Sun và tôi gửi mật điện trình mọi
việc với Tướng Trí. Ngay buổi trưa đó, Trung tướng cho trực
thăng, kèm theo quân Nhảy Dù, đón toán Liên lạc chúng tôi về
Biên Hòa. Có lẽ sau đó Tướng Fan Muong điện xin lỗi Trung tướng
Trí. Dĩ nhiên vấn đề chính phải là chuyện giải quyết số phận
của hàng chục ngàn Việt kiều bị chính quyền Miên giam giữ từ
mấy tháng trước đó khi quân CSBV phối hợp với các đơn vị Cộng
sản Miên tấn công các thành phố Miên và tạo vòng đai bao vây
Thủ đô Phnom Penh của Chính quyền Lon Nol. Mấy ngày sau, Thiếu
tá Nguyễn văn Lý của Phòng 2/BTL/ QĐIII & V3CT và một toán Liên
lạc khác được đưa trở lại Kompong-Cham. Không lâu sau đó Đại tá
Trần văn Tư thay thế Thiếu tá Lý.
Trong tháng 5 đó, vấn đề nội bộ ở cấp cao giữa Trung tướng Đỗ
Cao Trí và Tổng thống Nguyễn văn Thiệu hay Chính phủ VNCH, hay
vấn đề ngoại giao giữa Việt Nam và Cao Miên diễn ra thế nào tôi
không được biết, nhưng các cuộc hành quân thủy, bộ, của QĐIII và
QĐIV đã diễn ra, đón đưa nhiều chục nghìn Việt kiều ở Miên về
nước trong các tháng 5, 6 và 7, 1970. Lúc đó tôi tiếp tục phục
vụ ở Phòng 2 QĐIII & V3CT, dưới quyền Đại tá Lê Đạt Công, khi ở
Biên hòa, khi ở Hiếu Thiện, rồi Tây ninh, luân phiên thay thế ông
về tình báo chiển trường cho đến ngày Trung Tướng Đỗ Cao Trí
tử nạn.
Từ ngày Trung tướng Nguyễn văn Minh về thay thế nắm quyền Tư
lệnh, nhất là sau tang lễ trọng thể của cố Đại tướng Đỗ Cao
Trí, tình hình ngoại biên và trong nội địa Quân đoàn III & V3CT
có nhiều thay đổi lớn vì hai lý do:
Thứ nhất, CSBV tăng cường đáng kể lực lượng của họ ở các mặt
trận Lào và Miên với những cuộc phản công dữ dội ở Tchépone
và suốt dọc Đường 9 đến biên giới Khe Sanh, cũng như các cuộc
phản công ở Đường 7, từ các đồn điền cao su Chup, Mimot đến biên
giới Việt-Miên, vùng Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt. Chiến đoàn 8 của Sư
đoàn 5 Bộ binh (SĐ5BB) cũng tổn thất nặng và rút khỏi Thị
trấn Snoul của Miên trong cuối tháng 5, 1971. Địa điểm duy nhất
của Quân đoàn III còn duy trì trên lãnh thổ Miên là căn cứ hỗn
hợp Việt-Mỹ ở Thị trấn Krek, giao điểm giữa đường 7 và đường
22 đổ vào nội địa tỉnh Tây Ninh và cách biên giới chừng 12 km.
Thứ hai, Trung tướng Nguyễn văn Minh tánh người ôn nhu, chuộng
phòng thủ hơn tấn công. Ông không phải là một hổ tướng như Đại
tướng Trí, nhưng là một túc tướng (tôi sẽ trình bày ở phần
sau). Hơn nữa, cục diện chiến trường đã thay đổi sau cuộc Hành
quân Lam sơn 719 ở Hạ Lào. Tướng Minh lâm vào tình trạng bất
cập, khó khăn trong vấn đề chỉ huy. Ông xuất thân Khóa IV Trường
Võ bị Liên quân Đà Lạt, trong khi hai vị tư lệnh Sư đoàn dưới
quyền đều thuộc khóa đàn anh. Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu, Tư
lệnh SĐ5BB và Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, Tư lệnh SĐ18BB, cùng
xuất thân Khóa III. Sau trận rút lui khỏi Snoul của Chiến đoàn
8, SĐ5BB, Tướng Hiếu được trao phó trọng trách khác. Đại tá Lê
văn Hưng, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Cần Thơ, được Tướng
Minh đề nghị thay thế Tướng Hiếu làm Tư lệnh SĐ5BB. Ít lâu sau,
Tướng Lâm Quang Thơ cũng được Đại tá Lê Minh Đảo thay thế.
Tuần lễ đầu tháng 6, 1971, tôi được lệnh thuyết trình tình
hình các đại đơn vị địch trong lãnh thổ và ngoại biên -mà
QĐIII & V3CT phải đương đầu- cho Đại tá Lê văn Hưng, tân Tư lệnh
SĐ5BB. Nội dung bài thuyết trình không khác gì nhiều so với
những gì tôi viết trên đây. Dĩ nhiên là không có phần nói về
các vị Tướng Tư lệnh Trí, Minh, Hiếu và Thơ. Tôi nóí về tình
hình của các đại đơn vị CSBV và TWC/MN đang hoạt động ở biên
giới Việt-Miên sau khi QLVNCH rút ra gần hết khỏi lãnh thổ Miên,
chỉ còn duy trì cứ điểm cuối cùng ở Krek. Tôi trình bày rõ
về qui luật tác chiến, quân số, trang bị, vùng hoạt động của
từng đại đơn vị CSBV & TWC/MN theo trận liệt và tin tức mới
nhất mà chúng tôi có được. Sau cùng là phần ước tính về hoạt
động của các đại đơn vị này và chủ trương của TWC/MN trong thời
gian tới. Tôi cho rằng nên giải tỏa áp lực địch có khuynh hướng
tập trung để dứt điểm căn cứ Krek vì lúc đó chúng tôi ghi nhận
TWC/MN đang hiện diện trong vùng Snoul, và các căn cứ hậu cần
của chúng đang hoạt động trở lại ở vùng biên giới Bình Long
và Tây Ninh. Đây là bài thuyết trình thường lệ ở cấp Vùng
Chiết Thuật (là cấp Quân Khu cũ) về “tình hình địch”. Hình như
Đại tá Hưng nghe rất rõ, không hỏi một câu nào. Ngược lại, khi
bài thuyết trình vừa chấm dứt, Đại tá Hưng quay sang Trung
tướng Minh, và nói: -“Thưa Trung tướng, Dưỡng là bạn cùng Khóa,
cùng Trung đội với tôi.” Sau đó, ông đứng lên và bước thẳng đến
bục thuyết trình bắt tay, ôm lấy tôi. Đó là dấu hiệu thân
thiện đầu tiên khi gặp lại sau hơn 15 năm kể từ khi tốt nghiệp
và rời Quân trường Thủ Đức vào tháng 1, năm 1955. Ngày ra
trường, chúng tôi đều mang cấp bậc Thiếu úy. Ở buổi thuyết
trình này, tôi chỉ là một Thiếu tá, nhân viên của một Phòng 2
Quân đoàn, còn ông là Đại tá, tân Tư lệnh của một Sư đoàn. Địa
vị trong quân đội cách xa nhau nhiều lắm!
2. TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ TÔI
Tổng số Sinh viên Sĩ quan Khóa V, Vì Dân, trên 1,300 người, kể
cả hai Đại đội bộ binh gửi thụ huấn ở Liên trường Võ bị Liên
Quân Đà Lạt. Đại đa số SVSQ được gọi nhâp ngũ và đưa đến Trường
SQTB Thủ Đức trong tháng 5, năm 1954. Ông Hưng và tôi được xếp
vào Trung đội 8 của Thiếu úy Nguyễn Hưng Chiêu, thuộc Đại đội 2
Bộ binh, cùng ở chung phòng hỗn hợp (salle mixe) với Trung đội 7
của Trung úy Lê văn Sỹ. Ở phòng chung này, Trung đội 7 có 12 sinh
viên và Trung đội 8 cũng có một số sinh viên như vậy. Còn phòng
chính của mỗi Trung đội gồm 24 sinh viên nằm kế cận hai bên
phòng mixe này.
Khóa này, tại Thủ Đức có hai Đại đội bộ binh và sáu Đại đội
chuyên ngành như Pháo binh, Trọng pháo, Thiết giáp, Công binh,
Truyền tin, Hành Chánh Quân Nhu v.v. Đại đội I Bộ binh gồm các
Trung đội 1, 2, 3 và 4; Đại đội II Bộ binh gồm các Trung đội 5,
6, 7 và 8. Trung đội 8 của chúng tôi có 36 sinh viên, mà ngày nay
tôi còn nhớ tên trên hơn ba mươi bạn. Trung đội 8, Đại đội II Bộ
binh của Thiếu úy Nguyễn Hưng Chiêu có thể là Trung đội SVSQ tạo
được hai kỳ tích là đã cho ra trường một Thủ khoa và một sĩ
quan sau đó trở thành Tướng lãnh duy nhất cho toàn khóa, danh
tiếng lẫy lừng. Vị tướng lãnh này là Lê văn Hưng, người Quận
Hóc Môn, Tỉnh Gia Định. Ông là một trong 5 vị Tướng tuẫn tiết
ngày 30, tháng 4 đen, năm 1975.
SVSQ Lê văn Hưng lúc đó thỉnh thoảng đôi mắt thoáng nháy nhẹ một
lần như khi đã làm tướng. Thường ngày, lúc nghỉ ngơi trong
phòng, Hưng thường mặc chiếc sa-rong của người Miên, màu đỏ sọc
xanh đen, ở trần không mặc áo, cổ đeo một giây chuyền vàng mang
một nanh heo rừng nhỏ. Hưng rất ít nói, nhưng dễ mến vì lúc
nào gặp ai cũng cười; nụ cười dễ gây thiện cảm và theo tôi
nghĩ, dễ làm xiêu lòng các người đẹp. Nước da ngâm, nhưng cao
lớn và đẹp trai theo lối một người hùng hơn là một thư sinh.
Lúc đó anh đã lập gia đình. Khi gần hết giai đoạn I, nhất là
sau khi đã được mang Alpha --biểu trưng của SVSQ-- cứ mỗi hai
tuần sinh viên được đi phép 24 giờ về thăm gia đình. Như vậy mỗi
Trung đội 36 sinh viên, thì một nửa đi phép, một nửa khác lưu
trại. Tôi thuộc toán được đi phép hay lưu trại chung với anh
Hưng.
Trong đời, đôi khi ta gặp những hoàn cảnh chạnh lòng. Khi bước
chân vào Quân trường Thủ Đức tôi đã mang nỗi buồn riêng, tủi cho
thân phận mình. Không biết nói cùng ai. Lúc đó tôi là một cậu
học trò, độc thân, gia đình nghèo. Tôi nhập trường vào tháng 5,
đến tháng 7, 1954, sau Hiệp định Genève, đất nước chia đôi. Thị
trấn Cà mau nhỏ bé thân thương của tôi biến thành nơi tập trung
của các lực lượng vũ trang bộ đội và du kích Việt Minh trong
nhiều tháng, trước khi họ tập kết ra miền Bắc. Cha và anh tôi
là tiểu công chức phải rời Cà mau lên tỉnh lỵ Bạc liêu làm
việc; gia đình ăn ở tạm bợ, nghèo khó. Với số lương tháng ít
oi của một SVSQ tôi phải gởi bớt về giúp thêm cho cha mẹ, đứa
em gái còn đi học, và người chị quả phụ và hai đứa cháu cô
nhi. Ngày thường, nhất là khi tập ở ngoài bãi, tôi lấy thêm
phần ăn sáng mà các bạn cùng bàn không đến ăn, thường là bánh
mì với mấy thỏi chocolate hoặc fromage đầu bò --ở Nhà Ăn Sinh
viên-- mang theo để ăn trong buổi giải lao, trong khi các bạn sinh
viên khác bao quanh các gánh bán thức ăn hàng rong ở các bãi
tập đó. Buổi chiều, khi ăn cơm xong, tôi thường mang về một
ga-men (gamelle) cơm trắng để đến tối trong khi các bạn đi ăn
uống ở các Câu lạc bộ Sinh viên hay ở những gánh hàng rong đủ
loại thức ăn mà vợ con binh sĩ ở trại gia binh mang đến tận
hành lang ngoài phòng ngủ của sinh viên, tôi lặng lẽ đem phần
cơm đó và một chai xi dầu, ra ngồi ở bậc xi-măng đầu chiếc
cống xây trên lạch nước gần dãy trại của Đại đội chảy ra bãi
tập thể dục quân sự, ăn dưới ánh trăng, hay trong bóng tối bao
quanh. Tôi đã nuốt những hạt cơm nguội lạnh đó trong nhiều đêm
cùng với nỗi tủi thân của mình. Rồi một đêm nào đó, tôi không
nhớ rõ, Thiếu úy Nguyễn Hưng Chiêu, Trung đội trưởng của tôi,
trong buổi trực đêm của ông, bắt gặp tôi đang ngồi ăn cơm đêm
trong bóng tối như vậy. Khi ông rọi đèn pile thấy rõ ga-men cơm
đang ăn dang dở và chai xì-dầu, trong khi tôi đứng thẳng ở tư
thế nghiêm của một sinh viên trước thượng cấp của mình. Ông
không nói gì, để tôi đứng đó và đi vào dãy phòng ngủ của Đại
đội. Tôi âm thầm trở về phòng với nỗi lo sợ lớn lao trong
lòng. Tôi sợ mình đã vi phạm một lỗi lầm quân kỷ nào đó của
Trường. Mấy ngày sau tôi chờ đợi nhận phần phạt. Nhưng không,
ngược lại, tôi nhận được tờ giấy bạc 100 Đồng, một số tiền
khá nhiều lúc đó, xếp giữa hai trang giấy trong tập bài học
của tôi sau khi Thầy khám duyệt và hoàn trả các tập vở đó
lại cho các sinh viên Trung đội. Thầy đã kín đáo cho tôi tiền
như đã hiểu rõ hoàn cảnh của tôi. Đã gần sáu mươi năm rồi, tôi
mang ơn Thầy Chiêu đã đào tạo tôi trở thành một sĩ quan QLVNCH
và về đức độ và lòng nhân hậu của Thầy. Tôi không mong trả
được ơn Thầy trong cuộc đời này vì tôi biết không có gì quí
giá xứng với tấm lòng bao dung rộng lớn của Thầy. Ngược lại,
rõ ràng người đã đền đáp ơn Thầy nhiều nhất là Tướng Lê văn
Hưng vì những chiến công rực rỡ và sự tuẫn tiết cao đẹp của
vị Tướng này, người anh hùng mà Thầy một thời đã tạo dựng
nên.
Lúc đó tôi rất ít xuất trại nghỉ phép. Họa hoằn có đi phép
thì cũng chỉ xuất trại vào sáng ngày Chúa nhật, đi dạo vòng
vòng các khu phố lớn Sài Gòn, xem chớp bóng ở các rạp chiếu
bóng thường trực để đợi đến chiều ra Đường Hai Bà Trưng, sau
Trụ sở Quốc hội, đợi đoàn xe GMC đưa đón SVSQ của Trường rước
về. Những tuần không đi phép tôi mặc quân phục chỉnh tề, cùng
các bạn trong Trung đội người miền Bắc, cũng “mồ côi” như tôi
sau khi Hiệp định Genève-1954 chia đôi đất nước, đi dạo ở khu
chung quanh sân cờ lớn của Trường, nơi có những hàng cây tỏa
bóng mát, dù ít oi, xuống thảm cỏ dưới gốc, mà các SVSQ lưu
trại thường đón tiếp và vui vầy với gia đình hay người yêu đến
thăm viếng trong ngày Chúa nhật.
Cảnh đầm ấm, hạnh phúc và sinh động hực hỡ màu sắc này cũng
diễn ra trong Câu lạc bộ Sinh viên và trong các lều mát hay quán
ăn chung quanh đó. Dĩ nhiên trong số những thân nhân đến thăm
viếng sinh viên hàng tuần không thiếu những bóng hồng tươi đẹp,
xinh xắn, là chị, là em, là bạn, là người yêu, hay vợ của sinh
viên lưu trại. Một trong những người đẹp đó là vợ của anh Hưng.
Nhìn từ xa xa cũng biết chị đẹp. Dáng người cao thon thả nhưng
cân đối khoẻ mạnh như một thiếu nữ phương Tây. Mặt sáng, nước
da trắng. Cách ăn mặc và dáng điệu tạo vẻ thuộc gia đình trung
lưu, khá giả. Mỗi lần thăm anh, chị thường dẫn theo đứa con gái
nhỏ chừng hơn một tuổi. Họ quây quần bên nhau rất hạnh phúc.
Thế nhưng, trong đời người ta không thể ngờ được những bất cập,
tan vỡ, chia ly diễn ra mà hậu quả là ưu phiền và oán hận.
Chín năm sau ngày ra trường, mỗi người đi một nơi, không biết tin
tức gì của nhau, bỗng nhiên vào giữa tháng 1 năm 1964, tôi được
biết tin về anh Lê văn Hưng. Sau ngày đảo chánh 1 tháng 11, 1963,
Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Đại
tá Nguyễn văn Phước Trưởng Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu (P2/BTTM) bị
mấy ông Tướng đảo chính bắt giam giữ ở Cục An ninh Quân đội,
Trung tá Hồ văn Lời, Chỉ huy trưởng Trường Quân báo Cây Mai,
được đưa lên BTTM thay thế. Tôi cũng được thuyên chuyển theo ông
và giữ chức vụ Trưởng ban Hành chánh của P2/BTTM.
Một hôm tôi đọc được trong xấp hồ sơ “Công văn Đến” lệnh thuyên
chuyển của Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng ban hành hoàn trả Trung
úy Lê văn Hưng về ngành Quân Báo và đặt thuộc quyền sử dụng
của P2/BTTM. Trước cuộc đảo chính Trung úy Hưng là Quận trưởng
Trà Ôn ở miền Tây. Có lẽ những năm trước nữa ông Hưng có học
qua một khóa Quân Báo hay giữ chức vụ nào đó cùng ngành với
tôi mà tôi không biết. Sau đó ít lâu, khi hồ sơ cá nhân của Hưng
gửi về P2/BTTM mới được biết là sau khi tốt nghiệp ở Thủ Đức
nhờ đậu cao nên anh được chọn về Quân Khu I –lúc đó bao gồm cả
lãnh địa của Vùng 3 và Vùng 4 Chiến thuật sau này- và thuyên
chuyển về Bộ Chỉ Huy Trung đoàn 15 đóng tại Gia Định. Thiếu tá
Lê Thọ Trung là Trung đoàn trưởng. Sau này, khi ông Hưng đã lên
Tướng và làm Tư lệnh SĐ5BB, ông Trung, chỉ mang cấp bậc Trung
tá, là Tham Mưu trưởng cho ông Hưng.
Không đầy một tuần sau khi P2/BTTM nhận được lệnh thuyên chuyển
của Trung úy Hưng, cũng trong tháng giêng đó, một người đàn bà
đến xin gặp Trung tá Trưởng P2/BTTM. Với tư cách là người phụ
trách về hành chánh và quản trị nhân viên, tôi tiếp bà khách.
Bà tự xưng là người phối ngẫu chính thức và đã ly dị của ông
Hưng. Tôi hình dung được ngay đó là người vợ của SVSQ Hưng của
gần mười năm trước. Tuy bà đã bớt vẻ thon thả, khá người hơn,
mà vẫn còn đẹp ở độ tuổi trung niên. Bà mang theo một lá đơn
xin gửi lương tháng, mà bà nói là do Tòa án phán quyết khi ly
dị, ̣đến thẳng địa chỉ của bà ở Gia Định. Tôi chỉ ghi nhận
sự kiện, nhận đơn, mà chưa giải quyết được vì Trung úy Hưng chưa
trình diện P2/BTTM.
Sau đó không lâu, tôi nhận tiếp một lệnh khác của Nha Nhân viên
Bộ Quốc Phòng thuyên chuyển Trung úy Lê văn Hưng về SĐ21BB. Như
vậy đến năm đó tôi vẫn chưa gặp lại Hưng cho đến đầu tháng 6,
năm 1971. Vì ông Hưng trình diện thẳng SĐ21BB mà không trình diện
P2/BTTM. Cuối năm 1967, vào một buổi chiều, tôi vô tình gặp lại
người vợ đã ly dị đó của ông Hưng trong Dancing Club Victoria ở
Tân Định, gần Bộ Tổng Tham Mưu. Bà là vũ nữ ở đó. Tôi nhận ra
bà nhưng bà không nhớ có lần đã gặp tôi ở P2/BTTM gần bốn năm
trước. Lúc đó tôi mang cấp bậc Thiếu tá và được biết ông Hưng
mang cấp Trung tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 thuộc SĐ21BB
và là một trong năm ngũ kiệt nổi tiếng ở miền Tây. Ít lâu sau
nghe ông Hưng thăng cấp Đại tá và làm Tỉnh trưởng Cần Thơ. Từ
cuối năm 1967, sau buổi khiêu vũ “matinée” ở Victoria, tôi không
gặp bà vợ đã ly dị của ông Hưng lần nào nữa. Đến nay đã gần
nửa thế kỷ.
KỲ 2
Sau buổi thuyết trình đầu tháng
6, năm 1971 đó, Trung tướng Minh mời Đại tá Hưng và tôi ăn cơm
trưa trong chiếc “trailer” đặt ở sân trước Tư dinh Tướng Minh ở
Biên Hòa. Đáng lẽ tôi không hân hạnh được mời tham dự bữa cơm
của hai ông tư lệnh này đâu, nhưng tôi nghĩ Tướng Minh mời tôi là
vì Đại tá Lê văn Hưng nói tôi là bạn đồng môn. Lý do thứ hai
là vì khi ra trường tôi thuyên chuyển về Tiểu đoàn 61 VN đầu năm
1955, làm Trưởng Ban Quân số (Chef Bureau Effectif), đến khoảng
tháng 8 năm 1955, ông Nguyễn văn Minh, lúc đó mang cấp bậc Thiếu
tá được bổ nhậm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 61 VN, kiêm Quận
trưởng Quận Đức Hòa, thuộc tỉnh Chợ Lớn, chỉ định tôi làm Văn
phòng trưởng Tiểu đoàn (Chef Bureau Secretariat), đồng thời là
Chánh văn phòng Quận Đức Hòa cho ông. Sau cuộc bầu cử Quốc hội
Lập hiến và Tổng thống Đệ nhất Cộng Hòa cuối năm 1955, Thiếu
tá Minh được đề cử chức Tỉnh trưởng Sa Đéc, thăng cấp Trung
tá. Tôi xin thuyên chuyển ra Tiểu đoàn 1/43 Sư đoàn 15 Khinh Chiến,
đóng ở Dục Mỹ, Nha Trang.
Trong Đệ Nhị Cộng Hòa ông Minh thăng cấp nhanh chóng, Đại tá Tư
lệnh SĐ21BB, rồi Chuẩn tướng, rồi Thiếu tướng, rồi Trung tướng
làm Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, rồi Tư lệnh QĐIII & V3CT. Ông chưa
quên tôi đã từng giúp việc cho ông từ 15 năm trước. Còn lý do
thứ ba nữa, đến khi ngồi vào bàn cơm tôi mới được biết là Đại
tá Hưng xin Tướng Nguyễn văn Minh cho tôi về giúp ông làm Trưởng
Phòng 2 SĐ5BB. Điều này làm tôi bất ngờ. Tôi xin để được suy
nghĩ lại. Tướng Minh cũng chưa quyết định ngay. Sau buổi cơm Đại
tá Hưng lên Lai Khê, tôi được Tướng Minh cho nghỉ phép một tuần
về Sài Gòn, nói là để ông sẽ sắp xếp lại nhân sự.
Lúc đó, Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT là Đại tá Lê Đạt Công không
được Tướng Nguyễn văn Minh tín nhiệm đã cho thuyên chuyển xuống
SĐ21BB. Phòng 2 tuy còn mấy sĩ quan cấp tá khác nhưng công việc
do tôi quán xuyến mặc dù tôi không giữ một chức vụ nào ở đó.
Tôi nghĩ Trung tá Mạch văn Trường, vừa rời chức vụ Quận trưởng
Thủ Đức về QĐIII & V3CT, đệ tử thân nhất của Tướng Minh, trước
đó là Trưởng Phòng 2 SĐ21BB của Tướng Minh, sẽ được chỉ định
làm Trưởng Phòng 2 Quân đoàn. Nhưng không phải, khi hết phép
trình diện Tướng Minh, tôi được ông cho biết Đại tá Hưng đã gởi
hai công điện chính thức xin tôi về SĐ5BB. Tướng Minh nói với tôi
là nên lên Lai Khê giúp ông Hưng và Trung tá Mạch văn Trường cũng
đã được đưa lên đó giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8.
Trung tá Trần văn Bình, Trưởng Phòng 2 SĐ18BB sẽ được chỉ định
làm Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT. Điều này cũng hợp lý, vì Trung
tá Bình là một sĩ quan Quân báo nhiều kinh nghiệm đã từng là
Trưởng Khối Tình Báo của P2/BTTM.
Tôi rất buồn khi nghe quyết định của Tướng Minh. Không phải tôi
muốn thối thoát trách nhiệm làm trưởng phòng tình báo chiến
trường cấp Sư đoàn mà tôi cho là quan trọng. Nhưng tôi tủi thân
khi phải phục vụ người bạn cùng khóa. Biết đâu việc làm của
tôi không tránh khỏi những sơ suất, chết quân mất đồn, lúc đó
sẽ khó cho ông mà khó cho tôi biết mấy. Thà làm việc cho vị tư
lệnh nào khác, không giữ một chút tình riêng trong lòng, tôi sẽ
an tâm hơn. Thưởng phạt sẽ nhận và chịu một cách vô tư, thảnh
thơi hơn, nếu mình hữu công hay mình bất lực. Nhưng là một quân
nhân, tôi phải chấp hành lệnh của thượng cấp. Tôi điện thoại
cho Đại tá Hưng và xin cho tôi thu xếp và trình diện SĐ5BB ngày
16 tháng 6. Quá trưa ngày đó, khoảng 2 giờ, Đại tá Hưng cho
trực thăng chỉ huy của ông đón tôi ở Biên Hòa lên Lai Khê. Trong
văn phòng Tư lệnh, ông Hưng bắt tay và ôm vai tôi lộ vẻ vui mừng.
Sau đó, tôi nhận nhiệm sở mà không có bàn giao vì người tiền
nhiệm của tôi là Trung tá Nguyễn Công Ninh đã rời Sư đoàn từ
tuần trước. Khi tôi đang họp với các sĩ quan Phòng 2 Bộ Tham mưu
và Biệt đội Quân báo Sư đoàn, thì Chánh văn phòng Tư lệnh, Đại
úy Nguyễn Đức Phương, gọi điện thoại nói là Đại tá Tư lệnh
mời tôi dùng cơm tối tại tư dinh, sau buổi họp 5 giờ chiều hằng
ngày ở Trung tâm Hành quân Sư đoàn.
Trên chiếc trailler được che chắn bằng nhiều bao cát xung quanh,
đặt ở sân sau tư dinh Tư lệnh, song song với dãy nhà văn phòng
của Phòng 2 Sư đoàn, nơi làm việc của tôi từ buổi trưa đó,
cách một lớp rào lưới chống đạn B-40, lần đầu tiên tôi gặp
người phối ngẫu chính thức của Đại tá Lê văn Hưng, chính do ông
giới thiệu, mà sau đó không lâu tôi được biết nhũ danh của bà
là Phạm Kim Hoàng. Tôi nghĩ bà là người xứng với ông Hưng.
Nước da trắng, gương mặt đẹp sáng, dáng người mảnh mai thanh
tú, giọng nói dịu dàng. Bà tỏ ra thân thiện với người đồng
môn của chồng. Ông Hưng cũng không hỏi một câu nào về gia đình
hay bản thân tôi từ ngày ra trường. Ông và tôi bàn về các vấn
đề thời sự ở phạm trù lớn hơn phạm trù QĐIII & V3CT, bình
đẳng, không gò bó như thường khi tôi tiếp xúc với bất cứ một
thượng cấp nào của tôi trước đó. Sau buổi cơm tối ngày tôi
trình diện Sư đoàn, tôi nghĩ rằng tôi có thể yên tâm làm việc
với Đại tá Hưng, không còn mặc cảm. Trái lại, tôi nghĩ là
phải cố gắng, bỏ tâm cơ nhiều hơn trong việc làm để thực sự
giúp người bạn hiểu biết mình và cũng để chứng tỏ mình có
đủ kiến thức và khả năng chuyên môn không làm phụ lòng ông.
Đó không phải là buổi duy nhất ông bà Hưng đãi cơm tôi trên
chiếc trailer ở tư dinh của tư lệnh trong căn cứ Lai Khê, mà rất
nhiều lần trong suốt thời gian tôi phục vụ ở SĐ5BB dưới quyền
chỉ huy của ông Hưng. Mỗi khi ông bà tổ chức các buổi ăn gia
đình có tính kỷ niệm, người bạn duy nhất được mời là tôi.
Thêm nữa, mỗi lần khi mà buổi sáng tôi bị gạch tên trong các
lần đề nghị thăng cấp đặc cách, hay trong danh sách đề nghị
thưởng huy chương Anh dũng Bội tinh, dù ở cấp Sư đoàn mà ông
Hưng, với thẩm quyền tư lệnh, có thể ký ban cho. Trong ngày nào
đó, nếu ông từ chối đề nghị của Trung tá Tham mưu trưởng Lê
Thọ Trung, thì buổi chiều bà Hưng gọi điện thoại mời tôi ăn cơm
tối với ông, bà. Trong buổi cơm, dù tôi tỏ ra bình thường bà
Hưng vẫn nói như an ủi tôi “ảnh luôn như vậy đó, anh đừng buồn”,
trong khi ông Hưng ngồi đó, nghe và cười. Nụ cười vừa an ủi vừa
như bảo với tôi rằng ông không muốn để người khác dị nghị và
Anh dũng Bội tinh không thể cấp cho sĩ quan tham mưu. Người hiểu
rõ các điều trên đây lúc đó là Trung tá Lê Thọ Trung, vị chỉ
huy trưởng cũ của Ông Hưng. Tôi nghĩ rằng Trung tá Trung nhiều
lần cũng được gia đình ông Hưng mời ăn những buổi cơm riêng như
vậy, vì ông Hưng chắc không quên người đã từng là thượng cấp
của ông khi vừa bước ra khỏi cổng Quân trường Thủ Đức. Dĩ nhiên
người hiểu rõ nhất những mối liên lạc thân thiện giữa Tướng
Hưng và tôi là bà Hưng. Những buổi cơm có tính cách gia đình
này không chỉ diễn ra trong thời gian tôi phục vụ ở SĐ5BB mà còn
như hằng ngày ở những tháng sau cùng của chiến cuộc Việt Nam,
tại tư dinh Tướng Hưng ở Cần Thơ.
3. TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ SƯ ĐOÀN 5
BỘ BINH
Chỉ một thời gian làm việc với Đại tá Lê văn Hưng, tôi hiểu rõ
khả năng của ông hơn và thành thực khen ngợi ông là người chí
công vô tư. Về khả năng, tôi có thể nói ông quyết đoán chính
xác và nhanh chóng. Tôi sẽ đề cập đến sau. Trước tiên, xin nói
về bản tính và cách cư xử của ông đối với mọi người. Ông rất
thẳng thắn, cương nghị, nhưng là người mang trong lòng thứ tình
cảm đậm đà –với hai thí dụ điển hình là sự đối xử của ông
với Trung tá Lê Thọ Trung và với tôi.
Nhìn dáng dấp bên ngoài, thuộc cấp có thể nghĩ ông là người
khó đến gần hoặc nghiêm khắc, vì tướng người cao, rắn rỏi,
nghiêm nghị, nhất là ít nói. Kỳ thực ông rất thương yêu binh
sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan cấp úy. Ông chọn rất kỹ hạ sĩ quan
và sĩ quan cấp thiếu úy và trung úy để đặt vào các chức vụ
Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng và Đại đội trưởng. Ở cấp
Tiểu đoàn trưởng, ông thường chọn những Đại úy hay Thiếu tá trẻ
dày dạn trận mạc, can trường, đánh trận hay và nhất là biết
suy nghĩ, lo lắng và thương yêu binh sĩ. Ông thường nói với tôi
rằng các cấp chỉ huy này biết thương yêu, lo lắng cho binh sĩ
thì mình sẽ đỡ lo hơn và an tâm hơn. Vì vậy ông tỏ ra thân mật
với cấp chỉ huy ở cấp tiểu, trung, Đại đội, và các Tiểu đoàn.
Đôi khi ông nhớ rõ tên một hạ sĩ quan Tiểu đội trưởng hay Trung
đội trưởng của một Đại đội hay Tiểu đoàn nào đó mà tôi nghĩ
là ít vị tư lệnh Sư đoàn nào để ý đến. Tuy nhiên ở cấp Trung
đoàn trưởng, Tư lệnh Sư đoàn không quyết định được, thường là
do Tư lệnh Quân đoàn hoặc cấp cao hơn bổ nhậm.
SĐ5BB có 3 Trung đoàn Bộ binh 7, 8, và 9, Thiết đoàn 1 Kỵ binh, 4
Tiểu đoàn Pháo binh gồm Tiểu đoàn 50 đại bác 155 ly, các Tiểu
đoàn 51, 52, và 53 đại bác 105 ly. Ngoài ra còn các Tiểu đoàn
chuyên biệt khác như Công binh, Truyền tin, Tiếp vận và Quân y.
Tổng cộng quân số trên 11,000 người. Trung đoàn 7 Bộ binh do Trung
tá Lý Đức Quân chỉ huy (sau đó thăng Đại tá và tử trận thăng
cố Chuẩn tướng). Ông Quân gốc dân tộc Nùng cũng như đại đa số
sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đều thuộc sắc tộc này từ khi
được thành lập với danh hiệu là Sư đoàn 4 Dã chiến. Sau chuyển
thành SĐ5BB. Dần dà khi QLVNCH phát triển thì số binh sĩ sắc
tộc Nùng gần như hoàn toàn tập trung vào Trung đoàn 7. Trung tá
Quân là một sĩ quan mẫu mực, đạo đức, khả năng và kinh nghiệm
tác chiến cao nên Đại tá Hưng rất hài lòng. Trung đoàn 8 Bộ
binh được Tướng Minh giao cho Trung tá Mạch văn Trường chỉ huy
(Ông Trường xuất thân Khóa 12 Võ bị Đà Lạt. Khi tốt nghiệp, toàn
khóa được đưa sang một Trường Bộ binh Hoa Kỳ để học chỉ huy
cấp Đại đội bộ binh. Nhưng chính bản thân ông chưa hề chỉ huy
một Đại đội bộ binh trong QLVNCH, mà là một sĩ quan Quân Báo.
Làm Trung đoàn trưởng nghĩa là sẽ thăng cấp Đại tá). Biết
Trung tá MVT chưa từng cầm quân nên Tướng Hưng đưa Thiếu tá Huỳnh
văn Tâm là một sĩ quan rất trẻ nhưng đã từng là Tiểu đoàn
trưởng cừ khôi, làm Trung đoàn phó. Trung đoàn trưởng Trung đoàn
9 là Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, lớn tuổi, ốm yếu, mà lần đầu
gặp lại sau nhiều năm, tôi tự nghĩ là ông nên xin về làm việc
ở một nha sở nào ở Trung ương hơn là đi đánh giặc. Tuy nhiên
dưới quyền ông có hai sĩ quan lỗi lạc là Thiếu tá Trần Đăng
Khoa Trung đoàn phó và Thiếu tá Võ Trung Thứ, Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 1/9, xuất thân Thủ khoa Khóa 15 Võ bị Đà Lạt. Thiết
đoàn trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ binh là Trung tá Nguyễn Đức Dương.
Đầu tháng 3, 1972 nhân ngày kỷ niệm thành lập Sư đoàn, Đại tá
Lê văn Hưng thăng Chuẩn tướng nhiệm chức và Trung tá Mạch văn
Trường, với chức vụ Trung đoàn trưởng, cũng thăng Đại tá nhiệm
chức. Người bị Tướng Nguyễn văn Minh bỏ quên, không đề nghị
thăng cấp, là Trung tá Lê Thọ Trung, Tham mưu trưởng Sư đoàn, rất
thâm niên trong cấp bậc.
Đối với các sĩ quan cấp tá thì Tướng Hưng rất nghiêm minh,
nhất là các sĩ quan tham mưu. Đó là lý do tại sao Đại tá Lê
Nguyên Vỹ, Tư lệnh phó Sư đoàn và các sĩ quan cấp tá khác
thường bị ông Hưng “nẹt” khá nhiều lần ngay trong các buổi họp
ở Trung tâm Hành quân. Và một buổi chiều, sau khi ông V. bị nự,
không nhớ lần thứ mấy, hết buổi họp, tôi theo Tướng Hưng vào
văn phòng tư lệnh. Lúc ông đang chưa hết cơn giận, thấy tôi bước
vào, ông ngạc nhiên nhưng không nói gì thì chính tôi nói:
-“Xin... cho tôi được trình bày.” Tướng Hưng chưa kịp nói gì thì
tôi đã tiếp. -“Tôi nghĩ là anh xử sự quá đáng với Đại tá V.
Ông ta cứ bị “nự” hoài, làm sao chịu nổi. Đại tá V., hay chúng
tôi cấp trưởng phòng, đều có trách nhiệm trình bày ý kiến
của mình, dù đúng hay sai.... Bị nự hoài ai dám nói nữa...
nhất là trước mặt thuộc cấp.” Tướng Hưng nổi cáu, lớn tiếng:
-“Không phải việc của mày!” Tôi nói một câu trước khi chào và
bước ra: -“Xin lỗi Thiếu tướng, nếu không phải thì... tôi đi.”
Đó là lần đầu tiên và cuối cùng Tướng Hưng gọi tôi bằng
“mày”, mà tôi nghĩ là xuất phát từ thâm tâm ông coi tôi là một
bạn đồng khóa ngày xưa hơn là một thuộc cấp. Từ đó chữ này
biến mất. Và chắc chắn ông hiểu rõ chữ “Thiếu tướng” mà tôi
dùng trong buổi chiều đó là mang theo sự bất bình của tôi.
Thường nhật trước mặt mọi người tôi gọi ông là Thiếu tướng,
vào những lúc khác chỉ riêng có hai người, hoặc trước mặt vợ
ông, tôi gọi là “anh”, vì ông Hưng lớn hơn tôi. Ông sinh tháng 3,
năm 1933. Tôi sinh tháng 1, năm 1934, mặc dù cùng năm Quí Dậu. Ông
thường gọi tôi bằng tên: “Dưỡng à”, hoặc “này Dưỡng”, không thêm
một chữ nào nữa. Không “toi”, không “cậu”, không “mày”....
Sáng hôm sau, tôi tạt qua văn phòng Tham mưu trưởng, nạp lá đơn
xin thuyên chuyển, trước khi ra sân bay trực thăng chờ tháp tùng
Tướng Hưng đi thăm các đơn vị. Khi bước xuống xe jeep, trước khi
lên trực thăng chỉ huy của mình, Tướng Hưng bắt tay Trung tá
Trịnh Đình Đăng, Trưởng Phòng 3, và tôi. Đến khi bắt tay tôi, ông
Hưng cười, không nói gì. Buổi trưa, trở về Lai Khê, khoảng chừng
2 giờ chiều Trung tá Trung, Tham Mưu Trưởng, gọi tôi lên văn phòng
cho biết là ông đã gặp Tướng Hưng về việc của tôi và lập lại
lời Tướng Hưng nói với ông: “Dưỡng nó làm nư, bỏ lá đơn đi.”
Tôi thực tình không làm nư với ông Hưng, mà định xin thuyên
chuyển thật. Tôi cũng không ngượng ngùng gì khi gặp ông buổi
chiều trước giờ họp. Tuy nhiên mấy ngày sau, Tướng Hưng khi gặp
riêng tôi, nói rằng Đại tá Lê Nguyên Vỹ và ông không hợp tính
với nhau. Chỉ một tuần sau Tướng Nguyễn văn Minh điều Đại tá V.
về làm Phụ tá Hành quân ở Bộ Tư lệnh QĐIII & V3CT. Chức vụ Tư
lệnh phó SĐ5BB không có người thay thế. Có một đại tá khác
thuyên chuyển về Sư đoàn là Đại tá Bùi Đức Điềm, nguyên Tỉnh
trưởng Long Khánh, Tướng Minh không tín nhiệm, bãi chức. Khi về
Sư đoàn Đại tá Điềm cũng chỉ giữ chức Tham mưu trưởng Hành
quân mà không phải là tư lệnh phó hay phụ tá hành quân cho
Tướng Hưng. Ông Điềm là một đại tá kỳ cựu, người có công rất
lớn trong cuộc chiến An Lộc diễn ra một tháng sau đó. Ông ta bị
bỏ quên như một gốc cổ thụ già cằn cỗi trong một xó rừng nào
đó của Bình Long. Mãi đến gần cuối năm 1972 Sư đoàn mới có vị
tư lệnh phó là Đại tá Nguyễn Bá Long, tự Thìn, nguyên Tỉnh
trưởng Kontum, và là người có công rất lớn trong việc giữ vững
thành phố tỉnh lỵ này; ở đó hình như cũng có... bất công
diễn ra liên quan đến vị đại tá này.
Tôi sẽ nói riêng về những sự bất công của cuộc chiến An Lộc
đúng như sự thực, khác hơn nhiều người viết thêm bớt, dù tôi
biết là những gì tôi đề cập đến sẽ làm nhiều người không hài
lòng và sẽ đem đến cho tôi những ̣điều không tốt lành nào đó.
Tôi chấp nhận, khi tôi nói sự thực, và chỉ là sự thực, trước
đây có rất nhiều người biết mà không thể nói. Tôi cũng muốn
quên đi từ hơn mấy chục năm qua. Nhưng không thể quên được. Nhiều
lần tôi tự hỏi phải chăng hào quang của những vị anh hùng trong
QLVNCH đã bị số ít người lãnh đạo bất xứng với những vầng
mây u ám, nhưng quá to lớn của họ, che lấp mất rồi chăng? Tôi
đã đắn đo nhiều lắm. Tôi đã câm nín quá lâu khi không nói nỗi
oan mà Tướng Hưng hay Đại tá Bùi Đức Điềm, hoặc ai đó nữa, bị
trù dập bởi thượng cấp. Đến nay một vài vị còn bị những
người ngoại cuộc, không hiểu tường tận, bôi biếm. Nay nghĩ lại,
nếu tôi biết mà không nói thì ai sẽ nói.... Tôi là chứng nhân,
là người trong cuộc, dù sự hiểu biết của tôi chỉ cho phép tôi
nói lên những gì ít nhất và lễ độ nhất. Hôm nay, tôi viết vì
những người còn sống nhất là hai cháu Hải và Hà, con của
Tướng Hưng, lúc đó mới chỉ là hai đứa trẻ thơ đã mồ côi cha.
Nay đã lớn, các cháu cần biết rõ hơn về cuộc đời nhiều sóng
gió và khổ tâm của người cha anh hùng của các cháu. Tôi cũng
viết gửi về chị Hưng, PKH, hiện cư ngụ ở đâu đó trên đất nước
Hoa Kỳ, là tôi hãnh diện có những thời kỳ sống và chịu nhiều
gian khổ, hiểm nguy, với một vị Thần mà lúc đó chúng tôi không
hề biết. Thần và người chỉ khác nhau ở mực thước làm người.
Những con người tham quyền, cố vị, vinh quang thì muốn hưởng,
khi hiểm nguy thì tránh né, vận nước đảo điên thì trốn chạy,
buông quân, bỏ cờ, dù là tướng, thì cũng chỉ là những con
người tầm thường như mọi người tầm thường khác. Tướng mà coi
mạng sống của bản thân và của gia đình mình quá nặng thì làm
sao có thể thành anh hùng hay thành Thần được. Còn làm Tướng
mang sinh mệnh đền ơn tổ quốc, chết theo thành, thì thiên cổ đã
ghi “Sinh vi Tướng, tử vi Thần.” Lịch sử Việt Nam còn đó, gương
kim cổ mãi mãi sẽ còn được rọi soi. Năm vị tướng lãnh của
miền Nam Việt Nam tuẫn tiết trong ngày cuối “Tháng Tư Đen” sẽ
lưu danh thiên cổ.
4. CHIẾN CUỘC Ở BÌNH LONG MÙA
HÈ NĂM 1972: TIN TỨC VÀ CÁC ƯỚC TÍNH TÌNH BÁO
Sau khi nhận chức Tư lệnh SĐ5BB thay Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu
đầu tháng 6, năm 1971, Tướng Lê văn Hưng củng cố lại các đơn vị
trực thuộc và mở những cuộc hành quân cấp Chiến đoàn (thường
là một Trung đoàn Bộ binh cộng thêm Thiết kỵ và Pháo binh) vào
các mật khu Việt Cộng trong khu vực trách nhiệm của Sư đoàn
gồm các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long như các mật
khu Tam giác Sắt, Long Nguyên, Bến Than cặp theo sông Sài Gòn và
Chiến khu D vùng hữu ngạn Sông Bé, phía nam Đồng Xoài, là
những địa danh nổi tiếng với những trận đánh đẫm máu giữa
liên quân Hoa Kỳ & QLVNCH và quân xâm nhập CSBV & VC giữa thập niên
1960. Bộ Tư lệnh SĐ5BB đóng tại đồn điền cao su Lai Khê, quận
Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Hai Sư đoàn khác của QĐIII & V3CT là SĐ18BB và SĐ25BB. Ngoài ra
Quân đoàn còn một Lữ đoàn Thiết kỵ và một Liên đoàn Biệt
Động quân là lực lượng trừ bị và xung kích trong các cuộc
hành quân ngoại biên trong thời kỳ của Tướng Đỗ Cao Trí, chưa
kể đến các đơn vị Pháo binh, Công binh, Biệt Động quân Biên
phòng và Địa phương quân, một Sư đoàn Không quân và các đơn vị
Hải quân. Riêng các đại đơn vị cấp Sư đoàn bộ binh thì SĐ18BB
phụ trách khu vực hành quân chiến thuât gồm 4 tỉnh Biên Hòa,
Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Thị xã Vũng Tàu. Bộ Tư lệnh
đóng ở Thị trấn Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh. SĐ25BB phụ trách khu
vực hành quân chiến thuật gồm 3 tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, và
Long An. Bộ Tư lệnh đóng ở Củ Chi. Biệt khu Thủ đô –sau đó đổi
danh thành Quân khu Thủ đô gồm Đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn, tỉnh
Gia Định cũng thuộc lãnh thổ và trách nhiệm bảo vệ của
BTL/ĐQIII & V3CT.
Khi Trung tướng Nguyễn văn Minh thay thế Tướng Đỗ Cao Trí --tử
nạn trực thăng tháng 2, 1971-- không hiểu vì lý do gì không sử
dụng nhân tài mà Tướng Trí đã rất tin tưởng như trường hợp
thuyên chuyển Đại tá Lê Đạt Công, Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT về
SĐ21BB, và không sử dụng Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh Lữ
đoàn 3 Thiết kỵ (the 3rd Armored Cavalry Brigade) vừa mới ở Hoa
Kỳ về sau khi học một khóa quân sự cao cấp. Tướng Minh đã giải
thể và phân tán Lữ đoàn Thiết kỵ và Lực lượng Xung Kích của
Quân Đoàn (III Corps Assault Force –IIICAF) trước đó do Tướng Trí
thành lập và Tướng Khôi là tư lệnh. Quan niệm hành quân của
Tướng Minh cũng thay đổi theo cục diện chiến trường. Tướng Minh
lần lượt rút hết các cánh quân ở Miên về phòng thủ vùng lãnh
thổ trách nhiệm. QĐIII & V3CT lâm vào thế bị động. Tuy vậy,
trong ba tháng cuối năm 1971, với sự tăng viện của các đơn vị
cấp Lữ đoàn Dù và Thủy quân Lục chiến, Tướng Minh đã tổ chức
những cuộc hành quân sâu vào lãnh thổ Miên trên trục lộ 7 để
giải tỏa áp lực của các Sư đoàn CSBV đang bao vây và có ý
định dứt điểm cứ điểm hỗn hợp cuối cùng cấp Chiến đoàn
Việt-Mỹ ở Krek trên đất Miên, phía bắc biên giới Tây Ninh, gây
thiệt hại nặng cho các đơn vị địch. Đó là lần cuối cùng
chiến thắng trên đất Miên. Sau đó, đến cuối năm, ông ra lệnh
triệt thoái bỏ luôn căn cứ này rút lực lượng về tăng cường các
căn cứ trên trục lộ 22, phía bắc tỉnh lỵ Tây Ninh và tái phối
trí lại lực lượng Quân đoàn III trong Vùng Chiết Thuật trách
nhiệm.
Khu vực lãnh thổ trách nhiệm hành quân chiến thuật của SĐ5BB
gồm ba tỉnh Bình Dương, Tỉnh trưởng là Đại tá Nguyễn văn Của;
Bình Long, Tỉnh trưởng Đại tá Trần văn Nhật; Phước Long, Tỉnh
trưởng Đại tá Lưu Yểm. Lực lượng của Sư đoàn được tái phối
trí như sau: Chiến đoàn 9, do Đại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy,
gồm Trung đoàn 9 Bộ binh với Tiểu đoàn 1/9, 2/9 và 3/9, Tiểu đoàn
53 Pháo binh gồm 14 khẩu đại bác 105 ly được tăng cường 4 khẩu
155 ly (của Tiểu đoàn 50 Pháo binh), và Thiết đoàn 1 Kỵ binh (-),
phụ trách hành quân ở vùng tây bắc biên giới tỉnh Bình Long từ
căn cứ Alpha ở biên giới Việt-Miên trên Quốc lộ 13, về hướng
đông qua Ngã ba Lộc Tấn, giao điểm của Quốc lộ 13 và Liên tỉnh
lộ 14, đến Quận Bố Đức thuộc Tỉnh Phước Long.
Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9 đóng tại căn cứ chính của Tiểu đoàn 74
Biệt động quân Biên phòng (TĐ74/BĐQ/BP) nằm cuối sân bay Quận Lộc
Ninh, phía tây con đường từ Chợ chạy cặp theo sân bay đến ven
rừng cao su phía tây thị xã. TĐ74/BĐQ/BP lúc đó trấn giữ Căn cứ
Alpha ở biên giới Việt-Miên, với 4 khẩu đại bác 105 ly cơ hữu,
được đặt dưới quyền phối hợp chỉ huy hành quân của Trung tá
Nguyễn Đức Dương, Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ binh
(TĐ1KB). Bộ Chỉ huy Thiết đoàn đóng ở Ngã ba Lộc Tấn, giao
điểm của hai trục lộ 13 và 14, được tăng cường 4 khẩu đại bác
105 ly, với Chi đoàn 3/1 Thiết kỵ và Chi đoàn 1/1 Chiến xa; tính
chung 40 chiến xa, trong đó có 14 M-41, 26 Thiết quân vận đủ
loại, chưa kể các xe kéo pháo, GMC và Jeep. Hai chi đoàn này
hoạt động trên các trục lộ 13 và 14 bắc Lộc Ninh. Toàn bộ Tiểu
đoàn 1/9 đóng ở Quận Bố Đức trên lộ 13, tả ngạn Sông Bé thuộc
Tỉnh Phước Long, giáp ranh với Tỉnh Bình Long. Tiểu đoàn 2/9 (-)
hoạt động trong vùng tây bắc Lộc Tấn, phối hợp và yểm trợ cho
TĐ74/BĐQ/BP và TĐ1KB. Tiểu đoàn 3/9 (-) hoạt động lưu động trong
vùng từ 3 đến 5 cây số tây nam Thị xã Lộc Ninh. Mỗi Tiểu đoàn
để lại một Đại đội bảo vệ Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9, trong khi
Đại đội Trinh sát 9 hoạt động vùng ranh giới Bình Long–Tây Ninh,
phía bắc Căn cứ Tống Lê Chân, do Tiểu đoàn 92 BĐQ/BP trấn đóng
trên Sông Sài Gòn vùng phía bắc Bến Than, tây bắc Quận Chơn
Thành, Tỉnh Bình Long. Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 53 Pháo binh của
Trung tá Hòang ... Thông ̣̣(chữ lót không nhớ) và các vị trí
pháo đóng trong một căn cứ cũng nằm trên con đường chạy cặp
theo sân bay, cách Bộ Chỉ huy Chiến đoàn chừng 400 thước và
cách Bộ Chỉ huy Quận và Chi Khu Lộc Ninh chừng 200 thước. Thiếu
tá Nguyễn văn Thịnh, Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng có hai Đại
đội Địa Phương quân và hai Trung đội Nghĩa quân để lo an ninh cho
Bộ chỉ huy của mình, không kể 4 Đại đội Địa phương quân và các
Trung đội Dân vệ khác trong toàn quận và chừng một Trung đội
cảnh sát của Chi Cảnh sát Quận đóng ở khu vực Chợ Lộc Ninh.
Xa hơn về phía nam Lộc Ninh, khoảng 15 cây số là Sông Cần Lê nối
liền Sông Sài Gòn và Sông Bé, với chiếc cầu Cần Lê béton cốt
sắt vững chãi. Tại đây được phối trí một Đại đội của Tiểu
đoàn 2/9, một Pháo đội hỗn hợp 155 ly và 105 ly, một Đại đội
Công binh Chiến đấu và hai Đại đội Địa Phương quân. Tất cả do
Trung tá Nguyễn văn Hòa chỉ huy. Phía bắc cầu Cần Lê, chừng bốn
cây số, bên trái Quốc lộ 13 là Tỉnh lộ 17, bắt đầu từ Quốc
lộ 13 chạy về hướng tây vào lãnh thổ Tây Ninh. Con đường này
dài chừng 20 cây số. Khoảng hơn hai cây số từ lộ 13 đi về hướng
Tây Ninh là Căn cứ Hùng Tâm gồm hai căn cứ nhỏ cấp Tiếu đoàn
nằm ở hai bên lề bắc và nam của Tỉnh lộ 17. Theo tin tức và
theo yêu cầu của Tướng Hưng. Trung tướng Minh tăng phái cho SĐ5BB
Chiến đoàn 52 của SĐ18BB trong ngày 28 tháng 3, 1972, đóng ở hai
căn cứ Hùng Tâm này. Chiến đoàn này gồm Tiểu đoàn 2 của Trung
đoàn 52, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48 thuộc SĐ18BB, Đại đội
Trinh sát của Sư đoàn với bốn khẩu pháo 105 ly, hai khẩu 155 ly,
và một Đại đội Công binh.
Phía nam Cầu Cần Lê chừng 9 cây số là Thị xã An Lộc, tỉnh lỵ
của Tỉnh và Tiểu khu Bình Long. Đại tá Trần văn Nhật, Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu khu trưởng, là một cấp chỉ huy giàu kinh
nghiệm tác chiến của Thủy quân Lục chiến, từng là Trung đoàn
trưởng các Trung đoàn 43 và 48 của SĐ18BB. Cá nhân ông là một
sĩ quan can trường, nhưng khiêm tốn, tế nhị, rất khéo xử thế
và được sự mến chuộng của thượng cấp và thuộc cấp. Cố vấn
Hoa Kỳ rất khen ngợi ông, có lẽ cũng vì sự khéo léo của ông.
Tại An Lộc, Đại tá Nhật có khoảng hai Tiểu đoàn Địa phương quân
và nhiều Trung đội Nghĩa quân và Dân vệ. Quân số tổng cộng
dưới 2,000 người nhưng chia đóng ở nhiều nơi trong tỉnh. Tại
tỉnh lỵ và vùng xã ấp phụ cận, vùng Đồi Gió và Đồi 169 ở
đông nam tỉnh lỵ, chỉ có chừng 800 người, với vài chiếc thiết
giáp cũ loại V-100 và mấy Pháo đội hỗn hợ̣p đại bác 105 ly
và 155 ly.
Tướng Hưng đặt Bộ Tư lệnh Hành quân nhẹ của SĐ5BB trong thị xã.
Bên ngoài, cách thị xã về hướng tây bắc là căn cứ Charlie, nơi
đóng Bộ chỉ huy Trung đoàn 7 của Sư đoàn. Hai Tiểu đoàn 2/7 và
3/7 với Đại đội Trinh sát 7 hoạt động xung quanh thị xã và khu
vực tây bắc. Hai Đại đội của Tiểu đoàn 1/7 hoạt động hướng đông
bắc và hai Đại đội khác của Tiểu đoàn này đóng ở căn cứ Quản
Lợi, cách thị xã An Lộc chừng 7 cây số về hướng đông bắc. Tại
đây còn có một Đại đội Địa Phương quân và một đơn vị Lôi Hổ
cấp Đại đội. Căn cứ chính của Trung đoàn 7 vẫn còn ở Quận
Phú Giáo, Tỉnh Bình Dương với một số ít binh sĩ bảo vệ. Quận
và Chi Khu Chơn Thành của Tỉnh Bình Long, ở phía nam An Lộc,
chừng 30 cây số có hai Đại đội Địa phương quân bảo vệ. Nam Chơn
Thành chừng 30 cây số là Căn cứ Lai Khê, nơi đặt Bộ Tư lệnh
chính của SĐ5BB, trong địa phận Quận Bến Cát của Tỉnh Bình
Dương, cách tỉnh lỵ Bình Dương chừng 20 cây số.
Trung đoàn khác của SĐ5BB là Trung đoàn 8, với Bộ Chỉ huy Trung
đoàn, một Tiểu đoàn và Đại đội Trinh sát bảo vệ Căn cứ Lai
Khê. Một Tiểu đoàn đang thụ huấn tại Trung tâm Huấn luyện của Sư
đoàn ở Bình Dương và một Tiểu đoàn thứ ba đang hành quân ở
Quận Dầu Tiếng, Tỉnh Bình Dương, nằm ở tả ngạn Sông Sài Gòn.
Từ đầu tháng 2, 1972, trong khu vực trách nhiệm của Chiến đoàn
9, các đơn vị của Chiến đoàn nhiều lần chạm súng với cấp
Tiểu đội hay Trung đội quân CSBV ở vùng biên giới tây bắc, gần
các mật khu của chúng vùng Lưỡi Câu ở vùng biên giới, hoặc
dọc theo hành lang Sông Sài Gòn --ranh giới giữa Bình Long và Tây
Ninh-- và bên ngoài mật khu Bến Than phía tây Chơn Thành, đã hạ
một số cán binh của chúng, phần lớn là thành phần cán binh
trinh sát của hầu hết các Sư đoàn chính qui CSBV & TWC/MN 5, 7,
9. Một số tài liệu tịch thu được trên các xác chết là các
tài liệu học tập về “tấn công hợp đồng bộ binh, pháo binh và
chiến xa vào thành phố”. Chúng tôi cũng phát hiện được một đơn
vị cấp Sư đoàn do Trung Ương Cục Miền Nam –TWC/MN (Bộ Tư lệnh
MACV Hoa Kỳ thường gọi tổ chức này là COSVN, Central Office of
South Vietnam) mới thành lập cho chiến trường Tây Ninh và Bình
Long, đó là Sư đoàn Bình Long hay Sư đoàn C30B gồm Trung đoàn 271
-lấy cán bộ khung của Trung đoàn 271 Sư đoàn 9 chuyển qua- và
các Trung đoàn 24, 205 và 207, hầu hết là cán binh từ Tây nguyên
và miền Trung đưa vào. Từ các tin tức ở các tài liệu này, tôi
trình Tướng Hưng trước tiên nên mở một cuộc hành quân vào Mật
khu Bến Than, vùng phía bắc Liên Tỉnh lộ 13, nối Chơn Thành và
Tây Ninh, cách Quận lỵ Chơn Thành về hướng tây chừng hơn 15 cây
số. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù được tăng phái cho SĐ5BB mở cuộc hành
quân vào Bến Than trong tuần lễ thứ hai tháng 2, 1972. Kết quả
tịch thu và phá hủy hơn 100 tấn g̣ạo và lương thực, tịch thu
hơn 1,000 vũ khí cá nhân và phá hủy nhiều tấn đạn dược của
CSBV mới được chuyển từ các mật khu biên giới Miên vào tồn trữ
ở đó.
KỲ 3
Vào trung tuần tháng hai năm 1972,
trong một cuộc hành quân thám sát ở vùng đồi thấp cách phía
bắc Lộc Ninh chừng 5 cây số và ở hướng tây Quốc lộ 13 chừng
hơn 3 cây số, Đại đội Trinh sát của Chiến đoàn 9 chạm súng với
một Tiểu đội quân Công sản Bắc Việt, bắn hạ 4 tên và bắt một
cán binh mang súng ngắn và hai cán binh khác. Các cán binh này
được đưa về Biệt đội Quân báo Sư đoàn thẩm vấn. Chính tôi, lúc
đó là Trưởng Phòng 2 Sư đoàn cũng trực tiếp tiếp xúc với các
cán binh này. Được biết người cán binh mang súng ngắn là một
sĩ quan của Bộ đội Bắc Việt, đã xâm nhập vào miền Nam trong
hai năm trước, đầu tiên được bổ sung cho Sư đoàn Công trường 7
Bắc Việt, sau cùng được chuyển sang Tiểu đoàn Trinh Sát của Sư
đoàn 69 hay 70 Pháo, trực thuộc TWC/MN.
Người sĩ quan trinh sát pháo binh Cộng sản này, cấp bậc Trung
úy, khai rằng anh tháp tùng tên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh
Sát Sư đoàn 69 Pháo của TWC/MN và hai sĩ quan khác với một
Tiểu đội cận vệ hôm đó đến vùng đồi phía tây lộ 13 là để
điều nghiên các vị trí đặt pháo tiêu diệt căn cứ của Bộ Chỉ
huy Chiến đoàn 9 Bộ binh đóng ở cuối sân bay Lộc Ninh, Bộ Chỉ
huy Chi Khu Quận Lộc Ninh gần đó, và tiêu diệt căn cứ của Thiết
đoàn I Kỵ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh và Tiểu đoàn 74 Biệt
Động Quân biên phòng ở Ngã ba Lộc Tấn, và Căn cứ A, hay Alpha,
trên Quốc lộ 13, nối liền với Quốc lộ 14A ở phía bắc Lộc
Ninh, trong trận Tổng Công Kích sắp diễn ra. Trận Tổng Công Kích
này sẽ lớn lao vì đơn vị của anh được học tập là sẽ hợp
đồng tác chiến giữa “bộ binh, pháo binh và chiến xa vào thành
phố.”
Người tù binh trinh sát này tỏ ra thành khẩn trong những lần
tiếp xúc với tôi và khai báo cặn kẽ về những gì tôi hỏi nhờ
ở sự đối đãi nhẹ nhàng, cho ăn ngon, cà phê thuốc lá, và nhất
là để ý thăm hỏi gia đình anh ở miền Bắc. Anh cho biết là Sư
đoàn 69 Pháo TWC/MN đổi danh thành Sư đoàn 70 Pháo và từ cuối
năm 1971 đã tiếp nhận thêm rất nhiều loại đại bác lớn với
khối đạn dược lớn lao được chuyển từ Bắc Việt vào. Tuy nhiên,
có hai câu hỏi quan trọng mà anh không thể trả lời là ngày khai
diễn chiến dịch qui mô của TWC/MN và các đơn vị chiến xa Bắc
Việt sẽ tham chiến. Anh nói rằng theo kinh nghiệm thì sau khi đơn
vị Trinh sát Pháo điều nghiên xong trận địa, thiết lập xong
sa-bàn và nếu sa-bàn phối trí pháo được thông qua thì trận
chiến sẽ khai diễn độ một tuần sau đó. Nhưng nay Tiểu đoàn
trưởng Trinh sát Pháo của anh vừa chết và anh bị bắt nên không
rõ TWC/MN sẽ có thay đổi gì hay không. Còn về các đơn vị chiến
xa, thì anh không được biết và không nhìn thấy trong khu vực
đóng quân của đơn vị anh hay vùng phụ cận, mà chỉ được biết
qua học tập.
Không thể khai thác gì hơn và theo lệnh, tôi cho chuyển anh này
về Trung tâm Thẩm vấn Tù binh Vùng III Chiến thuật. Sau đó anh
này được đổi sang diện “hồi chánh”. Khi trận chiến An Lộc khai
diễn được một tuần, anh Trung úy Trinh sát Pháo này mặc quân
phục binh sĩ VNCH, mang súng lục, theo một cố vấn Hoa Kỳ từ
Biên Hòa đến gặp thăm tôi ở Bộ Chi huy Hành quân của Sư đoàn
tại An Lộc. Tôi kể rõ chuyện trên đây để chứng minh rằng chúng
tôi không hề bị bất ngờ về cuộc Tổng Công Kích Mùa Hè của
lực lượng CSBV. Sự thực thì sự hiểu biết của người tù binh
thành hồi chánh này rất hạn hẹp so với cục diện chiến trường
diễn ra ở miền Nam trong “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972, vì tri quyền
của một sĩ quan cấp nhỏ như anh không thể biết nhiều hơn.
Với vai trò phụ trách tình báo chiến trường của một đại đơn
vị cấp Sư đoàn, chẳng phải riêng tôi mà tất cả các Trưởng
Phòng 2 các Sư đoàn Bộ binh của QLVNCH có trách nhiệm rất lớn
đối với đơn vị và vị tư lệnh của mình. Riêng trách nhiệm của
tôi đối với Tướng Hưng có phần nặng nề hơn, nhưng sự liên hệ
gắn bó hơn, vì lý do ông vừa là một thượng cấp đối xử với
tôi nghiêm minh nhưng không thiếu thân thiện như một người bạn. Từ
sau cuộc hành quân của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vào Bến Than phá hủy
các kho hậu cần quan trọng của TUW/MN trong nội địa tỉnh Bình
Long, căn cứ vào lời khai của anh Trung úy kể trên và hai tù binh
khác của Sư đoàn 69 Pháo, cộng với những tài liệu tịch thu
trước đó, trong tuần lễ thứ ba của tháng 3, tôi đã trình Tướng
Hưng bản ước tính về chủ trương và khả năng của TUW/MN trong
thời gian sắp tới của CSVN nhắm vào lãnh thổ trách nhiệm
chiến thuật của SĐ5BB và QĐIII & V3CT. Về chủ trương, có 3 điểm
cần được đặc biệt lưu ý:
1. Chắc chắn CSBV sẽ mở chiến dịch rất lớn vào QĐIII & V3CT,
không rõ ngày giờ chính xác nhưng ước tính là đầu mùa hè. Đây
là yếu tố quan trọng cần nỗ lực tìm hiểu thêm.
2. Cung từ của các tù binh Trinh sát Pháo của SĐ 69 Pháo TWC/MN
và tài liệu học tập của các đại đơn vị CSBV thu được trên xác
cán binh của chúng, đều nói rõ chiến dịch mới của TWC/MN là
sẽ tấn công vào thành phố với lực lượng phối hợp bộ binh,
pháo binh và chiến xa. Chúng tôi biết rõ về các đơn vị bộ binh
của CSVN, trừ đơn vị mới thành lập là Sư đoàn Bình Long. Sư
đoàn 69 Pháo đổi danh thành SĐ70 Pháo, được tăng cường trọng
pháo và phòng không, tiếp nhận thêm đạn dược từ miền Bắc
chuyển vào theo lộ trình đường thủy từ phía nam Thác Khone trên
Sông Mékong thuộc Tỉnh Stung Treng và chuyển vào Sông Chllong
thuộc Tỉnh Kratié trên lãnh thổ Miên. Đặc biệt về các đơn vị
chiến xa thì chúng tôi hoàn toàn không biết gì. Tù binh bắt
được cũng không khai báo một chi tiết nào đáng kể, ngoài việc
TWC/MN ra lệnh nghiêm nhặt cho tất cả đơn vị CSBV phải giữ đúng
qui luật và giờ giấc tiếp nhận thiết bị, quân dụng và đạn
dược được chở bằng các loại phà di chuyển theo sông Mékong trên
lãnh thổ Miên đến các bến đổ hàng trên con sông Chllong này. Tất
cả đại pháo, đạn dược và quân dụng pháo binh của Sư đoàn 69
Pháo binh TWC/MN đều nhận ở các bến đổ hàng trên bờ Sông
Chllong vào giờ giấc được ấn định cho mỗi đêm. Ban ngày tuyệt
đối không có bất cứ hoạt động nào ở các bến đổ hàng đó và
cũng không lưu lại dấu tích nào của hoạt động trong đêm trước.
Với chi tiết này tôi nghĩ có lẽ CSBV đưa chiến xa từ Bắc vào
Nam theo Đường mòn Hồ Chí Minh qua Thác Khone rồi mới dùng phà
ngụy trang, từng chiếc một, theo Sông Mékong vào cập ở các bến
trên Sông Chllong mỗi đêm trong một thời gian ít nhất là hai ba
tháng trước “ngày D” của chúng và ém giấu trong các hầm đào
dọc theo con sông này. Vì vậy, nên trong suốt thời gian hơn một
tháng sau khi thẩm vấn các tù binh SĐ 69 Pháo, tôi đã vận dụng
tất cả phương tiện sưu tầm để tìm chiến xa của CSVN, hay ít
nhất những chỉ dấu nào đó về sư hiện của chiến xa, như ống
dẫn dầu, hay vết xe lăn, trên lãnh thổ Miên gần biên giới, như
không thám, không ảnh, hoặc thả các toán viễn thám ngụy trang
như cán binh trinh sát địch nhiều lần trên bờ Sông Chllong, kể
cả sử dụng nhân viên mật và mật báo viên theo các xe be khai
thác các gỗ quí ở các khu rừng trên lãnh thổ Tỉnh Kratié của
Miên để sưu tập các loại tin tức đó, nhưng đều vô ích. Không
tìm được dấu vết nào. Biên giới Việt-Miên trong vùng rừng núi
cuối dãy Trường Sơn phía bắc hai tỉnh Phước Long và Bình Long
thông lên Kratié có rất nhiều đường rừng và nhiều chiếc cầu do
các chủ xe be kéo gỗ bắc qua ngạch, ngòi, suối nhỏ trong rừng.
Xe be kéo gỗ súc qua lại được thì chiến xa loại nặng cũng di
chuyển được. Điều này làm tôi rất bận tâm, nhưng tôi không còn
cách nào hơn. Tuy vậy, tôi vẫn tin vào giả thuyết của tôi là
chiến xa CSBV được chở bằng phà từng chiếc trong nhiều đêm và
đổ vào vùng Sông Chllong trong lãnh thổ Tỉnh Kratié và ém quân
cất giấu trong vùng này. Lúc đó, chúng tôi không còn được sử
dụng Không quân đánh bom trên lãnh thổ Miên. Tuy nhiên tôi đánh
dấu tất cả các cầu xe be bắc qua suối, rạch, ngòi trong rừng
từ biên giới đổ lên Kratié để khi cần sẽ đánh bom triệt cầu
khi cuộc chiến diễn ra.
3. Tuy không rõ ngày giờ CSVN khai diễn chiến dịch rộng lớn vào
lãnh thổ QĐIII & V3CT và không tìm được dấu vết chiến xa, nhưng
tôi vẫn tin tưởng một chiến dịch như vậy sẽ cỏ thể bắt đầu
vào cuối mùa xuân đầu mùa hè, 1972. Phòng 2 QĐIII cũng ước
tính như vậy. Phòng II/BTTM cũng cho biết ở khắp cả bốn Vùng
Chiến Thuật đều có những chỉ dấu của một cuộc tấn công toàn
diện và cũng không rõ ngày N, giờ G, tức là ngày giờ chính
xác của chiến dịch rộng lớn sắp diễn ra. Riêng tại QĐIII &
V3CT, tôi trình Tướng Hưng là CSVN sẽ mở chiến dịch qui mô với
ý định chiếm một trong hai tỉnh Bình Long hoặc Tây Ninh để ra
mắt Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam --CPLT/MN/VN (Provisional
Revolutionary Government of South Vietnam -PRG hoặc PRGSV)-- của nhóm
Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Huỳnh Tấn Phát v.v...) do Hồ
Chí Minh và Đảng CSVN dựng lên ở miền Nam trước đây. Sự ra mắ́t
của CPLT/MNVN là cần thiết cho CSVN trong Hội Nghị giải quyết
chiến cuộc Việt Nam và cuộc “mật đàm” giữa Kissinger và Lê Đức
Thọ, đang diễn ra ở Paris. Về vấn đề này, câu hỏi được đặt ra
là giữa hai tỉnh Bình Long và Tây Ninh, tỉnh nào là “điểm” và
tỉnh nào là “diện” trong chiến dịch sắp tới của chúng?
Theo ước tính của tôi, căn cứ trên các yếu tố địa lý nhân văn,
Bình Long sẽ là mục tiêu chính mà CSVN muốn chiếm để cho ra
mắt CPLT/MN/VN. Vì vậy Bình Long sẽ là “điểm” của trận chiến
sẽ diễn ra. Tây Ninh sẽ chỉ là “diện”. Lý do chính là thành
phần quần chúng, tức cư dân của mỗi tỉnh có sự chênh lệch rõ
rệt về văn hóa và tôn giáo. Tỉnh Bình Long là tỉnh mới được
thành lập sau này dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Tỉnh gồm có 3
quận: Lộc Ninh ở phía bắc, An Lộc ở giữa và Chơn Thành ở
phía nam. Tổng số cư dân chừng trên dưới 60,000 người, đa số là
dân từ tứ phương đến, trừ một số chừng 4%, hay 5,000 người,
thuộc sắc tộc thiểu số Stiêng. Hơn 75% là công nhân làm cho các
đồn điền cao su của người Pháp ở Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Cam, Xa
Cát, và Xa Trạch. Chừng 10% là dân buôn bán. Số còn lại là
quân nhân, công chức chính phủ và gia đình họ. Về địa thế,
tỉnh Bình Long nằm trên trục lộ giao thông chính là Quốc lộ 13.
Trên lãnh thổ Miên, QL-13 giao điểm với lộ 7 ở Snoul, từ đó trổ
về hướng nam qua biên giới, đổ vào thị trấn Lộc Ninh, qua thành
phố tỉnh lỵ An Lộc, xuống thị trấn Chơn Thành, kéo dài qua
quận lỵ Bến Cát của tỉnh Bình Dương và chấm dứt ở thành phố
Thủ Dầu Một, tỉnh lỵ của tỉnh này. Trong lãnh thổ Việt Nam,
QL-13 nằm giữa hai dòng sông khá rộng là Sông Sài Gòn ở hướng
tây và Sông Bé ở hướng đông; cách khoảng chừng 15 đến 18 cây số
ở mỗi hướng, xuyên suốt từ biên giới đến lãnh thổ Bình Dương.
Những đồn điền lớn kể trên nằm giữa hai dòng sông và trên trục
lộ giao thông chính này. Phía tây bắc và đông bắc thị trấn Lộc
Ninh là vùng rừng có nhiều loại gỗ quí, thân cây gốc khá to
và mọc cách khoảng nhau từ 4, 5 thước. Như vậy, chiến xa cũng
di chuyển dễ dàng và cũng dễ ẩn nấp tránh được quan sát không
thám. Kratié, một tỉnh Miên nằm ở phía bắc hai tỉnh Phước Long
và Bình Long là sào huyệt chính của TWC/MN sẽ đặc biệt trực
tiếp chỉ huy chiến dịch sắp đến. Nếu CSBV chọn Bình Long làm
“điểm” thì sự chỉ huy và yểm trợ hậu cần cho chiến trường
của TWC/MN sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn.
Ngược lại, Tây Ninh cùng biên giới với tỉnh Sway-Riêng của Miên
ở khu Mỏ Vẹt, trước tháng 4, năm 1970, là vùng căn cứ địa quan
trọng của CSBV, nơi tồn trữ hậu cần với các kho tàng tiếp
liệu vũ khí của CSBV chuyển từ miền Bắc vào trong nhiều năm
trước, nhưng sau những cuộc hành quân ngoại biên qui mô thời Trung
tướng Đỗ Cao Trí làm Tư lênh QĐIII & V3CT cho đến tháng 2, 1971,
những căn cứ địa này đã bị hoàn toàn phá hủy, chúng chưa đủ
thời gian tái lập ngoại trừ những căn cứ trên lộ 7, vùng ngoài
biên giới trên lãnh thổ Miên, phía bắc xa tỉnh lỵ Tây Ninh. Nếu
tấn công lớn với chiến xa thì quân CSBV chỉ tiến từ hướng này
đến trên trục lộ 22 vào tỉnh lỵ, còn hướng tây và tây nam vào
mùa hè đồng cỏ khô, hoặc đầm lầy, địa thế trống trải khó
tránh tổn thất lớn bởi các cuộc không tập của KQVN. Nhưng quan
trọng nhất là yếu tố nhân văn với thành phần quần chúng đông
gấp bốn lần so với Bình Long, với hơn 70% cư dân là tín đồ Cao
Đài đã từng có một lực lượng võ trang lớn chống Cộng Sản từ
những thập niên 1940 và 1950. Quần chúng ở đây, theo truyền
thống, vẫn còn chống CS mạnh mẽ. Vả lại, cư dân lập nghiệp và
sinh sống ở vùng đất lịch sử này từ nhiều thế hệ trước, khi
Tây Ninh còn là vùng đất Trấn Biên từ thời Chúa Nguyễn khai
phá đất đai miền Nam và bình phục đất Chùa Tháp. Giả sử CSBV
đánh chiếm được Tây Ninh thì cũng không chiếm được lòng người
dân. Hơn nữa, nếu đánh nhau lớn sẽ không tránh khỏi sự tàn phá
Thánh thất Cao Đài, sẽ gieo niềm oán hận lớn trong đa số quần
chúng tín đồ Cao Đài. Vậy, trong chiến dịch lớn tới của CSBV,
Tây Ninh chỉ là “diện”. Bình Long sẽ là “điểm”, là mục tiêu
chính mà CSVN sẽ tấn chiếm.
Trung tướng Nguyễn văn Minh, Tư lệnh QĐIII & V3CT, tin tưởng và
dựa trên ước tính này phối trí lại lực lượng, chú trọng vào
việc tăng cường lực lượng cho SĐ5BB của Tướng Lê văn Hưng. Lữ
đoàn 1 Nhảy Dù được tăng phái phối trí ở Quận Chơn Thành và
mở cuộc hành quân vào mật khu Bến Than. Chiến đoàn 52 của
SĐ18BB tăng cường và phối trí ở hai căn cứ Hùng Tâm, tây bắc
cầu Cần Lê ở An Lộc, như trình bày ở phần trên.
Một nhầm lẫn mà đến nay còn chưa giải tỏa là khi trận chiến
An Lộc diễn ra, tác giả của một số tài liệu báo chí, tập san
Việt ngữ ở Hoa Kỳ đều cho rằng Đại tá Lê Nguyên Vỹ là Tư lệnh
phó của Tướng Lê văn Hưng. Điều này không đúng. Thực ra Đại tá
LNV (sau này lên cấp Chuẩn tướng, Tư lệnh SĐ5BB, tuẫn tiết ngày
30/4/1975) lúc đó là Phụ tá Hành quân của Trung tướng Nguyễn
văn Minh. Như tôi đã trình bày, vì không hợp tính với Tướng Hưng
nên Đại tá V. đã được Tướng Minh đưa về Bộ Tư lệnh QĐIII & V3CT
từ mấy tháng trước. Đến khi chấp nhận ước tính của Trung tá
Trần văn Bình, Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT và của tôi là CSBV sẽ
chọn Bình Long làm “điểm” tấn chiếm trong chiến dịch lớn sắp
diễn ra, Trung tướng Nguyễn văn Minh dự định dời Bộ Tư lệnh
Hành Quân (hay Bộ Tư lệnh Tiền phương) của Quân Đoàn, lúc đó
đang đóng ở tỉnh lỵ Tây Ninh lên An Lộc, nên đưa Đại tá LNV và
toán tiền thám –quân đội Pháp thường gọi là “élément
précurseur”- và một Trung đội Công binh lên thị xã An Lộc để
chuẩn bị cơ sở chỉ huy, tức Bộ Tư lệnh Tiền phương của Tướng
Minh sẽ dời từ thị xã Tây Ninh sang thị xã An Lộc, Bình Long.
Nơi mà Đại tá V. cho tu bổ và chỉnh đốn trong thị xã tỉnh lỵ
An Lộc là một dãy nhà ngói tường đúc xoay mặt ra đại lộ
Nguyễn Huệ, một biệt thự nhỏ nằm phía sau dãy nhà này và
một địa đạo ngầm, khá rộng, bên dưới sân sau biệt thự. Kiến
trúc nổi và khu hầm ngầm này nằm trong khuôn viên của mảnh đất
rộng rào kẽm gai, trong khu vực hành chánh của thị xã, sát
cạnh Tòa Hành Chánh của Tỉnh Bình Long. Cơ sở này trước đó là
nơi trú đóng bộ chỉ huy của một đơn vị Lưc lượng Đặc biệt.
Khi trận An Lộc diễn ra thì Bộ Tư lệnh Hành Quân của Tướng Minh
chưa dời vào An Lộc. Đại tá LNV còn bị kẹt ở lại đó. (Và khi
Bộ Tư lệnh Hành Quân nhẹ của SĐ5BB, ở một địa điểm khác trong
thị xã, bị pháo kích dồn dập trong ngày khởi đầu của trận
chiến, thì chính Đại tá V. và Bộ Tham mưu của Sư đoàn đề nghị
với Tướng Hưng dời Bộ Tư lệnh của ông sang địa đạo ngầm nói
trên. Và vì vậy, suốt trận chiến, CSBV không biết được Bộ Tham
mưu của Tướng Hưng ở đâu trong thị xã. Có lần cả một Tiểu đoàn
quân của chúng chỉ cách bộ chỉ huy mới này có một con đường,
tấn công dữ dội, nhưng chúng không biết đã tấn công vào đơn vị
nào của quân phòng thủ. Hai xe tăng loại T-54 cũng chạy qua Bộ
Tư lệnh Hành Quân mới và khi quay trở ra, bị Đại tá Vỹ bắn
một chiếc. Pháo thì suốt ba tháng phá nát cơ sở của bộ tư
lệnh hành quân cũ, ngang dinh Tỉnh trưởng, và gần như san bằng
thành phố nhưng không một quả nào rót đúng hầm ngầm cơ sở chỉ
huy mới của Tướng Hưng.)
Cũng trong ước tính trình Tướng Hưng, sau khi biết rõ trận liệt
về lực lượng CSBV ở bên ngoài biên giới có thể sử dụng trong
chiến dịch sắp đến gồm các đại đơn vị cũ như Sư đoàn 5, 7, và
9, kể cả Trung đoàn 429 Đặc công, cũng như sự cải biến của Sư
đoàn 69 Pháo và sự thành lập Sư đoàn Bình Long. Mặc dù không
tìm được dấu vết về các đơn vị chiến xa, tôi cho rằng TWC/MN
có hai khả năng chiến thuật tấn công tỉnh Bình Long vì tổng số
lực lượng của chúng ước lượng từ 40,000 đến 45,000 quân tác
chiến, cả bộ lẫn pháo.
Giả thuyết về khả năng thứ nhất là chiến thuật “Tập Tấn”, có
nghĩa là tập trung lực lượng lớn đánh chiếm tuần tự các
trọng điểm nằm trên trục lộ 13 ở phía bắc tỉnh Bình Long
trước, sau đó sẽ tập trung lực lượng dứt điểm chiếm tỉnh lỵ
hay thành phố An Lộc. Nếu áp dụng chiến thuật này, CSBV sẽ
dùng một Sư đoàn bộ binh tấn công các lực lượng của SĐ5BB trên
đoạn phía bắc trục lộ 13 như Tiểu đoàn 74 Biệt động quân Biên
phòng và Thiết đoàn 1 Kỵ binh ở căn cứ A, hay Alpha, và Ngã ba
Lộc Tấn đồng thời tấn công Tiểu đoàn 1/9 ở Quận lỵ Bố Đức
trên trục lộ 14A. Trong lúc đó, dùng một Sư đoàn bộ binh và
chiến xa tấn công Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9, Tiểu đoàn 53 Pháo
binh và Bộ Chi huy Chi khu Lộc Ninh đóng dọc treo con đường cặp
theo sân bay trong quận lỵ Lộc Ninh. Các đơn vị CSBV này sẽ được
Sư đoàn 70 Pháo cải danh yểm trợ dập pháo vào các đơn vị của
SĐ5BB nói trên trước khi tấn công như lối đánh sở trường “tiền
pháo hậu xung” của chúng. Một Sư đoàn bộ binh thứ ba sẽ phục
kích chận viện trên trục lộ 13, đoạn phía bắc Cầu Cần Lê và
phía nam thị xã Lộc Ninh, và một Trung đoàn khác phục trên
trục lộ 14A giữa Ngã ba Lộc Tấn và quận lỵ Bố Đức, đồng thời
kềm chế bằng pháo binh hay tấn công bằng đặc công vào sân bay
Quản Lợi để cắt tuyệt đường tiếp viện không vận từ Sài Gòn
lên Bình Long. Sư đoàn 70 Pháo cũng sẽ yểm trợ các đơn vị pháo
phòng không cho các đại đơn vị bộ binh của chúng và bắn pháo
vào An Lộc để kềm chế hoạt động của SĐ5BB. Việc tấn công có
phối hợp chiến xa không đủ yếu tố xác định nhưng có thể có
vì tất cả tài liệu của chúng bắt được và cung từ tù binh
đều nói đến. Sau khi dứt điểm xong quận Lộc Ninh, TWC/MN sẽ dồn
hai Sư đoàn bộ binh, đơn vị Đặc Công và Sư đoàn Pháo tấn công
chiếm An Lộc trong khi một Sư đoàn khác sẽ phục kích chận viện
trên trục lộ 13, phía nam đồn điền cao su Xa Trạch và bắc Chơn
Thành. Lai Khê cũng sẽ bị tấn công đặc công và pháo kích.
Giả thuyết về khả năng thứ hai là, TWC/MN có thể áp dụng
chiến thuật “Tản Tấn”, hoặc phân tán lực lượng tấn công cùng
một lúc ba nơi chính là Lộc Ninh, An Lộc và Lai Khê. Mũi tấn
công thứ nhất vào Lộc Ninh gồm một Sư đoàn bộ binh tăng cường
pháo binh nặng, phòng không và một Tiểu đoàn đặc công chia làm
hai cánh quân, một tấn công Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9, Tiểu đoàn
53 Pháo binh và Bộ Chi huy Chi Khu và chiếm thị trấn Lộc Ninh.
Cánh thứ hai tấn công Thiết đoàn 1 Kỵ binh và Tiểu đoàn 74 Biệt
Động quân Biên phòng ở Căn cứ A và Ngã ba Lộc Tấn. Các căn cứ
này, kể cả Tiểu đoàn 1/9 ở quận lỵ Bố Đức sẽ bị pháo giập
nát trước khi bị tấn công bằng bộ binh. Mũi tấn công thứ hai
vào thị xã An Lộc, cũng là tỉnh lỵ Bình Long, lúc đó chỉ có
hai Tiểu đoàn của Trung đoàn 7 của SĐ5BB hành quân bên ngoài thị
xã. Lực lượng Tiểu khu chỉ có hai Đại đội Địa phương quân trấn
đóng trên Đồi Gió và Đồi 169 ở đông nam thị xã và chừng hai
Đại đội khác ở bên trong thị xã, giữ Bộ Chi huy Tiểu khu. Mũi
tấn công này của quân CSBV có thể gồm một Sư đoàn bộ binh tăng
cường thêm một Trung đoàn của Sư đoàn bộ binh khác, hai Trung
đoàn pháo nặng, phòng không và hai Tiểu đoàn đặc công. Một cánh
quân nhỏ chừng cấp Tiểu đoàn tấn công hay phục kích các đơn vị
VNCH đóng ở sân bay và đồn điền Quản Lợ̣i. Thị xã An Lộc có
thể bị pháo giập nát trước khi bị tấn công bằng bộ binh. Mũi
tấn công thứ ba nhắm vào căn cứ chính của SĐ5BB ở Lai Khê. CSBV
chỉ cần một Tiểu đoàn đặc công đánh phá hủy các kho tàng tiếp
liệu và đạn dược đồng thời một đơn vị Pháo tấn kích dữ dội
vào căn cứ. Một đơn vị cấp Trung đoàn bộ binh tăng cường pháo
phòng không đóng chốt chận viện ở trên trục lộ 13, đoạn phía
bắc Chơn Thành. Pháo kích vào Bộ Tư lệnh QĐIII & V3CT ở Biên Hòa
và phi trường chiến lược Biên Hòa.
May mắn là khi chiến dịch Nguyễn Huệ của CSBV khai triển vào
lãnh thổ QĐIII & V3CT với mục đích đánh chiếm Bình Long chúng
đã không dùng chiến thuật “Tản Tấn” trái lại chúng chọn chiến
thuật “Tập Tấn” vào Lộc Ninh trước rồi mới tập trung bôn tập
xuống tấn công An Lộc, thị xã tỉnh lỵ của Bình Long.
Nếu chúng chọn khả năng thứ hai, hay chiến thuật “đánh tản”
phối hợp chiến thuật “dương đông kích tây”(tức là tấn công với
cường độ vừa phải vào Tây Ninh và cùng một lúc tấn công dứt
điểm vào An Lộc) liên tục trong ba ngày đêm liền, nhất là khi
chúng có thêm chiến xa, chắc chắn lực lượng VNCH ở QĐIII & V3CT
sẽ rối loạn, không điều quân kịp, đến ngày thứ ba chúng sẽ
chiếm được An Lộc như mong muốn. Lúc đó ván đã đóng thuyền,
QLVNCH muốn tái chiếm cũng không còn đủ lực lượng, và nếu kéo
tất cả đại đơn vị trừ bị Dù, Thủy quân Lục chiến và Biệt
Động Quân từ các nơi khác về để bảo vệ Thủ đô Sài Gòn đang
rúng động, thì sẽ mất luôn Kontum và Quảng Trị. Nếu QLVNCH đem
hai Sư đoàn từ miền đồng bằng Sông Cửu Long lên, miền Tây sẽ
rối loạn. Yếu tố “tốc chiến tốc thắng”, lúc đó, các tướng
lãnh CSBV đã không nghĩ đến, dù là Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến
Dũng hay Trần văn Trà kể cả Quân Uỷ Trung ương hay Bộ Chính Trị
của Đảng Cộng Sản Việt Nam (Đảng Lao Động). Lý do duy nhất để
giải thích có lẽ vì các tướng Bắc Việt quá tin tưởng vào
khả năng phòng không với các loại hỏa tiễn mang vai SA-7 và các
loại súng phòng không tối tân, sự tàn phá kinh khủng của đại
pháo hủy diệt tầm xa và di động và sự xung kích dữ dội của
chiến xa tối tân như T-54 và PT-76 của Liên xô nên bỏ lối “đánh
tản” sở trường mà xoay ra dùng chiến thuật “đánh tập”, như lối
đánh thí quân “biển người” của Trung Cộng, nên đã chuốc lấy
thất bại ở An Lộc. Từ đó chúng đã hoàn toàn thất bại trong
chiến dịch mùa Hè năm 1972. Đáng lẽ các tướng Bắc Việt phải
biết hỏa lực của Không Quân Hoa Kỳ rất hùng hậu và QLVNCH đã
trưởng thành, rất kiên cường. Dùng chiến thuật đánh “thí thân”
là thua....
5. THẤT THỦ LỘC NINH: SƯ ĐOÀN 5
BỘ BINH MẤT THIẾT ĐOÀN 1 KỴ BINH VÀ CHIẾN ĐOÀN 9
Những gì mà chúng tôi ước tính về trận TCK của CSBV vào lãnh
thổ QĐ/III & V3/CT trong mùa Hè này, nhất là về mặt trận chính
sẽ diễn ra ở đâu, Tây Ninh hay Bình Long, tôi trình Tướng Hưng và
cũng được Trung tá Trần văn Bình, Trưởng Phòng 2 QDIII & V3/CT
trình lên Trung tướng Nguyễn văn Minh. Dĩ nhiên đã có những buổi
thuyết trình riêng của Trung tá Bình và của tôi lên hai vị tư
lệnh này. Các vị tướng và Bộ Tham mưu của Quân Đoàn cũng có
những cuộc thảo luận, trước khi chiến dịch của CSBV diễn ra. Do
đó nên mới có quyết định của Tướng Minh về việc phối trí lực
lượng trình bày ở trên. Như vậy có thể nói rằng lực lượng
QLVNCH của QĐIII & V3CT đã ở trong tư thế sẵn sàng chống trả
chiến dịch TCK mới của CSBV trong mùa Hè năm đó. Chỉ một việc
chưa hoàn tất được là Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân Đoàn III
chưa kịp lên Thị xã An Lộc mà thôi. Lúc đó, Tướng Minh còn ở
Biên Hòa và sau đó đưa Bộ Tư lệnh Tiền phương từ Thị xã Tây Ninh
lên Lai Khê –căn cứ chính của SĐ5BB- từ đó điều khiển cuộc
chiến thắng lợi trong lãnh thổ trách nhiệm của ông trong mấy
tháng sau đó. Nên lưu ý rằng nếu để mất một tỉnh của Vùng 3
Chiến Thuật, Thủ đô Sài Gòn sẽ rúng động và Washington sẽ đảo
điên vì sách lược Việt Nam Hóa Chiến Tranh chưa hoàn tất. Chính
trị nội bộ Hoa Kỳ sẽ lên cơn sốt khi mà cuộc bầu cử tổng
quát ở Hoa Kỳ sắp diễn ra trong những tháng cuối năm 1972 đó.
Xét trên khía cạnh này, Tướng Nguyễn văn Minh là một anh hùng
đã cứu nguy cho An Lộc, nói riêng, và cho Sài Gòn lẫn Washington.
Nixon và Kissinger phải mang ơn Tướng Minh.
Tuy nhiên khi trận Tồng Công Kích [TCK] của Cộng Sản Bắc Việt
diễn ra thì có dư luận kể ở Sài Gòn lẫn Washington cho rằng,
cũng như trận TCK Tết Mậu Thân, là QLVNCH bị bất ngờ. Sở dĩ
có dư luận này có thể vì lý do sau đây. Từ 2 giờ sáng ngày 31
tháng 3, lực lượng CSBV pháo kích và tấn công dữ dội tất cả
các căn cứ đóng quân của Chiến đoàn 49, SĐ18BB, suốt trục lộ 22
từ tiền đồn Xa Mát ở biên giới Việt-Miên dẫn vào đến Thiện
Ngôn phía bắc tỉnh lỵ Tây Ninh. Quan trọng nhất là... Căn cứ
Lạc Long, vì không chịu nổi cường lực tấn công của địch nên
toàn bộ đơn vị hơn cấp Tiểu đoàn, gồm bộ binh, pháo và quân xa
rút khỏi căn cứ định về thị xã Tây Ninh, lọt vào ổ phục kích
cấp Trung đoàn của chúng buổi sáng sớm hôm đó, bị tổn thất
rất nặng. Ngay trong buổi sáng đó, Tướng Minh chỉ thị cho Tướng
Hưng và tôi bay lên Bộ Tư lệnh Tiền phương QĐIII ở Tây Ninh gặp
ông. Khi Tướng Hưng và tôi đến đã thấy Trung tá Bình, Trưởng
Phòng 2 QĐIII & V3CT chờ Trung tướng Minh ở phòng khách trước văn
phòng Tư lệnh. Tướng Minh từ Biên Hòa đến, đi thẳng vào phòng
không bắt tay ai, kể cả Tướng Hưng. Chúng tôi theo vào. Tướng
Minh nhìn thẳng vào Trung tá Bình và tôi, xát muối: “Mấy người
làm tình báo như vậy đó. Nó đánh tan Trung đoàn 49 rồi! Tính
sao đây? Tình hình sẽ ra sao?” Trung tá Bình (hiện ở Nam
California) trước năm 1971 là Trưởng Khối Tình báo Quốc Nội của
Phòng II/BTTM, là một sĩ quan Quân Báo lỗi lạc, nắm vững tình
hình CSBV trên toàn quốc cả miền Bắc lẫn miền Nam, bình tĩnh
trình Trung tướng Minh rằng ông tin chắc chắn CSBV và TWC/MN vẫn
nhắm tấn công vào Bình Long và chiếm An Lộc. Trận đánh trong
đêm và sáng đó trên trục lộ 22, ở Tây Ninh, chỉ là “hư chiêu”.
May thay, đang khi đó thì một sĩ quan của Phòng 2/BTL Tiền phương
Quân đoàn vào trình cho Trung tá Bình một số tài liệu mà một
đơn vị của Chiến đoàn 49 ở Căn cứ Thiện Ngôn tìm thấy trong
xác chết của một số cán binh CSBV bị hạ khi chúng tấn công căn
cứ này trong đêm. Đơn vị này thuộc Sư đoàn C30B của TWC/MN mới
thành lập ở Tây Nguyên, sau này gọi là Sư đoàn Bình Long. Không
thấy sự hiện diện của các Sư đoàn chủ lực của chúng là 5, 7,
và 9 trong trận đánh trên trục lộ 22. Như vậy chúng giữ các
đại đơn vị này cho trận đánh quyết định sắp tới. Đọc xong mấy
tài liệu đó, Tướng Minh tỏ vẻ tin vào lời trình bày của Trung
tá Bình. Tuy nhiên Ông ra lệnh cho Tướng Hưng ngay trong ngày phải
trả Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tăng phái cho SĐ5BB, lúc đó đang còn
tiếp tục hành quân ở Bến Than, phía tây Quận Chơn Thành. Trực
thăng bốc Lữ đoàn này vào buổi trưa, đưa vào hành quân giải tỏa
trục lộ 22. Một Chiến đoàn khác của SĐ18BB và một Chiến đoàn
Biệt Động Quân cũng được đưa vào vùng này ngay trong buổi sáng
đó. Tướng Hưng cũng nhận thêm lệnh sẽ sẵn sàng trả Chiến đoàn
52 ở Căn cứ Hùng Tâm và chuẩn bị Trung đoàn 7 của SĐ5BB đang
hành quân bên ngoài An Lộc, nếu cần, sẽ được bốc vào Tây Ninh
trong ngày hôm sau tùy theo diễn biến tình hình trên trục lộ 22.
Nhưng tình hình đã diễn ra khá kỳ lạ là, ngay trong buổi sáng
ngày đó, sau khi tấn công các căn cứ của Chiến đoàn 49, toàn
bộ các đơn vị CSBV cấp tốc rút ra khỏi vùng này không thu chiến
lợi phẩm và cũng không kịp mang xác chết của đồng bọn đi. Các
đơn vị của Tướng Minh đưa vào vùng hành quân, không chạm súng
và cũng không tìm thấy chúng, mà chỉ thu dọn chiến trường
nhầy nhụa ở đó. Đến ngày 2 tháng 4, coi như trục lộ 22 ở Tây
Ninh hoàn toàn được giải tỏa. Từ ngày đó cho đến hết ngày 3,
tháng 4, trong toàn thể lãnh thổ QĐIII & V3CT không có một tiếng
súng nổ. Tình trạng im ắng rờn rợn này như báo hiệu một cơn
bão lớn sắp kéo đến.
Rồi chuyện gì phải đến đã đến. Chiến dịch Nguyễn Huệ của
CSBV ở QĐIII & V3CT thực sự mở màn. Đêm 4 rạng ngày 5, tháng 4,
vào khoảng 3 giờ khuya, tôi bị đánh thức bởi tiếng điện thoại
reo vang. Bên kia đầu giây là tiếng của Tướng Hưng. Ông cho biết,
Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 9, vừa
báo cáo là căn cứ của Bộ Chỉ huy Trung đoàn 9, Tiểu đoàn 53
Pháo binh và Bộ Chỉ huy Chi Khu Lộc Ninh ở cuối và cặp theo sân
bay Lộc Ninh đang bị pháo kích dữ dội và chắc chắn sẽ bị tấn
công. Tiểu đoàn 3/9 (-) hành quân ở tây nam thị trấn Lộc Ninh,
được lệnh rút về căn cứ của Chiến đoàn, đang bị địch bám sát
tấn công liên tục. Đơn vị Thiết kỵ 1 của Trung tá Nguyễn Đức
Dương và Tiểu đoàn 74 BĐQ/BP ở Ngã ba Lộc Tấn và Căn cứ A cũng
đang bị pháo kích nặng. Ông ra lệnh cho tôi lên ngay Trung tâm
Hành quân Sư đoàn (TTHQ/SĐ). Ông cũng nóí thêm là: Tụi nó đánh
lớn rồi. Chiến dịch của tụi nó mở màn...”
KỲ 4
Tôi đến TTHQ/SĐ thì Trung tá
Trịnh Đình Đăng, Trưởng Phòng 3 Sư đoàn, đã ở đó rồi. Mấy
phút sau Tướng Hưng đến. Tại đây tôi được biết, trước đó, khi
được lệnh rời vùng hành quân, Tiểu đoàn 3/9 (-) báo cáo nghe
tiếng chiến xa di chuyển rầm rộ ở hướng tây trên trục lộ 137,
là con đường xuyên rừng nối liền Quốc lộ 13 và Liên quốc lộ 7,
ở hướng tây, từ biên giới dẫn vào Lộc Ninh. Trung tá Nguyễn
Đức Dương, Thiết đoàn 1 Kỵ binh, xác nhận vào giờ đó không có
một chiến xa nào của ông nổ máy. Như vậy, rõ ràng chiến xa
CSBV đã hiện diện ở chiến trường Lộc Ninh. Sự kiện này làm tôi
bàng hoàng và cảm thấy xấu hổ về sự bất lực của mình, trong
khi Tướng Hưng đang tiếp tục nghe Trung tá D. báo cáo tiếp nơi
đóng quân của Thiết đoàn và Tiểu đoàn 74 BĐQ/BP đang bị pháo
kích khủng khiếp. Nếu tiếp tục đóng tại chỗ sẽ bị tổn thất
nặng nề hay bị tiêu diệt. Trung tá Dương nhận được lệnh điều
động Tiểu đoàn BĐQ/BP rời bỏ khỏi căn cứ A và Ngã ba Lộc Tấn
đồng thời chỉ huy Tiểu đoàn 2/9 (-) tùng thiết cho Thiết đoàn 1
Kỵ binh, đang hành quân ở vùng đông bắc Ngã ba Lộc Tấn, rút về
tăng cường cho Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9 ở thị trấn Lộc Ninh. Tuy
nhiên, lúc đó Trung tá Dương chưa thể thi hành được vì trời còn
chưa sáng và đơn vị Thiết kỵ, TĐ74/BĐQ/BP và TĐ2/9 còn đang bị
pháo dữ dội. Tiểu đoàn 1/9 ở Chi khu Bố Đức trên trục lộ 14A,
cũng bị pháo kích nặng. Tất cả những chi tiết trên đây được
báo cáo ngay cho Trung tâm Hành quân Quân đoàn. Chính Tướng Hưng
cũng muốn trực tiếp trình báo cho Tướng Minh, Tư lệnh QĐIII &
V3CT, nhưng không thể liên lạc được với Tướng Minh trên mọi hệ
thống điện thoại hay vô tuyến suốt từ giờ phút đó cho mãi đến
gần 9 giờ sáng hôm sau, ngày 5 tháng 4. Dĩ nhiên, các tướng
lãnh khác và các giới chức trách nhiệm khác của QĐIII & V3CT
cũng không liên lạc để trình báo tình hình ở Lộc Ninh cho
Tướng Minh.
Khi Tướng Hưng tiếp xúc được với Tướng Minh là khi ông Hưng đang
ở trên trực thăng chỉ huy bay trên không phận Lộc Ninh. Trên chiếc
trực thăng này, lúc đó ngoài Tướng Hưng còn có Đại tá Hoa Kỳ
William Miller, Cố vấn trưởng Sư đoàn, Trung tá Trịnh Đình Đăng,
Trưởng Phòng 3 Sư đoàn (Khóa 5 Thủ Đức, như Tướng Hưng và tôi,
nhưng thuộc Đai đội 2 SVSQ; sau trận An Lộc thăng cấp Đại tá,
hiện đang ở Hoa Kỳ), và tôi, Trưởng Phòng 2. Tất cả đều đội
mũ sắt trang bị hệ thống dẫn-hợp truyền tin, nên có thể nghe
rõ đối thoại giữa Tướng Hưng với các cấp chỉ huy đơn vị của Sư
đoàn dưới đất và với Tướng Minh, Tư lệnh Quân đoàn III & V3 CT
và các giới chức khác.
Trước đó, khi trực thăng chỉ huy của Tướng Hưng đang bay trên vùng
không phận Lộc Ninh, Tướng Hưng nhận được báo cáo của Trung tá
Nguyễn Đức Dương là đơn vị Thiết kỵ của ông đang di chuyển trên
QL-13 bị phục kích ở phía nam ấp Lộc Thạnh nên xin hủy bỏ “mấy
con gà cồ” --tức 4 khẩu pháo 105 ly và 2 khẩu 155 ly được tăng
phái cho Thiết đoàn 1 Kỵ binh trước đó-- để được nhẹ nhàng và
di chuyển nhanh hơn. Câu trả lời cũng là lệnh của Tướng Hưng cho
Trung tá Dương nghe rõ trong máy dẫn hợp, cho phép ông này phá
hủy các khẩu pháo đó sau khi hạ thấp bắn trực xạ vào toán
quân CS phục kích hai bên đường. Dĩ nhiên khẩu lệnh được mã hóa
bằng các ám hiệu truyền tin. Một chập sau nghe Trung tá Dương
báo cáo đã thi hành xong, tuy nhiên không thể tiếp tục tiến về
thị xã Lộc Ninh vì CS phục kích với đơn vị lớn. Tướng Hưng ra
lệnh cho Trung tá Dương đưa thiết kỵ trở lại Ngã ba Lộc Tấn
chờ đón Tiểu đoàn 74 BĐQ/BP, sau đó sẽ tập trung lực lượng, trở
lại giải tỏa Lộc Ninh. Đại đội Trinh Sát của Trung đoàn 9, đang
hoạt động ở tây bắc -cũng được đặt dưới sự chỉ huy của Trung
tá Dương- được lệnh về Ngã ba Lộc Tấn. Các đơn vị thi hành
lệnh. Tuy nhiên, lúc đó, chừng hơn 12 giờ trưa, Chi Đoàn 3/1
Thiết kỵ với một Đại đội tùng thiết của Tiểu đoàn 2/9 đã
vượt qua được đoạn đường bị phục kích và tiến được đến cua
Chùm Bao gần Đồi 177 phía tây QL-13, chỉ cách Căn cứ Lộc Ninh
chừng hơn 1 cây số, nhưng không thể di chuyển được nữa vì bị bao
vây và tấn công dữ dội. Trung tá Dương chỉ tiếp xúc được với
đơn vị này qua hệ thống vô tuyến.
Khi tiếp xúc được với Tướng Minh, trên trực thăng chỉ huy, Tướng
Hưng báo cáo việc này cho Tướng Minh. Tức khắc, Hưng bị xát
muối lần đầu tiên trong chiến trường An Lộc 1972. Tiếng nói của
Tướng Minh, Tư lệnh Quân đoàn, nghe rất rõ: “Đánh đấm gì lạ
vậy! Chưa có gì mà đã bỏ của…”. Máy bị cúp. Tướng Hưng ngỡ
ngàng. Mọi người trên trực thăng buồn bã và yên lặng chỉ nghe
tiếng mấy cánh quạt và tiếng máy nổ phành phạch. Trực thăng
phải rời vùng để KQVN vào đánh yểm trợ cho căn cứ chỉ huy của
Chiến đoàn 9 đang bị tấn công bộ binh. Sau các oanh tạc cơ của
KQVN rời vùng, trực thăng chỉ huy của Tướng Hưng cũng quay về
Lai Khê vì sắp cạn nhiên liệu. Một chập sau nghe tiếng Đại tá
Miller hỏi: “What did Gen. Minh say, 45?” Không có tiếng trả lời.
“Forty-five, hay 45”, là danh hiệu chỉ huy trong hệ thống truyền
tin của Tướng Hưng. Miller hỏi Tướng Minh đã nói gì. Không ai
còn đủ sức trả lời cho ông ta. Vả lại có những điều một tư
lệnh Việt Nam không thể nói cho cố vấn Hoa Kỳ của mình biết.
Và nhiều điều ở chiến trường An Lộc, Tướng Hưng không thể nói
cho Đại tá William Miller cố vấn trưởng Sư đoàn biết, nên sinh ra
sự hiểu lầm lớn sau đó trong trận chiến quan trọng này.
Sau khi trực thăng chỉ huy đổ đầy xăng, Tướng Hưng và chúng tôi
lại bay trở lên vùng trời An Lộc, ở độ cao trên 3,500 bộ, vì
phòng không của địch bắn rất rát. Trong suốt buổi chiều chính
Tướng Hưng một mặt liên lạc trực tiếp với các cấp chỉ huy quân
trên mặt đất để nghe báo cáo và điều động họ đồng thời trực
tiếp xin KQVN đánh yểm trợ. Tướng Hưng có biệt tài về sử dụng
không yểm dù điều động các chiến đấu cơ xạ kích vào địch quân
chỉ cách quân bạn một con đường hay đánh bom với các tọa độ
chính xác mà không cần nhìn vào bản đồ khi ngồi trên trực
thăng. Sở dĩ được như vậy là vì trên bản đồ mà ông sử dụng
hằng ngày ông ghi tọa độ tất cả các ngã ba, ngã tư của các
con đường, các ngã ba sông, các thị trấn, thị xã, các cao
điểm, và các điểm-nhớ quan trọng. Gần như ông thuộc lòng tọa
độ địa hình các nơi đó trong toàn lãnh thổ trách nhiệm. Ngày
thường, khi thuyết trình tình hình cho ông nên thận trọng về
địa điểm và tọa độ. Cách “đọc bản đồ trong trí nhớ dựa trên
các điểm chuẩn” này rất khoa học và cần thiết cho mọi cấp
chỉ huy. Đó là ưu điểm để nhanh chóng đánh trả đũa quân địch
bằng pháo binh hay không quân, hoặc hướng dẫn điều động quân
nhanh chóng và chính xác, nhất là khi chỉ huy trên trực thăng,
từ khi ông còn làm Trung đoàn trưởng ở SĐ21BB. Làm việc với
ông, tôi đã cố gắng học nghệ thuật tác chiến này.
Thế nhưng, với trận đánh buổi chiều đó của CSBV trên khắp nơi
mà chúng bao vây hay bám đánh các cánh quân của Chiến đoàn 9,
từ căn cứ của Chiến đoàn, căn cứ của Tiểu đoàn 53 Pháo binh,
của Chi khu, cặp theo sân bay Lộc Ninh, hay những cánh quân đang
vừa đánh vừa di chuyển về các điểm tập trung như các đơn vị
Thiết đoàn 1 Kỵ binh của Trung tá Nguyễn Đức Dương, TĐ74/BĐQ/BP,
TĐ2/9, TĐ3/9 và Đại đội 9 Trinh sát, thì Tướng Hưng cũng không
thế nào cứu vãn được các “đứa con” của mình thoát khỏi tình
trạng nguy ngập. Một phần vì KQVN cho biết là phòng không của
CSBV quá mạnh, nên một số chiến đấu cơ không thể đánh yểm trợ
cho các đơn vị đang di chuyển, ngoại trừ các căn cứ ở thị xã
cặp theo sân bay Lộc Ninh. Phần khác, vì lực lượng địch quân
quá đông. Trong suốt ngày đó lực lượng phòng thủ của các căn
cứ này đã chống trả hữu hiệu nhiều đợt tấn công bộ binh dữ
dội của CSBV và KQVN đã yểm trợ đắc lực cho các căn cứ này.
Tuy nhiên các căn cứ cấp Đại đội Địa Phương Quân và Trung đội
Nghĩa quân ở các xã chung quanh thị xã đều bị tràn ngập, hay
không chịu nổi phải rút bỏ hay tản lạc. Hai Đại đội ĐPQ 293 và
294, rút về bảo vệ Bộ Chỉ huy Chi khu. Chợ Lộc Ninh và Nhà
Thờ bị địch chiếm trong ngày. Đêm tối, các căn cứ trên trục lộ
sân bay tiếp tục bị pháo dữ dội. Tổn thất càng nhiều hơn. Binh
sĩ trú phòng kinh hoàng vì địch pháo kích với cường độ và
sức công phá của các đầu đạn đại pháo pháo khủng khiếp. Nhất
là các vị trí đặt pháo 155ly và 105ly cố định của TĐ53/PB bị
tê liệt không thể phản pháo vì nhiều khẩu pháo bị phá hủy vì
pháo binh địch rót vào chính xác. Các mục tiêu pháo của ta lộ
diện dễ bị trinh sát pháo của địch điều nghiên từ trước trận
đánh.
Một điều tưởng cũng cần nêu lên là các đơn vị chiến thuật CSBV
thi hành lệnh cấp trên rất chặt chẽ nhưng cũng rất máy móc.
Thí dụ như đơn vị pháo của SĐ70 Pháo/TWC/MN bắn phá căn cứ
đóng quân của Thiết đoàn 1 Kỵ binh ở Ngã ba Lộc Tấn dữ dội
trong đêm trước cho đến khi đơn vị này bỏ căn cứ di chuyển thì
chúng cũng ngưng không bắn nữa, coi như đã hoàn thành nhiệm vụ.
Khoảng quá trưa Trung tá Dương đã liên lạc được với các đơn vị
đã rút về được Ngã ba Lộc Tấn và được phân nhiệm tiến về
Thị xã Lộc Ninh với hai cánh quân băng rừng cặp theo hai bên
QL-13, mà không di chuyển trên trục lộ, tiến về Thị xã Lộc
Ninh, tăng viện cho BCH Chiến đoàn 9 và đánh giải tỏa cánh quân
Chi đoàn 3/1 và một Đại đội của TĐ2/9 tùng thiết đang bị địch
bao vây ở cua Chùm Bao. Sau hai lần nỗ lực, nhưng không tiến lên
được, Trung tá D. cho các đơn vị rút trở lại Ngã ba Lộc Tấn
đế đóng quân qua đêm. Buổi tối đêm 5 tháng 4, khi các đơn vị
Thiết đoàn 1 Kỵ binh, TĐ74/BĐQ/BP, TĐ2/9 (-) và ĐĐ9TS tập trung
trở lại khu vực này, dù đơn vị nào cũng bị tổn thất, nhưng
không bị “ăn pháo” như đêm trước; chỉ bị trinh sát địch bám
sát.
Sáng sớm hôm sau, ngày 6 tháng 4 Trung tá Dương cũng tiến hành
kế hoạch hành quân với sự phân nhiệm như buổi chiều hôm trước
để rút về Lộc Ninh như lệnh đã nhận được. Nhưng kế hoạch hành
quân này có một thay đổi lớn về lộ trình. Cánh quân thứ nhất
gồm Thiết đoàn 1 Kỵ binh (-), chừng 60 chiến xa và quân xa các
loại trong đó có 14 chiến xa loại M-41 và M-113 của Chi đoàn 1/1
Chiến xa phối hợp với TĐ74/BĐQ/BP với hai khẩu pháo 155ly và
bốn khẩu 105 ly. Cánh quân thứ hai gồm TĐ2/9 (-) và Đại đội 9
Trinh sát.
Cánh quân thứ nhất, do chính Trung tá NĐD chỉ huy, không tiến về
Lộc Ninh cặp theo phía tây QL-13 như buổi chiều hôm trước, nhưng
từ Ngã ba Lộc Tấn băng rừng sâu hơn ở phía đông trục lộ này,
với dự định đánh bọc ra quốc lộ và tiến chiếm mục tiêu chính
là đồi 150 Bắc, nằm ở phía tây trục lộ, ở phía nam Đồi 177.
Hai ngọn đồi này chỉ cách thị xã Lộc Ninh ở hướng tây bắc từ
một đến hai cây số. Riêng ngọn đồi 150 Nam nằm ở tây nam thị
xã, cách đồi 150 Bắc chừng hai cây số. Ngày hôm trước, 5 tháng
4, trong khi quân CSBV từ Đồi 150 Bắc tràn xuống chiếm Chợ, Nhà
Thờ và tấn công Đồn Cảnh sát Quận thì các cánh quân khác của
chúng xuất phát từ Đồi 150 Nam nhiều lần mở các đợt tấn công
vào các căn cứ Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9, TĐ53/PB và Bộ Chỉ huy
Chi khu Lộc Ninh đóng dọc theo sân bay. Cánh quân thứ hai gồm
TĐ2/9 (-) và Đại đội 9 Trinh sát do Đại úy Nguyễn Quang Nghi, Tiểu
đoàn trưởng TĐ2/9 chỉ huy, yểm trợ cho cánh quân thứ nhất ở
hướng đông, cũng băng rừng tiến song song với cánh quân này và
chiếm mục tiêu cao điểm phía đông thị xã là Đồi 178.
Nếu hai cánh quân trên chiếm được hai ngọn đồi 150 Bắc và 178
kẹp hai bên Thị xã Lộc Ninh thì KQVN có thể hoạt động hữu
hiệu hơn khi đánh bom tiêu diệt một đơn vị lớn của CSBV đang
chiếm Đồi 150 Nam mà chúng dùng nơi đó làm bàn đạp để tấn
công ba căn cứ nằm dọc sân bay Lộc Ninh. Như vậy sẽ giải tỏa
bớt áp lực địch để chờ viện binh. Đó là quan niệm hành quân
của Tướng Hưng, khi ông ra lệnh cho các cánh quân dưới sự chỉ
huy của Trung tá Dương rút từ Lộc Tấn về Lộc Ninh.
Nhưng tình hình diễn tiến trái ngược. Không may mắn cho cánh
quân của Trung tá D. băng rừng cặp theo sườn đông trục lộ khi
tiến ra QL-13, lúc đó chừng 8 giờ sáng, ngày đó. Đơn vị tiến
trước là Chi đoàn 1/1 Chiến xa không biết vì nhầm lẫn hay vì
lý do nào đó lại đâm ra cua Chùm Bao, gần đồi 177 --tức là nơi
Thiết Đoàn 1 Thiết kỵ bị phục kích hôm qua-- thay vì đoạn quốc
lộ gần đồi 150 Nam. Chiến xa tiến lên đồi thì quân địch trên
đồi 177, đông như kiến cỏ, tràn xuống tấn công dữ dội, hết đợt
này đến đợt khác, và gần như tiêu diệt TĐ1KB và TĐ74/BĐQ/BP. Trên
trực thăng chỉ huy Tướng Hưng không còn liên lạc với Trung tá
Dương được nữa cả giờ sau đó, khi đang bay trên vùng trời Lộc
Ninh. Khi báo cáo sự kiện này lên Trung tướng Minh thì Hưng bị
xát muối lần thứ hai. (Sau này được biết trận đánh ở cua Chùm
Bao sáng ngày 6 tháng 4 đó gần như nguyên vẹn Sư đoàn Công
trường 5 CSBV chủ động cộng thêm Trung đoàn 95B từ chiến trường
Tây Nguyên xuống tăng cường cho mặt trận Bình Long; chúng đã bắt
được Trung tá Nguyễn Đức Dương và một số sĩ quan khác của
Thiết Đoàn và TĐ74/BĐQ/BP).
Cánh quân thứ hai là TĐ2/9 và ĐĐ9TS, cả hai do Đại úy Nguyễn
quang Nghi chỉ huy, cũng tiến từ Ngã Ba Lộc Tấn cặp sườn đông
QL-13, sâu hơn trong rừng, tiến về thị xã Lộc Ninh và chiếm đồi
178 ở phía đông thị xã. Đại úy Nghi là một sĩ quan chỉ huy
Tiểu đoàn nổi tiếng. Nghi chỉ huy đơn vị của mình và ĐĐ9TS của
Trung úy Thái Minh Châu suốt buổi sáng đó về gần mục tiêu nhưng
không tiến được lên ngọn đồi 178 vì bị địch quân chận đánh dữ
dội. Buổi quá trưa khi trực thăng chỉ huy lấy thêm đầy xăng
nhớt, Tướng Hưng lên vùng, liên lạc được với Đại úy Nghi và
được báo cáo tình trạng, ra lệnh cho Nghi bỏ mục tiêu quay ra
QL-13 tìm tông tích của TĐ1KB và TĐ74/BĐQ/BP. Đại úy Nghi đã chỉ
huy hai đơn vị thiện chiến này trở ra được trục lộ chính này
nhưng không tiến nổi được lên khu vực chiến trường của hai đơn
vị của Trung tá Dương. Buổi chiều ngày 6 tháng 4, khi nắng tàn
Tướng Hưng quay về An Lộc thì TĐ2/9 và ĐĐ9TS báo cáo đã nằm
trong khu Chợ Lộc Ninh dù bị tổn thất nặng nề. Tuy nhiên hình
chư chỉ có một bộ phần nhỏ của đơn vị này vào được chợ Lộc
Ninh. Phần lớn đang bị địch quân theo sát tấn công trên lộ trình
rút về thị xã. Cánh quân này bị quân CSBV bám sát và tấn công
liên tục suốt trong đêm đó.
Các căn cứ của Chi Khu Lộc Ninh, của Tiểu đoàn 53 Pháo binh và
Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9 của Đại tá Nguyễn Công Vĩnh bị pháo
kích dữ dội nhiều đợt suốt đêm 5 rạng ngày 6 này. Căn cứ
Chiến đoàn 9 ở cuối sân bay bị pháo nặng nhất, hầm cứu thương
sập, tất cả Trung đội Quân y bị chết gần hết. Trong ngày quân
CSBV mở nhiều đợt tấn công vào căn cứ nhưng đều bị đẩy lùi.
Sự thực căn cứ này đứng vững được là nhờ vào yểm trợ của
KQVN với các khu trục phản lực đánh sát bờ rào đất khá cao
chung quanh. Cộng quân tổn thất rất lớn về nhân mạng. Căn cứ
Tiểu đoàn 53 Pháo binh gần đó của Trung tá Thông cũng bị pháo
giập nặng; các ụ pháo và các khẩu pháo của Tiểu đoàn hoàn
toàn bị... câm tiếng, không còn một khẩu nào sử dụng được.
Thương binh ở hai căn cứ này lên quá cao. Không một trực thăng
nào của KQVN hay Hoa Kỳ đáp xuống được để tải thương hay tiếp
tế suốt hai ngày đêm liền vì phòng không của địch quá dày và
quá mạnh.
Tiều đoàn 3/9 (-) (không nhớ tên Tiểu đoàn trưởng) hành quân ở
phía nam thị xã, trong buổi chiều đó tuy bị Cộng quân bám tấn
công nhưng bảo cáo là đã về được cuối sân bay, ở bìa rừng cao
su hướng đông phi đạo và của căn cứ Chiến đoàn 9. Tướng Hưng
trực tiếp liên lạc với Tiểu đoàn trưởng và chỉ thị cho giữ
quân tại chỗ để bảo vệ mặt ngoài cho Chiến đoàn chỉ trừ một
Đại đội vào căn cứ tăng cường cho Đại tá Vĩnh và một Trung
đội khác cho TĐ53/PB của Trung tá Thông. Tất cả các đơn vị của
Chiến đoàn nằm chịu trận tại chỗ, suốt đêm 6 rạng ngày 7, kể
cả hai đơn vị dã ngoại là TĐ2/9 (-), ĐĐ9TS và TĐ3/9 (-), hứng
pháo của địch quân. Đến 4 giờ sáng ngày 7 thì mất liên lạc
với Đại úy Nguyễn Quang Nghi, Tiểu đoàn trưởng TĐ2/9 và cả Trung
úy Thái Minh Châu, Đại đội trưởng ĐĐ9TS. Coi như cánh quân cuối
cùng ở phía bắc Lộc Ninh kéo về thị xã Lộc Ninh bị tan rã.
Tướng Hưng mất gần 2 nghìn quân, hơn 80 chiến xa và quân xa, và
hơn hai chục khẩu pháo 105 ly và 155 ly. Màn đêm sắp phủ trùm
lên sự nghiệp làm tướng của Tướng Hưng.
Đêm 6/4/1972 đó ngồi ăn cơm với Tướng Hưng ở căn cứ của Bộ Tư
lệnh Hành quân nhẹ của SĐ5BB ở An Lộc, (căn cứ trên mặt đất,
với các công sự khá chắc chắn, nhìn ngang hông của tư dinh tỉnh
trưởng, chưa dời sang hầm ngầm mà Đại tá Lê Nguyên Vỹ đang tu
bổ), ông kể lại cho tôi nghe từ ngày ông về phục vụ ở SĐ21BB
khi còn là Trung úy, từ đầu năm 1964 cho đến năm 1968, do Tướng
Nguyễn văn Minh làm Tư lệnh với bao nhiêu công trận và Tướng Minh
đã mến thương, nâng đỡ ông như thế nào cho đến ngày Tướng Minh
lên làm Tư lệnh QĐIII & Vùng 3 CT và đưa ông lên Tư lệnh SĐ5BB và
thăng cấp tướng, Tướng Minh chưa một lần nào nặng lời với ông.
Ông nói với tôi, “Dưỡng à, trận chiến này vô cùng nguy hiểm,
sống chết chỉ trong giây phút. Cùng khóa, cùng Trung đội của
Thầy Chiêu, ngày nay tôi đã lên tướng mà Dưỡng và các bạn
khác, đến nay, chưa một người nào thăng được cấp trung tá. Như
vậy là quá mức rồi, chết cũng đáng. Còn Dưỡng, tội tình gì
mà ở đây cho thiệt thân, uổng mạng. Ngày mai về Lai Khê đi. Đưa
Đại úy Bé lên đây là được rồi.” (Đại úy Trần văn Bé là phụ tá
của tôi, cũng là Biệt đội trưởng Biệt đội Quân báo Sư đoàn. Sau
năm 1973, thăng Thiếu tá chuyển về Định Tường làm Trưởng phòng
2 Tiểu khu. Năm 1976 khi bị CSVN cầm tù ở Trại Suối Máu Biên
Hòa, vượt ngục bị chúng bắt lại, đem xử bắn tại Suối Máu
cùng một Đại úy ngành An Ninh Quân Đội. Buổi trưa đó, ngay sau
khi hai sĩ quan này bị bắn, trời đang nắng gắt bỗng tối sầm
lại, giông gió nổi lên một chập lâu. Tù nhân các trại Suối Máu
vẫn còn nhớ chuyện trời đất khóc người bị giết oan này).
Tôi không nói gì và suy nghĩ nhiều về lời tâm sự của Tướng
Hưng. Một chập sau tôi dứt khoát trả lời là tôi không về Lai
Khê…. Buổi cơm thật buồn, vì chúng tôi mất mát, tổn thất lớn
lao, mà chính tôi cũng có trách nhiệm là không hiểu tường tận
về khả năng to lớn của CSBV ở biên giới tây bắc, vùng Lưỡi Câu,
nơi tập trung quân trước trận đánh và các căn cứ địch trên dòng
sông Chllong trong tỉnh Kratié của Kampuchia.
Ngày hôm sau, mới thực sự là ngày quyết định cho Lộc Ninh.
Khởi đầu ở buổi sáng, khoảng 6 giờ, khi binh sĩ ở mặt tiền
của căn cứ của Chiến đoàn 9 thấy chiến xa CSBV lù lù tiến vào
cổng của căn cứ, hoảng sợ bỏ chạy mà chưa có tấn công bộ binh
như mấy ngày trước. Chiến xa của chúng vào trận địa chậm một
đôi ngày nhưng gây ngay chấn động. Chừng bốn chiếc T-54 của
chúng tiến vào con đường dốc và bắn đại bác vào căn cứ. Đại
tá Nguyễn Công Vĩnh trong hầm chỉ huy được báo cáo tin này. Ông
báo cáo lên Bộ Tư lệnh nhẹ của Tướng Hưng là căn cứ bị chiến
xa tấn công. Đó là báo cáo cuối cùng của của Đại tá Vĩnh
trước khi cùng mấy sĩ quan tham mưu và toán Cố vấn Hoa Kỳ của
Chiến đoàn, bỏ căn cứ và có ý định chạy ra với TĐ3/9 đang ở
đầu sân bay ngoài căn cứ. Tuy nhiên tất cả đều bị CSVN bắt.
Trung tá Thông, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 53 Pháo binh gần đó,
cũng chạy về hướng Tiểu đoàn 3/9 và cũng bị bắt.
Bên trong căn cứ của Chiến đoàn, Thiếu tá Trần Đăng Khoa, Trung
đoàn phó, điều động binh sĩ củng cố lại tuyến phòng thủ. Quân
phòng thủ dùng M-72 bắn vào mấy chiến xa, nhưng không hiệu quả
và chiến xa T-54 địch bắt đầu nhả đạn và tiến lên căn cứ. Bộ
binh địch tràn vào theo chiến xa, Thiếu tá Khoa trở xuống hầm
chỉ huy gọi vô tuyến báo cáo với Tướng Hưng là Đại tá Vĩnh
đã ra với TĐ3/9 nhưng không liên lạc được nữa. Chiến xa địch còn
bên ngoài cổng, nhưng bộ binh địch đã vào trong căn cứ, đang
đánh nhau ở phía trên hầm. Tướng Hưng, Trung tá Đăng Trưởng
phòng 3, Thiếu úy Tùng tùy viên của Tướng Hưng, và tôi đang ở
trên trực thăng chỉ huy, đều nghe rõ đối thoại của Tướng Hưng
với Thiếu tá Khoa, trừ Đại tá Miller, Cố vấn trưởng không biết
chuyện gì đang xảy ra. Ông ngơ ngác nhìn chúng tôi và hỏi gì
đó, nhưng không ai trả lời. Thiếu tá K. yêu cầu “Xin dội bom trên
đầu tôi, chúng đã tràn ngập căn cứ và đang bắn vào hầm chỉ
huy, xin 45 đừng do dự….” Tướng Hưng nói: “Khoa, đây 45 nghe rõ,
tôi sẽ làm đúng lời yêu cầu của anh. Tôi sẽ lo chu đáo cho gia
đình anh....” Mấy tiếng sau cùng của Thiếu tá Khoa: “Xin cám ơn
và vĩnh biệt 45...” nghe rõ kèm theo một tiếng nổ. Mắt Tướng
Hưng hoen đỏ, đầy nước mắt. Chúng tôi đều rơi lệ. Nhìn xuống
căn cứ chỉ thấy màn khói mỏng. Thảm kịch kéo đến, tôi nghe
Hưng chuyển qua tần số gọi yêu cầu KQVN đánh bom trên căn cứ của
Chiến đoàn 9, phá hủy chiếc nôi của con mình để tàn sát địch
quân đang tràn vào chiếm lĩnh nó. Khi ông gọi khu trục là lúc
ông hiểu rõ hơn ai hết thảm kịch của chính ông. Đến lúc khu
trục yêu cầu trực thăng rời vùng và tiếng bom từng đợt dội
xuống căn cứ cũng là lúc Tướng Hưng bị Tướng Minh xát muối
bầm mình. Đó là lần thứ ba..và rất dữ dội.
6. NHỮNG QUYẾT ĐỊNH SÁNG SUỐT
CỦA TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG ĐÃ CỨU VÃN AN LỘC TRONG NGÀY 7/4/1972.
Buổi sáng trước khi lên trực thăng bay lên Lộc Ninh, Tướng Hưng
đã ra lệnh cho Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 52 tăng phái, đóng
ở hai căn cứ Hùng Tâm phía bắc cầu Cần Lê đưa hai Tiểu đoàn ra
Ngã ba QL-13. Trái với suy đoán hay phỏng đoán của nhiều người
viết về đoạn quân sử này là Tướng Hưng ra lệnh cho Chiến đoàn
52 đưa quân lên tiếp viện cho Lộc Ninh tiến theo trục lộ này.
Thực ra ông chỉ ra lệnh cho Chiến đoàn đưa quân ra QL-13 để chận
hướng tiến của chiến xa địch trên trục lộ chính vào An Lộc như
một tuyến phòng thủ phía trước của tuyến cầu Cần Lê. Ở căn
cứ cầu Cầ̀n Lê có hai Đại đội của SĐ5BB, một của TĐ2/9, một
của TĐ1/7 và hai Đại đội ĐPQ của Tiểu khu Bình Long với 6 khẩu
pháo do Trung tá Nguyễn văn Hòa chỉ huy, trấn đóng. Vì buổi
sáng sớm Tướng Hưng đã được Đại tá Nguyễn Công Vĩnh báo cáo
là căn cứ của CĐ 9 bị chiến xa địch tấn công. Đến lúc đó mới
xác nhận là CSBV thực sự có chiến xa. Vì vậy Tướng Hưng muốn
lập thêm một tuyến, trước tuyến cầu Cần Lê, nằm trên trục lộ
này, chừng 8 dặm (8 miles) ở hướng bắc An Lộc. Tướng Hưng sau khi
mất liên lạc với Thiết đoàn I Kỵ binh ngày hôm trước đã không
còn hy vọng tiếp viện hay giải tỏa Lộc Ninh nữa.
Nhưng diễn tiến trên trận địa không được như mong muốn vì khi
chuyển quân ra chưa đến QL-13 Chiến đoàn 52 đã chạm địch nặng
mà đó là Sư đoàn Công trường 5 CS và Trung đoàn 95B tăng phái
là hai đơn vị đã phục kích và đánh tan Thiết đoàn 1 Thiết Kỵ
trong ngày hôm trước. Trước buổi trưa ngày đó, 7 tháng 4, khi
trực thăng của Tướng Hưng từ Lộc Ninh về bay trên vùng Cần Lê
sau khi khu trục dội bom xuống căn cứ của Chiến đoàn 9, Tướng
Hưng được Chiến đoàn 52 báo cáo đang chạm địch rất nặng trên
Tỉnh lộ 17 khi đang tiến ra QL-13, nhưng không thể yếm trợ được
bẳng phi pháo đánh cận vì sợ đánh nhầm vào quân bạn. Tướng
Hưng ra lệnh cho Chiến đoàn cố gắng rút về An Lộc, không cần
tiến ra QL-13 phía bắc cầu Cần Lê nữa. May mắn là trực thăng
chỉ huy vòng lên vùng phía bắc cầu Cần Lê trên trục Sông Bé
chảy song song với QL-13, trước khi rời vùng, chúng tôi quan sát
thấy một vị trí dã ngoại trên một vùng đất trên bờ sông có
mấy cần antennes truyền tin vô tuyến mà cấp bộ chỉ huy cấp Sư
đoàn CSBV mới có, khi hành quân cấp tốc, Tướng Hưng gọi khu
trục của KQVN đánh vào tọa độ đó. Phi vụ rất chính xác. Khi
trở lại vùng trời cầu Cần Lê thì được báo cáo là phần lớn
các đơn vị của Chiến đoàn 52 đã vượt qua phía nam cầu Cần Lê,
dù thiệt hại nặng. Nhưng trên trục lộ thì dù trực thăng bay cao
trên bốn nghìn bộ, vẫn quan sát thấy dòng người đang cuốn về
cầu Cần Lê chen lẫn với một đoàn chừng hai mươi xe đang di
chuyển mà chính Tướng Hưng và Đại tá Miller đều cho là chiến
xa. Nửa ngờ rằng chiến xa CSBV, lại nửa ngờ rằng biết đâu đó
là đoàn thiết giáp của Trung tá Nguyễn Đức Dương đã mất liên
lạc truyền tin từ hôm qua. Tướng Hưng trở lại tần số của Thiết
đoàn 1 Kỵ binh. Vô tuyến lặng câm.
Một lần nữa Tướng Hưng đưa ra một quyết định quan trọng khác.
Ông sợ rằng bộ binh và chiến xa của địch đang “bôn tập” để tấn
công An Lộc. Đây là chiến thuật “thừa thắng xông lên” của quân
Bắc Việt, thường gọi là “cấp tập”. Một mặt ông chuyển tần số
yêu cầu KQVN đánh bom xuống dòng người đang bôn tập trên QL-13,
chừng tám đến mười cây số phía bắc cầu Cần Lê. Ông cũng ra
lệnh cho tôi vẽ liền hai boxes B-52 cập theo bờ tây Sông Bé đưa
ngay cho Đại tá Miller với yêu cầu đánh bom trong buổi chiều hay
đêm đó. Mặt khác ông ra lệnh cho Trung tá Nguyễn văn Hòa, chỉ huy
tuyến cầu Cần Lê, tức khắc đặt chất nổ phá sập các nhịp cầu
béton cốt sắt của chiếc cầu này. Nếu phá sập cầu hoàn toàn
thì tốt nhất. Đổng thời dùng pháo binh bắn chặn tối đa trên
trục lộ phía bắc, mỗi khi khu trục của KQVN rời vùng. Nếu
địch quân tấn công mạnh, liệu không giữ được pháo, thì phá hủy
2 khẩu 155 ly và 4 khẩu 105 ly pháo binh ở đó. Trả bớt một Đại
đội của TĐ1/7 về cho Chiến đoàn 7 của Trung tá Lý Đức Quân nội
trong buổi trưa. Lệnh phá cầu được Trung tá Hòa thi hành ngay.
Tuy không đủ kỹ thuật làm cho cầu sụp đổ hoàn toàn nhưng mấy
nhịp cầu bị hư hại nặng, chiến xa không thể di chuyển được.
Về đến căn cứ Bộ Tư lệnh nhẹ ở An Lộc, trong khi trực thăng
chỉ huy bay về Lai Khê lấy thêm nhiên liệu, Tướng Hưng vào ngay
Trung tâm Hành quân báo cáo mọi việc lên Trung tướng Minh, Tư
lệnh QĐIII & V3CT. Lúc đó Đại tá Lê Nguyên Vỹ không có ở đó,
còn Đại tá Bùi Đức Điềm, Tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn,
đang chỉ huy việc dọn chuyển các cơ sở của Bộ Tư lệnh Hành
quân của Sư đoàn sang căn cứ mới, vì suốt trong đêm trước và
trong buổi sáng đó, pháo của địch đã tập trung nhiều hơn, rơi
nhiều quả chung quanh căn cứ Bộ Tư lệnh nhẹ cũ mà chúng tôi suy
đoán là thám sát pháo của địch đã điều nghiên kỹ vị trí của
căn cứ cũ này. Khi bước vào Trung tâm Hành quân ở căn cứ cũ, chưa
dọn kịp, Tướng Hưng nói với tôi “chắc là bị xát muối nữa...”
Đúng và còn hơn thế nữa. Lần này thì chính Tướng Hưng bị
Tướng Minh dội pháo, không phải là xát muối nữa. Không một sĩ
quan nào dám nghe, họ lẻn ra ngoài. Tôi vì quá thân với Tướng
Hưng, nên ở lại. Theo Tướng Minh thì Hưng ra lệnh cho phá cầu
Cần Lê là coi như bỏ luôn mấy đứa con ở Lộc Ninh, làm tuyệt
đường về của họ, nhất là Thiết kỵ của Trung tá NĐD. Biết đâu
đoàn chiến xa mà Tướng Hưng gọi là “bôn tập” vào An Lộc trên
QL-13, phía bắc cầu Cần Lê kh̀ông là đoàn chiến xa của Thiết
Kỵ 1. Một cánh quân lớn như vậy gồm hơn 60 chiến xa, quân xa, bộ
binh, tất cả hàng nghìn quân, mất liên lạc vô tuyến không có
nghĩa là dễ dàng bị đánh tan rã hay biến mất vô tông tích.
Đánh đấm như là giết con mình. Tướng Minh cho rằng Tướng Hưng
có những quyết định vội vã, không cân nhắc, và nhất là không
trình báo trước với thượng cấp trước khi quyết định. Tướng
Hưng chỉ nín lặng nghe vì thực ra những điều Tướng Minh nêu ra
rất hợp lý. Tướng Hưng không có lý do nào chính đáng để thưa
trình cùng vị Tướng thượng cấp, cũng là thầy mình, ngoài lý
do là sợ quân CSBV bôn tập tấn công An Lộc buổi trưa đó. Nhưng
ông không dám trình bày…. Ông đành chấp nhận sự thất bại của
mình và tự quyết định số phận của mình.
Bước ra khỏi phòng hành quân, vào phòng ăn, khi đầu bếp dọn
thức ăn lên cho ông và tôi, Tướng Hưng chỉ yêu cầu cho nước uống,
tôi cũng vậy. Làm sao nuốt nổi cơm trong hoàn cảnh đó. Tổn
thất quá lớn lao. Ông lập lại ý định quyết giữ An Lộc bằng
sinh mệnh của ông và cho rằng cái nghiệp làm tướng của ông đã
không còn gì nữa. Thân làm tư lệnh Sư đoàn mà mới trận đầu
tiên đã mất mát quá to lớn, gần một nửa Sư đoàn, mà cái mất
lớn nhất là mất niềm tin của người thầy là Tướng Minh đã
từng tin tưởng nơi khả năng cầm quân của ông. Một lần nữa Tướng
Hưng chỉ thị cho tôi về Lai Khê và đưa người phụ tá của tôi lên
thay tôi. Tôi có trình với Tướng Hưng rằng hiện ở An Lộc tôi có
Đại đội 5 Trinh Sát, với mấy toán viễn thám vừa thu hồi về.
Các đơn vị nhỏ này rất thiện chiến, sẽ bảo vệ Tướng Hưng. Họ
biết rõ địa thế, kinh nghiệm hoạt động trong rừng nhiều ngày
đêm, di chuyển đêm dễ dàng ở mọi thế đất đồi núi sông ngòi,
nhất là được chỉ huy bởi những sĩ quan kiên cường, giỏi trận
mạc. Nếu Tướng Hưng quyết tự sát khi mất An Lộc, tôi tin rằng
chúng tôi sẽ đem được xác ông và xăng ra rừng đốt và mang than
tro hài cốt về được Lai Khê trong vòng hai tuần. Tôi khẳng định
với Hưng, như lời hứa của một người bạn, là tôi sẽ giữ mạng
sống của mình và mang xác Hưng về. Tôi ở lại với Hưng ở chiến
trường này. Chuyện này sau đó tôi cho Đại úy Dương Tấn Triệu,
Trung úy Lê văn Chánh, Đại đội trưởng Trinh Sát và Trung Úy
Nguyễn Đức Trạch, tức nhà thơ Trạch Gầm, con trai trưởng của
Nữ sĩ Tùng Long, là những sĩ quan thân tín phụ trách những
công tác mật và gay go trong các mật khu của CSBV trong khu vực
chiến thuật của Sư đoàn trước trận chiến. Ba sĩ quan ưu tú này
là những người bạn thân cận, dám sống chết với tôi.
Sau buổi cơm toàn uống nước lã, Hưng chỉ thị cho họp tham mưu
mời Đại tá Trần văn Nhật, Tỉnh trưởng Bình Long, Đại tá Lê
Nguyên Vỹ, Phụ tá Hành quân của Tướng Minh, Trung tá Lý Đức
Quân, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 7, các cố vấn Hoa Kỳ Sư
đoàn và Tiểu khu, các sĩ quan tham mưu của Bộ̣ Tư lệnh nhẹ Sư
đoàn và Trung tá Nguyễn văn Biết, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn
3 Biệt Động Quân được Trung tướng Minh cho tăng viện vào An Lộc,
vừa mới được trực thăng vận vào sân bay Đồng Long ở phía bắc
thị xã trong buổi sáng (đơn vị này mất mấy sĩ quan trong ngay
buổi đầu tiên đổ quân vào An Lộc vì khi phi cơ chỉ huy của Trung
tá Biết vừa đáp xuống đã bị pháo kích, may mà ông không hề
hấn gì).
Buổi họp hành quân này tổ chức trong villa duy nhất trên mặt đất
ở khu vực của Bộ Tư Lệnh nhẹ mới chuyển sang (Bản đồ #1). Lúc
đó vào khoảng 2:30 giờ trưa ngày 7, tháng 4, sau khi hai boxes
B-52 xin buổi sáng đã được Không lực Chiến lược Hoa Kỳ thực
hiện ở phía bắc cầu Cần Lê cặp theo Sông Bé như đã đề nghị.
Lúc đó Tiểu đoàn 1/7 (-) cũng đã rút từ sân bay Quản Long ở
phía đông về và các TĐ2/7, TĐ3/7, ĐĐTS7, hành quân dã ngoại cũng
đã rút về đóng quân án ngữ ở phía bắc và ven sườn tây bắc
thành phố còn Bộ Chi huy Chiến đoàn 7, ở căn cứ Charlie, đã
rút hết vào khu vực tòa nhà Hành chánh của Tỉnh lỵ. Chỉ trừ
Chiến đoàn 52 và đơn vị hỗn hợp của Trung tá Hòa ở Căn cứ Cần
Lê chưa rút về được mà chỉ có những đơn vị nhỏ của Chiến
đoàn 52 vượt được qua suối chạy về thị xã. Giờ đó Đại đội 7
Trinh sát, một toán nhân viên của Phòng 2 HQ Sư đoàn và Tiểu khu
đang ở ngoài cổng sân bay Đồng Long, phía bắc thị xã, đón nhận
các toán quân này và chờ đón những toán khác chạy về.
KỲ 5
Sau khi tôi trình chiến trận trong
mấy ngày qua và tổn thất của Sư đoàn ở Lộc Ninh và ước tính
là trận An Lộc sẽ có thể diễn ra ngay trong đêm đó hay sáng
ngày hôm sau, Trung tá Đăng trình sơ đồ bố trí các đơn vị phòng
thủ tỉnh lỵ An Lộc theo quan niệm của Tướng Hưng. Sự phối trí
này tạm thời áp dụng cho đến khi có tăng viện thêm (Bản đồ #
2). Theo sơ đồ đó thì tạm thời TĐ1/7 và ĐĐ7TS sẽ đóng trấn giữ
mặt bắc thành phố với TĐ2/7 ở cánh trái. Khi Chiến đoàn 52 về
toàn bộ, sẽ giao khu vực trách nhiệm lại cho Chiến đoàn này
và rút sang cánh trái án ngữ mặt tây bắc thanh phố. Nếu đơn
vị này bị tổn thất nặng thì đóng ở khu vực nằm phía sau
tuyến của TĐ1/7. Tuyến phía tây, từ cổng Phú Lố trở xuống
phía nam do TĐ3/7 án ngữ. Chiến đoàn 3 BĐQ án ngữ ở tuyến phía
đông. Mặt nam thành phố do Tiểu khu phụ trách với các đơn vị
ĐPQ trực thuộc. Tiểu khu duy trì các đơn vị ĐPQ trên hai ngọn
Đồi Gió và Đồi 169 ở đông nam thành phố.
Hai điều quan trọng trong buổi họp này là: Thứ nhất, Tướng Hưng
yêu cầu Đại tá Trần văn Nhật (sau này thăng cấp Chuẩn tướng, Tư
lệnh SĐ2BB) với tư cách là Tình trưởng ra lệnh trưng dụng tất
cả các loại xe be kéo gỗ và tất cả các loại xe chuyên chở
bốn bánh khác hiện có trong giờ đó tại tỉnh lỵ và Chiến
đoàn 7 của Trung tá Lý Đức Quân trách nhiệm đem các loại xe
kéo gỗ và xe đò làm chướng ngại vật lập tuyến phòng thủ án
ngữ trục QL-13 dẫn vào thành phố và các trục lộ cổng Phú Lố
ở phía tây và cổng xe lửa trên trục lộ từ sân bay Quản Lợi đổ
vào. Thứ hai, Tướng Hưng yêu cầu Đại tá TVN thông tri cho dân
chúng thành phố biết nên di tản vì CS sẽ tấn công lớn vào
tỉnh lỵ. Chọn giữ lại các nhân viên công chức cần thiết về
điều hành điện nước, y tế, chiêu hồi hay nhân viên bán quân sự
ở lại, kỳ dư cho di tản khỏi thành phố để tránh tổn thất nhân
mạng thường dân vô ích. Đại tá Nhật, giữ sự tế nhị như thường
xuyên, trong buổi họp hành quân đó không đưa ra ý kiến về hai
việc này, nhưng liền sau đó gặp riêng Tướng Hưng và trình bày
là hai chỉ thị trên của Tướng Hưng sẽ ảnh hướng rất lớn về
tâm lý của quần chúng và rất quan trọng nên ông sẽ xin trình
lại Trung tướng Tư lệnh QĐIII & V3CT kiêm Đại biểu Chính phủ ở
Vùng 3 Chiến Thuật. Sau đó Tướng Hưng lên trực thăng không đem
các trưởng phòng tham mưu theo. Tôi nghĩ là ông về Lai Khê về
chuyện phòng thủ ở đó với Trung tá Lê Thọ Trung, tham mưu
trưởng và chuyện riêng gia đình liên quan đến quyết định tử thủ
An Lộc của ông.
Buổi chiều trời chưa sụp tối khi Tướng Hưng trở lại An Lộc,
thì thành phố đã hứng một số đạn pháo của Cộng sản và còn
đang tiếp tục bị pháo tuy không nhiều lắm, nhưng đã có một số
khá lớn cư dân --cả vài trăm người-- được đưa đến điều trị ở
bệnh viện thành phố chỉ cách Bộ Tư lệnh nhẹ một con đường. Ở
phía bắc thành phố, là khu vực phố buôn bán và chợ An Lộc,
binh sĩ các đơn vị của Chiến đoàn 9 ở Lộc Ninh bị thất tán
cũng chạy về, kể cả dân chúng. Chiến đoàn 52, sau khi chạm
súng ở phía tây bắc cầu Cần Lê và mất luôn cả hai căn cứ Hùng
Tâm, cũng đã rút về, được đưa vào tuyến phòng thủ của phía
bắc thành phố. Tổn thất của đơn vị này khá nặng, chỉ còn hơn
bốn trăm quân có thể tác chiến được. Các đơn vị của Chiến
đoàn 7 đang kéo các loại xe be và xe chuyển chở dân sự lập
chướng ngại vật trên các trục lộ chiến xa địch có thể tiến
vào thành phố như lệnh của Tướng Hưng mà hình như không có
lệnh trưng dụng của Tòa Tỉnh trưởng.
Đúng vào lúc này, khoảng 8 giờ đêm, trong phòng hành quân dưới
hầm ngầm Tướng Hưng bị Trung tướng Minh xát muối lần chót, lần
thứ năm, trước khi trận chiến An Lộc thực sự diễn ra, cũng
nặng nề, về việc mà Tướng Hưng yêu cầu Đại tá Nhật trong cuộc
hop hành quân buổi xế trưa mà Đại tá TVN có nói cho Tướng Hưng
biết sau buổi họp là sẽ trình lên Trung tướng Minh quyết định.
Mà quyết định của Trung tướng Minh là không quyết định gì hết
ngoài việc “xát muối” Tướng Hưng. Nhưng chuyện đã lỡ rồi,
Chiến đoàn 7 đang thu xe dân sự lập tuyến án ngữ như lệnh đã
nhận được. Ở đây phải ghi nhận quyết tâm và kiến thức quân sự
vững chãi của Tướng Hưng. Ông đã nhận định rõ kích thước lớn
lao của trận chiến sắp diễn ra, hay đã diễn ra từ hai hôm trước,
nên nhanh chóng chọn quyết định phản ứng thích nghi của một vị
tướng chỉ huy ngoài mặt trận và can đảm nhận chịu trách nhiệm
về mọi quyết định của mình trước thượng cấp. Ở chiến địa,
tình hình chuyển biến nhanh chóng từng phút, từng giây, thân
làm tướng chỉ huy mà còn hỏi trình thưa gởi về lệnh lạc thì
làm sao mà đánh giặc được…. Vì vậy, mặc dù bị Tướng Minh xài
xể nặng, khi buông ống nói điện thoại với Tướng Minh, ông
chuyển sang tần số gọi Trung tá Lý Đức Quân, Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 7, hỏi xem chuyện lập chướng ngại vật trong vòng đai
phòng thủ phía bắc tiến triển đến đâu và không hề nghe ông ra
lệnh hủy bỏ lệnh trong buổi họp xế trưa hay đình chỉ chuyện thu
xe dân sự làm rào cản phòng thủ trên các trục lộ dẫn vào
thành phố ở vòng đai mặt bắc.
Khoảng chừng gần 9 giờ đêm đó, Tướng Hưng cùng Đại tá Miller đi
xe lên tuyến phía bắc gặp Trung tá Quân, Trung đoàn trưởng Trung
đoàn 7. Xe Jeep của tôi theo sau với Đại úy Triệu, nhân viên Phòng
2 Hành quân của tôi và vài tùy tùng. Trong khi Tướng Hưng và Cố
vấn Miller đi cùng Trung tá Quân xem bố phòng của Chiến đoàn, tôi
ra trạm kiểm soát và tiếp nhận binh sĩ từ mạn bắc chạy về.
Hơn một giờ tiếp xúc với một số hạ sĩ quan và binh sĩ của
Chiến đoàn 9, TĐ53 Pháo binh, Chi khu Lộc Ninh và những chiến
binh thất lạc của Chiến đoàn 52 vượt qua được cầu Cần Lê chạy
về thành phố vào chập tối, tôi mới hiểu rõ những nhận thức
của Tướng Hưng buổi trưa khi bay trực thăng từ Lộc Ninh, về cầu
Cần Lê là chính xác:
Thứ nhất, nhiều người chạy từ Lộc Ninh về trên trục quốc lộ
này đã lẩn trốn ở các bụi rập bên đường khi nghe tiếng động
cơ chiến xa, nhìn thấy nhiều chiến xa CSBV với bộ đội mặc quân
phục xanh lá cây ngồi trên tháp pháo và bộ đội nắm súng AK-47
và vác B-40 chạy bộ --vượt qua nơi ẩn trú của họ-- về hướng
cầu Cần Lê. Có những binh sĩ trốn chạy về trễ hơn cho biết đã
mục kích phi pháo của KQVN oanh kích vào đoàn chiến xa và bộ
đội CSVN ở quãng đường cách Lộc Ninh về phía nam chừng bảy,
tám, đến mười cây số. Tổn thất của chúng rất lớn đến đỗi
chúng bận rộn thu dọn xác chết và cứu thương đồng bạn không
lưu ý đến dân chúng có quân nhân lẫn lộn chạy qua khu vực này.
Thứ hai, nhiều binh sĩ của Chiến đoàn 52 cho rằng đơn vị của
họ ở Căn cứ Hùng Tâm bị pháo kích từ trong đêm đến sáng thì
bị bộ binh tấn công, nên khi có lệnh rút ra ngã ba QL-13 thì bỏ
căn cứ, di chuyển ra chưa đến mục tiêu đã chạm địch từ hướng
QL-13 tiến vào. Chiến đoàn đã bắn hạ được những toán quân
trước nhưng hình như bộ đội CSBV càng lúc càng đông hơn với
nhiều loại súng nổ càng lúc càng dữ dội hơn. Đơn vị tuy chạm
súng mạnh trong mấy giờ liền, tổn thất lớn, nhưng sau đó có
tiếng bom B-52 nổ ở phía đông bắc khu chạm súng thì trận đánh
thư giãn hơn nên nhiều đơn vị của Chiến đoàn lần lượt rút được
về An Lộc.
Thứ ba, một số thường dân, người Stiêng, cư ngụ ở một sóc nhỏ
gần bên bờ Sông Bé cho biết khi thấy đông đảo bộ đội Công sản
suốt đêm trực kéo qua sóc của họ đến khu vực khá rộng và cao
gần bờ Sông Bé, đến sáng tinh sương họ mở kéo cần dựng máy
liên lạc lên, nên biết sắp đánh lớn, sợ nguy hiểm một số gia
đình lẻn trốn về hướng quốc lộ và chạy cặp theo đường về
thị xã. Chạy hết một buổi thì nghe máy bay nhỏ bỏ bom, mấy
giờ sau khi qua khỏi cầu Cần Lê thì nghe máy bay lớn bỏ bom. Họ
tin rằng “bụt” cứu họ thoát chết.
Tổng kết những tin tức này, tôi cho rằng nhận định về diễn
tiến thế trận, việc chiến xa và bộ đội bộ binh của CSBV “bôn
tập” để tấn công An Lộc, ngày 7/4, khi mục tiêu này chưa kịp tổ
chức phòng ngự là vô cùng chính xác rút ra từ kinh nghiệm
chiến trường với hàng trăm trận chiến thắng của Tướng Hưng –từ
khi là Đại đội trưởng tiến dần lên đến cấp Tiểu đoàn trưởng
rồi Trung đoàn trưởng, trước khi là tư lệnh Sư đoàn, người sĩ
quan tên Hưng này là một cấp chỉ huy bách chiến bách thắng. Do
đó, những quyết định cấp thời vô cùng chính xác của ông buổi
trưa khi bay trên trực thăng chỉ huy trên vùng trời Lộc Ninh,
QL-13, Sông Bé và cầu Cần Lê đã cứu vãn được An Lộc từ những
giờ phút quyết định nhất làm thay đổi cục diện chiến trường
An Lộc ngay sau đó và cục diện chiến tranh Việt Nam trong hai năm
kế tiếp. Thử nghĩ, nếu An Lộc mất ngay trong ngày đó, 7/4/1972,
Sài Gòn sẽ ra sao? Washington sẽ nghĩ gì và làm gì? Sách lược
“Việt Nam hóa Chiến tranh” của Nixon-Kissinger ở giai đoạn áp
chót đó sẽ đi đến đâu? Mất An Lộc trong ngày đó sẽ tạo ảnh
hưởng dây chuyền vô cùng khốc hại là chính phủ Nam Việt Nam và
QLVNCH phải lo bảo vệ Thủ đô Sài Gòn là chính... Lấy quân ở đâu
ra mà tăng cường tiếp viện cho Kontum và Quảng Trị? Hay Hoa Kỳ
sẽ phải đưa Thủy Quân Lục Chiến trở lại Việt Nam? Không thể có
chuyện đó. Và như vậy có phải sẽ mất tất cả hay không? Là
thua cuộc sớm hơn và Hoa Kỳ còn tiếng tăm gì với thế giới!..
Vậy phải chăng quyết định sáng suốt và nhanh chóng của một
tướng lãnh như Tướng Lê văn Hưng ở An Lộc trong thời điểm đó
không là những quyết định lớn nhất mang tính cách quyết định
trong Chiến Tranh Việt Nam, đã cứu nguy cho cả Sài Gòn lẫn
Washington? Ông có xứng danh là một danh tướng của miền Nam hay
không? Còn sau đó, khi trận An Lộc đã diễn ra, đến cả những
người ở trong cuộc cũng ít người hiểu rõ về những khúc mắc
trên đây đã xảy ra trước đó, huống chi những vị cầm bút, dù
có tiếng tăm, ở bên ngoài dựa vào lời nói của người này hay
người khác mà viết về Cuộc chiến An Lộc năm 1972 thì cũng dễ
sai lạc lắm.
Tôi xin nhắc lại những quyết
định trên của Tướng Hưng:
1) Quyết định đánh bom và oanh kích
vào khu vực của một bộ chỉ huy dã ngoại cấp Sư đoàn CSBV trên
bờ tây Sông Bé.
2) Quyết định đưa Chiến đoàn 52 từ hai căn cứ Hùng Tâm ra ngã ba QL-13 lập thêm một tuyến án ngữ ở mặt bắc cầu Cần Lê, tuy chưa thực hiện nhưng đã chạm súng và kềm giữ được cánh quân lớn của CSBV đang bôn tập xuống tấn công cầu Cần Lê.
2) Quyết định đưa Chiến đoàn 52 từ hai căn cứ Hùng Tâm ra ngã ba QL-13 lập thêm một tuyến án ngữ ở mặt bắc cầu Cần Lê, tuy chưa thực hiện nhưng đã chạm súng và kềm giữ được cánh quân lớn của CSBV đang bôn tập xuống tấn công cầu Cần Lê.
Vì nếu quân địch không trước tiên đánh cánh quân của Chiến đoàn
52 trên Tỉnh lộ 17, chúng sẽ bị đơn vị này đánh thúc ngang hông
trên QL-13 khi bôn tập xuống hướng cầu Cần Lê. Trận đánh này đủ
cho tuyến cầu Cần Lê chuẩn bị pháo tập lên khu vực tiến quân
trên QL-13 phía đông bắc nơi chạm súng của Chiến đoàn 52 và có
thời gian cần thiết phá các nhịp cầu Cần Lê.
3) Quyết định oanh kích và dội bom đoàn quân gồm chiến xa và
quân bộ chiến của CSVN đang bôn tập từ Lộc Ninh hướng về cầu
Cần Lê.
4) Quyết định cho Trung tá Nguyễn văn Hòa phá sập cầu Cần Lê
ngăn cản kịp thời chiến Xa của CSBV tiến vào An Lộc khi thành
phố chưa có lực lượng phòng thủ.
Chỉ ngay trong đêm đó Tư lệnh bộ của Sư đoàn Công trường 5 của
quân CSBV đã không còn nghe trong hệ thống vô tuyến hành quân của
Tư lệnh bộ TWC/MN hoặc COSVN hay Bộ Tư lệnh Hành Quân của Chiến
dịch Nguyễn Huệ cho đến một tuần lễ sau theo ghi nhận và báo
cáo của Đại đội 5 Kỹ Thuật của SĐ5BB (là đơn vị kỹ thuật
Truyền tin trực thuộc Phòng 7/BTTM/QLVNCH, chuyên môn dùng hệ
thống vô tuyến tìm đài tối tân xen vào hệ thống truyền tin vô
tuyến của CSBV bắt tin và chuyển dịch bản tin mật mã thành
bạch văn cho Phòng 2/SĐ5BB nghiên cứu và ước tính. Mỗi Sư đoàn
Bộ binh QLVNCH đều có một Đại đội Kỹ Thuật như vậy).Với báo
cáo của ĐĐ5KT và những tin tức của binh sĩ và thường dân từ
Lộc Ninh chạy về, chúng tôi biết chắc chắn là Bộ Chỉ huy hành
quân của SĐ-5/CS đã bị hủy diệt và cánh quân gồm bộ binh và
chiến xa do Bộ Chỉ huy của Sư đoàn CS này điều động bôn tập tấn
công An Lộc trong ngày 7 tháng 4, đã bị tổn thất nặng bởi cuộc
oanh kích của KQVN buổi trưa và hai boxes B-52 trong buổi chiều
cùng ngày. Cộng thêm sự truy cản của Chiến đoàn 52 và sự phá
cầu Cần Lê, lực lượng của TWC/MN đã không thể tấn công và
chiếm An Lộc trong ngày đó.
Cuộc tấn công chính của TWC/MN vào An Lộc chỉ thực sự diễn ra
vào ngày 13 tháng 4, 1972, tức là gần một tuần sau đó. Trong
thời gian 6 ngày, 5 đêm này Cộng quân chỉ pháo kích bừa bãi
vào thanh phố. Sư đoàn Công trường 5 của chúng phải bỏ chiến
trường trên trục QL-13 vòng qua Mật khu Bến Than vào lộ trình
cặp theo Sông Sài Gòn về vùng Dầu Tiếng để bổ sung quân lấy quân
số từ Sư đoàn C30B của TWC/MN chuyển sang để có đủ quân trở
lại chiến trường An Lộc. Sư đoàn mới thành lập C30B đã từng
lấy cán bộ khung từ Sư đoàn Công trường 9 để làm nòng cốt và
từng tấn công Chiến đoàn 49 của SĐ18BB trên trục lộ 22 trong
ngày 31/3/1972 rạng ngày 1/4/1972. Sau trận đánh trên, Sư đoàn
C30B đã bỏ vùng hoạt động ở Tây Ninh tiến xuống vùng Sông Sài
Gòn hoạt động từ vùng Bến Than, ở sườn phía tây quận Bình Long
kéo dài xuống sườn phía tây Lai Khê, quận Bến Cát, xuống đến
Mật khu Bời Lời và tấn công các đơn vị đóng trong các căn cứ
cặp theo hành lang Sông Sài Gòn từ căn cứ Tống Lê Chân của Tỉnh
Bình Long phía bắc Mật khu Bến Than, xuống Trị Tâm –Dầu Tíếng,
Bến Cát và Bến Súc, tỉnh Bình Dương. Lần này, Sư đoàn C30B đã
phải bổ sung một số quân lớn cho Sư đoàn Công trường 5 ở vùng
Trị Tâm, bờ tây Sông Sài Gòn trong tuần lễ thứ hai của tháng 4.
Bổ sung quân xong, SĐ-5/CS tức tốc trở lại chiến trường An Lộc
sau trận tấn công đợt thứ nhất vào thành phố An Lộc của
SĐ-9/CS và các Trung đoàn 202 và 203 Chiến xa ngày 13 tháng 4.
Riêng Sư đoàn C30B từ Trị Tâm kéo xuống Bời Lời, được lệnh
đánh phá rối đồn bót ngoài ven tỉnh lỵ Bình Dương, như là mũi
tấn công phụ cấp Tiểu đoàn và Đại đội, không phải cấp Trung
đoàn cộng mà Sư đoàn này đã thực hiện ở trục lộ 22 mấy tuần
trước. Bị thất bại ở đó, chúng kéo xuống vừa lấy thêm quân ở
dọc hành lang sông Vàm Cỏ Đông trong trung tuần tháng 5, 1972 và
hoạt động trong vùng Trảng Bàng và Gò Dầu Hạ. Ở vùng hoạt
động này chúng tấn công Hiếu Thiện và dự định cắt đứt trục
lộ 22 và cô lập Tây Ninh nhưng bị SĐ25BB đánh mấy trận dữ dội
và thiệt hại nặng nên phải rút ra vùng Mật khu Mỏ Vẹt ngoài
biên giới bổ sung lần thứ hai. Trong khi đó thì mặt trận An Lộc
và mặt bắc Chơn Thành đang diễn ra ác liệt trong tháng 4 và
tháng 5.
Trở lại mặt trận An Lộc. Sau khi Tướng Hưng tự ra lệnh phá hủy
cầu Cần Lê (không phải do Đại tá TVN, Tiểu khu trưởng Bình Long,
đề nghị, như một số bài báo viết sai lạc) một số nhịp cầu hư
hại nặng. Ở vùng cầu Cần Lê, Chiến đoàn 52, được tướng Hưng
cho điều động TĐ31BĐQ –vừa mới được tăng viện- tiến lên ấp An
Hữu phía nam cầu, tiếp ứng và yểm trợ, về được An Lộc với
hơn 400 quân còn tác chiến được. Tình hình đã không còn nguy
hiểm như buổi sáng ngày đó. Sau đó, các đơn vị do Trung tá
Nguyễn văn Hòa chỉ huy ở Cần Lê gồm một Đại đội của TĐ2/9, hai
Đại đội ĐPQ 256 và 257 cũng rời căn cứ Cần Lê rút về trong
buổi xế trưa sau khi phả hủy hai khẩu pháo 155 ly và bốn khẩu
105 ly theo lệnh của Tướng Hưng, vì không có xe để kéo pháo về.
Buổi chiều khi quân bộ và chiến xa của CSBV tiến đến cầu Cần Lê
thì đã không thể vượt được qua cầu, ngược lại chúng còn bị
hứng thêm những trận oanh kích nặng của KQVN.
Dĩ nhiên cuộc tấn công qui mô vào An Lộc ngày 7 tháng 4 của
TWC/MN phải đình hoãn. Thứ nhất, vì đơn vị bôn tập vào An Lộc
là Sư đoàn Công trường 5 của chúng bị thiệt hại lớn lao. Thứ
hai, chiến xa của các Trung đoàn 202 và 203 Chiến xa CSBV cũng
bị thiệt hại, tuy không nặng lắm --khi phối hợp bôn tập với
quân bộ chiến của SĐCT5/CS của TWC/MN-- nhưng đã không thể qua
được cầu Cần Lê đã được phá hủy kịp lúc. Nhờ vậy, Tướng Minh
Tư lệnh QĐIII & V3CT chẳng những không mất An Lộc trong ngày, mà
còn có thì giờ đổ quân vào đó tăng viện cho Tướng Hưng và
giải tỏa được An Lộc. Từ đó, ông được đánh giá như một tướng
tài đã đánh bại được CSBV trong mùa Hè 1972 trong lãnh thổ
trách nhiệm của ông.
Tướng Minh có một nhãn quang rất sáng giúp ông chọn đúng một
người đủ tài để giữ đất giữ thành trong cơn giặc tràn bờ như
dầu sôi lửa bỏng. Dù ông có chê trách hay nổi giận với người
tướng này trong một chiến dịch, trong cuộc điều quân nhiều thất
lợi lúc ban đầu đó, cũng không là điều đáng nêu lên. Tuy nhiên
hình như hào quang có lúc bị che khuất nên ông trông một sĩ quan
khác như con gà hóa thành con quốc --con cuốc-- quá cưng chiều
nó. Mà nếu chỉ coi con gà đó là con quốc cũng được, không ai
muốn nói đến. Vì con quốc và con gà có hơn kém bao nhiêu đâu!..
Con quốc được tiếng kêu buồn thảm thiết. Con gà trống thì được
tiếng gáy. Mà con “gà này” thì tiếng gáy thật hay. Nên Tướng
Minh bị mê hoặc, nên tưởng nó là con phụng. Sự thực là sự
thực. Trung tướng Nguyễn văn Minh là một cấp chỉ huy thực tốt,
tôi luôn quí trọng, nhưng tôi nghĩ lòng tốt và sự tin tưởng của
Trung tướng đối với thuộc cấp đã bị “con gà” kia khai thác và
lợi dụng.
Sáng ngày 7 tháng 4, Chiến đoàn 3 BĐQ của Trung tá Nguyễn văn
Biết, được trực thăng vận tăng viện vào An Lộc gồm các đơn vị
chính là TĐ31, TĐ36 và TĐ52, chừng hơn 1,500 người. Trung tá
Biết, các Tiểu đoàn trưởng, các Đại đội trưởng CĐ33BĐQ đều là
những sĩ quan lỗi lạc, dày dạn chiến trường. Ngày hôm sau,
Tướng Minh cho tăng cường vào An Lộc Trung đoàn 8 --là đơn vị cơ
hữu của SĐ5BB-- gồm hai TĐ1/8, 2/8 và ĐĐ8TS chừng hơn 850 người do
Đại tá Mạch văn Trường chỉ huy (TĐ3/8 được giữ lại Lai Khê để
bảo vệ BTL Tiền Phương của Quân Đoàn III của Tướng Minh). Tuy
nhiên suốt trận đánh của Trung đoàn 8 ở An Lộc sau đó đều do
Thiếu tá Huỳnh văn Tâm, Trung đoàn phó chỉ huy. Lý do là: ngay
trong buổi trưa ngày đầu tiên, 8 tháng 4, khi Trung đoàn 8 (-) đổ
quân vào khu phố phía bắc thành phố gần sân bay Đồng Long, Đại
tá MVT, đứng ở cạnh đường trước bộ chỉ huy nhẹ của mình, quan
sát các đơn vị trực thuộc vào vị trí, một viên đạn M-72 bị
một Dodge 4/4 cán phải, nổ khá xa, một mảnh nhỏ văng trúng
phần vai trước (tôi không nhớ rõ vai phải hay vai trái vì thương
tích không đáng để ý) không chạm gân và xương, theo như lời Bác
sĩ Hùng, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Quân Y của Sư đoàn, trình
với Tướng Hưng. Nhưng khi Đại tá MVT xin ở lại Bộ TL/HQ Sư đoàn
để điều trị, Tướng Hưng cười và cho Đại tá MVT ở trong căn
phòng nhỏ --dành riêng cho Tư lệnh-- ở cuối đường hầm ngầm.
Tướng Hưng còn chỉ thị mỗi ngày Bác sĩ H. đến chăm sóc vết
thương nhỏ này. Nơi dành cho tư lệnh là nơi an toàn nhất trong
hầm ngầm, Tướng Hưng đã không dùng đến, nhường cho Đại tá MVT
ở để trị vết thương. Tướng Hưng và Đại tá Cố vấn Miller phải
bắc ghế bố ngay cửa hầm từ mặt đất xuống và đặt một chiếc
bàn thấp, nhỏ, giữa hai chiếc ghế bố làm chiếc bàn hành quân
cho hai người. Phần hầm chỗ này trở thành Trung tâm Hành Quân.
Cạnh đó là một chiếc bàn dài kê sát tường đặt hệ thống
truyền tin vô tuyến và điện thoại. Còn chúng tôi, Đại tá Lê
Nguyên Vỹ, Đại tá Bùi Đức Điềm, Trung tá Trịnh Đình Đăng
Trưởng phòng 3, Bác sĩ Hùng, tôi và mấy sĩ quan tham mưu cần
thiết khác --chừng ba bốn người nữa-- đều bắc ghế bố nằm ở
phía đầu trong của chiếc bàn truyền tin.
7. HOA KỲ VÀ CHIẾN CUỘC MÙA HÈ
1972 Ở MIỀN NAM VIỆT NAM.
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG TUYÊN BỐ “TỬ THỦ AN LỘC”
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG TUYÊN BỐ “TỬ THỦ AN LỘC”
Thiết nghĩ, nếu muốn nói rõ vai trò quan trọng của các tướng
lãnh trên chiến trường thuộc lãnh thỗ QĐIII & V3CT, nhất thiết
phải nêu lên toàn cảnh chiến dịch Xuân-Hè 1972 của CSBV ở miền
Nam Việt Nam. Hơn nữa, cần nhận định rõ vị thế và vai trò của
Washington trong trận chiến đặc biệt quan trọng này trong toàn bộ
chiến tranh Việt Nam.
Sau các trận đánh lớn giữa các lượng QLVNCH và Quân CSBV trên
lãnh thổ Lào và Miên trong năm 1971, nhận định của giới quan
sát quốc tế am tường về tình hình thế giới và Chiến Tranh
Việt Nam đều cho rằng sắp bước vào giai đoạn mà Nixon và
Kissinger sẽ kết thúc cuộc chiến ở đó với bất cứ giá nào
chớ không phải với “hòa bình trong danh dự” --peace with honor--
như các nhà lãnh đạo chính trị này rêu rao. Lúc đó cặp bài
trùng này chỉ coi Việt Nam là một sideshow --một màn phụ diễn--
của những vấn đề trọng đại hơn mà Chính phủ Nixon của Đảng
Cộng Hòa cần giải quyết, nếu không muốn để cho Đảng Dân Chủ
thắng trong cuộc bầu cử sắp diễn ra trong các tháng cuối năm
1972. Giới này cho rằng Kissinger đã gần đánh bại QLVNCH với âm
mưu “thí quân” của ông ta ở hai mặt trận này sau khi đã thi hành
gần trọn vẹn sách lược “Việt Nam hóa Chiến tranh”; từ đó
chiến tranh sẽ chấm dứt vì Nam Việt Nam sẽ như cua gãy càng.
Kissinger nghĩ rằng miền Bắc cũng lâm vào tình trạng như vậy.
Mà quả thật, từ tháng 7 cho cuối năm 1971, quân lực cả Miền
Bắc lẫn Miền Nam đã bị những tổn thất rất nặng nề, không đủ
sức đánh nhau trong sáu, bảy, tháng liền cho đến đầu năm 1972.
Thời gian đó hội đàm Paris về Việt Nam trì trệ…. Cuộc mật đàm
giữa Kissinger và Lê Đức Thọ cũng không đi đến đâu. Và tên phù
thủy chính trị Kissinger, dù coi Việt Nam là một sideshow, đã
biểu diễn màn ảo thuật quốc tế lớn lao chẳng những làm cho
cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam đều ngơ ngác sợ mà cả Liên Xô
cũng thực sự lo lắng, nên sau đó cũng đã tiếp Nixon (May 22nd,
1972) và hòa hoãn hơn trong việc ký hiệp ước hạn chế Vũ khí
Nguyên tử Chiến lược SALT --Strategic Arms Limitation Talks-- sau
đó. Từ mấy tháng trước, Kissinger đã dàn xếp xong màn diễn
với việc TT Nixon bay sang Bắc Kinh gặp gỡ Chu Ân Lai, Thủ tướng
Chính phủ Trung Quốc Cộng sản, ngày 21 tháng 2, 1972. Ai cũng
biết một cuộc “dàn xếp tối mật” trật tự thế giới đang diễn
ra. Nhưng diễn ra như thế nào là phần ước đoán riêng của mỗi
người. Liên Xô đã nhìn thấy hiểm họa cho chính họ. Bắc Việt
nằm trong tay những đầu xỏ như Lê Duẫn, Lê Đức Thọ và Phạm
Hùng với thay đổi lớn lao là chính họ đã cho phép phê phán
“Chủ nghĩa Xét Lại” của Nikita Khrushchev đề ra trước đó, trong
Hội Nghị Trung Ương Đảng CSVN lần thứ IX và bí mật chủ trương
theo Trung Cộng, mặc dù bên ngoài không để lộ ra, nhưng bên trong
Lê Đức Thọ --người thực sự lãnh đạo miền Bắc Việt Nam-- với
các em ruột ông này đang nắm ngành an ninh trong đảng, trong
nước, và nắm toàn bộ tài sản ngoại viện của khối CSQT cho
“Quân Đội Nhân Dân”... đã bắt đầu thủ thiêu những phần tử trong
Bộ Chính Trí và Trung Ương Đảng, hay tướng lãnh Quân Đội Nhân
Dân kể cả tước quyền Tổng tư lệnh của Võ Nguyên Giáp.
Lúc đó, Chính phủ Nguyễn văn Thiệu càng lo sợ hơn về sách
lược của Kissinger nhưng đành bó tay, chỉ còn biết trông cậy
vào người đồng minh đỡ đầu của mình.
Trên đây là nguyên nhân chính, nhưng xa, âm thầm diễn ra bên trong.
Trên mặt nổi, hai sự kiện dưới đây là nguyên nhân gần bắt buộc
Bắc Việt phải hành động trong một khoảng thời gian nhất định
nào đó, nếu trễ hơn hậu quả đến với họ sẽ vô cùng trầm
trọng.
Một là, ngày 26 tháng 3, 1972 Thứ trưởng Quốc Phòng Liên Xô,
Thống chế Pedorovich, đến Hà Nội với một phái đoàn quân sự đông
đảo duyệt xét lại toàn bộ kế hoạch tấn công miền Nam của Quân
uỷ Trung Ương Đảng CSVN. Trước đó, Liên Xô cũng đã nhìn rõ ý
đồ của Nhà Trắng về Việt Nam nên đã cho Phó Thủ tướng Chính
phủ Podgorny trong tháng 12, năm 1971, bàn định về một kế hoạch
tấn công miền Nam với lời hứa viện trợ bất bồi hoàn các loại
chiến xa tối tân hạng nặng T-54, T-55 và PT-76 cùng các loại
hỏa lực chiến lược như trọng pháo 130 ly, 150 ly, các chiến đấu
cơ MIG-19 và MIG-21, các đại bác phòng không 23 ly và 57 ly, và
các hỏa tiễn chống tank AT-3 Sagger và hỏa tiễn địa không SA-7
Strela chống các loại phi cơ quân sự, nhất là trực thăng võ
trang và chuyển quân. Tất cả các vũ khí này được chuyển vận
vào cảng Hải Phòng với khối lượng khổng lồ trong mấy tháng
liền nhưng việc phong tỏa cảng Hải Phòng chỉ thực hiện mấy
tháng sau khi CSBV đã kết thúc chiến dịch tổng tấn công miền
Nam.... Tuy nhiên, cuộc tổng tấn công này chỉ được thực hiện
với sự chấp thuận của Bắc Kinh, mà trong thâm sâu Đặng Tiểu
Bình cũng muốn triệt bớt tiềm năng nhân lực của Quân đội Nhân
Dân miền Bắc để dễ bề thao túng sau này.
Hai là, tháng 11, năm 1972 sẽ là tháng bầu cử tổng thống và
TNS, và DB lưỡng viện liên bang Hoa Kỳ và cấp bộ lãnh đạo hành
pháp và lập pháp các tiểu bang. Đây là cuộc tổng tuyển cử vô
cùng quan trọng sẽ ảnh hướng lớn lao đến tình hình thế giới
khi Hoa Kỳ còn trong thời kỳ chiến tranh. Nếu Đảng Dân Chủ Hoa
Kỳ cầm quyền, chắc chắn là họ sẽ bỏ cuộc ở Việt Nam nhanh
chóng hơn. Theo luận lý này CSBV cần phải đánh bại Nam Việt Nam
trước, mới đánh bại được Nixon. Và cuộc chiến đó phải dứt
điểm thành công vài tháng trước khi cuộc tổng bầu cử ở Hoa Kỳ
bắt đầu. Điều này các cơ quan tình báo cấp cao miền Nam, dân sự
lẫn quân sự, đều biết nhưng đã không ước lượng được sự lớn lao
của cuộc chiến sắp diễn ra và thời điểm chính xác vì chỉ có
Hoa Kỳ mới hiểu rõ mức độ vận chuyển các loại vũ khí chiến
lược của khối Cộng Sản quốc tế vào cảng Hải Phòng và mức
độ xâm nhập của CSBV vào Nam Việt Nam trên đường mòn Hồ Chí
Minh. Chắc chắn là Tòa Bạch Ốc biết, Ngũ Giác Đài biết và
MACV ở Sài Gòn cũng biết, nhưng chúng ta --các cơ quan tình báo
miền Nam-- không biết... rõ, vì khả năng sưu tầm kỹ thuật của
các cơ quan tình báo của chúng ta bị người bạn đồng minh của
mình hạn chế trong cuộc chiến tranh chung này. Người bạn đồng
minh này cũng độc quyền nắm sinh mạng quốc gia của chúng ta
trong tay. Nhưng trên bình diện chính trị, khi cuộc chiến bắt
đầu khai diễn, Washington đã có những phản ứng quyết liệt như
TT Nixon tuyên bố: -“The bastards have never been bombed like they’re
going to be this time.” Lũ khốn kiếp này chưa từng nhận những
trận đánh bom nào như những trận bom sắp tới trong lần này. Và
ông ta đã ra lệnh cho KLHK yểm trợ hỏa lực không kích yểm trợ
tối đa cho QLVNCH, kể cả sử dụng vũ khí B-52 lợi hại của Không
Quân Chiến lược Hoa Kỳ mà chúng ta đã ghi nhận qua suốt trận
chiến mùa Hè năm 1972 đó.
Quân CSBV đã động viên toàn lực, kể cả việc động viên thiếu
niên ở tuổi 16, đưa vào tấn công miền Nam ở ba mặt trận chính:
Quảng Trị ở Vùng 1 Chiến Thuật, Kontum ở Vùng 2 Chiến Thuật
và Bình Long ở Vùng 3 Chiến Thuật. Trong chiến dịch lớn lao,
sống còn, này CSBV đã tung vào chiến trường tất cả trên dưới
200,000 quân tác chiến, không kể nhân lực phục dịch hậu cần và
vận chuyển, thường bằng hoặc gấp hai lần nhân số tác chiến.
Nếu tính thành đơn vị thì chúng đã sử dụng 14 Sư đoàn bộ
binh, 4 Sư đoàn pháo binh và phòng không cơ giới, từ 4 đến 6
Trung đoàn chiến xa, 26 đơn vị chuyên môn cấp Trung đoàn. Tính
chung chừng 22 Sư đoàn với các loại vũ khi tân tiến nhất của
Liên Xô và Trung Quốc, chia thành ba mũi dùi tấn công vào Quảng
Trị và Thừa Thiên ở V1CT vào Kontum và Bình Định ở V3CT và
vào Tây Ninh và Bình Long ở V3CT. Mặt trận nào cũng nguy hiểm.
Tuy nhiên, nếu QLVNCH để mất một tỉnh nào ở Vùng 1 hoặc Vùng 2
thì tình trạng chung vẫn chưa thể gọi là nguy ngập. Một ước
tính rộng lớn hơn cho rằng nếu CSBV thắng cả ở hai mặt trận ở
các Vùng Chiến Thuật này miền Nam vẫn còn tồn tại từ Nha Trang
trở vào. Như vậy, vẫn là chưa mất hẳn. Nhưng nếu mất Bình Long
hay Tây Ninh ở Vùng 3, sát cạnh Sài Gòn thì tình trạng vô cùng
nguy ngập, vì Sài Gòn có thể bị mất ngay sau đó. Vì vậy, chiến
trường Bình Long vô cùng quan trọng cho sự sống còn của miền Nam
trong năm 1972.
KỲ 6
Trận TCK của CSBV trong mùa Hè
1972 này vào miền Nam VN, chúng chia vùng trách nhiệm lãnh đạo
chỉ huy như sau: Mặt trận Trị-Thiên do chính Bộ Tư lệnh miền
Bắc chỉ đạo. Miền Trung VN chia làm hai vùng: Vùng Cao Nguyên do
Bộ Tư lệnh Mặt trận B-3 Tây Nguyên chỉ huy; miền Duyên hải do Bộ
Tư lệnh Quân khu 5 chỉ huy. Miền Nam: Vùng 3 và Vùng 4/CT do Trung
Ương Cục Miền Nam chỉ đạo với chiến dịch Nguyễn Huệ.
Trở lại mặt trận Vùng 3 Chiến Thuật, TWC/MN, sau khi đã dứt
điểm xong Lộc Ninh và thất bại trong việc bôn tập tấn công An
Lộc trong ngày 7 tháng 4, đã phải đình hoãn trận tấn công này
lại như đã đề cập ở trên cho đến ngày 13 tháng 4. Trong sáu
ngày này mặt trận đã có những thay đổi lớn, nhất là về việc
tăng quân của QLVNCH cho tỉnh Bình Long. Trong hai ngày 7 và 8,
tháng 4, sau khi tăng cường cho Tướng Hưng trong thị xã An Lộc
Chiến đoàn 3 BĐQ và Trung đoàn 8 (-), Trung tướng Minh được Bộ
Tổng Tham Mưu QLVNCH tăng cường Lữ đoàn 1 Nhảy Dù từ trước trận
đánh, nay Sư đoàn 21 Bộ Binh được đưa từ miền Tây lên để tăng
viện cho Tướng Minh giải tỏa chốt chặn của CSBV vùng suối Tàu-Ô
trên QL-13, phía bắc Quận Chơn Thành. Chốt chặn này không phải
là thứ chốt chặn cấp Đại đội hay Tiểu đoàn như đã biết trên
những chiến trường khác trước đó, mà là một tuyến án ngữ
dài và rộng trên trục lộ và hai bên trục QL-13, với những hầm
hố được đào đắp sâu và kiến cố, nhất là ở hai ngọn đồi hai
bên trục lộ chế ngự toàn khu vực này mà trước năm 1968 là căn
cứ đóng quân kiên cố cấp Tiểu đoàn của lực lượng Hoa Kỳ. Chốt
chặn trong khu vực này do nguyên cả Sư đoàn 7 của CSBV, một đại
đơn vị thiện chiến và trang bị các loại vũ khí, các loại
súng phòng không tân tiến, kể cả hoả tiễn phòng không loại
nhẹ, nhưng kiến hiệu, mới được phát hiện SA-7. SĐ-7/CSBV này đã
bọc xuống phía nam thị xã An Lộc khi SĐ-5/CS thuộc TWC/MN đang
bôn tập để tấn công cầu Cần Lê và An Lộc ngày 7 tháng 4. Trong
khi SĐ-5/CS thất bại và bị thiệt hại nặng phải rút xuống vùng
Trị Tâm và Bời Lời trên Sông Sài Gòn gần tỉnh lỵ Bình Dương để
thay quân và bổ sung, thì SĐ-7/CSBV thành công trong việc thiết
lập được hệ thống chốt chặn kiên cố Tàu-Ô. Với việc cắt đứt
giao thông trên trục lộ huyết mạch này, An Lộc hoàn toàn bị bao
vây và cô lập kể từ ngày 10 tháng 4, 1972.
Trong buổi sáng ngày 9 tháng 4, một phái đoàn phóng viên của
Nhật báo Sóng Thần gồm Dương Phục, Thu Thủy và Nguyễn Tiến bay
trực thăng lên An Lộc định phỏng vấn Tướng Lê văn Hưng về chiến
trường sắp diễn ra. Lúc đó Tướng Hưng đang bận nên ủy thác cho
tôi tiếp phái đoàn. Tướng Hưng nói với tôi là xin cáo lỗi phái
đoàn vì ông bận việc hành quân không tiếp được, Chỉ cho phép
tôi nói là “ÔNG NHẤT QUYẾT TỬ THỦ AN LỘC VÀ SẼ NHẤT ĐỊNH
CHẾT Ở ĐÓ NẾU THÀNH PHỐ NÀY BỊ CÔNG SẢN CHIẾM”. Ông cũng cho
phép tôi nói những gì trong sự hiểu biết của tôi về các lực
lượng CSBV. Trong mấy vị phóng viên này Dương Phục và Thu Thủy
là những người bạn quen thân với tôi từ các cuộc hành quân
Toàn Thắng năm 1970-1971 trên lãnh thổ Miên thời Tướng Đỗ Cao
Trí. Tôi lập lại nguyên văn câu tuyên bố “TỬ THỦ AN LỘC” của
Tướng Hưng. Trong ngày hôm sau, cả thủ đô Sài Gòn và các thành
phố miền Nam đều biết Tướng Hưng tuyên bố tử thủ An Lộc sau khi
số báo Sóng Thần ra mắt độc giả. Hiện nay, tôi được biết các
phóng viên này, nhất là Dương Phục và Thu Thủy, đang sống ở
Texas, Hoa Kỳ, có thể xác nhận những điêu trên đây.
Ở Mật trận toàn Vùng 3 Chiến Thuật này tướng Cộng Sản đối
đầu với Trung Tướng Nguyễn văn Minh là Thượng tướng Trần văn
Trà. Tướng Trà sinh tại Quảng Ngãi năm 1920, gia nhập Đảng Cộng
sản Đông Dương năm 1938, kháng chiến chống Pháp trong Quân Đội
Nhân Dân --the People’s Army-- của Đảng CSVN mà Võ Nguyên Giáp là
Tổng Tư lệnh, từ năm 1946 đến năm 1954. Được phong cấp Thiếu
tướng năm 1961 và là Tư lệnh Mặt Trận B-2 của chúng, tức là
phụ trách quân sự và chỉ huy toàn thể lực lượng cộng sản
trong toàn lãnh thổ phía nam của miền Nam Việt Nam (bao gồm một
phần lãnh thổ của Vùng 2 Chiến Thuật và toàn thể Vùng 3 và
Vùng 4 Chiến Thuật). Cũng trong năm đó, CSBV đưa Tướng Trần Lương
--hay Trần Nam Trung-- và Trần Độ vào miền Nam thành lập Trung
ương Cục miền Nam, hay TWC/MN, mà phía Hoa Kỳ và MACV gọi là
COSVN (Central Office of South Vietnam, xem lại ở phần trên), là cơ
quan chỉ đạo cả về chính trị và quân sự của Bộ Chính Trị
Đảng LĐVN (để kiện toàn hệ thống chỉ đạo của Đảng ở B-2).
Nguyễn văn Linh là nhân vật lãnh đạo chính trị cao cấp nhất và
Tướng Trần văn Trà là tư lệnh các lực lượng vũ trang. Từ năm
1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng được đưa
vào Nam vừa là Chính ủy và Tư lệnh TWC/MN thì hai nhân vật
chính trị và quân sự kể trên được điều ra miền Bắc.
Năm 1967, Nguyễn Chí Thanh chết đột ngột (có thể bị thanh toán
bằng độc dược). Phạm Hùng, nhân vật thứ tư của Bộ Chính Trị
Đảng Lao Động VN được đưa vào Nam thay thế chỉ đạo toàn thể
mọi tổ chức và hệ thống “kháng chiến” của Đảng ở miền Nam. Tư
lệnh lực lượng quân sự ở miền Nam giao trở lại cho Tướng Trần
văn Trà. Lúc đó, Mặt Trận Giải Phóng miền Nam Việt Nam của
Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát cũng đã được Hồ Chí Minh
cho thành lập và sau đó cải danh thành Chính Phủ Lâm Thời miền
Nam Việt Nam, khi hội nghị hòa đàm ở Paris bắt đầu. Tướng Nguyễn
Cao Kỳ Chủ tịch ủy Ban HPTU và Chính phủ miền Nam chỉ coi MTGPMN
như một thực tế chớ không phải là một thực thể (The Southern
Liberation Front is a reality but not an entity). Và vì vậy nên CSVN
nâng cấp MTGPMN từ một “tổ chức” thành một “chính phủ”. Tướng
Trần Nam Trung là Bộ trưởng Quốc phòng của Chính phủ LTMNVN.
Tướng Trần văn Trà vừa là Tư lệnh phó các lực lượng vũ trang
TWC/MN cũng là Tư lệnh phó lực lượng vũ trang MTGP/MNVN.
Phía Hoa Kỳ, MACV cho rằng NVA –(North Vietnam Army) là lực lượng
miền Bắc xâm nhập còn VC hay Việt Cộng là các đơn vị vũ trang
của MTGP/MNVN hay của CPLT/MNVN. Đây là thứ hỏa mù. Trên thực tế
tất cả những lực lượng võ trang trong chiến tranh của CS ở
miền Nam đều do Đảng CSVN xây dựng và chỉ đạo. Những kế hoạch
tấn công lớn của CSVN ở miền Nam Việt Nam (trong lãnh thổ Mặt
Trận B-2 cũ mà Trà là tư lệnh) đều do Trần văn Trà thiết kế
và chỉ đạo như trận Tết Mậu Thân, Trận Mùa Hè 1972 này, trận
tấn công thăm dò đánh chiếm Phước Long đầu năm 1974, hay chiến
dịch Nguyễn Huệ sau này bao vây và tấn chiếm Sài Gòn, năm 1975,
v.v.) Tóm lại, Trần văn Trà là danh tướng của CSBV, đã chỉ huy
hàng trăm trận đánh chống Pháp và các lực lượng Hoa Kỳ ở B-2,
trước khi diễn ra trận TCK Tết Mậu Thân và Trận TCK mùa Hè 1972
này. Riêng trong Chiến dịch Nguyễn Huệ mùa Hè này, Trần văn
Trà, Tư lệnh Măt Trận B-2 cũ, là tư lệnh lực lượng của CSBV
lẫn của TWC/MN tấn công vào QĐIII & V3CT. Có hiểu được “tài”
của Tướng Trần văn Trà, mới hiểu được “trí” của Tướng Nguyễn
văn Minh.
Điểm ghi nhận lớn nhất có thể nhìn thấy là kế hoạch tấn công
của các lực lượng CSBV do các Tướng CSBV hay Tướng Trần văn Trà
thiết lập quá dè dặt nên không chiếm lĩnh được mục tiêu là
tỉnh lỵ Bình Long, tức thành phố An Lộc. TWC/MN đã nướng quân
khá nhiều khi tập trung tấn công Lộc Ninh với kế hoạch “Tập
Tấn” mà không dám nghĩ đến chiến thuật “Tản Tấn” nên mất thời
cơ không chiếm được An Lộc ngay trong tuần lễ đầu, hay nói rõ
hơn là bốn ngày đầu, của chiến dịch qui mô này. Chiến thuật
tập tấn và tản tấn tôi đã đề cập sơ lược ở phần trên. Các
tướng CSBV và TWC/MN thiếu quyết đoán và thiếu tự tin. Nếu họ
có các đức tính này, thì chiến tranh đã có thể chấm dứt ngay
trước mùa bầu cử Hoa Kỳ năm 1972.
Thử nhìn lại trận chiến ở tuẩn lễ đầu này –từ 3 đến 7 tháng
4, 1972. TWC/MN có bốn Sư đoàn bộ binh, một Sư đoàn pháo nặng
được tăng cường hai Trung đoàn phòng không, hai Trung đoàn chiến
xa và một Trung đoàn đặc công, và còn thêm Trung đoàn 95B thiện
chiến từ Tây Nguyên đưa vào, không kể một số Trung đoàn và Tiểu
đoàn địa phương khác. Thực tế trận chiến diễn ra trong tuần lễ
đầu của Chiến dịch Nguyễn Huệ tấn công vào lãnh thổ QĐIII &
V3CT được ghi nhận là: Tướng Trà sử dụng Sư đoàn Bình Long mới
thành lập đánh dứ --nhưng có kết quả-- ở Tây Ninh trong ngày
31/3/1972, coi như “diện” (chiến thuật “dương đông kích tây” mà
mục tiêu đánh nhử là “diện” và mục tiêu chính là “điểm”). Ba
ngày sau, giữa khuya đêm 4 rạng 5, tháng 4, Tướng Trà đã tung
vào chiến trường “điểm” Lộc Ninh gần hết lực lượng lớn của
mình để tấn công tiêu diệt Trung đoàn 9 Bộ binh và Thiết đoàn 1
Kỵ binh của SĐ5BB và chiếm Lộc Ninh trước trong khi sử dụng chỉ
một đơn vị đặc công và một đơn vị pháo nhỏ tấn công căn cứ và
sân bay Quản Lợi, khoảng 5 km đông An Lộc. Không có pháo kích và
tấn công Bộ Tư lệnh SĐ5BB ở Lai Khê hay vào An Lộc trong đêm 4
rạng ngày 5, tháng 4 như một số bài viết tưởng tượng.
Sau khi dứt điểm Lộc Ninh mới dùng SĐ-5/CS và các đơn vị chiến
xa (Trung đoàn 202 và 203 Chiến xa) bôn tập theo trục QL-13 định
vượt cầu Cần Lê tấn công An Lộc trong ngày 7 tháng 4. Đêm trước,
6/4 hay có thể trước đó chừng nửa ngày, Tướng Trần văn Trà đã
điều động SĐ-7/CSBV vòng qua thị xã An Lộc và thiết lập hệ
thống “chốt chặn” ở khu vực Suối Tàu-Ô trên trục lộ QL-13 phía
nam An Lộc chừng 15 km, và phía bắc của quận lỵ Chơn Thành
cũng chừng khoảng cách đó. Mục đích là chận viện của lực
lượng bộ binh VNCH từ phía nam tiến lên tiếp viện An Lộc đồng
thời chặn đường rút lui của các lực lượng phòng thủ An Lộc.
Kế hoạch như vậy, Tướng Hưng và chúng tôi gọi là “Tập Tấn”,
tức là lối tấn công tập trung dứt điểm từng cụm chiến trường,
tiêu diệt từng phần lực lượng đối phương. “Quân đội Nhân dân”
Bắc Việt rập khuôn chiến thuật tập tấn biển người của Hồng
quân Trung Cộng. Chiến thuật này rõ ràng là để lộ quá nhiều
sơ hở, đánh mất thời cơ, và đương nhiên hứng chịu nhiều tổn
thất bởi phi pháo của đối phương. Kết quả của tuần lễ đầu
đó, Tướng Lê văn Hưng, Tư lệnh SĐ5BB dưới sự tập trung tấn công
của gần như hai Sư đoàn bộ binh và một Sư đoàn pháo và chiến
xa tất nhiên không giữ nổi Lộc Ninh nhưng, mặc dù bị mất hai đơn
vị với hai nghìn quân, Tướng Hưng đã gây tổn thất nặng cho lực
lượng của TWC/MN ngay ở trận Lộc Ninh, và khi bộ binh và chiến
xa của CSBV bôn tập trên QL-13 trong ngày 7/4, đồng thời Tướng
Hưng có đủ thời gian đem quân về phòng thủ An Lộc, củng cố hệ
thống phòng thủ, xin thêm viện binh “tử thủ” An Lộc. Đó là cú
đấm trả đầu tiên của Tướng Hưng. Cú đấm thứ hai là do Tướng
Nguyễn văn Minh, Tư lệnh QĐIII & V3CT đánh ra với sự khôn ngoan
tinh tế và kinh nghiệm chiến trường của ông.
Như ở phần trên tôi có đề cập Tướng Nguyễn văn Minh không phải
là dũng tướng như cố Đại tướng Đỗ Cao Trí, nhưng là một tướng
lãnh rất thận trọng và “túc trí”, hay là một “túc tướng”. Ông
suy nghĩ rất chặt chẽ trước khi đưa ra những quyết định hay
những đề nghị hợp lý trong chiến thuật hành quân và dụng binh.
Điều này tôi không nói ngoa mà cũng không tâng bốc Tướng Minh.
Dưới đây là thí dụ điển hình về sự túc trí của Tướng Minh.
Khi được trình về tin tức SĐ-5/CS và Sư đoàn C30B –hay Sư đoàn
Bình Long mới thành lập- của TWC/MN đồng thời cùng tập trung
về vùng Trị Tâm và Mật khu Bời Lời gần tỉnh lỵ Bình Dương,
trên thực tế là để bổ sung quân cho SĐ-5/CS sau khi bôn tập từ
Lộc Ninh xuống tấn công An Lộc và bị tổn thất nặng trong ngày
7 tháng 4, như nói ở phần trên, nhưng lúc đó Tướng Minh tuyên bố
với các phóng viên chiến trường, tôi nhớ đại khái là: “Sau khi
đánh xong Lộc Ninh, đại bộ phận Sư đoàn Công trường 5 bôn tập
xuống Trị Tâm hoạt động phối hợp với Sư đoàn C30B. Các đại đơn
vị Cộng sản nằm sát các thị trấn gần thủ đô, rất nguy hiểm
khi thọc sâu xuống phía nam. Phải chú ý theo dõi Sư đoàn Công
trường 5 với những mặt trận mới có thể mở ra.” Khi tuyên bố
như vậy chẳng những Tướng Minh ám chỉ là có thể SĐ-5/CS phối
hợp với Sư đoàn C30B tấn công tỉnh lỵ Bình Dương và Biên Hòa,
kể cả Gia Định đồng thời TWC/MN cũng sẽ mở những mặt trận
mới với các lực lượng địa phương nhắm vào Long Khánh và Phước
Tuy. Những gì Ông tuyên bố đều là “khả năng có thể có của các
lực lượng TWC/MN”.
Thực ra, như đã trình bày, mục đích của TWC/MN điều SĐ-5/CS và
Sư đoàn C30B về Trị Tâm trên vùng Sông Sài Gòn không phải để tấn
công mà để cho SĐ-5/CS lấy thêm quân từ Sư đoàn C30B rồi sau đó
trở lên mặt trận An Lộc, như đã nói ở trên, chớ không phải
xuống đó để chuẩn bị tấn công Bình Dương. Tuy nhiên vì sự điều
động hai đại đơn vị này của Tướng Trần văn Trà gần bên nách Sài
Gòn nên Tướng Minh có lý do chính trình lên BTTM/QLVNCH và Tổng
thống để giữ nguyên SĐ18BB (trừ Chiến đoàn 52 đã tăng viện cho
SĐ5BB trước trận Lộc Ninh) đang trấn đóng các tỉnh phía đông Sài
Gòn trên trục QL-1, và SĐ25BB đang trấn đóng tại Củ Chi lên Tây
Ninh trên trục QL-1 phía tây thủ đô, và các đơn vị chiến xa và
BĐQ thuộc Lữ đoàn Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi
trước đây, làm lực lượng trừ bị ở Biên Hòa. Đó là những đại
đơn vị cơ hữu của QĐIII, Tướng Minh có đủ lực lượng chuẩn bị
phá “những mặt trận mới của TWU/MN” trong lãnh thổ QĐIII & V3CT,
trong khi đó thì Tổng Tham mưu trưởng BTTM/QLVNCH, Đại tướng Cao
văn Viên nhất định phải trình TT Nguyễn văn Thiệu tăng viện lớn
lao cho Vùng 3 CT. Cũng dĩ nhiên Tổng thống sẽ chấp thuận.
BTTM/QLVNCH đã điều động SĐ21BB, sau đó ít lâu còn điều động
thêm Trung đoàn 15 của SĐ9BB tăng viện ở mặt trận Bình Long. Và
cũng vì sợ nguy ngập cho Sài Gòn, nên TT Thiệu còn điều động hai
Lữ đoàn 3 Dù từ Vùng 2CT về tăng viện tướng Minh, đưa Lữ đoàn
1 Dù và Liên đoàn 81 Biệt Cánh Nhảy Dù vào An Lộc cho Tướng
Hưng. Như vậy, với viễn kiến của mình, Tướng Minh đã nhìn thấy
rõ mặt trận rộng lớn hơn trong toàn lãnh thổ mà ông chịu
trách nhiệm, không phải chỉ hạn hẹp trong mặt trận An Lộc.
Nghĩa là ông đã đoán được và hiểu biết trọn vẹn quan niệm
hành quân của Tướng TWC/MN Trần văn Trà trong chiến dịch mùa Hè
năm 1972, là muốn đánh chiếm An Lộc cần thiết phải “mở nhiều
diện khác” trong lãnh thổ B-2, nhất là các tỉnh bao quanh thủ
đô. Về phía các tư lệnh Hoa Kỳ từ Tướng Abram Creighton Tư lệnh
MACV, đến Tướng hai sao Hollingsworth James F. Tư lệnh TRAC (Third
Regional Assistance Command –Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân Khu 3) tất
nhiên cũng đặc biệt chú trọng đến tình hình chiến cuộc ở
QĐIII & V3CT, nên chắc chắn yểm trợ ưu tiên cho Tướng Nguyễn văn
Minh. Nếu nhìn thấy rõ những điều này mới hiểu rõ tài điều
binh và sự túc trí của Tướng Nguyễn văn Minh, ngược hơn những
phán đoán từ trước đến nay về vị tướng lãnh cẩn trọng này
của QLVNCH.
Với lực lượng như vậy, Tướng Minh đã phối trí các đơn vị hợp
lý là tăng viện thêm cho An Lộc, nỗ lực giải tỏa chốt chặn của
Sư đoàn 7 CSBV ở phía bắc Chơn Thành bằng các lực lượng tăng
viện, trong khi đó giữ vững các đại đơn vị cơ hữu ở các vùng
hiểm yếu trong lãnh thổ của mình để chờ những mặt trận mới
của TWC/MN.
8. TỬ THỦ AN LỘC LÀ QUYẾT TÂM
SẮT ĐÁ CỦA TƯỚNG TƯ LỆNH MẶT TRẬN LÊ VĂN HƯNG CŨNG LÀ TƯ LỆNH
SĐ5BB, NHƯNG KẾ HOẠCH TỐI ƯU GIÚP TƯỚNG HƯNG GIỮ VỮNG AN LỘC LÀ
CỦA ĐẠI TÁ LÊ QUANG LƯỠNG LỮ ĐOÀN TRƯỞNG LỮ ĐOÀN 1 NHẢY DÙ.
Tại thị xã tỉnh lỵ An Lộc, ngoài các Trung đoàn 7 và 8 (-)
của SĐ5BB, một Tiểu đoàn Pháo binh và Đại đội 5 Trinh sát -bảo
vệ BTL/HQ Sư đoàn (tất cả dưới 2,500 quân), chừng hai Tiểu đoàn
ĐPQ của Tiểu Khu Bình Long (tất cả dưới 800 quân), Chiến đoàn 33
BĐQ (hơn 1,500 quân), Chiến đoàn 52/SĐ18BB (400 quân, kể cả thương
binh), ngày 14 tháng 4 Tướng Minh cho tăng viện vào thị xã Lữ
đoàn 1 Nhảy Dù (chừng 2,200 quân), và ngày 17 tháng 4, Chiến
đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù (chừng 450 quân). Tổng cộng, lực
lượng phòng thủ tại An Lộc của Tướng Lê văn Hưng chừng trên
7,500. Tại Bộ Tư lệnh HQ nhẹ của Tướng Hưng, Phòng 3 Hành Quân
của Trung tá Trịnh Đình Đăng ở khu nhà mặt tiền xoay ra đường
Nguyễn Huệ bị một hỏa tiển 122 ly rơi trúng, 6 sĩ quan tham mưu
của ông tử thương. Phòng 2 Hành Quân của tôi trong cùng một dãy
nhà đó cũng có một sĩ quan tử thương. Các sĩ quan tham mưu của
Trung tá TĐĐ không còn người nào để làm việc, nên ông cùng tôi
và hai sĩ quan cấp Đại úy của tôi là Dương Tấn Triệu và
Nguyễn Chí Cường phải đảm đương việc thu nhặt tin tức hành quân
của tất cả các đơn vị để lập quyển nhật ký hành quân cho Sư
đoàn về trận An Lộc. Sau này quyển nhật ký hành quân này do
tôi giữ nên tai họa đổ lây sang cho tôi sau khi tướng Hưng bị thất
sủng.... Theo ghi nhận của chúng tôi sau khi liên lạc với toàn
bộ các cánh quân phòng thủ thì trong trận tấn công của CSBV
vào An Lộc ngày 13 tháng 4, tổn thất của bạn là 28 tử thương,
53 bị thương, mất 3 súng cộng đồng và 42 súng cá nhân; địch 169
chết ở các tuyến phòng thủ bạn, 2 bị bắt. Ta tịch thu được 3
súng cộng đồng, 50 súng cá nhân, 2 máy truyền tin, bắn hạ từ
14 đến 16 chiến xa T-54 va PT-76 của địch.
Nên lưu ý là khi TWC/MN tung quân tấn công đợt thứ nhất vào
thành phố ngày 13 tháng 4, 1972 thì Lữ đoàn 1 Nhảy Dù và
Chiến đoàn 81 BKND chưa được tăng viện, quân số phòng thủ chỉ
chừng dưới 5,500 người nếu tính cả nhân dân tự vệ võ trang.
Trong ngày này, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng
đang giải tỏa chốt chặn của Sư đoàn 7 CSBV ở Tàu-Ô, vì trận
CSBV tấn công An Lộc nói trên nên Tướng Minh lệnh cho rút ra để
chuẩn bị vào An Lộc tăng cường cho SĐ5BB. SĐ21BB từ miền Tây
được đưa vào thay thế.
Ở đây, có một điểm cần nêu lên là, trong ngày 13 tháng 4, bởi
sự tấn công dữ dội của Sư đoàn Công trường 9 CS của TWU/MN cộng
với các đơn vị chiến xa 202 và 203 từ miền Bắc vào và ba Trung
đoàn pháo của Sư đoàn 69, hay 70 Pháo, được tăng cường Trung
đoàn Pháo Phòng không từ miền Bắc và Trung đoàn Đặc công 429,
các tuyến phòng thủ của Trung đoàn 8 (-), Trung đoàn 52 (-) và
Chiến đoàn 3 BĐQ ở mặt bắc và đông bắc đã phải lui về tuyến
phòng thủ thứ hai trong thành phố. Một phần thành phố trong khu
vực thương mãi phía bắc đường Nguyễn Trung Trực và sân bay Đồng
Long tạm thời bị địch chiếm giữ, mặc dù có một số chiến xa
của chúng bị hạ trong khu vực trách nhiệm của mỗi đơn vị.
Xin tưởng tượng, một thành phố với chiều ngang 1 km và chiều
dài 2 km chỉ trong đêm 12 rạng 13 tháng 4, phải chịu từ bốn đến
năm nghìn quả đạn đại pháo của CSBV thì có nơi nào không bị
pháo dội phải? Binh sĩ phòng thủ và cư dân trong thành phố bị
thương rất cao. Bệnh viện tỉnh nằm trước mặt Bộ Tư lệnh Hành
quân SĐ, cách một con đường, bị pháo nhiều đợt. Người bị thương
đưa vào đó trong những ngày trước chết nằm la liệt khắp nơi. Có
những xác chết rồi bị banh xác thêm một đôi lần nữa. Trước
tình cảnh đó, Đại tá Bùi Đức Điềm,Tham mưu trương Hành quân Sư
đoàn, khi dứt tấn công chiến xa, tìm đâu đó được một chiếc xe
ủi đất, tự mình lái xe đào những đường rãnh lớn và binh sĩ
Đại đội Trinh sát Sư đoàn phụ thu dọn xác chết và các mảnh
vụn thi thể cư dân, đem chôn tập thể dưới các đường rãnh này.
Binh sĩ đơn vị chết thì chôn tại chỗ bố phòng của đơn vị. Các
việc này lập lại nhiều lần suốt trận chiến dài một trăm ngày
ở An Lộc. Đại tá Điềm luôn luôn ở trên chiến trường, trong các
hố cá nhân với binh sĩ ở đâu đó khi pháo rộ và đi giám sát
đôn đốc binh sĩ mọi nơi trong tuyến phòng thủ của Bộ Tư lệnh HQ
và các đơn vị của Sư đoàn. Ông là một sĩ quan can trường, cẩn
trọng và nhiệt tình. Tôi chưa từng thấy một cấp chỉ huy nào
như ông. Chỉ vào đêm tối ông mới xuống nằm cạnh bên tôi trong
hầm khi đã hiểu biết vững vàng mọi việc trong ngày trên mặt
đất và làm hết sức mình trong ngày.
Sau trận tấn công này, các đơn vị phòng thủ của Tướng Hưng
không thể tản thương, thay quân và tiếp tế đạn dược hay thực
phẩm được nữa vì đã mất sân bay Đồng Long, một phần thành phố
phía bắc thị xã trong khu thương mãi, và hai ngọn đồi quan
trọng ở đông nam thị xã là Đồi Gió và Đồi 169. Hệ thống tiếp
tế bằng C-47 Chinooks ở sân bay Đồng Long hoàn toàn đình chỉ. Cư
dân vẫn sống trong các dãy phố chung với binh sĩ các đơn vị ở
những khu vực của tuyến phòng thủ mới và một số lớn chạy về
sống tạm bợ cạnh dòng suối cặp đường rầy xe lửa ở khu đông nam
thị xã. Trong khu vực hành chánh phía nam Đại lộ Hoàng Hôn, ở
khu vực suối nói trên và ở các khu vực phòng thủ binh sĩ chia
xẻ gạo, cơm xấy và thực phẩm với dân. Cũng ghi nhận là trước
đó, trong ngày 8 tháng 4, cư dân trong thành phố chừng hơn ba
ngàn người tị nạn chia làm hai đoàn do một linh mục Công giáo
và một đại đức Phật giáo hướng dẫn di chuyển theo QL-13 về
Chơn Thành, nhưng vừa qua khỏi đồn điền Xa Trạch bị Sư đoàn Công
trường 7 pháo kích, hàng trăm người chết, bị thương. Xác chết
nhầy nhụa trên mặt đường và khu vực chung quanh. Một số chạy
ngược về An Lộc, kỳ dư đều bị chúng bắt không còn biết tung
tích gì nữa sau đó.
Từ ngày 14 tháng 4 trở đi An Lộc chỉ được tiếp tế bằng thả
dù không vận của KQVN và Không lực Hoa Kỳ. KQVN, trong hai ngày
đầu, sau mấy đợt thả đạn dược và thực phẩm khô cho các đơn vị
phòng thủ bằng các loại vận tải cơ Faichild C-123 và C-119 bị
phòng không CSBV bố trí dày đặc bao quanh thành phố xạ kích dữ
dội làm thiệt hại 2 chiếc C-123 và mấy chiếc khác bị hư hại,
vả lại vì bay cao nên các dù đạn và thực phẩm phần lớn rơi
vào khu vực địch kiểm soát. Vì vậy, KQVN đã phải đình chỉ
các hoạt động thả dù tiếp tế cho An Lộc sau 27 phi vụ. Cứu
tinh của binh sĩ phòng thủ và số lớn cư dân là nguồn thả dù
tiếp tế của đơn vị 347 Tactical Airlift Wing (U.S. 347th TAW). Do hệ
thống phòng không của CSBV rất mạnh với tầm tác xạ kiến hiệu
cao nên các vận tải cơ C-130 H.K. phải bay trên 10,000 bộ khi thả
dù tiế́p tế. May mắn là đơn vị này đã tìm được nguyên tắc cho
dù mở chậm sau khi thả ra khỏi phi cơ và dù chỉ mở ra cách
mặt đất từ 10m đến 20m. Nhờ cách thả dù tiếp liệu này nên các
lực lượng của Tướng Hưng từ ngày 16 tháng 4 trở đi nhận hơn 95%
thực phẩm và đạn dược trừ đạn đại pháo 155 ly và 105 ly, vì
cả Tiểu đoàn pháo của Sư đoàn trong thị trấn hoàn toàn bị
pháo địch phá hủy trong ngày tấn công đầu tiên của chúng; không
còn một khẩu nào sử dụng được, nên không tiếp tế đạn pháo.
Tuy nhiên lối thả dù tiếp liệu này cũng rất nguy hiểm cho binh
sĩ trú phòng. Sức nặng của mỗi bọc dù thực phẩm hay đạn
dược cũng phải từ hai đến ba, bốn, tấn. Dù vừa thả ra khỏi
máy bay, chỉ là một chấm nhỏ, chừng chưa đầy ba mươi giây đã
xuống đến mặt đất. Mỗt lần thả dù như vậy ít́ nhất cũng phải
có đôi ba cộng sự phòng thủ bị dù rớt xập hay mấy chiếc hầm
cá nhân bị dù chôn luôn xuống đất lẫn người chiến sĩ trong hầm
vì có những chiếc dù chưa kịp mở đã đâm thẳng xuống mặt đất.
Và ở tất cả những bãi thả dù này luôn có sự hiện diện của
Đại Tá Bùi Đức Điềm. Chính ông là người phân phối thực phẩm,
đạn dược theo nhu cầu của các đơn vị. Cấp bậc Đại tá của ông
dĩ nhiên đầy đủ uy quyền đối với các toán tiếp tế của các
đơn vị đến bãi nhận phần súng đạn và thực phẩm khô cho đơn
vị. Không hề có vấn đề giành giựt thực phẩm bắn nhau ở bãi
thả dù, bất cứ khu nào trong thành phố.
Đứng chỉ huy thu nhặt và phân phối thực phẩm ở bãi thả dù
nghĩa là phải vừa đội pháo CSBV vừa có thể bị đè bẹp, chết
tức khắc, bởi những chiếc dù nặng rơi nhanh không thể tưởng.
Người ta tâng bốc nhau về công trạng của vị chí huy này hay vị
chỉ huy nọ. Cũng có người tự tâng bốc chính mình, nhưng tôi
hiện diện ở chính chiến trường đó, chỉ thấy những người câm
nín làm việc như vị đại tá này hay một hạ sĩ Truyền tin của
Sư đoàn, tên Lê văn Sáu, dù ngày hay đêm, pháo vừa dứt đã thấy
anh hết trèo lên trụ điện này đến trụ điện nọ nối lại những
mạch điện thoại bị đứt vì pháo kích hay vì bất cứ lý do nào
đó, suốt cả một trăm ngày của trận chiến. Tiếc rằng không có
một thẩm quyền nào đó cầm chiếc “Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân
Chương” dúi vào tay Tổng Thống để gắn cho Đại tá BĐĐ hay một
Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu gắn cho Hạ sĩ Sáu....
Sau trận tấn công đầu tiên của các đơn vị TWC/MN vào An Lộc,
một phần của phía bắc thị xã bị chúng chiếm (Bản đồ # 4).
Nhất là mất Sân bay Đồng Long, không thể tải thương, thay quân và
tiếp tế, nên kế hoạch của Tướng Minh là thả Lữ đoàn 1 Nhảy
Dù, gồm các Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3
Pháo binh Dù và Đại đội Trinh Sát, do Đại tá Lê Quang Lưỡng
(sau này thăng cấp Chuẩn tướng, Tư lệnh SĐ Nhảy Dù cuối cùng
của QLVNCH) chỉ huy, ở hai bãi ruộng trống cặp QL-13 mà đầu
mùa Hè chưa có mưa và ruộng khô trơ gốc rạ, nằm ở quãng giữa
cầu Cần Lê và sân bay Đồng Long, để từ đó quân Dù sẽ tiến
xuống hướng nam, tấn công vào đơn vị địch chiếm giữ sân bay và
phía bắc thành phố. Trong khi đó thì ở phía nam thành phố
Tướng Hưng sẽ đưa một cánh quân BĐQ của Trung tá Nguyễn văn Biết
kết hợp với Trung đoàn 7 của Trung tá Lý Đức Quân tấn công lên
phía bắc chiếm lại khu phố bị mất ngày hôm trước. Dĩ nhiên
KQVN và KLHK sẽ thả bom dọn bãi đáp và yểm trợ cho Dù đổ quân
và cho BĐQ và bộ binh khi tấn công.
Kế hoạch này khi đưa về SĐ5 thì được Đại tá Cố vấn William
Miller yểm trợ hết mình, nhưng Tướng Hưng do dự vì muốn gặp
Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù trước
cuộc đổ quân vào giải tỏa An Lộc ngày hôm sau 14 tháng 4. Ngày
đó, vào sáng tinh sương, một trực thăng bay sát ngọn cây đưa Đại
tá Lê Quang Lưỡng vào Bộ Chi huy Tiểu khu của Đại tá Trần văn
Nhật. Tôi được lệnh đến đó đón Đại tá LQL về Bộ Tư lệnh Sư
đoàn.
Khi vào hầm chỉ huy của Tiểu khu, tôi hiểu vì sao sau này các
cố vấn Hoa Kỳ “mê” và hết lời khen ngợi Đại tá TVN, Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long. Hầm ngầm của Bộ Chỉ huy
Tiểu khu, gọi là B-15, trước đó của Lực lượng Đặc Biệt QLVNCH,
được Hoa Kỳ xây dựng, sâu, kiên cố và rộng rãi gấp ba lần
chiếc hầm u tối, chật hẹp, của Bộ Tư lệnh HQ/ Sư đoàn. Trong
hầm, đèn sáng choang, các sĩ quan Việt-Mỹ ngồi ở các bàn
hành quân, đề huề, đâu ra đó; bản đồ thành phố, bản đồ hành
quân đầy đủ. Cũng không thiếu thuốc lá, café, trà ngon và thực
phẩm khác. Như đã nói ở trên, Đại tá TVN là một sĩ quan can
trường lại vô cùng tế nhị. Hầu hết các cố vấn Hoa Kỳ đều về
tập trung tại đây, trừ Đại tá William Miller và hai sĩ quan dưới
quyền ông, trong toán Cố vấn của SĐ5BB. Số cố vấn Hoa Kỳ của
Tiểu khu và các đơn vị khác về đó trong suốt trận chiến có
lẽ trên mươi người, hoặc nhiều hơn, từ cấp trung tá trở lại,
chắc chắn đã được Đại tá TVN bồi tiếp chu đáo. Đó là do bản
tính nồng nhiệt và sự tế nhị của ông mà tôi đề cập trên.
Ngược lại, chính sự tận tâm giúp đỡ của số cố vấn ít oi này
mà các chiến sĩ phòng thủ đã giữ vững được An Lộc nhờ vào
sự yểm trợ tối đa của không trợ và không yểm của Không Quân
Chiến Lược và Chiến Thuật Hoa Kỳ. Các cố vấn Hoa Kỳ ở Bộ
Chỉ huy Tiểu khu Bình Long sau này về nước đều khen ngợi Đại tá
TVN về sự liên lạc mật thiết giữa ông và họ, kể cả sự can
đảm và tài thao lược của ông. Chuyện đó dĩ nhiên thôi.
Sự thực thì Đại tá TVN có ít quân, chỉ còn dưới một Tiểu
đoàn Đia Phương quân, kể cả Nghĩa quân và Dân vệ, chừng hơn 600
binh sĩ –được những kẻ tâng bốc tăng thành cấp Trung đoàn với
1,000 người. Đại tá TVN không có quyền quyết định về mọi việc
ở chiến trường An Lộc, mà là Tướng Tư lệnh Mặt trận Lê văn
Hưng. Một trong những sĩ quan cố vấn của Chiến đoàn 52 là Trung
úy James H. Willbanks, vào An Lộc trễ, và bị thương bởi đạn
pháo kích, khi về Hoa Kỳ leo dần lên cấp Trung tá và theo học
chương trình hậu đại học đã dựa phần lớn vào tài liệu của
Đại tá William Miller, viết luận án Cao học và Tiến sĩ về
Trận Chiến An Lộc, bốc thơm Đại tá TVN nức nở, nhưng đã xúc
phạm lớn lao đến uy tín Tướng Lê văn Hưng. Có lẽ chính Willbanks
cũng không hiểu rõ sự bất đồng ý kiến lớn lao giữa Đại tá
Cố vấn Hoa Kỳ William Miller và Tướng Tư lệnh SĐ5BB Lê văn Hưng
từ trước và trong trận chiến An Lộc diễn ra.
Nguyên do chính là vì từ trước khi diễn ra trận An Lộc, Tướng
Hưng coi Đại tá William Miller chỉ một sĩ quan xuất thân từ hàng
binh sĩ, là “un sorti-du-rang” theo cách nói không mấy nể trọng
của người Pháp và coi Đại tá Miller như một người không hiểu
biết nhiều về địch thủ trong cuộc chiến Việt Nam. Hơn nữa,
Tướng Hưng coi cấp bậc là cấp bậc, tướng là tướng, tá là tá.
Việt, Mỹ, có khác gì nhau…. Ngược lại, Đại tá Miller coi tướng
Hưng là một sĩ quan trẻ tuổi --a young general-- hàm ý là thiếu
kinh nghiệm và coi Hưng là một trong các tướng “Đồng bằng Cửu
Long”(one of the Delta-Clan generals) cũng với ý biếm nhẽ, kém tôn
trọng. Họ khi dể lẫn nhau và ngấm ngầm trở thành những kẻ
thù. Nhưng thái độ của mỗi người một khác. Đại tá Miller
nhiều lần cãi vã với Tướng Hưng ngay trong hầm ngầm hành quân
ở An Lộc. Mọi chuyện Tướng Hưng đều bỏ qua. Ngược lại, Đại tá
Miller mang mối thù này về tận Hoa Kỳ và mở những cuộc thuyết
trình, hội thảo, về trận chiến An Lộc và nhân các cơ hội này
miệt thị Tướng Lê văn Hưng…. Tôi sẽ nói rõ hơn ở phần dưới.
Khi Tướng Nguyễn văn Minh đưa ra kế hoạch tăng viện Lữ Đoàn 1
Nhảy Dù bằng chiến thuật hai mũi giáp công để chiếm lại phần
phía bắc thị xã An Lộc bị mất từ hôm trước thì Đại tá Miller
rất tán thành. Tuy nhiên, sau khi tôi đón Đại tá LQL, Lữ đoàn
trưởng LĐ1ND, về căn hầm BTL/HQ Sư đoàn gặp Tướng Hưng xong thì
mọi việc đã đổi khác. Đại tá Lưỡng trình bày chiến thuật hơn
thiệt rất hợp lý và chứng tỏ ông là một nhà chiến thuật lỗi
lạc và nhiều kinh nghiệm trong những trận đánh lớn.
Ông cho rằng, nếu đổ hơn hai nghìn hai trăm quân Dù ở vùng ruộng
trống trơ gốc rạ nằm giữa cầu Cần Lê và sân bay Đồng Long, thì
vì bất ngờ, líp (lift) thả đầu tiên bằng C-47 của KLHK hay KQVN,
đơn vị Dù nhảy xuống đầu tiên đó có thể sẽ an toàn. Nhưng từ
líp đổ quân thứ hai trở đi các đơn vị Dù sẽ là mồi ngon cho
pháo binh CSBV tập trung. Tổn thất sẽ rất cao, có thể lên đến
50%, hay cao hơn nữa. Người ta sẽ không thể mở một cuộc tấn công
vào sân bay Đồng Long với một số tử thương và thương binh cao
-dù bị bỏ họ lại ở bãi chiến hay dìu họ theo. Hơn nữa, nếu
thả các đơn vị Dù ở LZ (Landing Zone) theo kế hoạch, thì cũng
chỉ thả được các đơn vị Dù tác chiến bộ binh mà không thể
thả Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù với các loại trọng pháo, đại
pháo dã chiến, để đánh nhau liền. Cho rằng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù
vào được mục tiêu chỉ định, thì với lực lượng còn lại cũng
sẽ không ̣đủ sức tấn công lực lượng địch đã chiếm giữ sân bay
và mặt bắc thành phố từ ngày hôm trước mà chúng ta không hiểu
rõ chúng có bao nhiêu quân và ở cấp bộ nào? Yếu tố thành công
không có, mà sự thất bại đã thấy rõ trước mắt. Cho dù Lữ
đoàn Dù chiếm được mục tiêu thì lực lượng còn lại chỉ trên
dưới một Tiểu đoàn, sẽ không chịu đựng nổi những trận tấn công
kế tiếp của quân CSBV. Một cánh quân mạnh tinh nhuệ cũng sẽ
trở thành một đơn vị què quặt thì sự tăng viện họ vào An Lộc
là... vô ích. Với các lý luận này, Đại tá LQL đề nghị một
kế hoạch khác.
KỲ 7
Quan niệm hành quân của Đại tá
LQL là tăng viện Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vào An Lộc không chỉ là
tăng quân để phòng thủ vị trí chiến lược then chốt này, mà còn
để đáp ứng nhu cầu giúp cho vị tư lệnh mặt trận tạo niềm tin
trong binh sĩ phòng thủ là An Lộc được tiếp viện, chẳng những
đủ sức phòng thù chống mọi cuộc tấn công của địch quân, mà
còn có thể phản công khi tình hình cho phép, chớ không thể sử
dụng đơn vị này như lực lượng xung kích đánh ngay vào vị trí
địch đang chiếm đóng trong thành phố trong trận tấn công trước
mà chúng ta chưa biết được thực lực của chúng lớn mạnh ở qui
mô nào. Cấp liên Trung đoàn hay Sư đoàn? Thực tế chỉ biết phòng
không và trọng pháo dã chiến của chúng rất mạnh. Nếu tấn công
địch quân ngay khi đổ quân ở vùng ruộng trống phía nam cầu Cần
Lê thì sẽ rơi vào trường hợp nêu ở trên. Nếu chiếm lại được
sân bay Đồng Long ở phía bắc thành phố cũng sẽ không dùng được
nữa vì nơi đó đã... và sẽ trở thành mục tiêu tập trung pháo
đã được điều chỉnh từ trước. Các loại phi cơ vận tải hay trực
thăng đáp xuống chỉ để bị banh xác mà thôi.
Kế hoạch khả thi là nên đổ quân Dù bằng trực thăng của KQVN hay
KLHK ở một bãi đáp bí mật (a secret landing zone -or LZ) ở phía
đông nam thị xã. Toàn bộ quân Dù sẽ an toàn khi đổ quân vì tạo
được yếu tố bất ngờ, pháo binh địch sẽ không đủ thì giờ
chỉnh tác xạ vào LZ mật đó. Từ bãi đáp an toàn này, Tiểu đoàn
6 Nhảy Dù, đơn vị đổ quân đầu tiên sẽ tức tốc di chuyển tấn
công chiếm lại Đồi Gió và Đồi 169 chừng 3 hay 4 km phía đông nam
thị xã bị địch chiếm trong trận đánh ngày hôm trước, là hai
cao điểm chế ngự toàn thành phố. Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù sẽ
đổ quân sau và vào vị trí khi Tiểu đoàn 6 Dù chiếm xong hai
ngọn đồi nói trên. Hai Tiểu đoàn này sẽ do Trung tá Lê văn Ngọc,
Lữ đoàn phó, chỉ huy. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, Đại đội Trinh sát,
Tiều đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 sẽ đổ quân tiếp theo trong ngày kế
tiếp.
Tiểu đoàn 5 sẽ yểm trợ cho Tiểu đoàn 8 tiến vào đầu xa lộ (hay
QL-13) xuất phát từ phía nam thị xã, chạy về hướng đồn điền
cao su Xa Cam cách thị xã chừng 3, 4 km, về hướng nam. Khúc xa
lộ này mặt đường rộng trên dưới 20m, hai bên đường trước đó các
đơn vị Hoa Kỳ đã phát hoang sâu vào bìa rừng, mỗi bên rộng
chừng 800m đến 1,000 nên rất trống trải có thể mở làm “một sân
bay trực thăng tạm” rộng rãi, các loại trực thăng lớn nhỏ của
KQVN và KLHK đều có thể đáp xuống được. Sau đó, Tiểu đoàn 8 Dù
của Trung tá Văn Bá Ninh sẽ trấn đóng ở khu vực này phụ trách
giữ an ninh và điều hành sân bay trực thăng tạm để các đơn vị
phòng thù có thể tản thương các thương bệnh binh và tiếp nhận
quân bổ sung thay thế.
Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Nguyễn Chí Hiếu sẽ tiến về khu
vực gần vòng đai tây nam tỉnh lỵ và trấn đóng ở đó làm lực
lượng trừ bị cho Lữ đoàn và cho Tướng Hưng. Bộ Chỉ huy Lữ
đoàn được Đại đội Trinh sát bảo vệ, sẽ đóng chung với Bộ Chỉ
huy Tiểu khu, nằm gần hai Tiểu đoàn nói trên. Đại tá LQL cho
rằng, “nếu Lữ đoàn Dù mở được sân bay trực thăng tạm và bung
rộng ra giữ được an ninh ở khu vực đầu xa lộ nói trên, thì lực
lượng phòng thủ có thể tản thương và thay quân, hay tiếp tế
được, các đơn vị sẽ có quân mới, khoẻ. Lực lượng sẽ mạnh
dần. Sau khi đánh không quân cắt đứt đường tiếp vận của quân
CSBV vào thành phố và “cô lập” được cánh quân này của chúng
với các đơn vị hậu cần TWC/MN ở bên ngoài thì lực lượng địch
sẽ mòn dần. Lực lượng phòng thủ An Lộc của Tướng Hưng chờ khi
bắt tay được với các cánh quân của SĐ21BB từ Chơn Thành tiến
lên sau khi giải tỏa được các chốt chặn của địch quân ở khu
vực suối Tàu-Ô, lúc đó sẽ mở các cuộc hành quân chiếm lại
các khu phố ở phía bắc thành phố và sân bay Đồng Long. Đó là
kế sách an toàn cho An Lộc chống giữ lâu dài và quân CSBV sẽ
mòn mỏi dần khi họ bị tấn công dồn dập bởi KQVN và KLHK –nhất
là không lực chiến lược với loại bom sát thương rộng lớn và
dữ dội B-52. Đó cũng là ưu sách để chiến thắng. Vì chúng ta
giữ được thành và đánh được địch.”
Dựa trên tình hình chiến sự diễn ra lúc đó thì quan niệm và
kế hoạnh hành quân của Đại tá LQL là tối ưu. Sau hơn một giờ
bàn luận với Tướng Lê văn Hưng và được vị tư lệnh chiến trường
này hết lòng yểm trợ, Đại tá LQL lên trực thăng về Lai Khê
trình bày lại với Tướng Nguyễn văn Minh. Kế hoạch tức khắc
được chấp thuận cho áp dụng. Từ chiều ngày 14 đến ngày 15
tháng 4, mọi cuộc đổ quân bằng trực thăng vận của Lữ đoàn 1
Nhảy Dù đã gây bất ngờ cho Bộ Tư lệnh TWC/MN của Tướng Trần văn
Trà. Toàn bộ các đơn vị Dù trực thuộc vào An Lộc trong ngày
17, với tổn thất tương đối nhẹ (chỉ dưới 4%) khi cánh quân lớn
này vào trận địa đang nóng bỏng lúc đó. Yếu tố bất ngờ và
sự chọn bãi đổ quân (landing zone –LZ) thận trọng nên không bị
tổn thất khi đổ quân. LZ là khu vực hương lộ 245 con đường nhựa
chạy ngang sóc Srok Ton Cui, hướng tây nam và gần hai ngọn đồi
Gió và 169 (xem bản đồ đổ quân vào An Lộc của LĐ1ND). Mọi chi
tiết của kế hoạch do Đại tá LQL cũng được thực hiện chu đáo.
-Tiểu đoàn 6 Dù của Trung tá Nguyễn văn Đỉnh, từ khu vực đổ
quân đã tiến vào mục tiêu và tấn công vào các đơn vị quân CSBV
trên hai ngọn đồi ở khu vực đông nam thành phố này. Ngay trong
buổi chiều 14, chừng hơn một giờ sau khi đổ quân, Tiểu đoàn đã
chiếm xong hai mục tiêu, Đồi Gió và Đồi 169.
-Toàn bộ đại bộ phận của Lữ đoàn 1 Dù gồm Bộ Chỉ huy Lữ
đoàn, Đại đội Trinh sát, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 Dù đã đổ
quân hoàn tất vào khoảng 3giờ chiều ngày 15 tháng 4 ở bãi đáp
gần đồi Gió. Cũng trong ngày này, từ sáng sớm Bộ Tư lệnh
Tiền phương TWC/MN đã mở một cuộc tấn công chiến xa và bộ binh
vào các tuyến phòng thủ của Tướng Hưng sau khi đã giập hơn năm
ngàn quả đại pháo vào thành phố. Cuộc tấn công này diễn ra có
vẻ vội vã ở mặt tây và tây bắc vì chiến xa từ hướng này tiến
vào thành phố không có bộ binh tháp tùng. Ở mặt đông bắc thì
áp lực tấn công của lực lượng địch rất nặng. Riêng ở mặt đông
nam thì địch không thể tấn công vì quân Dù đã chiếm trọn khu
vực hai ngọn đồi nói trên và ng̣ọn đồi thấp hơn ở sóc Srok Ton
Cui. Đặc biệt ghi nhận là thiết giáp địch vào thành phố chạy
lạc lõng, lơ ngơ, không biết đường lối hay mục tiêu tấn công, để
bị bắn hạ... dễ dàng. Có không ít đôi ba lý do để giải thích.
Nhưng nguyên nhân chính là ngày hôm trước, tức ngày 14 tháng 4,
nhằm mục đích làm giảm áp lực địch và sự tăng viện quân của
chúng vào thành phố sau khi chúng tấn công mạnh ở hướng tây
bắc ngày hôm trước và cũng để đánh lạc chú tâm của địch, yểm
trợ cho Dù đổ quân, sau khi họp xong với Đại tá LQL, Tướng Hưng
chỉ thị cho tôi vẽ mười boxes B-52 (mỗi boxe dài chừng hơn 2km
và rộng 1km) chuyển cho Đại tá Miller, yêu cầu Không Quân Chiến
lược Hoa Kỳ thực hiện; trong đó có hai boxes đánh xuống Ấp Phú
Lố cách thị xã chừng hơn ba dặm, và Ấp Phú Bình chỉ các vòng
đai phòng thủ của quân bạn ở hướng tây chừng 800m. Xin thực
hiện ngay trong ngày hôm đó.
Buổi trưa trước khi Tiểu đoàn 6 Dù đổ quân vào LZ ở đông nam thị
xã thì KQ Chiến lược Hoa Kỳ đã đánh xong hai boxes B-52 vào các
ấp Phú Lố và Phú Bình ở tây thị xã. Tám boxes khác đánh xa
hơn trên trục chuyển quân của chúng. Cư dân ở hai ấp này đã hoàn
toàn di tản vào thành phố ngay trong những ngày 7 và 8 tháng 4.
Ở các nơi đó chỉ còn vườn không nhà trống tuy nhiên vẫn còn
là nơi thích nghi cho các đơn vị CSBV với các nước giếng ngọt,
rau cải và cây trái, nhà cửa. Chúng có thể tạm dừng trên lộ
trình tiến quân, lo cơm nước, để chuẩn bị tấn công vào thị xã.
Sau này chúng tôi được biết chính hai boxes B-52 ngày 14 tháng 4
này ở hai ấp nói trên đã tiêu diệt trọn Bộ chỉ huy Trung đoàn
271, hai Tiểu đoàn bộ binh của Trung đoàn này và các đơn vị
phòng-không tháp tùng, là cánh quân lớn của Sư đoàn Công trường
9 TWC/MN, và là mũi tấn công chính vào mặt tây và tây bắc An
Lộc. Nhưng ngày 15/4, mũi nhọn chủ lực này đã... không bao giờ
vào thành phố mà đã phơi thây ở hai ấp Phú Lố và Thanh Bình
rồi. Các chiến xa vào thành phố trong ngày này không có bộ
binh tháp tùng đã chạy lang bang trên các con đường phố, không
biết bạn ở đâu, ví trị của quân phỏng thủ ở đâu, thì chỉ là
những con mồi ngon cho loại súng chống chiến xa M-72 mà thôi.
Trong ngày đó, 10 chiếc T-54 và PT-76 cùa CSBV bị hạ trong thành
phố).
Cũng trong ngày 15 tháng 4 này, vì giữ được LZ nên Bộ Chỉ huy
Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, các Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 Dù cũng đã
đổ quân an toàn ở bãi đổ quân vùng sóc Srok Ton Cui. Tuy nhiên
vì thành phố đang bị tấn công nên Tướng Hưng liên lạc chỉ thị
cho Đại tá LQL tạm giữ lực lượng Dù ở khu vực vùng ba ngọn
đồi đông nam đó, chưa vào thành phố trong ngày hôm đó. Ngày hôm
sau Đại tá LQL chia quân Dù làm hai cánh vào thành phố.
Cánh thứ nhất, gồm có Tiểu đoàn Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, các Đại
đội Trinh sát và Công binh cùng với Tiểu đoàn 5 của Trung tá
Nguyễn Chí Hiếu tiến vào vòng đai phòng thủ của Tiểu khu theo
ngã ấp Sóc Gòn. Cánh quân thứ hai do Trung tá Văn Bá Ninh, Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 Dù chỉ huy, tiến vào mục tiêu chỉ định
là đầu xa lộ phía nam tỉnh lỵ, gần Bộ Chỉ huy Tiểu khu theo
ngã ấp Phú Hòa chỉ cách vòng đai phòng thủ thị xã chừng 1 km
về hướng đông. Ấp Sóc Gòn cách ấp Phú Hòa hơn một km về
hướng đông bắc. Cả hai cánh quân này đều chạm địch. Tuy cánh
quân do Trung tá VBN chỉ huy là TĐ8ND vào ấp Phú hòa trước, chỉ
chạm nhẹ, nhưng đã đóng quân đêm 16/4 tại ấp này để yểm trợ cho
cánh quân của Tiểu đoàn 5 và các Đại đội Trinh sát và Công binh
Dù do chính Đại tá LQL chỉ huy, chạm súng nặng với một Trung
đoàn của SĐ-5/CS trong suốt ngày và đêm 16 đó ở ấp Sóc Gòn.
Địch quân tấn công vị trí dã chiến của Dù ở Sóc Gòn nhiều
đợt, rất mạnh. Chúng xung phong biển người với cả bộ binh và
chiến xa, nhưng đều bị Dù đẩy lui. Kết quả cuộc chạm súng này
các đơn vị của Đại tá LQL đã bắn hạ 4 T-54, tịch thu 7 súng
cộng đồng, 20 súng AK-47, và địch quân bỏ lại tại trận 85 xác
chết. Lực lượng Dù có 3 tử thương và 13 bị thương.
Điều đáng nêu lên là cả trong ngày và đêm 16/4 đã có hơn 20 phi
tuần yểm trợ của KQVN cho đơn vị Dù của Đại tá LQL. Đặc biệt
là trong các đêm này lần đầu tiên ghi nhận Không Quân Chiến
Thuật Hoa kỳ đã đưa một loại vũ khí mới diệt chiến xa địch
ban đêm vô cùng hữu hiệu gọi là “Spectre” -tức là loại máy bay
C-130 cải biến thành chiến đấu cơ, trang bị hồng ngoại tuyến,
với các loại sensors dò tiếng động của động cơ và tự động
điều khiển dàn súng đại bác 105 ly không dật, cộng thêm 18 khẩu
đại liên 50 ly, đặt ở ba vị trí khác nhau mỗi nơi 6 khẩu, và
hai dàn hỏa tiễn gồm 12 ống, tùy theo loại mục tiêu di động hay
gây tiếng nổ trên mặt đất nhiều ít hay nặng nhẹ đến mức độ
nào các loại vũ khí đó sẽ tác xạ thẳng tiêu diệt mục tiêu,
chính xác trăm lần như một, không trật. Đây là loại vũ khí vô
cùng lợi hại, bao vùng và diệt chiến xa và các loại xe chuyên
chở pháo, hay các khẩu pháo di động của CSBV nhiều nhất trong
trận chiến An Lộc -nhất là bên ngoài thành phố. Nên ghi nhận
rằng tại An Lộc và vùng bao quanh, từ khi chiến trận diễn ra,
toàn bộ chiến xa và các loại xe của các đơn vị phòng thủ
hoàn toàn không còn nữa, chỉ còn một ít xe jeep không hề được
sử dụng di chuyển trong đêm, do đó khi tiếng động cơ nổ ban đêm
thì chỉ là chiến xa và các loại xe chở pháo và chở quân hay
tiếp liệu của quân CSBV. Hai động cơ nổ là hai máy điện của
BTL/SĐ5BB và của BCH/Tiểu khu Bình Long, cố định và có tọa
điểm chính xác, nên các chiến đấu cơ Spectres, thường gọi là
Hoả Long --xuất phát từ căn cứ Không quân Hoa Kỳ Utapao ở Thái
Lan-- không thể bắn nhầm vào vị trị của các đơn vị phòng thủ.
Hàng nhiều chục chiến xa và các loại quân xa của CSBV bị Hỏa
Long bắn hạ trên các trục giao thông ngoài An Lộc ở những ngày
đêm sau đó, đã triệt mất đường tiếp vận của chúng.
Sáng ngày 17 tháng 4, các đơn vị Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đã hoàn
toàn vào các vị trí đã dự trù đúng theo kế hoạch của Đại
tá Lê Quang Lưỡng. Tức là ngoài Tiểu đoàn 6 Dù và mấy pháo
đội của Tiểu đoàn 3 Dù trấn đóng trên hai ngọn đồi 169 và đồi
Gió và Srok Ton Cui, do Trung tá Lê văn Ngọc, Lữ đoàn phó chỉ
huy, toàn bộ thành phần lớn hơn của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù do
chính Đại tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy, đã vào các vị trí trong
thành phố như đã dự trù. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn và Đại đội Trinh
sát đóng chung với Bộ Chỉ huy Tiểu khu, Tiểu đoàn 5 Dù làm trừ
bị đóng gần đó. Quan trọng nhất là Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù, do
Trung tá Văn Bá Ninh chỉ huy, chiếm trọn khu vực rộng lớn đầu
xa lộ phía nam thành phố xuống đến gần đồn điền Xa Cam trong
buổi sáng ngày 18/4. Tại khu vực này Tiểu đoàn đã chạm nặng
với một đơn vị của SĐ Công trường 7 của CSBV, địch bỏ lại hơn
40 xác chết, nhiều súng cộng đồng và cá nhân. Sau đó TĐ8NH và
Đại đội Công binh Dù đã tu bổ dọn trống thêm quãng xa lộ sát
liền với phía nam BCH Tiểu khu, làm thành bãi đáp tạm cho các
loại trực thăng và chinooks của KLHK và KQVN. Tiểu đoàn này đã
giữ sân bay trực thăng tạm này an toàn suốt những trận tấn công
sau đó của lực lượng CSBV vào thành phố. Trực thăng của KQVN
và HK đã bay lên đáp xuống khá an toàn, dù không tránh khỏi bị
pháo kích, đã đưa được hàng trăm thương bệnh binh các đơn vị
trú phòng ra khỏi trận địa và mang vào quân bổ sung, thực phẩm
và trang bị nhẹ vào cho các cánh quân đó, mặc dù tiếp tế
thực phẩm khô và đạn dược hay trang bị nặng khác vẫn do KLHK
tiếp tục thả dù như trước đó.
Trước đó, trong ngày 16 tháng 4, Liên đoàn 81 Biệt Cánh Nhảy
Dù, chừng dưới năm trăm quân do Trung tá Phan văn Huấn chỉ huy,
cũng được BTTM tăng viện cho Tướng Minh và được đưa vào An Lộc
bằng trực thăng vận và đáp ở bãi đáp bên suối Rô, gần bãi đổ
quân Sóc Srok Ton Cui của Lữ đoàn 1 Dù. Cuộc đổ quân an toàn và
hoàn tất vào khoảng hơn 5 giờ chiều. Trung tá PVH bắt tay được
với Trung tá LVN, Lữ đoàn phó Dù. Sau đó tiếp xúc âm thoại
được với Tướng Hưng và nhận chỉ thị tiến lên hướng bắc thành
phố theo lộ trình cặp theo đường rầy xe lửa. Tuy nhiên vì trời
tối nên phải đóng quân dã ngoại đêm đó; chỉ chạm súng nhẹ.
Sáng ngày, trên lộ trình này Trung tá PVH đã liên lạc được với
hai Đại đội của Liên đoàn 3 BĐQ đã tách rời đơn vị mẹ trong
cuộc tấn công ngày 13/4. Buổi chiều 17/4 cả Liên đoàn 81 Biệt
Cách Nhày Dù vào thành phố. Ngay tối đêm đó, từng toán quân
nhỏ thiện chiến của Liên đoàn tấn công và chiếm lại một vài
khu vực quân CSBV chiếm mấy ngày trước gần khu Chợ An Lộc. Đến
hết ngày 18/4 chiến sĩ Liên đoàn đã hoàn toàn kiểm soát khu
vực được chỉ định và bung ra hơn trăm thước về hướng bắc.
LĐ81BCND sở trường tấn công vị trí địch quân bằng những toán
quân nhỏ cấp Tiểu đội hay bán Tiểu đội như vậy.
Từ ngày đó LĐ81BCND trấn giữ vị trí quan trọng này ở mặt bắc
thành phố đã gặt hái những thành quả tốt đẹp mặc dù bị tổn
thất không ít vì pháo kích, và lập được kỳ công ghi vào quân
sử với cái nghĩa trang nhỏ chôn chiến sĩ hy sinh tại chỗ trong
khu vực đó, có hai câu đối khắc ghi trong tâm tưởng của mọi
người --mặc dù sau chiến tranh nghĩa trang đó không còn nữa--
nhưng bất cứ một quân nhân QLVNCH nào cũng còn nhớ: “An Lộc địa
sử ghi chiến tích. Biệt Kích Dù vị quốc vong thân”. Trên vách
tường xây gạch quét vôi của nghĩa trang người ta còn đọc được
hai câu thơ của Vương Hãn được ghi lại bằng chữ lớn: “Túy ngọa sa
trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Ảnh # 3)
Nét văn hóa trên đây là chứng tích mã thượng không riêng của
người quân nhân BKD nhưng là nét hào hùng phóng khoáng chung của
mọi chiến sĩ trong QLVNCH. Họ chiến đấu anh dũng với chính
nghĩa cao cả là bảo vệ quần chúng với tư tưởng bao dung, lòng
vị tha, không thù hằn khát máu như những cán binh Bộ đội Nhân
Dân CSBV, mà chúng thường tự cho là “Bộ đội Cụ Hồ”. Những
người cầm súng “sinh bắc tử nam” đó đã từng giết người tập
thể dã man ở Huế Tết Mậu Thân, ở khắp mọi chiến trường mà
họ mở những cuộc tấn công với chủ trương tiêu diệt tất cả mọi
người dù là chiến sĩ hay thường dân, người già cả, đàn bà và
trẻ con trên mục tiêu mà họ tấn công. Nghĩa là không chừa một
ai trước họng súng của chúng. Và đó là chủ trương của Đảng
Lao Động Việt Nam. An Lộc mùa Hè này cũng là một điển hình về
sự giết chóc vô tội vạ của “Bộ đội cụ Hồ”.
An Lộc là một thành phố của một tỉnh, không có hệ thống
phòng thủ kiên cố như Điện Biên Phủ, như Khe Sanh. Trong thành
phố đó nếu tính theo tỷ lệ nhân số thì chỉ có một quân nhân
trong năm hoặc sáu cư dân. Vậy nếu An Lộc được bảo vệ bằng
bốn, năm, hay sáu nghìn chiến sĩ thì có từ hai mươi nghìn
thường dân hay nhiều hơn. Khi trận chiến khởi diễn, mấy nghìn cư
dân, từng đoàn, chạy theo xa lộ về Chơn Thành, hay Bình Dương,
bị “Bộ đội cụ Hồ” bắn thẳng bằng súng trường AK-47 hay pháo
kích pháo, thây chết đầy đoạn đường dài mấy cây số quãng từ
đồn điền cao su Xa Cam trở về hướng nam. Ngày đầu tiên, khi tấn
công An Lộc từ hướng đông, chúng đã lùa hàng trăm thường dân ở
Quản Lợi làm mộc che phía trước bộ đội của chúng tiến theo ở
phía sau. Hèn nhát và vô nhân. Chúng tôi thà chịu đựng cuộc
tấn công đó một cách khó khăn và tránh làm thiệt hại cho
thường dân, tránh không sử dụng hỏa lực tập thể của pháo binh
hay không quân. Ngược lại cũng trong ngày này, chúng pháo kích
vào nhà thương tỉnh lỵ, và nhiều lần khác trong các ngày sau,
quần chúng bị thương hàng mấy trăm người đến đó, bị chết gần
hết. Rồi thây người chết bị chúng dập thêm pháo, tan xác, mất
đầu, cụt tay chân. Rồi đợt pháo khác nữa... thây người biến
thành những đống thịt nhầy nhụa hay văng vãi tứ tung khắp trong
ngoài bệnh viện. Đại tá Bùi Đức Điềm, Tham mưu trưởng hành
quân của Tướng Hưng phải tự mình lái xe xúc đất buldozer đào
các đường rãnh sâu dài nhiều chục thước và rộng trên ba thước
rồi chiến sĩ Đại đội 5 Trinh sát phụ chôn xác tập thể dưới
các đường rãnh đó, như nói trên. Những ngày tiếp theo chúng
pháo kích liên tục và vô cùng dữ dội, mỗi ngày hàng nghìn
quả đạn. Chiến sĩ chết đã đành, nhưng hàng nghìn thường dân
chết theo với một thành phố sụp đổ gần như toàn diện. Không
một ngôi nhà nào đứng vững, không một bức tường nào, con đường
nào, hay thân cây nào không mang dấu vết mảnh đạn lớn nhỏ của
các loại trọng pháo, đại pháo, lớn nhỏ của bộ đội cụ Hồ.
Xin nhớ... An Lộc chỉ là một thành phố nhỏ, không phải là một
hệ thống chiến lũy, chiến hào. Đó là nơi cư trú của thường dân
không phải là nơi để chúng dập thành bình địa như những công
sự chiến đấu của binh sĩ.
Sự hiện diện của hai đơn vị Dù thiện chiến này vào An Lộc làm
cho tinh thần binh sĩ trú phòng của SĐ5BB, LĐ3BĐQ và quân dân
thuộc Tiểu Khu Bình Long lên tinh thần thấy rõ. Lực lượng phòng
thủ đã lên đến hơn bảy nghìn chiến sĩ. Các đơn vị phòng thủ
lo củng cố thêm vị trí của mình, thực ra là binh sĩ trú phòng
chỉ đào sâu thêm và rộng hơn hố chiến đấu cá nhân để dễ bề
xoay trở trường hợp bị pháo kích mà không hề có công sự chắc
chắn nào che chở khi bị tấn công. Chính kỹ thuật chiến đấu cá
nhân, sự trông cậy vào loại M-72, vũ khí chống chiến xa rất
hữu hiệu mới được Hoa Kỳ đưa vào chiến trường miền Nam làm cho
binh sĩ tin tưởng cũng như niềm tin tưởng vào sự quyết tâm của
các cấp chỉ huy, nhất là lệnh tử thủ chiến của tướng tư lệnh
mặt trận Lê văn Hưng, nên họ quyết tâm và dũng cảm chiến đấu.
Trong trận tấn công ngày 13/4 vừa qua họ đã thành công bắn hạ
được nhiều chiến xa của CSBV, giữ vững được An Lộc. Cuộc tấn
công đó kéo dài đến hết ngày 17/4.
Ngày 18/4, TWC/MN mở cuộc tấn công thứ hai vào An Lộc. Chính
trong ngày này các đơn vị CSBV tấn công thành phố bị thiệt hại
nhiều nhất. Sự tăng cường của những đơn vị tinh nhuệ nhất của
QLVNCH, làm cho niềm tin cùa quân trú phòng càng được củng cố
mạnh mẽ hơn trong thời gian sau đó. Phải công nhận là kế hoạch
đổ quân tiếp viện Dù ở một bãi đổ quân an toàn và thiết lập
một phi trường trực thăng tạm ở khu xa lộ phía nam thành phố An
Lộc của Đại tá LQL là ưu việt. Tải được thương binh về các
bệnh viện ở hậu cứ, nhận được thêm quân, dù ít dù nhiều, đã
làm thay đổi cả bộ mặt chiến trường. Các đơn vị mạnh hơn, nhẹ
nhàng hơn và cơ động hơn trong chiến đấu.
Suốt thời gian hơn 3 tuần lễ, từ ngày 18/4 cho đến ngày 11/5
--là ngày CSBV mở đợt tấn công thứ ba vào An Lộc-- diễn ra hai
sự kiện quan trọng làm ảnh hưởng đến uy tín và con đường binh
nghiệp của Tướng Lê văn Hưng. Hai việc này đã nói sơ ở phần
trên. Xin ghi rõ hơn:
Sự kiện thứ nhất: Vì bãi trực thăng tạm do TĐ8ND do Trung tá
Văn Bá Ninh chỉ huy thiết lập và bảo vệ hữu hiệu, các đơn vị
phòng thủ tản thương được, nhận thêm quân, và tiếp tế được các
nhu yếu phẩm cần thiết, tuy với số lượng ít. Niềm tin mới lớn
dần. Vậy mà, trong khi chiến sĩ của từng đơn vị phòng thủ lên
tinh thần và sẵn sàng chờ một cuộc tấn công sắp tới của CSBV,
thì một ngày vào khoảng cuối tháng 4, 1972, một cấp chỉ huy
mang cấp bậc đại tá băng bó vết thương rất nhẹ, đã được điều
trị lành rồi, và một thiếu tá pháo binh, cùng ra sân bay trực
thăng tạm và định leo lên một trực thăng tản thương để mong thoát
ra khỏi An Lộc. Binh sĩ Dù của Trung tá VNB giữ bãi trực thăng
thấy ông thương binh này mang cấp bậc đại tá trên cổ áo, không
dám cản, nhưng báo cáo cho Trung tá Văn Bá Ninh. Ông Ninh báo
cáo ngay cho Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng. Đại tá L.
ra tận nơi, nhìn dải băng trên vai ông đại tá nọ và hỏi ông ta
ở đơn vị nào và bị thương ra sao? Ông đại tá xưng tên là Mạch
văn Trường, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8, SĐ5BB. Đại tá LQL chỉ
nói một câu nhẹ nhàng: -“Thương tích nhẹ như vậy mà muốn được
tản thương hay sao?” Ông tức khắc gọi cho Tướng Hưng trình sự
việc. Tôi lại được Tướng Hưng ra lệnh đem xe Jeep ra gặp Đại tá
LQL đế “nhận lại” ông đại tá và ông thiếu tá “thương binh” trở
về Bộ TLHQ/SĐ. Lẽ dĩ nhiên ông đại tá và ông thiếu tá này bị
Tướng Hưng xát muối. Thì ra Đại tá MVT trước đó một hôm bị
Tướng Hưng ra lệnh cho về chỉ huy lại đơn vị của mình sau khi
nằm hơn tuần lễ trong căn hầm của tư lệnh chỉ với vết thương
nhẹ trên vai. Ai ngờ bị “lạnh cẳng” vì những trận pháo dồn
dập của quân CSBV khi trở lại đơn vị, ông ta ra sân trực thăng
định “chuồn” về hậu cứ.... Và vì “việc phải làm” này, Tướng
Hưng đã chạm vào con gà cưng của tướng Tư lệnh Quân Đoàn. Đó
là lần thứ nhất. Việc “giả thương binh định chuồn về hậu cứ”
này chẳng những tôi biết mà còn rất nhiều người biết. Nhưng
người biết rõ nhất có lẽ là Đại tá VBN, Tiểu đoàn trưởng
TĐ8ND lúc đó; hiên nay ông đang sống tại Hoa Kỳ. Sau này, còn một
chuyện quan trọng hơn cũng liên quan tới “con gà đó” nên Tướng
Hưng bị Tướng Nguyễn văn Minh dáng cho những đòn nặng chí tử
ảnh hưởng lâu dài đến binh nghiệp của Ông.
Sự kiện thứ hai: Như tôi trình bày ở phần trên, chỉ xin ghi thêm
cho rõ hơn. Từ ngày 7/4 sau khi BTL Hành Quân của SĐ chuyển sang
hầm ngầm ở khu đất trống cạnh building Tòa Hành Chánh Tỉnh,
Tướng Hưng chưa hề ở trong căn hầm ngầm dành riêng cho tư lệnh
cho đến tuần lễ cuối cùng của tháng 4/1972. Nơi đó có một
chiếc giường sắt, một tủ lạnh, một chiếc bàn nhỏ và một ghế
ngồi, vì suốt buổi chiều và đêm 7/4, Ông cùng Đại tá Miller
bận họp bàn kế hoạch hành quân ở chiếc bàn thấp nhỏ đặt
giữa hai chiếc ghế bố của hai vị này mà, bên cạnh ghế bố của
Đại tá Miller là hai chiếc ghế bố của hai sĩ quan cố vấn cấp
tá, mộ̣t của Trung tá Ed Benedit, phụ tá cho Miller, một của
Thiếu tá Alan Borsdorf, phụ trách hành quân của toán cố vấn.
Nếu từ trên mặt đất bước xuống mươi bậc, nhìn vào vách hầm
đối diện là thấy ngay, nghĩa là ở khu chính của hầm. Từ cửa
hầm bước chừng năm sáu bước sang phía trái là chiếc bàn dài
đặt hệ thống máy truyền tin. Vì vậy có thể gọi khu này là
Trung tâm Hành Quân của BCH/HQ/SĐ. Từ cửa hầm, nếu theo địa đạo
đi về phía phải, chừng hai mươi bước, là căn hầm của tư lệnh.
Từ ngày 8/4, khi Đại tá MVT, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 bị
vết thương ở vai, Tướng Hưng đã nhường căn hầm riêng này cho ông
này nằm điều trị và dưỡng thương trước trận tấn công thứ nhất
của quân CSBV (trước ngày 13/4) cho đến tuần lễ cuối của tháng 4
đó. Tại chiếc bàn nhỏ giữa hai chiếc ghế bố của hai giới chức
quan trọng nhất ở An Lộc là Tướng Tư lệnh Chiến trường Lê văn
Hưng và Đại tá Cố vấn trưởng William Miller đã xảy ra nhiều
trận cãi vã to tiếng giữa hai mgười, như đã nói.
Lý do chính là vì Đại tá Miller thấy An Lộc được tăng cường
Lữ đoàn 1 ND và Liên đoàn 81 BCKD, nên đưa ra kế hoạch tái chiếm
lại phần thành phố trong khu vực thương mãi phía bắc An Lộc và
Sân bay Đồng Long –đã bị các đơn vị của CSBV chiếm trong đợt
tấn công đầu tiên của chúng từ ngày 13 đến ngày 18 tháng 4.
Nếu có một cuộc phản công như vậy ông (Đại tá Miller) sẽ yêu
cầu Không Quân Chiến Lược và Không Quân Chiến Thuật lập kế
hoạch không yểm tối đa cho Tướng Hưng. Ông ta yêu cầu nên sử dụng
Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Liên
đoàn 3 BĐQ làm nỗ lực tấn công chính, những đơn vị còn lại
sẵn sàng ứng chiến tại chỗ. Ông ta ước tính là lực lượng
phòng thủ của Tướng Hưng có thể điều động được chừng 3,000
quân cho kế hoạch phản công tái chiếm phần thành phố bị mất
đó, mà ông cho sân bay Đồng Long là quan trọng cho việc tiếp tế
và tải thương hơn là hàng ngày phải tiếp tế bằng thả dù của
Không lực Hoa Kỳ. Ông cũng cho rằng các loại trực thăng KQVN hay
Hoa Kỳ đáp vào bãi đáp tạm do TĐ8ND ở đầu xa lộ là rất nguy
hiểm. Đề nghị này của Đại tá Cố vấn Miller có vẻ hợp lý
nhưng chưa đúng lúc.
Theo lời khai của tù binh, là một sĩ quan CSBV bị TĐ3/7 bắt
được trong trận tấn công vào An Lộc lần thứ nhất ngày 17/4 và
lời khai của một sĩ quan CSBV hồi chánh khác, cho biết là Trung
đoàn 271 của SĐ-9/CS gần như hoàn toàn bị B-52 tiêu diệt ở ấp
Phú Lố và ấp Phú Bình mấy ngày trước nên nỗ lực chính của
Sư đoàn này coi như thất bại ở hướng tây bắc, mặc dù hướng đông
bắc Trung đoàn 272 của chúng chiếm được sân bay Đồng Long và
mấy khu phố phía bắc An Lộc. Tuy nhiên cuộc tấn công lần thứ
nhất này của CSBV vào An Lộc được TWC/MN ghi nhận là thất bại.
Các tù binh này cho rằng TWC/MN đã chuẩn bị một trận tấn công
lớn khác vào An Lộc và lần này nỗ lực chính sẽ do SĐ-5/CS đảm
trách ở hướng đông bắc. Hướng tây và tây nam do SĐ-9/CS đảm
nhận, nhưng chỉ là nổ lực phụ. Các đơn vị chiến xa, pháo binh,
phòng không và đặc công cấp Trung đoàn sẽ tăng cường cho hai đơn
vị lớn nói trên. Hồi chánh viên này cũng cho rằng SĐ-7/CSBV sẽ
tăng cường từ phía nam lên cho SĐ-5/CS một Trung đoàn nguyên vẹn
để tấn công ở mặt đông nam An Lộc vì nơi này đã có sư hiện
diện của quân Nhảy Dù. Trước những tin tức và tình huống trận
chiến có thể diễn ra lớn lao được ước tính là nguy hiểm như
vậy, Tướng Hưng tất nhiên phải rất dè dặt và vì vậy nên sinh
ra cuộc cãi vã dữ dội về quan niệm chiến thuật giữa ông và
Đại tá Cố vấn Miller, kéo dài cả nhiều ngày liền, ngay cả khi
trận tấn công lần hai của CSBV (18-21/4) vừa chấm dứt.
Thấy tình trạng khá gay cấn nên có một đêm tôi vào căn hầm
riêng và hỏi chuyện Tướng Hưng. Ông Hưng nói với tôi rằng ông coi
Miller như một chiến sĩ ưu tú nhưng không đủ hiểu biết về chiến
tranh Việt Nam. Ông chỉ cần Miller vì cần sự trợ chiến về không
yểm và tiếp tế của Lực lượng Không Quân Chiến lược và Chiến
Thuật Hoa Kỳ mà không cần đến quan điểm chiến thuật của ông
Miller. Tướng Hưng nói với Miller rằng, nếu trận tấn công khác
diễn ra thì lực lượng CSBV mà TWC/MN sử dụng sẽ lên đến hơn
20,000 quân, hay hơn nữa, các loại bộ, pháo, các đơn vị đặc
biệt khác, và chiến xa... tổng cộng lực lượng đó sẽ lên đến
hơn ba Sư đoàn…. Giả thử nếu ngay lúc đó mà đề nghị phản công
để chiếm lại mặt bắc thành phố và sân bay Đồng Long của Đại
tá Miller được thực hiện thì tổn thất của các cánh quân phản
công sẽ rất lớn. Và, nếu chiếm lại được các khu vực bị mất
trước đó thì lực lượng bạn sẽ phải phân tán để giữ các vị
trí vừa tái chiếm, hệ thống phòng thủ sẽ mỏng hơn vì không
đủ quân. Hiện tại trong thành phố An Lộc quân phòng thủ chỉ
chừng 7,000 người có thể tác chiến được. Một kế hoạch phản
công tái chiếm các khu bị mất có thể thành công tạm bợ nhưng
An Lộc sẽ bị tiêu diệt trong trận tấn công dữ dội hơn của CSBV.
Vì ngay trong tuần lễ khi An Lộc được tăng cường hai đơn vị Dù
thì tình hình ở khu vực phía đông nam An Lộc trở nên vô cùng
sôi động.
Trong trận tấn công An Lộc lần thứ hai, bắt đầu từ ngày 18/4,
CSBV đã dội trọng pháo mỗi ngày hơn một nghìn quả pháo vào
các đơn vị phòng thủ An Lộc và đạn nổ tập trung nhiều nhất
là các khu đóng quân của các đơn vị thuộc TĐ6ND, nhất là hai
ngọn Đồi Gió, Đồi 169 và ấp Srok Ton Cui. TĐ5ND đóng ở đông nam,
cách BCH/Tiểu khu một cây số, cũng bị pháo kích và tấn công
dữ dội. SĐ-7/CSBV, mặc dù vẫn “đóng chốt” chặt chẽ ở khu vực
Suối Tàu-Ô, nhưng vẫn nhận được lệnh của TWC/MN đưa bớt Trung
đoàn 141 về vùng đông nam An Lộc để gây áp lực mạnh cho cánh
quân Dù của Đại tá LQL ở khu vực cao điềm này. Điều làm cho
Tướng Hưng quan tâm hơn là tin tức của Đại đội Kỹ Thuật/SĐ ghi
nhận hai Trung đoàn F-6 và 275 của SĐ-5/CS sau khi bổ sung quân ở
vùng Trị Tâm đã quay lại chiến trường An Lộc và hiện diện
trong khu trọng yếu đó, chưa kể Trung đoàn Đặc công 469 và hai
Trung đoàn 208 Trọng pháo và 271 Phòng không của SĐ70 Pháo/TWC/MN
cũng từ vùng đồn điền Quản Lợi kéo xuống các ấp Sóc Trào,
Hương Thanh hướng đông bắc Đồi Gió chừng 6 đến 8 cây số. SĐ-5/CS
vẫn giữ Trung đoàn 174, tức đơn vị cấp Trung đoàn thứ ba của
chúng ở vùng đồn điền và sân bay Quản Lợi, hình như để làm
lực lượng phòng ngừa một cuộc đổ quân bất ngờ của QLVNCH tái
chiếm sân bay quan trọng nhất này của Bình Long, chỉ cách An
Lộc chừng 5 hay 6 cây số ở phía đông. Trước tin tức về cuộc
tập trung quân CSBV lớn ở đông và đông nam An Lộc, cộng thêm
những yếu tố khác nói ở trên, dĩ nhiên Tướng Hưng không thể
chấp thuận kế hoạch tái chiếm các khu phố phía bắc tỉnh lỵ
và sân bay Đồng Long của Đại tá William Miller. CSBV tập trung
lực lượng lớn ở khu vực này rõ ràng là chúng có ý định tấn
công và tiêu diệt đơn vị Nhảy Dù thiện chiến này của QLVNCH
trước, hoặc trong trận đánh quyết định. Cuộc cãi nhau “về
chiến thuật” này đã tăng thêm sự rạn vỡ giữa hai cấp chỉ huy
cao cấp này ở mặt trận An Lộc. Dĩ nhiên, Tướng Hưng đã báo cáo
đầy đủ lên Tướng Minh. Về phần Đại tá Miller có lẽ cũng vậy.
Sự ghét bỏ Tướng Hưng của Đại tá Miller dù muốn che đậy qua vẻ
lịch sự thường nhật của người phương Tây, nhưng ông đã không tự
kềm chế được lúc đó --và sau này nữa-- khi về lại Hoa Kỳ,
Miller đã tạo nên một luồng dư luận lớn tấn công vào uy tín
của Tướng Hưng và Bộ Tham mưu Hành Quân của SĐ5BB là bất lực,
thụ động, không làm được việc gì, “kể cả công việc tham mưu
hành quân hoàn toàn do toán cố vấn Hoa Kỳ của ông ta đảm trách
suốt trận đánh An Lộc.” Ông ta còn cung cấp tài liệu thiếu
chính xác mà nhiều bịa đặt nói trên cho Trung úy James H.
Willbanks, trong toán cố vấn của Chiến đoàn 52 của SĐ18BB tăng
phái, mà, sau này về Mỹ đi học lại, đã dựa vào để viết,
trình, luận án Tiến sĩ (sau đó in thành sách với tựa đề “The
Battle of AnLoc”, Indiana University Press, 2005), như nói phần trên.
Tài liệu này của Wilbanks và các cuộc hội thảo khác về Trận
An Lộc của Đại tá William Miller đã biếm nhẽ và hạ thấp uy
tín của Tướng Lê văn Hưng đến mức cao nhất trong Quân lực Hoa
Kỳ. Trở lại thời điểm đó, nhìn rõ cục diện chiến trường mới
thấy rằng sự hiểu biết của William Miller là nông cạn, đúng như
Tướng Hưng nhận xét.
Ngày 19/4, ngày thứ nhì TWC/MN tấn công An Lộc lần hai, CSBV
pháo kích dữ dội vào thành phố, vào vị trí đóng quân của
các đơn vị Dù, nhất là vị trí của TĐ6 và TĐ3 Pháo binh Dù ở
Đồi 169, Đồi Gíó và Srok Ton Cui. Ngay trong đêm đó, 6 khẩu đại
bác 105ly của TĐ3 Pháo Dù bị pháo CSBV dập nát không sử dụng
được nữa và kho đạn trọng pháo trên Đồi Gió, hơn 1,000 quả
đạn, cũng bị nổ tung. Sáng ngày 20/4, toàn khu vực đông nam này
bị uy hiếp trầm trọng bởi hai Trung đoàn CSBV, Trung đoàn 275
của SĐ-5/CS và Trung đoàn 141 của SĐ-7/CSBV phối hợp với chiến
xa. Đồi Gió bị tấn công ác liệt nhất trong đêm đó sau nhiều
đợt pháo gần như san bằng ngọn đồi cao 150m này, tiếp theo là
những đợt tấn công biển người với bộ binh và chiến xa. Mặc dù
chiến sĩ TĐ6ND trên đồi đã chống trả mãnh liệt, hạ 2 trong 4
chiến xa, và đẩy lui nhiều đợt xung kích, nhưng đến gần sáng
thì bị tràn ngập. Thiếu tá Phạm Kim Bằng, Tiếu đoàn phó và
số quân Dù còn lại đã tập trung về được với Bộ Chỉ huy nhẹ
của Trung tá Lê văn Ngọc Lữ đoàn phó, trên Đồi 169. Một cánh
quân khác của TĐ6ND, gồm hơn hai Đại đội do Trung tá Nguyễn văn
Đỉnh chỉ huy ở Srok Ton Cui cũng bị tấn công dữ dội, phải đánh
mở đường máu rút về hướng đông nam trên hữu ngạn Sông Bé. Sau
nhiều lần bị phục kích và tấn công trên lộ trình rút lui,
nhiều toán binh sĩ của cánh quân này thất lạc, tuy nhiên Trung
tá NVĐ vẫn giữ được liên lạc với Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, nên buổi
chiều ngày 21/4 được trực thăng bốc về Lai Khê. Chỉ còn hơn một
trăm chiến sĩ phần lớn đều bị thương tích. Các ngày kế tiếp
một số chiến sĩ của Tiểu đoàn thất lạc cũng tìm về được với
các đơn vị bạn thuộc SĐ21BB vùng phía bắc Chơn Thành. Tổn thất
của TĐ6ND rất nặng. Bị mất hơn một nửa quân số tham chiến, trên
hai trăm người chết và mất tích, với hàng trăm thương binh. TĐ3
Pháo binh Dù mất toàn bộ các khẩu pháo binh dã chiến, tổn
thất lớn về quân số. Cũng trong đêm 20 rạng sáng 21/4, dưới áp
lực quá nặng nề của hơn hai Trung đoàn quân CSBV, cánh quân của
Trung tá LVN trên Đồi 169, chỉ còn chừng 150 người, kể cả chiến
sĩ của TĐ6ND, cũng được lệnh bỏ ngọn đồi này rút vào An Lộc
theo lộ trình của TĐ8ND mấy ngày trước, và tập trung lại với
Bộ Chỉ huy Lữ đoàn phòng thủ mặt đông nam thành phố.
KỲ 8
Như vậy, cả khu vực cao điểm đông
nam An Lộc lại hoàn toàn bị quân CSBV kiểm soát. Tuy nhiên chúng
cũng không đủ mạnh để có thể đánh bật được toàn bộ Lữ đoàn
Dù ra khỏi khu xa lộ phía nam Tiểu khu. Dưới sự chỉ huy sáng
suốt và nhiều kinh nghiệm trận mạc của Đại tá LQL và cấp chỉ
huy tài giỏi như các Trung tá LVN, VBN và NCH, Lữ đoàn 1 Nhảy
Dù vẫn bảo vệ được sân trực thăng xa lộ và các loại trực
thăng và Chinook Hoa Kỳ và KQVN tiếp tế và tải thương cho các
đơn vị phòng thù cho đến ngày trận chiến An Lộc chấm dứt. Thế
nhưng nếu rút quân Nhảy Dù đi khỏi khu vực đó hợp lực với một
số đơn vị khác mà mở cuộc phản công chiếm lại phía bắc thành
phố và sân bay Đồng Long như chủ trương của Đại tá Cố vấn
William Miller là thứ chiến thuật không tưởng, hạng bét. Vậy mà
không hiểu tại sao Đại tá Miller không hiểu rõ tình thế lúc đó
vẫn tiếp tục thôi thúc và cãi với Tướng Hưng về việc này cho
mãi đến cuối tháng 4/1972. Về câu chuyện thôi thúc phản công
chiếm lại phía bắc thành phố Wilbanks ghi lại ở trang 112 trong
quyển sách nói trên của ông như sau “Colonel Miller had once again
frustrated with General Hung. After the jubilation of blunting the
attack on 19-20 April had failed, Miller urged Hung to put his troops on
the offensive te retake the northern part of the city. However, no
amount of pleading was able to force Hung to give such an order”.
Không biết khi viết luận án Tiến sĩ Wilbanks có biết trong ngày
19-20 April quân CSBV tấn công dữ dội TĐ6 Nhảy Dù ở Đồi Gió và
Srok Ton Cui và ngày 20 April hai nơi này bị tràn ngập đưa đến
việc làm cho Tiểu đoàn này và mấy Đại đội pháo binh Dù tan
rã... sau khi đánh mở đưởng máu rút về căn cứ Tiểu khu và trên
bờ Sông Bé rồi cả vùng cao điểm đông nam An Lộc đã bị địch
quân tái chiếm hay không mà viết những câu vô lý như ghi trên. Ông
ta có biết chăng Tướng Hưng đang chịu sức ép rất lớn của địch
quân lúc đó ở mặt đông nam này và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đã mất
gần 1/3 lực lượng trong hai ngày đó hay không? Nếu biết tại sao
ông không nêu lên? Hay vì ông ta muốn bênh vực cho quan điểm chiến
thuậ̣t của Đại tá Miller mà quên, hay bỏ qua, sự kiện vô cùng
quan trọng nói trên. Hoặc giả ông ta biết và mặc dù khi trở vể
Hoa Kỳ thăng đến cấp tá và có bằng cấp cao nhưng vẫn chưa lột
hết cái dốt về chiến thuật của một Trung úy, cấp Trung đội
trưởng, còn quá ngu ngơ về trận mạc nên đã tâng bốc quan điểm
hạ đẳng của một sĩ quan cấp tá “sorti-du-rang” như Miller, không
biết gì về chiến tranh Việt Nam? Luận điểm sau này có lẽ đúng
hơn.
Trở lại thời điểm đó, một đêm vào cuối tháng 4/1972, vào
khoảng gần giữa khuya, khi tôi đang ngồi ở chiếc bàn trực hành
quân vuông --thay thế chiếc bàn thấp cũ-- thì Đại tá Miller đến
gặp tôi và nói với tôi là ông cần gặp Tướng Hưng –lúc đó đã
vào ở trong căn hầm riêng của tư lệnh, sau khi Đại tá MVT bị đưa
về đơn vi. Ông nói với tôi là ông sẽ gởi điện xin TRAC (Third
Regional Assistance Command – Bộ Tư lệnh Yểm Trợ Vùng 3 Chiến
Thuật) “rescue” toán cố vấn Sư đoàn --division combat assistance
team-- ra khỏi An Lộc. Ông ta trao cho tôi xem bút tự của ông viết
trên mẫu giấy công điện hành quân màu vàng. Tôi đọc xong bản văn
ngắn đó --mà ngày nay tôi không còn nhớ rõ chi tiết từng chữ--
và chỉ hỏi ông một câu rất ngắn: -“Đại tá có chút cảm tình
nào với các chiến sĩ của Sư đoàn này hay không? Ông ta trả lời
rằng: –“Có, lúc nào tôi cũng có và tôi quí trọng họ, nhưng tôi
phải ra đi...” Tôi yêu cầu Đại tá Miller ngồi chờ và đi vào hầm
tư lệnh với bản điện văn của ông ta. Tướng Hưng cười nhưng không
dấu được nỗi tức giận: –“Cứ để cho hắn đi.” Tôi nói: –“Không
được, anh phải ra gặp hắn.” Tôi đến tủ lạnh, cắt mấy khoanh
chả lụa để vào một cái dĩa và mang mấy chai bia ra hầm hành
quân đặt trên bàn trực hành quân. Tôi nói với Đại tá Miller là
Tướng Hưng sẽ ra ngay, rồi bỏ về chỗ nằm của tôi (nếu ngày nay
Đại tá Miller có đọc được những gì tôi viết trên đây, hẳn sẽ
nhớ rõ việc này và sẽ nhớ lại tôi là ai). Chỉ mấy phút sau
Tướng Hưng từ hầm riêng bước ra, quân phục tác chiến chỉnh tề,
với ngôi sao tướng màu đen thêu trên bâu áo. Ông cười bắt tay Đại
tá Miller và hai người ngồi vào bàn, nói chuyện thản nhiên như
không có chuyện quan trọng xảy ra. Họ nói với nhau những gì
không ai dám đến gần nghe, nhưng rõ ràng là không cãi nhau như
những ngày trước....
Sau đêm đó, từ sáng ngày hôm sau, Phòng 3 và Phòng 2 của Bộ Tư
lệnh Hành quân không nhận được một chỉ thị nào của Tướng Hưng
để thiết lập kế hoạch hành quân giải tỏa các phu phố mặt bắc
thành phố vào sân bay Đồng Long. Chỉ biết là trong khu vực
tránh nhiệm của Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, các đơn vị
của Trung tá Phan văn Huấn, với lối đánh trong đêm tối đặc biệt
đã tiệm tiến chiếm lại được từng căn phố, từng dãy phố, tiêu
diệt từng nhóm nhỏ của địch, nên khu vực phòng thủ đã nới
rộng lần lên phía bắc thành phố. Hàng đêm, Hỏa Long của Không
lực Hoa Kỳ vẫn tiếp tục bao vùng trên toàn thành phố và các
khu vực ngoại vi, bắn thêm nhiều chiến xa và quân xa của CSBV.
Ngược lại, hằng ngày và hằng đêm, tiếng đạn đại pháo địch
vẫn tiếp tục rít lên nổ ầm ầm không dứt trên mọi tuyến phòng
thủ, gây tổn thất không ít cho các đơn vị và cư dân. Lượng đạn
chúng “dập” vào thành phố không dưới 1,000 quả mỗi ngày đêm.
Mọi người đều biết rằng mình đang mong đợi những cánh quân bạn
từ phía nam lên, biết rằng một trận tấn công lớn khác sắp
diễn ra, và cũng biết rằng tính mạng của mình treo trên những
sợi chỉ mành vì bất cứ một mảnh đạn pháo vô tình nào, một
viên đạn bắn thẳng nào, hay... kể cả những cánh dù tiếp tế,
không bung kịp, từ trên trời rơi xuống vùi lấp cả chiếc hầm cá
nhân lẫn những con người... trong đó. Họ biết thân phận mình như
những chàng... Kinh Kha... đang chờ Cao Tiệm Ly trên bờ Dịch
Thủy. Vậy mà họ vẫn giữ trong lòng niềm tin mãnh liệt là họ
sẵn sàng chết để tử thủ An Lộc như lời tuyên bố của vị tư
lệnh chiến trường. Chỉ cần vị tư lệnh chịu chết theo thành
thì họ cũng sẽ chịu chết để giữ thành. Người ngoại quốc làm
sao hiểu được thứ tâm lý của binh sĩ ở chiến trường Việt
Nam!.. Ngược lại họ đã viết nhiều điều sai sự thực. Vì vậy,
nên sau này có nhiều người có lương tâm đã xin lỗi về những gì
mình viết hay nói về Việt Nam trước đó. Những vị này là những
người có lương tri….
Một ngày đầu tháng 5/1972, tôi không nhớ rõ, một chiếc dù tiếp
tế không kịp mở, đã rơi đúng vào căn nhà ngói, trần dầy,
tường béton-armé, nền gạch cao... của Phòng 2/ Hành quân, nơi
làm việc tôi và gần hai mươi sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ,
làm cho nóc nhà sập, và chiếc dù với khối tiếp tế khổng lồ
khoét một hố sâu trên 4m dưới nền nhà, nhưng nhà không sập,
tường không đổ, chỉ mất nóc và trần nhà...(Ảnh # 5) và cũng
không ai bị đè chết vì lúc đó tôi đang ở dưới hầm hành quân
với hai Đại úy của tôi phụ tránh “nhật ký hành quân”, còn các
sĩ quan và nhân viên khác đều nằm ở hố cá nhân ngoài tuyến.
Chiếc hầm bất đắc dĩ này mà sau đó vẫn hữu dụng –thành nơi
sinh hoạt an toàn của chúng tôi. Chừng hơn một tuần hay mươi
ngày sau, khi tôi vừa ăn xong bữa trưa gạo xấy và mấy hộp thịt
ration với anh em ở trong cái hầm đó định bước lên để trở lại
hầm hành quân thì thấy một Đại tá Hoa Kỳ đứng cạnh Đại tá
Bùi Đức Điềm, Tham mưu trưởng Hành quân của Tướng Hưng bên ngoài
cửa... nhìn vào chiếc hầm. Tôi bước lên hầm chào. Ông bắt tay
tôi và cho biết là ông mới đến thay thế Đại tá Miller và muốn
gặp tôi để biết thêm về địch tình và cung từ của người tù
binh mới bị bắt mấy ngày trước. Tôi tiếp ông ở trong hầm hành
quân chừng mươi phút. Đó là một ngày mà chúng tôi đang chuẩn
bị đón đợi một đợt tấn công mới của quân CSBV vào An Lộc
tháng 5/1972. Ông cố vấn trưởng Hoa Kỳ mới của Tướng Lê văn Hưng
là Đại tá Walter F. Ulmer. Ông ngoài bốn mươi, không phải dạng
cao lớn nhưng tầm thước, khỏe mạnh, đẹp người. Trông ông có vẻ
trầm tĩnh đặc biệt, rất ít nói và rất hiểu biết. Như vậy là
Đại tá Miller đã âm thầm rời Bộ Tư lệnh Hành quân của SĐ5BB ở
An Lộc trong đêm trước đó. Các sĩ quan phụ tá của ông vẫn còn
ở lại làm việc với Đại tá Ulmer.
Ông cố vấn mới và ông tư lệnh cũ của Sư đoàn hoạt động với
nhau hình như thích hợp. Sự yểm trợ hành quân của Không lực Hoa
Kỳ nhanh chóng và hữu hiệu trong trận đánh nhau dữ dội hơn sau
đó. Còn Đại tá Miller, tôi không biết thuyên chuyển đi đâu. Giả
thử lúc đó ông có gửi bản văn của công điện xin “rescue” toán
cố vấn Hoa Kỳ ra khỏi An Lộc --mà ông cho tôi và Tướng Hưng
xem-- thì thượng cấp của ông cũng làm đến mức là chỉ “bốc”
riêng ông đi khỏi chiến trường này mà thôi. Làm sao mà Washington
bỏ An Lộc được trong thời điểm đó? Ông tướng Hoa Kỳ nào ở
Việt Nam lúc đó dám làm cái việc dại dột mà Miller đã xin
làm: “bốc toán cố vấn Sư đoàn ra khỏi chiến trường An Lộc”?
Dĩ nhiên chỉ có chính Miller bị thiệt thòi mà thôi. Trước trận
An Lộc, chúng tôi được biết là ông sẽ được bổ nhậm làm tư
lệnh một lữ đoàn, tức là có khả năng thăng cấp tướng. Nhưng
từ khi về HK cho đến sau này giải ngũ ông vẫn mang cấp đại tá,
mặc dù nghe đâu đã được nhận chức vụ chỉ huy dự trù. Có lẽ
vì vậy nên nỗi hận Tướng Lê văn Hưng của Đại tá Miller dâng cao
ngùn ngụt.... Tuy nhiên có điều đáng mừng cho ông là đã có một
người con tốt nghiệp ở một trường võ bị danh tiếng Hoa Kỳ, sau
này đánh nhau nổi tiếng ở chiến trường Irac và thăng đến cấp
tướng ba sao (lieutenant general). Đó là niềm an ủi lớn nhất của
ông. Trong khi đó người bị thiệt thòi nhiều nhất là Tướng Lê
văn Hưng bởi cả hai sự việc vừa kể trên.
9. CÁC CHỐT CHẶN CỦA SĐCT-7/CSBV
TRÊN QL-13, PHÍA BẮC LAI KHÊ VÀ PHÍA NAM AN LỘC. CUỘC ĐẤU TRÍ
GAY GO GIỮA HAI TƯỚNG NGUYỄN VĂN MINH VÀ TRẦN VĂN TRÀ.
Trong suốt thời gian gần ba tuần lễ sau trận tấn công lần thứ
nhất ngày 13/4/1972 cho đến đầu tháng 5/1972 khi Đại tá Walter
Ulmer thay thế Đại tá William Miller ở An Lộc thì mặt trận ở
phía nam, SĐ21BB của Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được điều
độ̣ng từ miền tây lên tăng viện với ba Trung đoàn 31, 32, 33 và
Thiết đoàn 9 Kỵ binh, thay thế Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Đại tá
Lê Quang Lưỡng --đã vào An Lộc-- đang lo giải tỏa chốt chặn của
Sư đoàn SĐ-7/CSBV trên trục QL-13, từ phía bắc quận lỵ Chơn
Thành lên An Lộc. “Chốt chặn” gồm nhiều “chốt nhỏ” của các đơn
vị trực thuộc đại đơn vị này. Mỗi chốt nhỏ gồm có hệ thống
hầm hố liên hoàn yểm trợ nhau --thường được binh sĩ gọi là
“kiềng” như loại kiềng ba chân-- tức một hệ phòng thủ chặn
trục lộ với ba hệ thống hầm hố, địa đạo... bảo vệ cho nhau,
kéo dài hàng chục cây số trên trục lộ gồm cả khu vực rộng
lớn hai bên đường. Trên lý thuyết một “cứ điểm” của QLVNCH hay
một “chốt chặn” của CSBV --nếu được phòng thủ với hệ thống
kiên cố-- lực lượng tấn công chiếm điểm hay bứng chốt cần một
quân số gấp ba lần, là ít nhất, để có thể thành công. Tướng
Minh đã điều ngược lại với dụng ý... như một đại kỳ thù trong
bàn cờ ở (trận) QL-13 và An Lộc này năm đó.
Nên lưu ý theo trục QL-13 thì từ Lai Khê lên Chơn Thành là 30km.
Từ Chơn Thành, một quận của tỉnh Bình Long, lên An Lộc thủ phủ
của Bình Long, cũng 30km.
Toàn bộ SĐ21BB di chuyển vào lãnh thổ V3CT từ ngày 10/4/1972 và
hoàn tất vào ngày 12/4/1972. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đóng Bộ Tư
lệnh Hành quân nhẹ SĐ21BB ở căn cứ Lai Khê chung với Bộ Tư lệnh
Hành quân nhẹ của QĐIII & V3CT. Ông cho điều động Trung đoàn 31
lên vùng Suối Tre, chừng 6km tây bắc Lai Khê và giữ Trung đoàn 33
làm trừ bị tại Lai Khê. Trước tiên ông đưa Trung đoàn 32 bằng
đường bộ lên Chơn Thành ngày 11/4. Quốc lộ 13 từ Lai Khê lên
Quận Chơn Thành từ ngày các đơn vị của Tướng Nghi vào vùng
hành quân lưu thông tốt sau khi Lữ đoàn 1 Nhảy Dù bứng các chốt
của hai Trung đoàn 141, 209 của SĐ-7/CSBV tăng cường Trung đoàn
biệt lập 101 và các đơn vị chống chiến xa và phòng không của
CSBV ở vùng Bàu Bàng (chốt chặn lần thứ nhất) từ ngày 9 đến
11/4. Sau đó Ông nhận được lệnh kiện toàn hệ thống phòng thủ
vùng từ tỉnh lỵ Bình Dương lên quận Bến Cát và căn cứ Lai Khê
lên đến căn cứ Vân Đồn, ở hướng bắc Lai Khê chừng 6km... trong
vòng mười ngày (từ 14/4 đến 24/4/1972…) nhưng bỏ trống quãng
đường dài chừng 20km từ căn cứ này đến phía nam quận lỵ Chơn
Thành. Tướng Minh cho rằng trong vòng mười ngày TWC/MN sẽ cho
đóng chốt lần nữa trên đoạn đường này.
Đúng vậy, đến ngày 24/4 quả thực đoạn đường này bị đứt đoạn
khi một xe đò bị một đơn vị của SĐ-7/CSBV bắn cháy bằng B-40
làm cho nhiều người chết và bị thương và đóng chốt lần thứ
hai ở khu vực Bàu Bàng, phía bắc Lai Khê chừng mươi cây số, tức
là cách căn cứ Vân Đồn, nơi đóng quân của một Tiểu đoàn thuộc
Trung đoàn 33, chừng 6km, làm tắt nghẽn vận chuyển tiếp tế cho
các đơn vị khác ở Chơn Thành. Chốt chặn lần này rất mạnh gồm
Trung đoàn 101 bộ binh biệt lập của VC, được tăng cường các đơn
vị phòng không, chống chiến xa, và đặc công... kể cả lực lượng
tăng cường gồm hai Tiểu đoàn của các Trung đoàn 209 và 165 thuộc
SĐ-7/CSBV như Tướng Minh đã tiên liệu.... Ông cũng biết rằng dù
“bứng” chốt chặn ở khu vực Bàu Bàng này xong SĐ21BB, với ba
Trung đoàn bộ binh cơ hữu và một thiết đoàn kỵ binh sẽ khó
giải tỏa QL-13 đoạn đường dài nối tiếp 30km từ phía bắc Chơn
Thành lên An Lộc. Ông là vị tướng dùng quân rất thận trọng, như
đã nói, nên đã xin BTTM/QLVNCH tăng cường thêm lực lượng. BTTM
tăng cường cho QĐIII & V3CT Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Một kế hoạch mới
được thiết lập để bứng các chốt chặn trên vùng bắc Chơn Thành
cho đơn vị Dù mới tăng viện. (Nếu tính về quân số thì lực
lượng Dù tung vào giải chốt vùng bắc Chơn Thành chỉ bằng 1/3
quân số của đơn vị đóng chốt là SĐ-7/CSBV. Đó là điều “nghịch
lý” mà tôi nêu ở phần trên, nhưng lại nằm trong kế hoạch có
dụng ý của Tướng Nguyễn văn Minh. Sau này, mới hiểu dụng ý của
Tướng Minh trong kế hoạch này là dùng ít quân thiện chiến để
kềm đại quân của địch nằm tại chỗ tiêu diệt bằng phi pháo,
đồng thời đánh nhử để biết rõ thực lực của địch ở các chốt
chặn đó, và kéo thêm những đơn vị lớn của chúng vào vùng
chốt chặn mà nới áp lực ở mặt trận chính An Lộc...)
Kế hoạch hành quân mới gọi là “Toàn Thắng 72-D”, được tiến
hành từ ngày 24/4 với ba Tiểu đoàn 1, 2 và 3 của Lữ Đoàn 3
Nhảy Dù do Trung tá Trương Vĩnh Phước chỉ huy (Ông thăng cấp Đại
tá không lâu sau đó), có sự phối hợp của Trung đoàn 31 Bộ binh,
Đại đội Trinh sát của SĐ21BB. Và Thiết đoàn 5 Kỵ binh. Đây là
cuộc hành quân giải tỏa lần thứ hai vào Suối Tàu-Ô của lực
lượng Dù, nhưng là lần thứ nhất vào ấp Tân Khai. Thực ra, cả
hai lần: lần trước sử dụng Lữ đoàn 1 Dù của Đại tá Lê Quang
Lưỡng và lần này Lữ đoàn 3 Dù của Đại tá Trương Vĩnh Phước
đánh vào Suối Tàu-Ô không phải là để thực sự “bứng” chốt mà
chỉ “kềm” địch tại chỗ…. Hay nói rõ ràng hơn chỉ là một cuộc
“hành quân cường thám” vào hang hùm, cấp lữ đoàn mà thôi. Một
cuộc hành quân cường thám với lực lượng khá lớn như vậy nếu
bứng được chốt thì bứng, không bứng được thì rút, dù có tổn
thất cũng biết rõ được thực lực của địch trong “hang hùm” của
chúng lên đến mức nào... (Cũng nên lưu ý rằng Tướng Minh xuất
thân là một sĩ quan Nhảy Dù từ khi ra trường Đà Lạt cho đến khi
mang cấp bậc đại úy mới ra khỏi Lữ đoàn Nhảy Dù và làm
Trưởng phòng 3 Bộ Tham mưu Phân Khu Sài Gòn – Chợ Lớn của Đại tá
Dương văn Minh (người mà sau này thăng đến Đại tướng, hai lần
làm sụp đổ hai nền Cộng Hòa của miền Nam) cũng là Bộ Tham mưu
Hành quân của ông này trong chiến dịch Chợ Lớn và Rừng Sát
bình phục loạn quân Bình Xuyên của Bảy Viễn (1954-1955). Đối
với các cấp chỉ huy Nhảy Dù như các Đại tá Lê Quang Lưỡng và
Trương Vĩnh Phước thì Tướng Minh là bậc huynh trưởng, nên dù cho
các ông có xả thân cho huynh trưởng trong chiến trận cũng không
tiếc. Đó là truyền thống cao quí của các sĩ quan Nhảy Dù).
Với hai lữ đoàn hành quân trong mặt trận, Sư đoàn Nhảy Dù phải
lập BTL/HQ nhẹ do Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu chỉ huy --đóng chung
với Bộ Chỉ huy của Trung đoàn 32 tại Chơn Thành-- để theo dõi
và yểm trợ cho hai lữ đoàn trực thuộc (Lữ đoàn 1 ở An Lộc và
Lữ đoàn 3 đang hành quân trên QL-13). Trên nguyên tắc, Tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi là Tư lệnh các lực lượng giải tỏa QL-13. Tuy
nhiên trong cuộc hành quân đặc biệt Toàn Thắng 72-D này, Bộ Tư
lệnh nhẹ của Sư đoàn Nhảy Dù trực tiếp chỉ huy Lữ đoàn 3 Dù
và Thiết đoàn 5 Kỵ binh. Đơn vị trưởng của đơn vị thiết kỵ này
là Đại tá Trương Hữu Đức, hy sinh trong lần giải tỏa trước khi
phối hợp với Lữ đoàn 1 Nhày Dù (ngày 13/4, thăng cố Chuẩn
tướng).
Trong ngày 24/4 Trung đoàn 31 Bộ binh được trực thăng vận từ
vùng Suối Tre lên phía đông nam Suối Tàu-Ô chừng 3km, bên sườn
QL-13, để hỗ trợ cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù trực thăng vận vào
vùng hành quân. Lữ đoàn này vừa rút từ mặt trận Tây nguyên về
và được đưa ngay vào trận địa QL-13. Ngày hôm sau, 25/4 Tiểu đoàn
2 Nhảy Dù được trực thăng vận xuống bãi đáp đã dự trù phía
đông QL-13, quãng giữa Suối Tàu-Ô và xã Tân Khai ở phía bắc để
tấn công vào hai mục tiêu đó. Ngay khi trực thăng vừa đổ quân,
Tiểu đoàn này --do Trung tá Lê văn Mạnh chỉ huy-- đã bị pháo
kích súng cối và bắn phòng không, nhưng vẫn tiến đánh các mục
tiêu đã ấn định. Ngày 26/4, Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù của Thiếu tá
Lê Hồng được đổ tiếp vào trận địa nhưng vượt sang phía tây
quốc lộ tiến về hướng tây bắc lên đến xã Đức Vinh, chiếm mục
tiêu này, chừng năm cây số phía bắc Tân Khai và khoảng 8 km nam An
Lộc. Lúc đó quân CSBV sợ và nghĩ là lực lượng của Tướng Nghi
sẽ từ phía nam tiến lên giải tỏa Suối Tàu-Ô hơn là đánh ở
quãng trên, tức vùng ấp Đức Vinh, phía bắc Tân Khai. Vì vậy
việc đóng chốt của chúng ở vùng suối Tàu-Ô và ấp Tân Khai
rất vững, kiên cố, với hai Trung đoàn 209 và 165 tăng cường các
đơn vị phòng không và chống chiến xa. Còn ở ấp Đức Vinh chúng
bỏ trống. Do đó Tiểu đoàn 2 Dù của Trung tá Lê văn Mạnh chạm
địch rất mạnh ở cả hai khu vực Suối Tàu-Ô và Tân Khai. Còn
Tiểu đoàn 1 Dù của Thiếc tá Lê Hồng chỉ chạm nhẹ ở Đức Vinh.
Tiểu đoàn 2 Dù phải đóng một căn cứ tạm trong khu vực hành
quân, với một số khẩu 105 pháo binh dã chiến mang theo yểm trợ.
Trong nhiều ngày liền Tiểu đoàn Dù này đã mở nhiều đợt tấn
công vào các chốt của địch nhưng không thể chiếm được các mục
tiêu này của SĐ-7/CSBV, mặc dù được sự yểm trợ của KQVN và KLHK
kịp thời và dữ dội, với hỏa lực của các phi xuất dội bom
khủng khiếp vào khu vực đóng chốt của chúng, kể cả các phi
vụ B-52. Hơn một tuần, từ ngày đổ quân cho đến ngày 2/5, sau
nhiều đợt tấn công, rồi liên tục bị phản công hay bị dập pháo
vào căn cứ dã chiến, và mặc dù tổn thất của CSBV rất nặng,
cánh quân của Tiều đoàn 2 Dù không thể “bứng” được các chốt
trên QL-13 ở hai vùng chốt chặn nói trên. Ở khu vực ấp Đức Vinh
ở phía bắc Tân Khai, TĐ1ND khi mới đổ quân vào chỉ chạm súng
nhẹ. Nhưng cho đến ngày 2/5/1972, thì căn cứ dã chiến của Tiểu
đoàn ở ấp Đức Vinh bắt đầu bị tấn công mạnh “tiền pháo hậu
xung”. Tin tức tình báo kỹ thuật ghi nhận là từ đầu tháng 5,
Trung đoàn 271 của SĐ-9/CS được tái bổ sung sau trận tấn công An
Lộc lần đầu 13/4 và bị tổn thất lớn, đã được TWC/MN đưa xuống
vùng tây bắc ấp Đức Vinh, đồng thời Trung đoàn 141 của
SĐ-7/CSBV, sau khi kết hợp với hai Trung đoàn F6 và 275 của
SĐ-5/CS tấn công Tiểu đoàn 6 Dù tái chiếm vùng Đồi Gíó, Đồi
169 và Srok Ton Cui ở đông nam An Lộc từ 18 đến 21/4, cũng được
trả lại cho SĐ-7/CSBV và rút về vùng ấp Đức Vinh để kết hợp
với Trung đoàn 271 của SĐ-9/CS nhằm ngăn chận và tiêu diệt TĐ1ND
không cho tiến lên An Lộc... Những gì Tướng Minh dự trù đều
diễn ra đúng như vậy. Đánh nhử phía nam để địch quân giãn bớt
quân ở An Lộc phía bắc.
Tuy đã tính trước là kéo các đơn vị lớn của TWC/MN về vùng
chốt chặn, nhưng với tình hình nguy hiểm đó, trong ngày 2/5,
Tướng Minh ra lệnh cho Tướng Nghi và Bộ Tư lệnh nhẹ của Sư đoàn
Dù đưa Trung đoàn 31 ở phía đông QL-13, đông bắc Chơn Thành, lên
Đức Vinh và cũng cho trực thăng vận Đại đội Trinh sát của
SĐ21BB từ Lai Khê vào ấp Đức Vinh để tăng cường cho Tiểu đoàn 1
Nhảy Dù. Ông cũng ra lệnh cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù trực thăng vận
Tiểu đoàn 3 Dù vào vùng hành quân Suối Tàu-Ô và Tân Khai tăng
cường cho Tiểu đoàn 2 Dù.
Phải thành thực ghi nhận rằng SĐ-7/CSBV là đơn vị thiện chiến.
Chẳng những các đơn vị thuộc Sư đoàn này đã lợi dụng sự kiên
cố của hệ thống phòng thủ do quân lực Hoa Kỳ thiết lập ngày
trước ở hai bên trục lộ ở khu vực Suối Tàu-Ô, củng cố các vị
trí đó thêm, để đủ sức chịu đựng phi pháo vô cùng dữ dội của
Không Lực Hoa Kỳ, kể cả sự tàn phá ghê gớm của hàng mấy mươi
phi xuất B-52, và hàng trăm phi vụ đánh bom và không kích khác
của Không quân Chiến thuật Hoa Kỳ và KQVN suốt chiều dài của
chiến dịch Nguyễn Huệ mùa Hè năm đó, Sư đoàn này còn có khả
năng tổ chức hệ thống phòng thủ di động, có nghĩa là, ngoài
các đơn vị giữ chốt với hệ thống hầm hố và giao thông hào,
sâu, nối liền dày đặc trong khu vực đóng chốt --và thường xuyên
thay quân-- chúng còn tổ chức những đơn vị đánh phản công, từ
cấp Đại đội hay cấp Tiểu đoàn tăng cường phòng không, với các
đội trinh sát bám thật sát theo các đơn vị hành quân của ta
trong vùng để chỉ điểm đánh pháo, hoặc đánh phục kích và tấn
công. Do đó, các đơn vị Dù, từ ngày được đưa vào vùng hành
quân giải tỏa QL-13 từ Suối Tàu-Ô lên phía bắc Tân Khai và Đức
Vinh theo Kế Hoạnh Toàn Thắng 72-D, đã khó tiến gần đến khu
vực chốt phòng ngự thực sự của CSBV, ngược lại luôn luôn bị
chúng dập pháo hoặc phục kích trên các trục lộ xuất phát từ
căn cứ dã chiến trong khu vực. Những sự kiện này giúp cho
Tướng Minh ước tính được lực lượng của TWC/MN ở các chốt chặn
phía bắc Chơn Thành nhiều ít, mạnh yếu, như thế nào dù ông
biết rằng các đơn vị tăng viện sẽ gặp khó khăn và tổn thất
vì ít quân, nhưng ông tin tưởng vào sự thiện chiến của các đơn
vị Dù và nhất là sự đánh phủ đầu bằng các trận bom dội
xuống mục tiêu…. Tuy nhiên chỉ với cấp một Tiểu đoàn cho mỗi khu
vực mục tiêu thì quá ít và nguy hiểm.... Thí dụ như khu vực
Suối Tàu-Ô do nguyên Trung đoàn 209 của SĐ-7/CSBV cộng thêm các đơn
vị phòng không với đại bác 37 ly Liên xô di động và hỏa tiễn
hồng ngoại tuyến mới nhất SA-7 cá nhân chống chiến đấu cơ,
nhất là các loại trực thăng (của một Tiểu đoàn thuộc Trung
đoàn 271 Phòng không, SĐ-70 Pháo/TWC.MN) và loại hoả tiễn AT-3
Sagger chống chiến xa (Tiểu đoàn 41 Chống Chiến xa) và đơn vị
trọng pháo (một Tiểu đoàn của Trung đoàn 208 Pháo dã chiến với
các loại súng cối 82 ly, 120 ly của Liên Xô, hỏa tiễn 122 ly)
trong khi lực lượng tấn công “bứng” hay “kềm” chốt chỉ là một
cánh quân chừng hai Đại đội của TĐ2ND tăng cường một pháo đội
Dù với 4 khẩu 105 ly. Còn ở vùng Tân Khai, SĐ-7/CSBV có Trung
đoàn 165, trong khi lực lượng của ta chỉ có một cánh quân khác
chừng hai Đại đội cũng của Tiểu đoàn 2 Dù. Như khi ta đưa Tiểu
đoàn 1 Dù vào ấp Đức Vinh, phía bắc Tân Khai, tức khắc TWC/MN
điều ngay Trung đoàn 141 của SĐ-7/CSBV về đó lại còn tăng cường
thêm Trung đoàn 271 của SĐ9/VC. Ở đâu quân địch cũng nhiều gấp 3
hay 4 lần hơn quân bạn.
Trong chiến tranh, đôi khi người ta nhìn thấy những điều tưởng
chừng như phi lý hay sai nguyên tắc thí dụ như chuyện dùng quân
của Tướng Nguyễn văn Minh kể trên... nhưng sau này nghĩ lại mới
nhận ra rằng lúc đó đã có cuộc đấu trí lớn lao giữa ông và
Tướng Trần văn Trà ở tuyến đường 60km từ Lai Khê lên An Lộc mà
quận lỵ Chơn Thành là tâm điểm trọng yếu nhất.
Ai cũng biết muốn tiêu diệt SĐ5BB của QĐIII phòng thủ tỉnh lỵ
An Lộc tất nhiên phải cắt con đường bộ tiếp viện và tiếp vận
của Sư đoàn này, tức là Quốc lộ 13. Đoạn đường lý tưởng nhất
cho việc đóng chốt khóa trục lộ đó hẳn nhiên phải là vùng
Suối Tàu-Ô lên đến ấp Tân Khai, từ 15km đến 20km phía bắc quận
lỵ Chơn Thành. Tân Khai ở phía nam tỉnh lỵ An Lộc chừng 10km. Tư
lệnh bộ TWC/MN đã điều động nguyên vẹn SĐ-7/CSBV tăng cường các
đơn vị phòng không, chống chiến xa, đóng chốt khu vực rộng lớn
này và tổ chức lại địa thế thành một trận địa với hầm hố
và địa đạo ẩn náu tránh được phi pháo dữ dội nhất và chống
trả được các cuộc tấn kích chiến xa và bộ binh, như nói trên.
Trong khi đó Tướng Trà sử dụng lực lượng tổng hợp khác, hơn 3
Sư đoàn --2 bộ binh, 1 pháo binh, và 3 Trung đoàn biệt lập chiến
xa và đặc công-- để tiêu diệt lực lượng VNCH phòng thủ An Lộc.
Kế hoạch trên được thi hành từ ngày 7/4/1972 sau khi TWC/MN đã
chiếm xong Lộc Ninh. Ngày 8/4/1972 An Lộc đã bị bao vây, phía nam
bị SĐ-7/CSBV cắt mất đường tiếp vận. Có lẽ Tướng Trần văn Trà
của TWC/MN không nghĩ rằng đã gặp một địch thủ túc trí và dè
dặt như Tướng Nguyễn văn Minh. Tôi đã trình bày phần trên Tướng
Minh đã sử dụng tin tức để xin tăng cường quân cho Vùng 3 CT và
An Lộc như thế nào. Xin nói tiếp thêm rằng, có lẽ Tướng Trà
cũng nghĩ là Tướng Minh có thể xin tăng viện được một Sư đoàn
từ miền Tây điều động lên ngoài các đơn vị Dù và Biệt Động
Quân. Xin ghi nhớ, SĐ21BB từ miền Tây lên thì Trung đoàn 32 Bộ
binh đến căn cứ Lai Khê ngày 10/4/1972 và được đưa lên Quận Chơn
Thành ngày hôm sau 11/4 bằng xe vận chuyển đường bộ. Hai Trung
đoàn 31, 33 Bộ binh và Thiết đoàn 9 Kỵ binh đến Lai Khê ngày
12/4.
Quận lỵ Chơn Thành trấn giữ trục giao thông ở giao điểm Ngã Tư
QL-13 lên An Lộc và QL-14 dẫn qua tỉnh Phước Long lên Quảng
Đức... được coi là trọng điểm chiến thuật phía nam An Lộc.
Cả Tướng Minh lẫn Tướng Trà đều biết rõ địa điểm này là quan
trọng cho sự mất còn của An Lộc. Tướng Minh luôn luôn cho trấn
đóng tại đây một Trung đoàn, vừa để bảo vệ điểm “xuất phát”
giải tỏa trục lộ từ đó lên An Lộc, vừa là điểm “nhử” cho quân
CSBV đến để diệt bằng phi pháo. Địch đến càng nhiều càng tốt.
Tướng Trà chắc chắn sẽ không thí quân đánh chiếm Chơn Thành,
vì bốn ngã đều “thọ địch”, chưa kể phi pháo. Tướng Minh biết
như vậy nên ông “bỏ ngõ” quãng đường giữa từ Lai Khê lên Chơn
Thành từ chiều ngày 11/4/1972 sau khi Trung đoàn 32 của SĐ21BB đã
lên Chơn Thành chuẩn bị thay thế cho Lữ đoàn 1 Nhảy Dù rút quân
tăng cường cho An Lộc. Ông chỉ cho một Tiểu đoàn của Trung đoàn
33 đóng quân ở Căn cứ Vân Đồn, 6km phía bắc Lai Khê, và án binh
bất động chờ địch đến, sau khi rút Lữ đoàn 1 Nhảy Dù ngày
14/4/1972 đưa lên An Lộc. Như vậy đoạn đường còn lại từ phía
bắc căn cứ Vân Đồn lên Chơn Thành là trên 20 km, bỏ trống thực
sự từ ngày đó. Đương nhiên Tướng Trà phải hành động. Nếu để
đoạn đường từ Lai Khê lên Chơn Thành cho SĐ21BB sử dụng thong thả
thì chốt chặn từ Suối Tàu Ô của TWC/MN lâm nguy bị “bứng” và
như vậy là không dứt điểm được An Lộc khi đại đơn vị này của
Tướng Minh tiến lên tiếp viện. Do đó, một mặt TWC/MN tổ chức
vội vã tấn công An Lộc lần thứ nhất từ ngày 13/4 đến ngày
17/4/1972, thiếu chuẩn bị, thiếu phối hợp, và nhất là thiếu
quân. Rồi lần thứ nhì từ 18/4 đến 21/4/1972, cũng vội vã như
vậy…. Mặt khác, TWC/MN đưa Trung đoàn 101 biệt lập, cộng thêm hai
Tiểu đoàn của các Trung đoàn 209 và 165 của SĐ-7/CSBV, phối hợp
với các đơn vị phòng không và chống chiến xa xâm nhập trở lại
và lập chốt chặn lần nữa ở khu vực Bầu Bàng.
Mặc dù sau hai đợt tấn công của quân CSBV do TWC/MN chỉ đạo thất
bại, Đài Phát thanh Hà Nội tuyên bố với thế giới là chúng đã
chiếm được An Lộc ngày 18/4. Quyết tâm của Quân ủy Trung Ương đã
rõ ràng, An lộc là điểm chiến lược của cuộc Tổng Tấn Công
của CSBV mà không là Quảng Trị, không là Kontum, TWC/MN không thể
coi thường).
TWC/MN lâm vào thế phải hạ quyết tâm chiếm cho được An Lộc trong
những trận đánh kế tiếp với những nỗ lực dù phải tận dụng
đến đơn vị cuối cùng. Do đó, ngoài việc củng cố lại lực
lượng và chu toàn kế hoạch để tấn công và chận viện từ Chơn
Thành trở lên An Lộc, TWC/MN cũng điều các đơn vị đặc công và
pháo phá rối căn cứ Lai Khê, căn cứ của SĐ5BB nhưng lúc đó là
nơi Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh và là trung tâm yểm trợ
cho các đơn vị QĐIII hành quân trên QL-13, và đưa một Trung đoàn
khác tấn công dữ dội để mong dứt điểm các căn cứ Tống Lê Chân
và Minh Thạnh nằm trên Sông Sài Gòn, do các đơn vị BĐQ/BP và BĐQ
trấn đóng --cách An Lộc về phía tây nam từ 18km đến 25km, theo
đường chim bay-- để khai thông đường chuyển quân và tiếp vận của
chúng giữa các mật khu Dương Minh Châu ở Tây Ninh và Chiến khu D
ở liên ranh Biên Hòa và Bình Dương cho những trận tiến công mới.
Nếu trong tiểu tiết TWC/MN có thu nhặt được một vài kết quả
nhỏ thì trên tổng thể TWC/MN rối rắm và mất thế chủ động ở
suốt cả mặt trận Bình Long, từ An Lộc xuống phía nam quận lỵ
Chơn Thành không thể thực hiện được sách lược của Bộ Chính
trị đảng CSVN vì cách điều quân đầy mưu lược theo một thời
biểu có tính toán và rắc rối của Tướng Minh làm cho Tư lệnh
bộ của Tướng Trà không đoán được Tướng Minh đánh phản công
giải tỏa An Lộc như thế nào... Khi bỏ trống đoạn đường từ căn
cứ Vân Đồn lên phía bắc gần quận lỵ Chơn Thành, Tướng Minh đã
buộc TWC/MN quyết định và họ đã quyết định sai lầm. Hai lần
TWC/MN đưa những cánh quân lớn vào đóng chốt đoạn đường phía
nam Chơn Thành, hai lần đầu bị “bứng” với tổn thất nặng. Lần
đầu từ ngày 8/4 chắc chắn nằm trong nhu cầu chiến thuật theo
kế hoạch của TWC/MN khi tung quân bôn tập tấn công An Lộc, cần
thiết phải chặn đường chuyển quân tiếp viện lên phía bắc của
QĐIII & V3CT. Lần thứ nhất đó chốt chặn bị Lữ đoàn 1 Nhảy Dù
“bứng” trong ba ngày kịch chiến từ 9/4 đến 11/4 với hai mũi
gíáp công từ Lai Khê đánh lên và từ Chơn Thành đánh ép xuống
làm cho SĐ-7/CSBV, Trung đoàn biệt lập 101, và các đơn vị yểm
trợ khác thiệt hại hơn 200 cán binh, rút quân bỏ chốt. Trái
lại, khi đóng chốt lần thứ hai ở Bàu Bàng từ ngày 22/4 rõ
ràng TWC/MN bị Tướng Minh ép vào thế chẳng đặng đừng. Lần sau
này, chốt chặn của các đơn vị thuộc SĐ-7/CSBV tăng cường cũng
bị SĐ21BB bứng với chiến thuật hai mũi giáp công mà Lữ đoàn 1
Nhảy Dù đã áp dụng hai tuần trước đó. Trung đoàn 33 và Thiết
đoàn 9 Kỵ binh (-) từ Lai Khê đánh lên và Trung đoàn 32 và một
chi đoàn của Thiết kỵ 9 từ Chơn Thành đánh ép xuống với sự
yểm trợ tối đa của KQVN và KLHK. Tuy phải mất 5 ngày để thanh
toán chốt chặn đó, từ 24/4 đến 28/4, nhưng đã làm cho các đơn
vị CS đóng chốt bị thiệt hại nặng và từ đó về sau TWC/MN
không còn đủ lực lượng tái đóng chốt trên đoạn đường này nữa.
Điều đáng ghi nhận khác là việc điều động sử dụng quân tăng
viện của Tướng Minh theo vòng quay kim đồng hồ làm cho TWC/MN rối
rắm, bỡ ngỡ, mất cả sự chủ động cần thiết của lực lượng
tấn công. Ngược lại Tư lệnh bộ của Tướng Trà phải chạy theo
từng giờ từng ngày bởi sự chuyển quân nhanh chóng và không theo
quy luật chiến tranh của lực lượng bị tấn công. Sư kiện điển
hình thứ nhất là khi SĐ21BB đã hoàn tất cuộc chuyển quân từ
miền Tây lên Lai Khê và Chơn Thành từ ngày 12/4 thì Tướng Minh
không dùng Sư đoàn này tấn công bứng chốt Tàu-Ô ở phía bắc Chơn
Thành mà lại sử dụng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù lúc đó vừa bứng xong
chốt Bàu Bàng (9-11/4) và đóng ở Chơn Thành (11/4) rồi tiến lên
“ủi” chốt Tàu-Ô ngày 12/4. Khi SĐ-7/CSBV ở đó đang chống đỡ,
bỗng nhiên Dù ngưng tấn công và rút ra khỏi trận địa ngày 13/3
và ngày 14-15/4 đổ quân vào tăng viện An Lộc cùng với Liên đoàn
81 Biệt Cách Nhảy Dù (xin xem lại phần trên). Sự chuyển quân
bất ngờ này làm cho TWC/MN phải điều quân thêm bằng cách đưa bớt
Trung đoàn 141 của SĐ-7/CSBV từ vùng chốt chặn Tân Khai lên phối
hợp với SĐ-5/CS và SĐ-9/CS vội vã tấn công vào An Lộc đợt 2 từ
ngày 18/4/1972, như nói trên. Sự kiện điển hình thứ hai là sau
khi TWC/MN không thể chiếm được An Lộc trong đợt hai tấn công
này, dù chiếm lại được vùng Đồi Gió và Đồi 169, Tướng Minh
vẫn sợ An Lộc bị nguy khốn nên tung Lữ đoàn 3 Nhảy Dù vào
suối Tàu-Ô và Tân Khai, nhưng quan trọng hơn là vùng ấp Đức
Vinh, phía nam gần An Lộc làm cho TWC/MN phải điều động Trung
đoàn 271 của SĐ-9/CS và Trung đoàn 141 của SĐ-7/CSBV rời bỏ vòng
vây An Lộc rút xuống Đức Vinh mà chận không cho quân Nhảy Dù
tiến lên hướng An Lộc. Sức ép của của quân CSBV đối với thành
phố nhỏ này nhẹ hơn sau đợt tấn công thứ hai của chúng, mặc dù
An Lộc vẫn bị dập pháo mỗi ngày hơn một nghìn qủa đại pháo
các loại....
Hai sự kiện trên đây cho thấy rõ mưu lược và tài dùng quân của
Tướng Nguyễn văn Minh. Trên bàn cờ An Lộc và QL-13, rõ ràng
rằng Tướng Trần văn Trà lép hơn Tướng Nguyễn văn Minh túc trí.
Cuộc chiến ở giai đoạn này dằng dai ba tuần lễ từ 22/4/1972 đến
11/5/1972 mà Tướng Minh vẫn chưa thực sự tung lực lượng trừ bị
vào trận địa. Câu hỏi được đặt ra là:-Tại sao? Trả lời: Thứ
nhất, Tướng Minh tin vào quyết tâm gan lì và khả năng cầm quân
giữ An Lộc của Tướng Lê văn Hưng và của Đại tá Lê Quang Lưỡng
với sự yểm trợ hùng hậu của hoả lực Không quân HK và KQVN.
Thứ hai: Khi tung Lữ đoàn 3 Nhày Dù cường thám vào “hang hùm”
suối Tàu-Ô lên đến ấp Tân Khai xong, hiểu rõ thực lực của định
quân ở đó, ông sẽ dùng SĐ21BB vào trận đánh quyết định giải
tỏa An Lộc…. Và hình như ông còn phải chờ thêm những đơn vị tăng
viện thiện chiến khác thích ứng cho kế hoạch mới của ông và
tăng trợ cho Sư đoàn này.
Đến đây thì mọi người đều thấy rõ cục diện chiến trường Bình
Long giữa QĐIII & V3CT và TWC/MN Cộng Sản. Tướng Trần văn Trà
lúc đó hình như cũng đã hiểu nhiều hơn về Tướng Nguyễn văn
Minh, đối thủ chính của mình, nên tính toán kỹ hơn, chưa chủ
động đánh lớn vội vã như hai trận tấn công trước trong suốt ba
tuần lễ đó, trừ việc SĐ-7/CSBV còn chận đánh Lữ đoàn 3 Nhảy
Dù từ Suối Tàu-Ô lên Tân Khai, đến Đức Vinh. Trong thành phố An
Lộc chỉ có những vụ chạm súng nhỏ vì các đơn vị phòng thủ,
tuy bị hứng pháo mỗi ngày, nhưng vẫn bung dần ra từng căn phố,
diệt mòn các đơn vị Công sản đã chiếm khu vực phía bắc và
đông bắc từ các trận tấn công trước, không rút ra được, đang cố
bám sát các đơn vị phòng thủ để tránh bị oanh kích. Các
chiến xa của địch chưa bị hạ trong các trận trước hình như
cũng áp dụng kỹ thuật lẩn trốn này trong các khu vực chúng đã
chiếm trong thị xã, nằm im hơi lặng tiếng dưới những mái nhà
sập hay trong những căn phố long lở, trong khu vực chúng chiếm
được, nhưng... ngụy trang thật kỹ. Chúng cũng đã rút được ít
nhiều kinh nghiệm về sự lợi hại của “Hoả Long”, vì có những
chiếc tăng nhúc nhích di chuyển đâu đó đã bị loại “spectre” này
hạ trong nhiều đêm trước...
Rõ ràng lần này TWC/MN đang củng cố lực lượng, bổ sung quân,
vận chuyển đạn dược và... lập kế hoạch mới quyết tâm dứt
điểm An Lộc.
KỲ 9
10. QUÂN CSBV TẤN CÔNG AN LỘC ĐỢT
3.
Trong An Lộc, Tướng Hưng và Đại tá Ulmer cũng nhận định như vậy
nên đã đề nghị KLHK đánh những boxes B-52 vào các mật khu và
các trạm trung chuyển trên các tuyến hành lang chuyển vận từng
được biết trước đây của CSBV trong vùng biên giới. Đề nghị đánh
bom các chiếc cầu mà các xe be chuyển gỗ đã lập trước đây
trong vùng rừng giữa bắc Bình Long và Kratié. Hằng đêm vẫn xin
“Hỏa Long” bao vùng và hằng ngày xin KQVN các phi vụ không thám
liên tục. Đồng thời sân bay trực thăng tạm ở đầu xa lộ phía nam
vẫn được TĐ8ND bảo vệ hữu hiệu với sự yểm trợ của TĐ5ND. Các
loại trực thăng KQVN và KLHK vẫn tiếp tục di tản thương binh
--hầu hết vì trúng mảnh đạn pháo-- tiếp tế nhu phẩm cần
thiết, với số lượng thay quân hạn chế. Thiệt hại của KQVN và
KLHK tuy không đáng kể, nhưng vẫn có, mỗi khi bay vào ra An Lộc….
Vậy mà tiếp tế vẫn đến hằng ngày, tản thương vẫn đều hằng
ngày. Dĩ nhiên, chẳng những phải ngợi khen Đại tá LQL và chiến
sĩ Dù, còn phải khen và đề cao công trạng của các phi công
trực thăng KQVN và KLHK đã... quên mình, coi thường sinh mạng,
vào ra tử địa như ăn cơm bữa…. Họ thật anh dũng, thật anh hùng.
Còn các chiến sĩ phòng thủ... chính qui, đặc biệt, địa phương
quân, nghĩa quân, dân quân thì sao? Mọi người vẫn chờ những cánh
quân tới từ hướng nam, cũng như vẫn biết và sẵn sàng... chịu
một trận tấn công mới không biết sẽ diễn ra trong lúc nào....
Cái hố cá nhân đào sâu hơn, đắp thêm các bao đựng đầy đất từ
hố vừa móc lên, một bidon nước, mấy bịch gạo xấy hay có được
mấy bịnh lương khô “rations” HK thì nhất --vì sẽ có bốn điếu
thuốc lá xịn trong mỗi bịch-- mà chỉ cần một điếu, hít một
hơi, là phồng cả buồng phổi, sáng cả mắt và tỉnh hơn để ghìm
khẩu súng cá nhân đầy đạn chờ “tụi nó” xung phong mà quạt cho
đã. Vẫn chưa đủ, muốn cho “đã hơn”, thì phải chạy tìm kiếm xin
thêm ít nhất là một ống M-72, lúc đó được tiếp tế vào An Lộc
rất nhiều... để, như bị thúc đẩy bởi một thần lực vô hình,
hễ thấy chiến xa địch xuất hiện, là chạy vụt ngay ra khỏi hầm
trú ẩn, xông lên án ngữ hay rượt theo bắn cho bằng được một
phát... trúng trật mặc kệ, chết sống mặc kệ. Bắn tank cho đã,
chết cũng sướng.... Đó, tinh thần chiến đấu của chiến sĩ
phòng thủ An Lộc như vậy đó.
Loại hoả tiễn cầm tay chống tanks M-72 đã trở thành huyền
thoại hay một sự thật hãn hữu trong lịch sử chiến tranh chống
chiển xa của quân dân An Lộc. Tôi nói quân dân, vì Tiểu khu --theo
lệnh của Đại tá Trần văn Nhật-- ngay trong thời gian này đã
lập một phòng tuyển mộ nghĩa quân và địa phương quân. Cư dân
trong tuổi thanh niên xin đầu quân đông đảo. Thiếu niên cũng muốn
xin cầm súng đánh Cộng sản. Đây là điểm son của Đại tá Nhật.
Và “huyền thoại” M-72 sở dĩ có là vì chẳng những chiến sĩ
phòng thủ trong các đơn vị đã dùng loại hoả tiễn cầm tay này
diệt tank mà cả nghĩa quân và có cả thường dân trong thành phố
hưởng ứng, cũng có.... M-72, chạy theo binh sĩ bắn chiến xa
CSBV.... Đến cả tôi cũng lây bịnh ghiền M-72. Ngay trong ngày
18/4, ở đợt tấn công thứ hai, một chiến xa CSBV chạy ngang cổng
trước BTL/HQ Sư đoàn theo hướng bắc-nam, khi lóng ngóng chạy
ngược trở lại bị Đại tá Lê Nguyên Vỹ bắn một phát M-72,
trúng, nhưng chưa chết, chạy thêm một quãng bị chiến sĩ Biệt
Đông quân bắn bồi thêm, cháy.... Tôi chạy phía sau, lỡ dịp, nên
lượm cái nòng M-72 của Đại tá Vỹ vừa bắn --bằng loại métal
gì...đó không biết, màu trắng-- mang về rồi cũng bắt chước anh
em binh sĩ, lúc rảnh núp pháo, rảnh việc... lên chỗ hầm trú
nơi làm việc của nhân viên Phòng 2/HQ, cưa chiếc nòng ra, mài,
dũa và dùng đầu kẽm gai chặt nhọn mà khắc chữ, thành những
chiếc vòng đeo tay xinh xắn, làm kỷ niệm. Hàng trăm binh sĩ của
các đơn vị phòng thủ làm vòng đeo tay bằng nòng M-72 để sau đem
về tặng...các em làm nữ trang... của chiến trường. Riêng tôi,
tôi giữ các chiếc vòng của tôi, làm kỷ niệm, không tặng cho ai.
Hiện nay tôi còn giữ các chiếc vòng này (xin xem ảnh chụp, các
chiếc vòng đeo M-72 làm ở An Lộc). Những chiếc vòng tôi đang có
hiện nay là vô giá, hay nói nôm na là không có giá, vì là
chiếc vòng cắt ra từ nòng métal trắng của quả M-72 mà Đại tá
Lê Nguyên Vỹ bắn chiếc tank nói trên, chính tay tôi tạo nên và
giữ bên mình gần bốn thập niên qua, dù đã trải bao tang điển
thương hải. Tôi sẽ xin gởi tặng hai chiếc vòng An Lộc cho hai nữ
độc giả nào mà tôi nhận được e-mail sớm nhất, để làm nữ
trang... lạ mắt, sau khi tài liệu này đăng tải. Tôi sẽ giữ hai
chiếc uyên ương còn lại mà chôn theo tôi...)
Những gì tôi viết trên đây là để nêu rõ tinh thần chiến đấu
bất khuất của tất cả các chiến sĩ ở tất cả các đơn vị quân
đội, cảnh sát và quân dân địa phương quyết tâm chống CSBV giữ
vững An Lộc. Tinh thần đó lên đến độ cao nhất vì nhiều lý do
mà hai lý do quan trọng nhất là lời tuyên bố “tử thủ” của vị
chủ soái là Tướng Hưng và sự hiệu nghiệm của loại hỏa tiễn
cầm tay chống chiến xa M-72 của Quân Lực Hoa Kỳ mới phát minh
và lần đầu tiên được đưa vào An Lộc cho binh sĩ VNCH sử dụng.
Họ nhất quyết không bỏ trận địa mà chỉ xông lên phía trước vì
ông tướng quyết đem thân giữ thành thì chiến sĩ thi đua nhau bắn
chiến xa của CSBV tưng bừng cũng đã quên bản thân mình. Nên lưu
ý một điều là dù vũ khí tối tân đến mấy mà vào tay những
tướng, tá, sĩ quan và binh sĩ tinh thần bạc nhược, hèn nhát...
dễ khiếp sợ, bỏ chiến trường mà chạy, thì cũng thành vật vô
dụng mà thôi... Không biết các giới chức quân sự và giới báo
chí Hoa Kỳ có biết rõ các điều này hay không? Trên thực tế thì
tâm lý của chiến sĩ Nam Việt Nam và vũ khí, bom đạn Hoa Kỳ,
đã tạo nên chiến thắng An Lộc --một thành phố nhỏ, không có
hệ thống phòng thủ chặt chẽ mà chiến sĩ phòng thủ dưới tám
nghìn người đã chiến thắng đạo quân thiện chiến với lực lượng
xung kích lớn hơn gấp bốn năm lần-- làm bất ngờ cả mọi
người... và các chiến lược gia lỗi lạc nhất như Sir Thomas
Thompson của Anh và Tướng Moshi Dayan của Do Thái-- vậy sá gì
sự dốt nát của một đại tá “sorti du rang” Miller và một Trung
úy non choẹt Willbanks. Và lẽ dĩ nhiên, lúc đó, danh Tướng Trần
văn Trà cũng không ước lượng nổi là cuộc tấn công lần thứ ba
vào An Lộc của quân CSBV --mà ông là tác giả chính của kế
hoạch hành quân và là tướng chỉ đạo chiến trường-- bị thất
bại hoàn toàn.
Trận tấn công quyết định đó diễn ra vô cùng khốc liệt mà chưa
có một thành phố nào trong bất cứ nơi nào trên thế giới từ
Thế Chiến Thứ Nhất hay Thế chiến Thứ Hai mà quân phòng thủ
phải hứng chịu như các chiến sĩ chính qui, đặc biệt, diện
địa, hay dân quân, kể thường dân của thị xã tỉnh lỵ An Lộc
phải chịu đựng trong trận tổng tấn công lần thứ ba khởi đầu
ngày 11/5/1972 của quân CSBV, kể cả thành phố Guernica của Tây Ban
Nha với trận tấn công không tập của Không quân Quốc xã Đức trong
Đệ Nhị Thế Chiến đã trở thành chủ đề của tác phẩm hội họa
bất hủ của Picasso trong thế kỷ trước... ngoại trừ Hiroshima và
Nagasaki, dĩ nhiên.
Trước đó, bắt đầu từ ngày 9/5 chỉ mấy ngày sau khi Lữ đoàn 3
Nhảy Dù rút ra khỏi mặt trận Đức Vinh, Tân Khai và Tàu-Ô, mặc
dù TWC/M vẫn giữ nguyên SĐ-7/CSBV ở các chốt chặn này, nhưng đã
tăng cường tối đa các đơn vị pháo và phòng không cho mặt trận
An Lộc. Trong ngày 9/5/1972 này, một trực thăng Chinook chở quân
tăng cường của Tiểu đoàn 2/8 cho An Lộc bị bắn hạ khi định đáp
xuống sân bay tạm ở đầu xa lộ, nên việc châm thêm quân tăng viện
không thực hiện được. Suốt ngày, sân bay này bị pháo kích dữ
dằn, không một trực thăng nào đáp xuống được. Tình trạng khẩn
trương tăng dần vì lượng đạn đại pháo dội vào thị xã cũng
nhiều gấp bội các ngày trước.
Ngày 10/5, Đại tướng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH bay
lên Lai Khê --căn cứ chính của SĐ5BB, lúc đó là nơi trú đóng của
BTL/HQ/ QĐIII & V3CT-- họp với Tướng Nguyễn văn Minh và cố vấn
Hoa Kỳ của Vùng 3 Chiến Thuật là Tướng hai sao James F.
Hollingsworth Tư lệnh Bộ Tư lệnh Viện Trợ 3 của Hoa Kỳ, (Third
Regional Assistance Command hay TRAC). Sở dĩ có cuộc họp này vì
tình hình nói trên và cũng vì một tin tức khai thác tù binh
quan trọng là một sĩ quan trinh sát Tiểu đoàn Trinh Sát của
SĐ-5/CS bị Liên đoàn 3 BĐQ của Trung tá Nguyễn văn Biết bắt được
ngày 6/5 ở Cổng Quản Lợi, phía đông An Lộc. Tù binh này khai
rằng trong các ngày 20 và 21 tháng 4, TWC/MN có mấy buổi họp
phê phán các đơn vị Cộng Sản trong các trận tổng công kích
trước vào An Lộc hội thảo về kế hoạnh mới tấn công An Lộc.
Trong các lần tổng công kích trước vì SĐ-9/CS đánh quá kém và
thiếu sự phối hợp với các Trung đoàn Chiến xa 202 và 203, nên
coi như TWC/MN đã thất bại ở các lần đó. Do đó, TWC/MN sẽ chủ
động một trận tổng công kích mới vào An Lộc với quyết tâm và
nỗ lực tuyệt đối đánh chiếm cho được mục tiêu này và tiêu
diệt SĐ5BB của Tướng Hưng bằng mọi giá. Về ngày giờ tấn công
đương sự không biết rõ ngoài sự phối trí lại lực lượng dưới
sự chỉ đạo của TWC/MN. Chủ công mũi dùi của trận tổng công
kích này là SĐ-5/CS, phối hợp với các đơn vị chiến xa, Trung
đoàn Đặc công 469 và các đơn vị pháo, phòng không, của SĐ-70
Pháo, tấn công vào mặt bắc và đông bắc thành phố. SĐ-9/CS giữ
vai trò thứ yếu, cũng sẽ có một số chiến xa phối hợp và
phòng không yểm trợ, tấn công vào mặt tây và tây nam. Lực lượng
tấn kích An Lộc đợt này sẽ được phối trí như sau:
*Thứ nhất, đơn vị chủ công:
-Trung đoàn 174/SĐ-5/CS phối hợp với một đơn vị chiến xa và một
đơn vị của Trung đoàn Đặc công 429 tấn công mặt bắc.
-Trung đoàn E-6/SĐ-5/CS phối hợp với một đơn vị chiến xa và một
đơn vị của Trung đoàn Đặc công 429 tấn công mặt đông bắc.
-Trung đoàn 275/SĐ-5/CS làm trừ bị cho Sư đoàn này.
*Thứ hai, đơn vị tấn công phụ:
-Trung đoàn 271/SĐ-9/CS phối hợp với một đơn vị chiến xa tấn
công mặt nam, Cổng Xa Cam.
-Trung đoàn 272/SĐ-9/CS phối hợp với một đơn vị chiến xa tấn
công mặt tây, Cổng Phú Lố.
-Trung đoàn 95C/SĐ-9/CS làm trừ bị cho Sư đoàn này.
Như vậy, theo kế hoạch này thì SĐ-5/CS sẽ tấn công An Lộc từ
mặt bắc và đông bắc xuống hướng nam và tây nam. Ngược lại
SĐ-9/CS sẽ tấn công từ hướng nam lên và hướng tây vào. Tù binh
này không biết ngày giờ của cuộc tổng công kích.
Trong buổi họp ngày 10/5 nói trên giữa Đại tướng Cao văn Viên
với Trung tướng Nguyễn văn Minh và Tướng Hollingsworth, mặc dù
không biết rõ ngày N, giờ G của CSBV nhưng các vị tướng này
biết rằng phải chạy đua với thời gian để tăng thêm quân vào An
Lộc và đem quân vào đó bằng cách nào.... Một kế hoạch không
yểm hữu hiệu và chi tiết của KQVN và KLHK cho An Lộc được dự
trù. Nhiều boxes B-52 đánh sát vòng đai phòng thủ được dự liệu
cho... ngày khi thành phố này bị tấn công. Nhiều boxes khác...
đánh vào các mật khu và trên hành lang vận chuyển của quân
chúng từ các vùng ngoại vi vào vòng đai phòng thủ thị xã.
Trung đoàn 15 thiện chiến --của SĐ9BB-- do một trong ngũ kiệt
lừng danh ở miền tây hay đồng bằng sông Cửu Long (Mekong Delta)
là Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy, với một chi đoàn chiến xa và
một pháo đội 105ly, được lệnh đưa ngay vào An Lộc trong ngày hôm
sau 11/5/1972 để tăng thêm quân cho An Lộc.
Ngày 11/5/1972 này phải được ghi nhận là giao điểm chính của
cuộc chạy đua theo thời gian của TWC/MN và QĐIII & V3CT cho sự
mất còn của An Lộc. Nhưng quyết định số mệnh của thị xã tỉnh
lỵ Bình Long này lại nằm trong tay của Tướng Lê văn Hưng và Đại
tá Lê Quang Lưỡng. Sở dĩ nói như thế là vì việc đưa Trung đoàn
thiện chiến của Trung tá Cẩn, chiến xa và pháo, vào tăng cường
An Lộc, và các biện pháp khác nhằm giải tỏa An Lộc của Tướng
Minh đã trễ mất hai ngày cũng như quyết tâm của Tướng Trần văn
Trà chiếm cho được An Lộc bằng mọi giá và tiêu diệt SĐ5BB tàn
lụi chỉ hai ngày sau khi những cánh quân CSBV tấn kích thành
phố nhỏ nhoi này khốc liệt như chưa từng thấy ở một trận chiến
nào trước đây trong Chiến tranh Việt Nam, dù là Điện Biên Phủ
1954, dù là Khe Sanh 1968. Ở Điện Biên Phủ, quân của Tướng Võ
Nguyên Giáp phải lần lượt đánh chiếm từng vị trí của quân
Pháp trú đóng và đào giao thông hào để tiến từ ngày này qua
ngày nọ mới tấn công vào căn cứ chỉ huy trung ương của De
Castrie ở đồi A-1 (trên đó sau này CSVN dựng một bảo tàng viện
ghi chiến tích chia hai đất nước của “Bộ Đội cụ Hồ”. Phạm
Tiến Duật có làm một bài thơ khá đẹp về bảo tàng viện đó
trên ngọn đồi. Bài thơ có thể coi là “phản động” mà CSVN không
để ý, hoặc bỏ lơ, không nói đến. Xin xem một đoạn ở cuối trang
*). Còn Pháo binh của Giáp bố trí trên các triền đồi chung
quanh nã đại pháo vào trận địa của quân phòng thủ, nhưng pháo
tập vẫn hạn chế và sức công phá của các loại đạn đại pháo
còn chưa khủng khiếp lắm. Vậy mà quân phòng thủ Pháp của
Tướng De Castrie đã nhận được lệnh đầu hàng.
Còn Khe Sanh, một cứ điểm vô cùng kiên cố của Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Kỳ đóng ở biên giới Việt-Lào, phía tây Cam Lộ tỉnh
Quảng Trị, trên QL-9 dẫn lên thị trấn chiến lược Schépone --một
tỉnh lỵ quan trọng ở Nam Lào mà quân CSBV đã chiếm làm căn cứ
tiếp vận trung chuyển quan trọng của chúng từ Bắc vào Nam
Việ̣t Nam, cũng là mục tiêu của cuộc hành quân Lam-Sơn 719 đầu
năm 1971 của QLVNCH. Cứ điểm này lúc đó có 5,500 quân TQLC/HK và
được tăng cường 1,100 quân BĐQ/QLVNCH --do Đại tá TQLC/HK Davis
Lounds dạn dày trận mạc chỉ huy-- tuy bị cắt mất đường vận
chuyển tiếp tế trên trục giao thông này từ căn cứ pháo binh Calu
của TQLC/HK ở phía đông, cách Cam Lộ chừng 35 cây số, và bị bao
vây bởi các đại đơn vị Mặt Trận Đường ̣9 của CSBV (Route 9
Front’s units, cấp quân đoàn cộng, gồm ba Sư đoàn bộ binh, hơn
một Sư đoàn pháo binh và những đơn vị đặc biệt khác) nhưng
được bảo vệ bằng một hệ thống hàng rào điện tử tối tân bao
quanh hệ thống phòng thủ chính kiến cố, vững chãi. Ngoài ra,
Đại tướng William Westmoreland, Tư lệnh MACV còn chuẩn bị một kế
hoạch đánh bom B-52 dày đặc yểm trợ cứ điểm, chờ tiêu diệt
quân CSBV tấn công. Bom B-52, nhiều người biết hay nghe nói đến.
Nhưng hàng rào điện tử tân tiến, rất ít người biết. Đó là
một loại hàng rào vô hình, không nhìn thấy... dày cả cây số
và dài bao quanh bên ngoài cách khá xa hệ thống phòng thủ
chính... gồm các máy điện tử mới phát minh có chức năng “phát
hiện” một toán, một đoàn người, hoặc một hay nhiều chiến xa
xâm nhâp (có thể dịch ra Anh ngữ một câu giản dị “an infiltration
barrier of new technologic anti-personnel and anti-tank sensors). Loại
máy điện tử mới này nhỏ thì bằng quả lựu đạn, hay lớn hơn
thì bẳng quả mìn chống chiến xa, loại khác hình ống dài cả
thước –tất cả đều được phóng từ trực thăng xuống cắm sâu hay
nằm trên mặt đất lẫn lộn với đất đá, cỏ, cây, bụi rậm. Ngay
khi phát hiện... quân hoặc chiến xa xâm nhập các loại điện tử
này liền “báo tín hiệu” về máy “kiểm tín” trung ương đặt ở
trung tâm hành quân cứ điểm. Người chỉ huy sử dụng pháo tập
trung hay không yểm để tiêu diệt (xin xem thêm rõ ràng hơn ở
Chương 8, The Tragedy of the Vietnam War, 2008-VND).
Theo nhiều nguồn tin lúc bấy giờ thì Tướng Westmoreland coi việc
thiết lập một cứ điểm lớn và kiên cố trấn đóng ở Khe Sanh
với hàng rào điện tử và kế hoạch gọi là “Niagara”dự trù dội
bom B-52 chặt chẽ, như một chiếc bẫy sập lớn dụ cho quân CSBV
đến càng nhiều càng tốt để tiêu diệt hàng loạt. Nhưng một bẫy
sập như vậy làm cho các chiến lược gia Hoa Kỳ nghi ngờ sẽ gây
nên hậu quả... như Điện Biên Phủ của Đội quân Viễn chinh Pháp
trước đó. Nghĩa là: thua một cuộc chiến. Vì vậy, mặt trận Khe
Sanh trở thành chuyện đầu môi của giới chính trị, quân sự và
nhất là giới báo chí Hoa Kỳ làm cho mọi gia đình và học
đường Mỹ rúng động.... Lúc đó, đạo quân Mặt trận Đường 9/CSBV
bao vây căn cứ này mấy tháng liền và hàng ngày dội vào căn cứ
hàng trăm quả đại pháo. Nhưng, thực ra pháo chúng bắn từ xa...
và suốt thời gian khá dài đó các lực lượng của quân đoàn này
chỉ có một lần duy nhất tấn công xung kích vào tuyến phòng
thủ hướng nam cứ điểm do BĐQ/QLVNCH trấn giữ... và chúng bị
đẩy lui. Còn ở các tuyến khác của TQLC hướng tây bắc, hướng
bắc và hướng đông bố trí dày đặc sensors nên quân CSBV mỗi lần
bén mảng tới, vừa đột nhập hàng rào điện tử đã bị... banh
xác bởi đại pháo 175ly của căn cứ hỏa lực Calu hay những boxes
B-52. Ngoài ra Không quân Chiến lược Hoa Kỳ hằng ngày còn đánh
B-52 vào các vùng nghi ngờ ẩn trú hay tập trung của các đơn vị
Mặt Trận Đường 9, làm tan xác hàng nghìn cán binh CSBV chưa
thực sự tấn công. Tổn thất của chúng lớn đến mức độ nào thì
chỉ các tướng của họ biết... mà các ông tướng này cũng chỉ
là những người câm như các loại cây cỏ của những cánh rừng
già vô tri của vùng biên giới đó thôi... nếu không nói là những
robots biết nghe và biết sợ.... Có ai dám tiết lộ? Tuy nhiên,
trên bình diện “chính trị” cú đấm Khe Sanh của đại đơn vị CSBV
cũng làm cho giới lãnh đạo chính trị và quân sự HK lo sợ và
giới truyền thông báo chí la hoảng mà quên mất tội ác khủng
khiếp của chúng ở Huế... trong Tết Mậu Thân.
So với An Lộc, cả hai chiến trường trên, quân phòng thủ chưa
từng đội đến hàng ngàn quả đại pháo mỗi ngày, hay hơn 10,000
quả trong chỉ một-nửa đêm, chưa từng bị xung kích bằng chiến
xa.... Nếu ở mỗi giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam, Điện Biên
Phủ và Khe Sanh đều mang tầm quan trọng chiến lược về chính
trị để giải quyết chiến cuộc... thì trong mùa Hè năm 1972 An
Lộc cũng mang “thứ đặc tính chính trị” như các nơi đó, và còn
quan trọng hơn. Nếu mất An Lộc thì hậu quả sẽ vô cùng tai hại,
sẽ lớn gấp đôi Điên Biên Phủ và gấp ba... Khe Sanh. Pháp thua ở
ĐBP đã mất một nửa Việt Nam cho CSVN. Trận Khe Sanh cộng với
Tết Mậu Thân, chỉ làm nản chí một tổng thống Hoa Kỳ thuộc
Đảng Dân Chủ; ông này không dám nhận... trách nhiệm tái ứng cử
Tổng thống HK nhiệm kỳ hai.... Còn mất An Lộc sẽ kéo theo tai
họa có thể đưa đến mất nốt miền Nam cho CSVN sớm hơn, có thể
sẽ làm cho một tổng thống “sáng giá” Đảng Cộng Hòa....vuột
mất Tòa Bạch Ốc trong lần ứng cử nhiệm kỳ hai cuối năm đó, và
nguy hại nhất là có thể làm vỡ mất cái uy tín lớn lao của
Quân Lực Hoa Kỳ luôn luôn chiến thắng.
Dĩ nhiên Washington, Ngũ Giác Đài, MACV, TRAC, và trước tiên là
Chính phủ và QLVNCH đều có trách nhiệm lớn và lo lắng lớn cho
sự mất còn của An Lộc. Nhưng lo thì cũng chỉ có thể... đổ
thêm quân tăng viện, yểm trợ hỏa lực không yểm, mạnh nhất là
B-52… mà đánh nhau dưới mặt đất vẫn là các chiến sĩ phòng
thủ tại đó. Mất hay còn An Lộc là do chính họ... giỏi hay dở,
không có nghĩa chỉ riêng là súng đạn tối tân họ có trong tay
mà còn là tinh thần quả cảm họ có trong tim óc trước khi họ
nhận được sự yểm trợ hùng hậu nào đó của Washington hay Sài
Gòn. Làm cách nào để nói hết sự “cô đơn” của chiến sĩ ở
chiến trường, nhất là khi họ nằm chờ địch trên tuyến phòng
thủ. Lúc... chờ đợi sự nguy hiểm nhất sẽ đến là lúc họ cảm
thấy cô đơn nhất. Chỉ có... quyết tâm và khẩu súng khi địch
tràn vào. Phải ở tại tuyến mà... bắn hay phải đợi những cánh
chim sắt mang hoả lực thần thánh từ Guam hay Utapao đến giải
cứu họ. Một thoáng cô đơn thôi... nhưng đã quyết định sự thắng
thua. Chờ và Bắn. Chết và Sống. Riêng họ, họ hiểu nỗi cô đơn
của họ. Mấy ai hiểu thấu cho!.. Nếu hèn nhát, bỏ chạy... thì
lúc đó “trời cứu... nị”, vậy ai cứu Washington và Sài Gòn cho?
Mấy ai hiểu rõ nỗi cô đơn của người chiến sĩ bộ chiến An
Lộc.... Nixon hay Kissinger, Đại tá Miller đòi chạy hay Tiến sĩ
Willbanks quờ quạng? Ai cứu các ông?!. Chúng tôi, những chiến sĩ
bộ chiến phòng thủ An Lộc. Có biết không?.. Tôi nói thay cho
các bạn tôi từng đánh nhau ở An Lộc và hãnh diện để nói. Dĩ
nhiên chúng tôi không hề quên ơn những chiến sĩ vô danh của Không
lực Hoa Kỳ đã coi thường sinh mạng yểm trợ hoả lực tiếp cận
vô cùng hiểm nguy hay tiếp tế nguồn sống thực phẩm và đạn
dược cho chúng tôi... chiến đấu và cám ơn tất cả các Cố vấn
Hoa Kỳ ở các đơn vị tại mặt trận đã sát cánh với chúng tôi
cùng bảo vệ An Lộc. Nhưng tự ái dân tộc ở quốc gia nào mà
không có. Vâng, xin giúp chúng tôi phương tiện, tiếp tay chúng tôi
đánh giặc, mà đừng chỉ huy hay... dạy chúng tôi phải đánh thế
nào khi lâm trận. Ở An Lộc không ít cố vấn cho rằng chúng tôi
mất tinh thần. Tôi thì nói và đã nói ngược lại. Kết quả là
những biện minh vững vàng nhất. Có phải vậy không!
Đêm 10 rạng ngày 11/5, đã khuya lắm, tuy không phải phiên trực
hành quân của tôi, nhưng không hiểu vì sao tôi không ngủ được, cứ
trằn trọc mãi một phần vì cảm thấy nỗi cô đơn của mình trong
đêm vắng lặng, phần khác vì sự vắng lạnh rùng rợn của đêm đó
làm cho tôi lo sợ và nghĩ ngợi thao thức mãi. Quả thật từ đầu
hôm đến giờ đó tôi không nghe một tiếng đạn đại pháo nào rơi ở
đâu đó trong vòng đai phòng thủ thị trấn như những đêm trước.
Bỗng... tôi bật dậy vì đã chợt nghĩ ra.... Vội vã đến ngay
bàn làm việc của toán Truyền tin Hành quân của Sư đoàn, yêu
cầu nhân viên trực máy –vô tuyến và điện thoại-- cho tôi g̣ọi
ngay hotline về tư gia của Đại tá Hoàng Ngọc Lung ở Sài Gòn, vị
Trưởng Phòng II/BTTM đương nhiệm --cũng là Chỉ huy phó Trường
Quân Báo Cây Mai mà tôi là Huấn luyện viên thời Thiếu tá Phạm
văn Sơn và Thiếu tá Hồ văn Lời là Chỉ huy trưởng (từ 1958 đến
1963; ông hiện nay đang ở Virginia, HK). Đánh thức ông dậy vào
giờ hơn nửa khuya phải là việc tối quan trọng. Khi nghe tiếng
của ông ở đầu giây, tôi báo ngay: -“Thưa Đại tá, đêm nay là đêm
quyết định của An Lộc” và trình bày tiếp nhanh, rõ, về các sự
kiện mới nhất, tin tức do tù binh cung cấp, và về nhận định
của tôi khi cảm nhận được sự yên lặng ghê rợn của An Lộc từ
đầu hôm đến giờ đó, đúng 2 giờ 35 phút. Đại tá Lung ghi nhận
báo cáo, đồng ý với tôi, và nói: -“Tôi sẽ trình ngay Đại
tướng TTMT tin tức của Dưỡng. Yên tâm, mọi sự sẽ tốt đẹp. Chúc
may mắn.” Tôi yên tâm hơn, Sài Gòn đã được thông báo...
Tôi lên miệng hầm, một chiến sĩ Đại đội 5 Trinh sát của Trung
úy Chánh, trong hai Tiểu đội tùy tùng bảo vệ tư lệnh, đang lặng
lẽ đứng gác ở đó, các binh sĩ khác nằm trên nền gạch trong
cái villa lẻ loi bên trên hầm hành quân với ponchos của họ và
những khẩu súng bên cạnh, gối đầu, hay ôm trong lòng. Trời
quang, trăng loang loáng, với những vì sao thưa thớt. Mặt đất mờ
mờ tĩnh lặng chập chờn đôi ánh lửa xa xa như một vùng hoang
dã, ma quái... Một cảm giác rờn rợn chạy dài trong xương sống.
Tôi trở lại miệng hầm gặp người binh sĩ gác, tôi hỏi: “Có gì
lạ không em?” Anh trả lời: “Thưa không, nhưng nghi... tụi nó đánh
lớn đó, ông Thầy!” Tôi nói: “Phải. Chắc vậy! Cố gắng nhen...”
Tôi vừa dứt tiếng, thì nghe những tiếng “départ” của đạn đại
pháo rời miệng súng, nổ ran xa xa ở các hướng, nhiều nhất là
hướng bắc và tây bắc. Liền sau đó là tiếng đùng đùng như sấm
động nổ khắp nơi trong thành phố, vô cùng kinh khủng. Tôi xuống
hầm hành quân, vào đến chỗ nằm, thì nhận thấy tất cả mọi
người trong hầm đều bị đánh thức bởi tiếng pháo thực kinh
khiếp hơn trăm lần những đợt pháo dữ dội nhất của những ngày
trước. Có người ngồi trên ghế bố, ngồi dưới đất, và nhiều
người đã và nằm rạp xuống đất... tôi ngồi bẹp xuống nền đất,
tựa vào thành cây của chiếc ghế bố dã chiến... tự động theo
cơn sợ của bản năng, vì... muôn nghìn tiếng nổ liên tục long
trời lở đất tưởng chừng như đã đến ngày tận thế....
Cứ tưởng tượng là tiếng đạn pháo nổ rung chuyển trời đất đó
là tiếng trống của năm bảy chục chiếc trống lớn do những lực
điền cùng đánh... một lúc và liên tục suốt gần ba tiếng đồng
hồ từ 2 giờ 45 phút cho đến gần sáng, ước lượng từ 10,000 đến
11,000 quả. Chiếc hầm hành quân tưởng sập mất mà không sập....
Như có phép lạ, hàng trăm quả đạn nổ chung quanh hầm của chúng
tôi, nhưng không một quả nào rơi trên nắp hầm, không dầy lắm...
Chỉ cần một quả xuyên phá thôi, rớt trên hầm, xuyên xuống, và
nổ... là Bộ Tham mưu Hành quân, kể cả Tướng Hưng và Đại tá
Ulmer, đã bị chôn sống trong lòng đất. Mặt trận An Lộc có thể
sẽ tan vỡ. Chỉ chừng năm phút đầu tiên, không dứt tiếng pháo,
tôi đã thấy hai ông này cầm ống nói liên lạc với các đơn vị.
Tôi chưa biết phải làm gì. Chung quanh, mấy ông sĩ quan khác
cũng... không khác gì. Hình như không ai suy nghĩ gì hơn là
chờ...một cái gì đó. Chắc cũng có người đọc kinh hay niệm
Phật.
Tiếng pháo vẫn liên tục dữ dội. Bỗng tôi thấy Đại tá Vỹ, đang
ngồi trên ghế bố, đứng lên, đi ra bàn đặt hệ thống Truyền tin
và Đại tá Điềm đội nón sắt lên đầu ra khỏi hầm, lên tuyến
trên mặt đất. Trung tá Đăng, Trưởng phòng 3 và tôi liền ra bàn
Truyển tin có nhiều ống nghe vô tuyến và điện thoại. Lạ lùng
thay, khi bắt đầu đặt một ống nghe vô tuyến có vành cao su bịt
tai, nhận báo cáo của các đơn vị thì... ghi chép, quên tất cả
mọi thứ khác... Tôi đã hoàn hồn nhưng tự thẹn vì đã sợ hãi
như chưa từng sợ hãi như vậy. Lẽ dĩ nhiên thầm thẹn với… Hưng,
ông tướng, bạn cùng Trung đội sinh viên sĩ quan ngày xưa, khi
pháo liên tục kinh khiếp như vậy mà ông cứ thản nhiên... gọi,
hỏi, theo dõi tình hình từng đơn vị, và chỉ thị.... Nghĩ lại,
biết mình thua xa ông ta là phải. Ông có hơn năm chục Anh Dũng
Bội Tinh, trong đó có 26 chiếc với nhành dương liễu, mà tôi đếm
được trên ngực áo trận của ông sau một buổi lễ... nghĩa là ông
được tuyên dương chiến công trước Quân đội 26 lần. Còn tôi, xòe
bày tay ra đếm cũng không được hai... ngón. Còn cái “quê” nào
hơn cái quê này của một sĩ quan cấp tá.
Tiếng pháo vừa dứt, trời chưa sáng, chừng khoảng 5 giờ 30
phút, các tuyến phòng thủ báo cáo tới tấp chiến xa và bộ
binh địch xung kích dữ dội, nhất là hướng tây và đông bắc.
Những báo cáo đầu tiên ghi nhận ở các hướng, các cánh quân
phòng thủ đều bắn hạ chiến xa địch. Như vậy là chiến sĩ
phòng thủ đã lâm trận lớn, chịu đánh và bắn chiến xa tưng
bừng như những lần trước. Tuy nhiên... khi nghe Trung tá Lý Đức
Quân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 7 báo cáo đã mất liên lạc vô
tuyến với Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3/7, chỉ còn liên lạc được
với hai Đại đội trưởng của Tiểu đoàn này và tuyến phòng thủ
hướng tây, cổng Phụ Lố, của Tiểu đoàn đã bị vỡ.... Địch đã
chiếm Trại giam Tỉnh và Ty Công Chánh, từ đó làm bàn đạp xung
kích Đại đội 5 Trinh Sát của Trung úy Lê văn Chánh, phòng thủ
Bộ Tư lệnh HQ/SĐ ở hướng tây bắc và chính tây... chỉ cách một
con đường.
Tuyến đông bắc thị xã, Tiểu đoàn 52/BĐQ bị tấn công mạnh, bị
thủng tuyến ở quãng giữa, phải dạt sang hai bên thành hai cánh
quân rời nhau. Địch chiếm Ty Chiêu Hồi và Trường Trung học Tỉnh,
đang tấn công vào Đại đội 5 Trinh Sát, cũng... chỉ cách một con
đường. Như vậy BTL/HQ đang bị tấn công ở phía tây bắc cách hầm
chỉ huy của Tướng Hưng chừng 150m và hướng đông bắc chừng hơn
100m. Tướng Hưng tức tốc ra khỏi hầm hành quân với toán Truyền
tin vô tuyến và Thiếu úy Tùng, Sĩ quan Tùy viên, theo sau là Đại
tá Ulmer. Toán binh sĩ tùy tùng tư lệnh nằm trong villa và canh
gác đêm qua liền bố trí bao quanh Tướng Hưng và Đại tá Ulmer
đứng trên sân gần cột cờ, đang liên lạc với các đơn vị trưởng.
Lúc đó, Đại tá Vỹ và chúng tôi, tất cả sĩ quan và nhân viên
hành quân khác trong hầm hành quân đều lên tuyến phòng thủ bộ
tư lệnh, mặt tiền, xoay ra đại lộ Nguyễn Huệ. Tuyến này là
của hai Tiểu đội Trinh sát tùy tùng bảo vệ tướng tư lệnh và
của nhân viên Phòng 1, 2, 3 và 4 của BTL/HQ, lúc đó đã có tất
cả gần bốn mươi tay súng, kể cả hai Đại tá Lê Nguyên Vỹ và
Bùi Đức Điềm. Trong hầm chỉ còn lại hai Đại úy Cường và
Triệu của Phòng 2/HQ và các sĩ quan và chuyên viên của Toán
Truyển tin/HQ Sư đoàn tiếp tục thu nhận tin tức báo cáo của
các đơn vị phòng thủ. Dĩ nhiên lúc đó tất cả đơn vị trưởng
đều lên máy trực tiếp với Tướng Hưng. Tuy vậy, ban tham mưu của
các vị này vẫn báo cáo đều về Trung tâm Hành quân Sư đoàn (TOC-
Tactical Operations Center) mà hai ông Đại úy đó và các sĩ quan
Truyền tin trên ghi chép.
Ở phần trên tôi có nói về biệt tài ghi nhớ tọa độ địa hình
(khoa Địa hình học, Topography), việc điều động các phi cơ oanh
kích và đánh bom yểm trợ quân của ông, khi cần thiết chỉ cách
một con đường, và nhất là việc ông nhớ tên và ám số truyền
tin, đến cấp Đại đội trưởng, của tất cả các đơn vị cơ hữu và
tăng phái. Các biệt tài này rất cần thiết cho việc cầm quân
đánh giặc, không phải vị tướng hay tá nào... có được đâu. Đó
không phải là “trí nhớ” dai nhưng là phương pháp tự nghĩ ra
“cách nhớ” rất khoa học. Tôi nằm ở một nơi bên trong bờ rào
đất đắp dọc theo con đường trước dãy nhà làm việc. Tiếng súng
nổ dòn dã ở khắp các tuyến khác. Một chập sau, tôi tự thấy
mình vô lý quá. Nhiệm vụ của mình đâu phải là nằm đây để
bắn... ai đó mà phải ở gần tướng tư lệnh Sư đoàn giúp đỡ ông
ta khi cần biết đến những gì liên quan đến địch quân. Nhìn quanh
không thấy Trung tá Đăng, Trưởng phòng 3 ở đâu, chắc là ông đã
trở xuống Trung tâm Hành Quân, tôi trở lại sân cờ nơi Tướng Hưng
đứng và đến gần Thiếu úy Tùng, sĩ quan tùy viên của ông. Lúc
đó tôi mới biết là Tướng Hưng vừa cầm ống vô tuyến vừa liên
lạc với Trung úy Chánh, Trung tá Quân Trung đoàn trưởng Tr.Đ 7
và Trung tá Biết, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 3/BĐQ, vừa liên
lạc điều động phản lực oanh kích KQVN yểm trợ cho tuyến của
mấy ông này. Chốc chốc đọc tọa độ cho Thiếu úy Tùng chuyển cho
Đại tá Ulmer, đứng cách đó hơn chục bước, cũng đang điều động
hay gọi các phản lực cơ và trực thăng võ trang Cobra của Không
Lực Hoa Kỳ đánh yểm trợ, đánh vào các tọa độ mà Tướng Hưng
yêu cầu. Một chập sau tôi biết ngay là tuyến phía nam và đông
nam việc yêu cầu và điều động hướng dẫn đánh bom và oanh kích
của KQVN và KLHK ông để toàn quyền cho Đại tá Lê Quang Lưỡng và
Đại tá Trần văn Nhật quyết định cùng với và các cố vấn của
Lữ đoàn Dù và Tiểu khu. Tuyến phía đông do Trung tá Nguyễn văn
Biết Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 3/BĐQ và tuyến phía bắc do
Trung tá Phan văn Huấn, Liên đoàn trướng LĐ81/BCND quyết định và
điều động. Chính Tướng Hưng cũng điều động không yểm tuyến của
Trung đoàn 8 ở mặt tây bắc.
Các tuyến mặt bắc và tây bắc của LĐ81/BCND và Trung đoàn 8 tuy
bắn hạ mấy chiến xa của quân CSBV nhưng cũng núng thế vì một
phần tuyến của hai đơn vị này bị chọc thủng, phải lùi lại
phía sau một ít. Một điều... dễ hiểu là mỗi lần liên lạc với
Trung đoàn 8 bộ binh trực thuộc, chỉ nghe Tướng Hưng lên máy với
Thiếu tá Huỳnh văn Tâm, Trung đoàn phó, hay gọi thẳng chỉ thị
cho các Tiểu đoàn trưởng chớ không phải với ông đại tá Trung
đoàn trưởng.
Từ sáng tinh sương đến giờ đó, khoảng 9 giờ 30 phút sáng, đã
có trên 180 phi xuất khu trục phản lực của KQVN và KLHK yểm trợ
cho tất cả các tuyến phòng thủ và hơn 10 boxes B-52 đã dội trên
các khu vực tiếp cận ngoài vòng đai phòng thủ, nhưng tình hình
mỗi phút mỗi thêm nguy ngập. Đại đội 5 Trinh sát, ngoài hai
Tiểu đội bảo vệ tướng tư lệnh, một đang ở cạnh ông và một
trên tuyến phía đông dọc theo đại lộ Nguyễn Huệ, còn đại bộ
phận gần 90 chiến sĩ, đến giờ phút đó đã hy sinh hay bị trọng
thương tại tuyến hơn phân nửa, chỉ còn lại 42 chiền sĩ chiến
đấu được, trong số cũng có nhiều người bị thương nhẹ hơn.
Đó là giờ phút nguy hiểm, khó khăn, nhất cho Tướng Hưng. Cuối
cùng vì thấy tuyến phía nam và đông nam các đơn vị Dù đã hoàn
toàn làm chủ trận địa, Tướng Hưng hỏi ý kiế̉n Đại tá Lưỡng,
cùng đồng ý quyết định tăng cường Đại đội 63 của TĐ6ND (đã
rút từ ấp Srok Ton Cui về tuyến phòng thủ đông nam thị xã trong
trận tấn công của Trung đoàn 141 SĐ-7/CSBV, ngày 21/4, chiếm Đồi
169 và Đồi Gió) cho Tiểu đoàn 8 Dù của Trung tá Văn Bá Ninh, án
ngữ mặt nam từ đầu xa lộ khu trực thăng tạm, xuống đến cổng Xa
Cam, nơi đó Tiểu đoàn này đã hạ 6 chiến xa của quân CSBV từ sáng
sớm... Quyết định quan trọng nhất là rút TĐ5BĐQ của Trung tá
Nguyễn Chí Hiếu từ ngoại vi đông nam An Lộc lên phía bắc, vào
thành phố, để phản công chiếm lại các nơi đã bị địch chiếm,
đồng thời đưa Đại đội Trinh Sát của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù từ
tuyến phòng thủ gần BCH Tiểu khu lên bảo vệ cho BTL/HQ của SĐ5BB
mà Đại đội 5 Trinh sát đã quyết tử giữ vững hơn bốn giờ
trước đó. Quyết định này vô cùng quan trọng là tuy nới lỏng hệ
thống phòng thủ tuyến nam và đông nam An Lộc, nhưng bảo đảm
được sự tồn tại của An Lộc vì đã bảo vệ được Bộ Tư lệnh
Hành Quân Sư đoàn cũng là BTL/HQ của chiến trường An Lộc. Tướng
Hưng và Đại tá Lưỡng đã quyết định vận mệnh của An Lộc...
trên hết mọi quyết định khác của BTL/QĐIII & V3CT hay của
BTL/TRAC, của BTTM/QLVNCH hay của BTL/MACV, của Sài Gòn hay
Washington. Thực là rõ ràng.
Từ 10 giờ sáng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù chia làm hai cánh tiến vào
thành phố. Cánh thứ nhất đánh phản công chiếm lại Trường Trung
học Tỉnh lỵ và Ty Chiêu Hồi, nối lại hai cánh quân của
TĐ52/BĐQ. Chiến đoàn 3 BĐQ lập lại tuyến phòng thủ ở đông bắc
BTL/HQ nhanh chóng. Cánh thứ hai đánh phản công chiếm lại Ty Công
Chánh ở phía tây BTL/HQ trong khi ĐĐTS Dù cũng đã đến vòng đai
phòng thủ của BTL/HQ. Đến khoảng 2 giờ chiều cục diện của
trận chiến ngày hôm đó đã ngã ngũ. Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, Đại
đội Trinh Sát Lữ đoàn 1 Nhảy Dù là cứu tinh của BTL/SĐ5BB, và
Đại đội 5 Trinh Sát trước tiên là đơn vị bộ binh ưu tú nhất đã
bảo vệ được vị chủ soái của mình. Chỉ với hơn bốn chục
chiến sĩ còn lại mà đơn vị này đã đẩy lui được nhiều đợt của
hai mũi tấn công của quân CSBV trong bốn tiếng từ 6 đến 10 giờ
sáng trước khi quân Dù đến cứu nguy cho BTL/HQ của Tướng Hưng
(sau trận An Lộc, chỉ trong vòng một năm Trung úy Chánh, Đại đội
trưởng ĐĐTS thăng đến cấp Thiếu tá và được bổ nhậm là Quận
trưởng Quận Định Quán, tỉnh Tuyên Đức).
Nhờ các đơn vị Dù cứu tinh nói trên ở trung tâm thành phố, và
nhờ các trực thăng Cobra HK đánh rất rát vào vị trí quân CSBV,
mặc dù loại hỏa tiển SA-7 Strela và các loại súng phòng không
23mm, 37mm và 57mm của chúng bắn lên dữ dằn, làm cho các phi
công HK phải hết sức thận trọng và bị khó khăn, mà vẫn không
tránh được thiệt hại, dù rất ít... nên ở tuyến phía bắc,
Trung đoàn 8 phản công nhích lên tuyến phòng thủ trước trận
đánh và LĐ81BCND cũng phản công tái chiếm lại trụ sở của Cảnh
sát Dã chiến và khu Chợ Mới đã mất trong buổi sáng và trở
lại tuyến phòng thủ đêm hôm trước. Suốt từ trưa đến chiều,
Không Quân Chiến Lược HK --do yêu cầu của hai ông Tướng Minh và
Tướng Hollingsworth, Tư lệnh TRAC-- cũng đã thực hiện thêm hơn 10
boxes B-52 chung quanh An Lộc nhất là ngoài tuyến phòng thủ mặt
bắc, đông và tây, yểm trợ cho LĐ81BCND, cho CĐ3/BĐQ và cho TĐ7BB
phản công chiếm lại tuyến phòng thủ; có mấy boxes đánh sát
các đơn vị này chừng 800m. Mọi tuyển phòng thủ thành phố trở
lại tình trạng ổn định hơn, trước khi nắng tàn, mặc dù ở
tuyến của Tiểu đoàn 52/BĐQ còn khuyết một lõm ở quãng giữa mà
quân CSBV cố bám vị trí rất sát với chiến sĩ BĐQ để tránh bị
tiêu diệt bởi hỏa lực của KQVN và HK. Ở Tuyến hướng chính tây
chúng vẫn còn chiếm giữ Trại giam (Bản đồ # 6).
KỲ 10
Các đơn vị CSBV tấn công, bị tổn
thất rất nặng, kể cả số chiến xa bị bắn cháy hay chết rụi
nằm trong các tuyến. Số quân còn lại của các đơn vị này vẫn
bám trụ bên ngoài của mỗi tuyến phòng thủ vì bom và oanh kích
của KQVN và KLHK oanh kích và dội bom dữ dội vào tuyến tấn công
của chúng. Cả ngày hôm đó không yểm chiến thuật lên đến hơn 300
phi xuất và Không quân Chiến lược HK đánh gần 30 boxes B-52 trong
các mật khu và trên các tuyến đường vận chuyển của chúng,
trong số đó có chừng 20 boxes đánh rất gần ngoại vi thị xã.
Chính vì sự còn “bám sát” trận địa của các đơn vị bộ chiến
nên đêm tối 11/4, pháo của chúng dội vào thành phố không nhiều
lắm, chỉ chừng trên dưới một nghìn quả. Thêm nữa, các “Hỏa
Long” của KLHK từ căn cứ Không quân Utapao Thái Lan đến bao vùng
từ chập tối, suốt cả đêm, cũng đã triệt hạ từng cụm pháo hay
từng chiến xa địch ở ngoại vi An Lộc.
Buổi tối, khi Tướng Hưng gọi tôi vào hầm riêng của ông để kiểm
điểm lại trận chiến, thì mới biết rõ lời khai của người tù
binh thuộc Tiểu đoàn Trinh sát SĐ-5/CS bắt được trong ngày
6/5/1972 có sự khác nhau khá lớn vì: SĐ-5/CS --chủ lực trong
trận tấn công đợt 3 này-- chỉ sử dụng Trung đoàn 174 tấn công
vào tuyến của Trung đoàn 8 và LĐ81/BCND ở mặt bắc và Trung
đoàn E-6 tấn công tuyến của CĐ3/BĐQ ở hướng đông bắc và chính
đông. Trung đoàn còn lại là Trung đoàn 275 ghi nhận chiếm vùng
Đồi Gió và Đồi 169. Cũng được biết là Tư lệnh bộ của Sư đoàn
này ở Srok Ton Cui gần đó như tin tức ghi nhận vô tuyến của Đại
đội Kỹ Thuật của BTL/HQ/ SĐ5BB. Trong khi đó thì Trung đoàn 95C
của SĐ-9/CS tấn công tuyến tây bắc và Trung đoàn 272 tấn công
tuyến chính tây của Trung đoàn 7/SĐ5BB. Còn tuyến phía nam là do
Trung đoàn 271 của SĐ-9/CS chia làm hai cánh tấn công vào tuyến
phỏng thủ của một đơn vị ĐPQ Tiểu khu tiến vào đường Huỳnh
Thúc Kháng đâm ngang hông phía tây của BCH Tiểu khu và cánh thứ
hai tấn công vào cổng Xa Cam, do TĐ1/48 thuộc Chiến đoàn 52 --lúc
đó đang đặt dưới hệ thống chỉ huy của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù--
trấn đóng, chừng hơn hai cây số cách TĐ8ND ở bãi trực thăng tạm
về phía nam. Từ sáng sớm Đại tá Lê Quang Lưỡng đã ra lệnh cho
TĐ8ND của Trung tá Văn Bá Ninh phản công, hạ 6 chiến xa CSBV và
chiếm lại địa điểm này. Như vậy là có đến 5 mũi tấn công
chính của quân CSBV vào các tuyến phòng thủ chớ không phải 4.
Ở mỗi tuyến tấn công các mũi nhọn cấp Trung đoàn của quân CSBV
đều có sự phối hợp từ 8 đến 10 chiến xa của Trung đoàn 203
Chiến xa và của Đơn vị 202 Chiến xa CSBV. Sự phối hợp này rất
lỏng lẻo. Chiến xa chạy vào các tuyến trước, quờ quạng như
những con cua biển bò trên đất, nên bị chiến sĩ phòng thủ hạ
không khó lắm. Còn quân bộ xung kích thì chỉ diễn ra sau khi
chiến xa đã bị hạ gần hết.
Điều ngạc nhiên là tuyến đông nam của BCH Lữ đoàn 1 Nhảy Dù,
với ĐĐTS và TĐ5ND của Trung tá Nguyễn Chí Hiếu đóng gần đó
làm trừ bị không hề bị tấn công... khi mà SĐ-5/CS và Trung đoàn
209 trực thuộc, với các đơn vị chuyên môn yểm trợ khác, nằm ở
các vùng cao điểm đông nam chỉ cách tuyến của BCH Lữ Đoàn Nhảu
Dù chừng ba, bốn, cây số.... Tại sao vậy? Ước đoán là TWC/MN
tránh không muốn tấn công mặt này vì sơ chạm phải các đơn vị
Nhảy Dù thiện chiến, tránh thiệt hại quân vô ích, ngoại trừ
tấn công đơn vị trấn giữ sân trực thăng ở đầu nam xa lộ chạy
đến gần cổng Xa Cam. Nếu tấn công, xung kích, mà dứt điểm được
Trung đoàn 7 và 8 của SĐ5BB và chiếm được BTL Sư đoàn này, mặt
trận sẽ tan rã, thì các đơn vị Nhảy Dù ở tuyến phía nam và
đông nam cũng bị cô lập và sẽ bị tiêu diệt sau. Kế hoạch tổng
công kích An Lộc đợt ba này của TWC/MN do đó đã thất bại hoàn
toàn vì sơ hở trọng đại này. Chính không dám tấn công mặt đông
nam nên Tướng Hưng và Đại tá Lưỡng mới dám rút TĐ5ND và ĐĐTS/ND
phản công đánh bật các mũi dùi phía tây và đông bắc BTL/HQ của
SĐ5BB, từ đó bắt đà cho các cánh quân phòng thủ ở mọi tuyến
khác phản công chiếm lại các vị trí đã mất.
Sau này, tôi thấy có tài liệu viết rằng, không phải Trung đoàn
271 của SĐ-9/CS tấn công cổng Xa Cam --tuyến của TĐ1/48 Chiến
đoàn 52 của ĐPQ-- mà là Trung đoàn 275 của SĐ-5/CS (Tài liệu
của Ban Quân Sử BTTM/QLVNCH ghi là “Trung đoàn 275 của SĐ9.” Đó
là sự nhầm lẫn hoặc in nhầm, vì Trung đoàn 275 là đơn vị trực
thuộc của SĐ-5/CS). Vì vậy nên SĐ-5/CS đã sử dụng hết lực
lượng rồi đâu còn đơn vị nào nữa mà tấn công tuyến đông nam
của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù. Nhận định này cũng đúng. Nhưng, dù
đúng như vậy, thì đó vẫn là sơ hở trong kế hoạch tổng công
kích đợt 3 của TWC/MN vào An Lộc. Còn tài liệu của TS Willbanks
không ghi rõ phối trí lực lượng tấn công của CSBV trong đợt này.
Ông này hình như cũng nói theo tài liệu của Ban QS/BTTM/QLVNCH
cho rằng Trung đoàn 274 của SĐ5 tấn công vào tuyến của LĐ81/BCND
ở tuyến bắc. Trung đoàn này, không tham dự đợt tấn công này vào
An Lộc vì không trực thuộc hai Sư đoàn CS nói trên. Cũng xin
nhắc lại: SĐ-5/CS chỉ có 3 Trung đoàn 174, E-6 và 275. Còn
SĐ-9/CS chỉ có các Trung đoàn 271, 272 và 95C. Trong một trận
đánh mà CSBV né tránh, không muốn đề cập đến, lại không dựa
vào các tài liệu thu được ở chiến trường hay căn cứ vào khai
báo của tù binh bắt được... thì có lắm chuyện “Ông nói gà Bà
nói vịt” xảy ra. Chỉ có các tay tổ của TWC/MN biết rõ hơn ai
hết mà họ không chịu nói thì ai nói cho trúng đây....
Trở lại tối 11/4, khi tôi gặp Tướng Hưng trong hầm riêng của ông,
ông hỏi tôi đạn pháo ở đâu ra mà CSBV có nhiều đến vậy. Tôi
trả lời rằng đâu phải chúng chỉ sử dụng riêng các loại đại
bác mà SĐ69 Pháo/TWC/MN đã có, mặc dù trước trận đánh Sư đoàn
này nhận được rất nhiều đại pháo mới và rất nhiều đạn ở bãi
trên Sông Chhlong ở Kratié, như lời khai của người sĩ quan thuộc
Tiểu đoàn Trinh sát của Sư đoàn này tôi đã nói ở phần trên, mà
chúng còn sử dụng các loại đại bác 105 ly, 155 ly, và cả các
loại súng cối 60 ly và 81 ly mà chúng ta bỏ lại ở căn cứ A
của TĐ74/BĐQ/BP, ở ngã ba Lộc Tấn của các khẩu pháo tăng phái
cho Thiết đoàn 1 Kỵ binh, ở Lộc Ninh của Tiểu đoàn 53 Pháo binh
và Chi khu Lộc Ninh, ở căn cứ Hùng Tâm của Chiến đoàn 52 và ở
cầu Cần Lê trong các trận trước. Số súng mà chúng lấy được
trên dưới bốn mươi khẩu còn sử dụng được và trên 8,000 quả đạn
hay nhiều hơn…. Chúng đã đem các khẩu đại bác này và đạn bắn
vào An Lộc cùng với các loại đại bác, hỏa tiễn và súng cối
của chúng. Tóm lại, các đơn vị của SĐ69 hay70 Pháo/TWC/MN đã
dội xối xả vào An Lộc gồm đủ loại trong pháo và đại pháo từ
nhỏ chí lớn, súng cối 60ly, 61 ly, 81 ly, 82 ly, bích kích pháo
120 ly, 160 ly của Liên xô, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 105 ly, 155 ly,
loại đại pháo liên hợp 6 hay 8 khẩ̉u 75 ly, không giật, đặt trên
xe di chuyển, thay đổi vị trí ngay sau mỗi đợt bắn, là loại
tối tân nhất của Liên xô, và cuối cùng là đại bác 130 ly với
đầu đạn nổ chậm –là loại đầu đạn xuyên phá sâu vào mặt đất
trước khi nổ, rất nguy hiểm. Nhiều tài liệu không chấp nhận
CSBV đã dùng loại đại bác này. Loại đại pháo này được chúng
sử dụng với các đặc điểm như sau: một tiếng nổ nhỏ phát ra
khi đạn rời khỏi nòng súng, tiếng nổ khi đạn chạm mặt đất và
xuyên xuống, tiếng nổ cuối cùng khi đạn phát nổ dưới đất với
một bựng khói bốc lên cao chừng tám đến mười thước. Một hầm
rộng chỉ cần “lãnh” một quả là sụp đổ tan tành.... Nghe ba
tiếng… tách, phụp, bùm và thấy cụm khói đỏ xám bốc lên khỏi
mặt đất thì... biết đó là đại bác 130 ly của Hồng Quân Liên xô
cung cấp cho Quân đội Bắc Việt và chúng đưa vào tận chiến
trường An Lộc. Hình như chỉ có một hai khẩu.... Rõ ràng là
CSBV đã áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” ở mức độ cao
nhất ở chiến trường này để quyết tâm tiêu diệt lực lượng phòng
thủ An Lộc và dù có biến thành phố này thành “bình địa”
chúng cũng phải chiếm cho được. Số đạn chúng dội vào thành
phố nhỏ này tính trung binh mỗi chiến sĩ hay mỗi cư dân đã chịu
hứng 5 hay 6 quả. Ai chết ai sống, nào ai biết! Vậy từ 9,000
quả, 10,000 quả, hay 11,000 quả ai nói thì cũng phải... vì có
ai biết rõ đâu, kể cả những người đã sử dụng pháo định tiêu
diệt tất cả mọi người trong thành phố đó... Nhưng chúng đã
thất bại.
Trong ngày kế tiếp, 12/5/1972, hình như để chấn chỉnh lại đội
ngũ xung kích nên từ sáng sớm đến chiều chúng chỉ pháo kích
chừng hai nghìn quả vào các tuyến phòng thủ. Khi trời vừa sụp
tối chúng bắt đầu tấn công phối hợp bộ binh chiến xa... đánh
ban đêm. Ở hướng tây Trung đoàn 272 SĐ-9/CS tăng cường chiến xa
xung kích tuyến của Trung đoàn 7. Ở hướng đông bắc, Trung đoàn
174 của SĐ-5/CS tấn công xung kích vào tuyến của TĐ52/BĐQ và
Trung đoàn E-6 của SĐ-5/CS được tăng cường chiến xa tấn công vào
TĐ36/BĐQ ở hướng chính đông. Nhưng ở các tuyến chiến xa của
chúng bị hạ thêm và các đợt xung kích bộ binh dù dữ dội cũng
bị đẩy lui với tổn thất lớn. Ngay trong thành phố, đếm được 28
chiến xa các loại của CSBV bị hạ và ở cổng Xa Cam 6 chiếc nữa
do TĐ8ND hạ; tổng cộng là 34 chiếc gồm các loại T-54, PT-76,
BTR-50 và ZSU (Bản đồ # 9). Đến sáng ngày 13/5 quân CSBV không
còn vụ xung kích nào nữa.... Từ ngày đó chỉ còn các cuộc
chạm súng nhỏ diễn ra ở các khu vực mà quân CSBV còn giữ được
trong thành phố ở phía tây, bắc và đông bắc. Hằng ngày địch
vẫn còn pháo bừa bãi vào thành phố và các tuyến phòng thủ.
Tuy nhiên TWC/MN đã không còn đủ lực lượng để tấn công một trận
lớn nào nữa vào An lộc sau ngày 13/5/1972 này cho đến khi lực
lượng của Tướng Hưng phản công trong tháng 6/1972.
Hình như bị thiệt hại lớn lao hay vì lâm vào thế phải thay đổi
cả chiến lược, Tướng Trần văn Trà đã ra lệnh cho SĐ-5/CS rút
hẳn ra khỏi chiến trường này trong tuần lễ kế tiếp, sau hai
ngày thất bại ở đợt 3 tổng công kích An Lộc... để mở các mặt
trận mới trong lãnh thổ Vùng 3 Chiến Thuật, mà Tướng Nguyễn
văn Minh đã nhìn thấy trước và đã giữ lưc lượng trừ bị đối
phó. Chỉ còn SĐ-9/CS ở lại bám sát các tuyến phòng thủ và
“bao vây thành phố.” Các đơn vị pháo của SĐ69 Pháo của TWC/MN
vẫn tiếp tục bắn phá các tuyến phòng thủ và các đơn vị
phòng không của chúng vẫn còn bắn các phản lực oanh kích và
dội bom hay trực thăng của KQVN và KLHK trong nhiều tuần nữa.
Nhưng số đạn chúng pháo vào thành phố giảm từng ngày, từ một
hai nghìn xuống vài ba trăm, rồi vài chục quả mỗi ngày. An Lộc
coi như đã thoát hiểm, các đơn vị phòng thủ coi như đã chiến
thắng cuộc chiến long trời lở đất đó. Tuy vậy với vị tướng
thận trọng và dè dặt như Tướng Nguyễn văn Minh, chưa thể gọi
là chiến thắng khi bộ binh tiếp viện của ông chưa vào được thị
trấn tỉnh lỵ Bình Long này. Ông đã có kế hoạch mới cho An Lộc
trong khi Tướng Trần văn Trà đang có kế hoạch mới cho Mặt trận
B-2 mà trước đó ông ta là Tư lệnh (lãnh thổ bao gồm Vùng 3 và
Vùng 4 Chiến Thuật của VNCH ở Nam Việt Nam). Hãy xem lại kế
hoạch của Tướng Nguyễn văn Minh cứu nguy và đưa quân vào An Lộc.
11. GIẢI TỎA AN LỘC, PHẢN CÔNG
Có lẽ ngay trong giữa khuya 10/5 rạng ngày 11/5 khi được Tướng
Hưng báo cáo là địch đang pháo kích với cường độ vô cùng lớn
lao và An Lộc sẽ bị tấn kích trong buổi sáng sớm hôm sau khi
dứt tiếng pháo... nên Tướng Minh và Bộ Tham mưu Hành quân của
ông đã họp khẩn cấp lúc đó để hoạch định sử dụng các đơn vị
chưa lâm chiến thi hành ngay kế hoạch cứu nguy cho An Lộc trong
ngày hôm sau. Theo nhận định riêng của tôi thì kế hoạch này có
hai phần, diễn ra chỉ cách nhau mấy ngày.
Thứ nhất: Tấn công mạnh
để “bứng chốt” ở suối Tàu-Ô nhưng thực ra là để kềm SĐ-7/CSBV
không cho tăng cường quân lên mặt bắc tập trung truy diệt Lữ đoàn
3 Nhảy Dù hiện đang còn hành quân trong các vùng ấp Đức Vinh
và ấp Tân Khai từ 6km đến 10km phía nam An Lộc hay hợp công với
các đơn vị chủ lực khác dứt điểm An Lộc.
Thứ hai: Khi quân CSBV tấn
công vào An Lộc đợt 3 này thì ở vùng hai ấp nói trên có hai
Trung đoàn 165 và 141 của SĐ-7/CSBV cộng thêm Trung đoàn 271 của
SĐ-9/CS. Tất nhiên chúng phải rút bớt đơn vị sau trả về Sư đoàn
gốc để tấn công An Lộc, chỉ còn lại ở chiến trường phía nam
này hai Trung đoàn của SĐ-7/CSBV đã đang còn đánh nhau dữ dội
với LĐ3ND và tất nhiên là đã thấm mệt vì tổn thất bởi các
trận chạm súng và bởi hỏa lực không yểm quân Dù của KQVN và
KLHK, nhất định là đã yếu đi. Nay Tướng Minh đổ thêm một cánh
quân mạnh vào Tân Khai, tức nhiên lấy mạnh đánh yếu, vừa giải
tỏa áp lực cho LĐ3ND, vừa có thể đánh thốc lên tiến thằng vào
An Lộc bắt tay với các cánh quân phòng thủ An Lộc của Tướng
Hưng mà gần nhất ở mặt nam là cánh quân của LĐ1ND của Đại tá
Lê Quang Lưỡng. TWC/MN đã hết quân, không thể truy cản được cánh
quân mới nhập trận này.
Phần thứ nhất của Kế hoạch
được thưc hiện vào sáng tinh sương ngày 11/5/1972.
Trung đoàn 32 của SĐ21BB được tăng cường hai Chi đoàn chiến xa 1/5
và 1/18, cộng thêm Chi đoàn 1/2 Thiết kỵ, chia làm hai mũi, xuất
phát từ Chơn Thành cặp theo hai bên trục QL-13 tấn công mạnh vào
chốt chặn ở đoạn đường dài hơn 3 cây số khu vực suối Tàu-Ô.
(Quận lỵ Chơn Thành được giao cho Trung đoàn 9/SĐ5BB (-) --mới
được tái lập với hai Tiểu đoàn, tạm thời đặt trực thuộc hệ
chỉ huy hành quân của SĐ21BB, bảo vệ trục QL-13 từ Lai Khê lên
Chơn Thành). Ở mặt trận Suối Tàu-Ô, cuộc chạm súng đã diễn ra
vô cùng dữ dội. Cần nói là trước khi quân của Trung đoàn 32
tiến đánh các mục tiêu, các chốt chặn liên hợp của Trung đoàn
209/SĐ-7/CSBV tăng cường Trung đoàn 101 Địa phương, một Đại đội
trinh sát của SĐ-7/CSVB, Đại đội C41 Chống Chiến xa, một Đại
đội phòng không, tất cả ước chừng hơn 1,200 cán binh --đóng
chốt trong hai căn cứ với hầm hố kiên cố ở hai bên đường do các
đơn vị HK để lại, kết hợp với các địa đạo sâu chi chít và hệ
thống các “kiềng” dày đặc-- đã bị dội hàng chục phi xuất
B-52, và mỗi lần bị tấn kích chúng đã phải hứng hàng vài
chục phi xuất không kích với bom, đạn, kinh hồn... của KQVN và
KLHK mà chắc chắn rằng tổn thất không nhỏ. Có lẽ chúng chỉ
thêm quân từng toán nhỏ và tiếp tế vào đêm... nhưng các chốt
đó vẫn tồn tại. Cũng dĩ nhiên là chúng cũng không thể nhích
chân để chuyển lên phía bắc để tiếp tay với các đơn vị khác.
Và như vậy, Tướng Minh cũng thực hiện được một phần kế hoạch
của ông, mặc dù sau đó đã phải tăng viện thêm cho Trung đoàn 32
ba Tiểu đoàn 65,73 và 84 BĐQ....
Phần thứ hai của Kế hoạch được
thực hiện vào ngày 14/5/1972.
Trong ngày 11/5 khi Trung đoàn 15 của SĐ9BB đến Lai Khê, Trung tướng
Minh định đưa vào tăng cường cho Tướng Hưng, bằng trực thăng vận
vào thẳng An Lộc, nhưng trong đêm 10 rạng 11/5 CSBV pháo kích
khủng khiếp vào An Lộc và biết rằng sáng sớm chúng sẽ tấn
công vào các tuyến phòng thủ thành phố bằng bộ binh và chiến
xa nên Trung tướng Minh đã thay đổi chiến thuật: vẫn đưa Trung
đoàn này và một Trung đoàn khác vào An Lộc nhưng bằng cách
khác. Sau mấy ngày chuẩn bị, mặc dù sau hai ngày 11 và 12/5 các
mũi tấn công của CSBV và các tuyến phòng thủ đã bị chặn đứng
và mức độ tấn kích của chúng cũng giảm đi, nhưng kế hoạch
vẫn được tiến hành. Hai cánh quân được chuẩn bị để đưa vào
chiến trường:
Cánh quân thứ nhất là Chiến đoàn 15 với các Tiều đoàn 1, 2, 3
và Đại đội 15 Trinh Sát trực thuộc, tăng cường Thiết đoàn 9 Kỵ
binh và Pháo đội 93 Pháo binh, do Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy,
chia làm ba đợt, trước tiên vào Tân Khai. Sau đó sẽ dùng nơi này
làm “bàn đạp” tiến lên An Lộc. Đợt thứ nhất xuất phát gồm
Thiết đoàn 9 Kỵ binh và Tiểu đoàn 1/15 tùng thiết kéo theo Pháo
đội 93, xuất phát từ Chơn Thành, hành quân bộ tiến lên hướng
bắc, đến Ngã ba Ngọc Lầu, 2km bắc Chơn Thành bọc vòng ra phía
đông QL-13, nội trong ngày 15/5 đã vào ấp Tân Khai và thiết lập
căn cứ hỏa lực Long Phi. Đợt thứ hai, Tiểu đoàn 2/15 được trực
thăng vận xuống bãi đáp phía tây cách Tân Khai chừng 1km, tiến
vào ấp trong ngày 16/5. Sau đó Bộ Chỉ huy Chiến đoàn đổ xuống
căn cứ hỏa lực trong ấp. Đợt thứ ba, Tiểu đoàn 3/15 và ĐĐ15TS
cũng được trực thăng vận đổ xuống phía đông, rồi tiến vảo Tân
Khai. Các cuộc đổ quân an toàn.
Cánh quân thứ hai là Trung đoàn 33/SĐ21BB với các Tiểu đoàn bộ
binh và Đại đội trinh sát trực thuộc, do Trung tá Nguyễn Viết
Cần chỉ huy, cũng sẽ vào Tân Khai. Từ đó sẽ tiến lên An Lộc
song song với cánh quân thứ nhất. Ngày 17/5 một Tiểu đoàn của
Trung đoàn này được trực thăng vận vào căn cứ Long Phi để bảo
vệ đơn vị pháo binh và thay cho Tiểu đoàn 2/15 rút ra khỏi căn
cứ và di chuyển quân bên ngoài tiếp nối với Tiểu đoàn 3/15.
Ngày 18/5 Trung đoàn 33 (-) xuất phát từ một căn cứ hỏa lực
cách Ngã ba Ngọc Lầu 1km và cách Chơn Thành 3km về phía bắc,
cũng bọc ra hướng đông trục lộ, theo đường tiến quân của Thiết
đoàn 9 Kỵ binh và Tiểu đoàn 1/15 trong mấy ngày trước, vào Tân
Khai trong ngày đó. Như vậy, đến ngày 18/5 này coi như cả hai
cánh quân giải tỏa An Lộc đã đến được địa điểm tập trung và
xuất phát mới chỉ cách An Lộc về phía nam chừng 10km.
Nhưng 10 cây số này là đoạn đường sống chết vô cùng nguy hiểm
cho cả hai cánh quân nói trên nếu không có một cánh quân bạn
--tái nhập cuộc-- làm đảo lộn cục diện ở đoạn đường này và
cục diện chiến trường An Lộc, vì đã đánh một trận để đời
làm cho... quân CSBV thực sự kiệt lực.
Xin nhắc lại diễn tiến:
Ngày 18/5, khi Trung đoàn 33 (-) của SĐ21BB đến Tân Khai thì Chiến
đoàn 15 của Trung tá Hồ Ngọc Cẩn bắt đầu xuất phát tiến lên
An Lộc, với toàn bộ 3 Tiểu đoàn, Đại đội trinh sát và nguyên
vẹn Thiết đoàn 9 Kỵ binh; chỉ để lại Trung đoàn phó Trung đoàn
15 chỉ huy căn cứ pháo yểm Long Phi với 4 khẩu đại bác 105 ly
và 2 khẩu 155 ly và một Tiểu đoàn của Trung đoàn 33/SĐ21BB, đến
yểm trợ và bảo vệ căn cứ từ hôm trước. Như vậy, khi xuất phát
từ Tân Khai tiến lên An Lộc, Trung đoàn 33 (-) của Trung tá
Nguyễn Viết Cần chỉ huy có hai Tiểu đoàn bộ binh và Đại đội
trinh sát trực thuộc, không có đơn vị chiến xa cùng theo. Ở đây
có một chi tiết quan trọng cần nêu lên là hai cánh quân này cùng
tiến lên giải tỏa hay bắt tay với các đơn vị phòng thủ An Lộc
không có một cấp chỉ huy thống nhất, cấp bậc cao hơn --tức là
cấp đại tá-- để chỉ đạo hai ông trung tá chỉ huy hai cánh quân
khác nhau nhưng cùng chung một nhiệm vụ. Dĩ nhiên, Tướng Nguyễn
Vĩnh Nghi, Tư lệnh SĐ21BB chỉ huy toàn thể các cánh quân đó,
nhưng ông ở Lai Khê lại còn phải điều động các cánh quân khác
nữa, nên cần... phải chỉ định một vị chỉ huy và ban tham mưu
của vị này để trực tiếp chỉ huy Chiến đoàn 15 và Trung đoàn
33. Cũng cần nên nói là sao chỉ tổ chức “một Chiến đoàn” quá
nhiều quân và “một Trung đoàn” trừ bớt một Tiểu đoàn trong khi
hai cánh quân này cùng song song tiến theo trục lộ: Chiến đoàn 15
ở hướng tây và Trung đoàn 33 (-) ở hướng đông? Do đó, trước tiên
là thiếu sự chỉ huy phối hợp, thiếu đồng nhất --cánh mạnh,
cánh yếu. Thứ đến, kế hoạch hành quân không được phối hợp
chặt chẽ, thiếu yểm trợ hữu hiệu, và có thể thiếu cả sự
tương trợ khi cần đến nhau. Tóm lại những quyết định tại chỗ
của một cấp chỉ huy thống nhất rất cần thiết cho một cuộc
hành quân phối hợp có nhiều đơn vị khác nhau.... Dựa vào
“logic” mà nói thì nhận định trên không sai, nhưng hình ở trận
lần thứ hai đổ quân vào Tân Khai này tình thế trận địa có vẻ
phù hợp với tổ chức các cánh hành quân như Tướng Minh hay
Tướng Nghi đã làm. Vì cánh quân sườn tây trục lộ tiến lên An
Lộc của Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chạm địch dữ dội, mạnh nhiều
lần hơn so với cánh quân của Trung tá Nguyễn Viết Cần ở sườn
đông trục lộ.
Đêm 18/5 địch bắt đầu pháo kích vào căn cứ Long Phi. Rốt cục,
Trung tá Hồ Ngọc Cẩn quyết định để thêm Tiểu đoàn 1/15 ở lại
phối hợp với Tiểu đoàn có sẵn của Trung đoàn 33, thay nhau bung
ra để hạn chế bớt việc địch pháo bắn súng cối vào căn cứ
hỏa lực quan trọng này.
Cánh quân của Chiến đoàn 15 từ lúc xuất phát đã bị địch đánh
nhiều trận lớn, nhất là bị địch bám sát bắn súng cối liên
tục trong các ngày 19, 20 và 21/5, như trước đây chúng đã dùng
để đối phó với quân Nhảy Dù trong vùng này. Trận chạm súng
mạnh nhất diễn ra ở ấp Đức Vinh. Đây là vùng trận địa của
Trung đoàn 141/SĐ-7/CSBV. Mặc dù vậy, đến sáng ngày 22/5 cánh
quân này đã tiến đến một địa điểm khoảng 1km hướng nam xã Thanh
Bình. Xã này nằm bên ngoải vòng đai phòng thủ hướng tây nam chỉ
cách thị xã tỉnh ly An Lộc chừng 2km. Như vậy là rất gần An
Lộc, nhưng bị Trung đoàn 141 chận đánh dữ không tiến lên được.
Các Tiểu đoàn 2/15, 3/15, Đại đội 15 Trinh Sát và Bộ Chỉ huy
Chiến đoàn bị pháo dữ dội, bị xung kích bằng bộ binh có
chiến xa phối hợp, nhưng đã đẩy lui mọi cuộc tấn kích đó. Tuy
vậy, tiến không được, thối cũng không xong. Chiến đoàn đã bị
bao vây kể từ ngày 23/5. Chiến sĩ chết phải chôn tại chỗ,
chiến sĩ bị thương không tản thương được. Trong mấy ngày liền
phải được tiếp tế thực phẩm và đạn dược bằng thả dù. Trực
thăng cũng không đáp được. Hàng ngày chỉ có vài chục phi xuất
không yểm, oanh kích và thả bom là có kết quả. Thiết đoàn 9
tiến trên trục QL-13, từ Tân Khai lên Đức Vinh, theo sau Chiến
đoàn, không bị tấn công. Chiều ngày 23/5 Trung tá Cẩn quyết
định mở đường máu bằng Thiết quân vận của Thiết đoàn này tản
thương cả trăm thương binh về Tân Khai. Thành công. Nhưng ngày hôm
sau, 24/5 khi trở lên nơi đóng quân của Chiến đoàn, qua khỏi ấp
Đức Vinh, Thiết đoàn bị một đơn vị cấp Tiểu đoàn và một đơn
vị chống tăng của TRĐ141 phục kích, tổn thất nặng, hàng chục
chiến sĩ hy sinh hàng chục mất tích, gần 80 bị thương, 22 Thiết
quân vận M-113 bị B-40, B-41 và hoả tiễn AT-3 Sagger bắn hạ.
Chiến đoàn 15 phải đưa một đơn vị bộ yểm trợ và phối hợp với
Thiết đoàn 9 Kỵ binh mở đường trở về căn cứ Long Phi, ở Tân
Khai. Sau đó, đại bộ phận chiến sĩ bộ binh của Chiến đoàn trụ
lại địa điểm đóng quân bên ngoài xã Thanh Bình, tổ chức lại
đơn vị. Toàn bộ chỉ còn gần 350 chiến sĩ chiến đấu được.
Ngày 25/5 Chiến đoàn này lại đánh thốc lên An Lộc, nhưng không
tiến lên nổi. Không yểm VNCH và KLHK đã trở nên tối cần hơn bao
giờ.... Đã có hàng trăm phi xuất ngày đó và mấy ngày tiếp
theo.
Cánh quân thứ hai, Trung đoàn 33 (-) của Trung tá Nguyễn Viết
Cần lúc đó bắt tay với Trung đoàn 31/SĐ21BB (không nhớ tên Trung
đoàn trưởng) --trước đã được đưa vào tăng cường cho Tiểu đoàn 1
Nhảy Dù trong vùng ấp Đức Vinh-- khi quân Dù rút quân, vẫn bám
trụ trong vùng này. Ngày hôm sau, Trung đoàn 33 tiến lên hướng
bắc, Trung đoàn 31 vẫn tiếp tục được lệnh hoạt động trong địa
bàn cũ vùng phía đông Đức Vinh. Trung đoàn 33 vừa qua khỏi đông
bắc ấp Đức Vinh bị Trung đoàn 165/SĐ-7/CSBV chận đánh. Nỗ lực
đánh thốc lên phía bắc của cánh quân này ngày 31/5/1972, cũng
không thành công. Tổn thất của địch lớn bởi hỏa lực không yểm
của KQVN và KLHK nhất là là trực thăng võ trang Cobra HK rất
nhanh với các dàn đại liên bắn chính xác. Cánh quân này của
Trung tá Nguyễn Viết Cần tránh không khỏi tổn thất, nhất là
bị pháo kích, nhiều nhất vẫn là các loại súng cối 61 ly, 82
ly và loại hỏa tiễn 122 ly. Chiến sĩ bị thương đã lên đến hơn
200. Không ghi nhận rõ bao nhiêu chiến sĩ hy sinh và mất tích.
Trong bốn năm ngày kế tiếp cả hai cánh quân của hai ông Cẩn và
Cần còn tiếp tục chịu nhiều trận tấn công xung kích bộ và
chiến xa của hai Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV. Số binh sĩ
thương vong của hai cánh quân bạn càng nhiều hơn, nhưng vẫn không
thể tản thương được vì trực thăng không thể đáp xuống các vị
trí đóng quân dã ngoại của các cánh quân này. Màn lưới phòng
không của chúng dày đặc, nguy hiểm nhất là loại hoả tiễn SA-7.
Trực thăng không thể đáp được. Chỉ có thể nhờ vào không yểm
mà thôi, kể cả những boxes B-52….
Vào những giờ phút khó khăn, gay cấn nhất của hai cánh quân
“Giải tỏa An Lộc” nói trên thì đơn vị cứu tinh tái xuất hiện ở
chiến trường nam An Lộc này. Đó là Tiểu đoàn 6 Lữ đoàn 1 Nhảy
Dù, do Trung tá Nguyễn văn Đỉnh chỉ huy.
Nhớ lại, Trung tá Nguyễn văn Đỉnh trong tháng 4/1972, đã chỉ huy
Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đổ quân vào tăng cường An Lộc, chiếm hai cao
điểm đông nam An Lộc, Đồi Gió và Đồi 169. Khi đang đóng quân tại
Srok Ton Cui gần đó thì đêm 20/4 rạng ngày 21/4 cả ba địa điểm
này bị hai Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV và Trung đoàn 209
của SĐ-5/CS tràn ngập, ông phải chỉ huy hai Đại đội đánh mở
đường máu rút xuống ven Sông Bé và được trực thăng đón về Lai
Khê với hơn một trăm chiến sĩ Dù. Ngày đó địch đã tấn công đơn
vị của ông với lực lượng 6/1 (2,400/400). Phải đánh mở đường
máu mà thôi. Sau hơn một tháng, Tiểu đoàn của ông được bổ sung
với quân số thặng dư của Sư đoàn Nhảy Dù gồm các chiến sĩ Dù
của tất cả các đơn vị Dù khác bị thương trong nhiều trận đánh,
hồi phục sau thời gian trị bịnh --trong đó có nhiều sĩ quan
các cấp dày dạn chiến trường-- và một số tân binh tình
nguyện, thường là những thanh niên can đảm, nên khi tái thành
lập, Tiểu đoàn đã có khả năng tác chiến như các đơn vị Dù
khác. Trở lại chiến trường An Lộc để tái sát nhập với Lữ
đoàn 1 Nhảy Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng. Tướng Minh giao trách
nhiệm cho Trung tá Đỉnh đánh giải vây cho hai cánh quân của hai
ông Cẩn và Cần, trước khi Tiểu đoàn Dù này vào An Lộc. Nên khi
vào trận địa, Trung tá Đỉnh còn dẫn theo đơn vị của mình 300
quân bộ binh bổ sung cho Chiến đoàn 15 của Trung tá Hồ Ngọc
Cẩn.
Ngày 4 tháng 6, 1972 TĐ6ND được trực thăng vận đổ quân ở một
bãi đáp cách căn cứ pháo yểm Long Phi ở Tân Khai chừng 2km,
hướng đông bắc. Tiểu đoàn cặp theo hướng đông QL-13 tiến lên hướng
bắc, qua khỏi ấp Đức Vinh, bất thình lình đánh thúc vào ngang
hông của Trung đoàn 165/SĐ-7/CSBV lúc đó đang đối đầu với Trung
đoàn 33 của Trung tá Nguyễn Viết Cần. Đơn vị địch tổn thất
nặng phải bỏ trận địa rút lên hướng bắc vùng Đồi Gió và Đồi
169. Áp lực địch không còn, các đơn vị của Trung tá Cần có
thể dọn bãi đáp cho trực thăng tản thương hơn hai trăm thương binh
ra khỏi trận địa và đơn vị tiếp tục vượt qua Đồn điền cao su
Xa Trạch vào ấp Đồng Phất 1, chừng 4km nam An Lộc. Ngày 6/6, đơn
vị Dù của Trung tá Đỉnh tiếp tục tiến qua hướng tây trục lộ,
một lần nữa đánh ngang hông Trung đoàn 141/SĐ-7/CSBV, giải vây,
bắt tay với Chiến đoàn 15 và giao 300 quân bổ sung cho Trung tá
Cẩn. Đơn vị của ông Cẩn cũng ngay sau đó cũng dọn bãi đáp cho
trực thăng tản thương gần 150 thương binh (Bản đồ # 8). TĐ6ND là
cứu tinh của hai cánh quân miền Tây này ở mặt trận nam An Lộc.
Đơn vị của Trung tá Cẩn đã khoẻ hơn…. Người anh hùng, Trung tá
Nguyễn văn Đỉnh, Tiểu đoàn trưởng TĐ6ND, đã lập kỳ tích lớn lao
đánh những trận quyết định làm cho hai Trung đoàn 141 và 165
của SĐ-7/CSBV bị thiệt hại thật nặng --gần như tan rã-- báo
được mối hận tháng trước bị hai đơn vị cộng sản này đánh xé
đôi đơn vị của mình ở vùng Srok Ton Cui và Đồi Gió.
Ngày 8/6, hai đơn vị của hai ông Trung tá Dù và bộ binh này
thành hai mũi nhọn song song cùng tiến lên An Lộc. Trong buổi
sáng đó, khi TĐ6ND tiến đến phía đông xã Thanh Bình, lại lần
nữa chạm súng dữ dội với một đơn vị của Trung đoàn 141, địch
tháo chạy, bỏ lại trận địa trên 70 xác chết và hơn 30 súng
cộng đồng và cá nhân. TĐ6ND tổn thất 11 chiến sĩ hy sinh và hơn
50 bị thương. Sau đó Tiểu đoàn này của Trung tá Đỉnh tiế́p tục
tiến qua đồn điền Xa Cam và bắt tay với TĐ8ND của Trung tá Văn
Bá Ninh. Trung đoàn 15 tiến theo sau và đóng quân bên ngoài An
Lộc với thiệt hại trên 150 chiến sĩ hy sinh, gần 600 bị thương
và trên 30 mất tích, nhưng cũng đã hạ tại trận trên 300 cán
binh, thu hơn hàng trăm vũ khí cộng đồng và cá nhân, và bắn
cháy 2 chiến xa của quân CSBV từ khi đổ quân vào Tân Khai và
tiến lên An Lộc.
Trung đoàn 33 cũng đã tiến qua khỏi ấp Đồng Phất 1 và chạm
khá nặng với một đơn vị địch quãng giữa đường khi tiến lên ấp
Đồng Phất 2. Tiếc thay, khi đã đẩy lui được mọi cuộc tấn công
của địch quân và vào đóng quân tại ấp này, đến ngày 29/6/72
Trung tá Trung đoàn trưởng Nguyễn Viết Cần hy sinh trong một đợt
pháo kích của địch quân. Ông được truy thăng Đại tá. Nếu ở
miền Đông gia đình “Đỗ Cao...” có hai người con hy sinh cho QLVNCH
là Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh QĐIII & V3CT và em ruột là Thiếu
tá Đỗ Cao Luận thì ở miền Tây gia đình “Nguyễn Viết...” cũng
có hai sĩ quan một cấp Tướng và một cấp Tá hy sinh trên chiến
trường làm rạng rỡ dòng tộc là Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư
lệnh QĐIV& V4CT và em ruột là Đại tá Nguyễn Viết Cần. Còn bao
nhiêu gia đình nữa có hai hoặc ba người con hy sinh ở chiến địa
cho miền Nam tự do?.. Thương cảm biết bao!
Từ ngày 8/6 khi sĩ quan chỉ huy và chiến sĩ hai cánh quân TĐ6ND
và Trung đoàn 15 tay bắt mặt mừng với các chiến sĩ phòng thủ
An Lộc thì cục diện chiến trường này đã hoàn toàn thay đổi.
Trong thành phố An Lộc, Tướng Lê văn Hưng ra lệnh cho các cánh
quân phòng thủ phản công đánh chiếm lại các khu vực ở các
tuyến đã bị quân CSBV chiếm trong các trận đánh trước.
Tuyến hướng Tây, Trung đoàn 7/SĐ5BB chiếm lại khu vực trại giam
tỉnh ra cổng Phú Lố và trọn con đường dài Hoàng Hoa Thám bọc
quanh phía tây thị xã. Tuyến phía bắc Liên đoàn 81/BCND tái
chiếm lại toàn bộ khu vực thương mại bắc thành phố và Sân bay
Đồng Long, Tuyến phía đông Chiến đoàn 3/BĐQ chiếm trọn lại
tuyến cũ trên Đại Lộ Nguyễn Du, bung ra xa khỏi đường rầy xe
lửa đến cổng Quản Lợi. Đến quá trưa ngày 12/6 tàn quân của
các đơn vị địch không kịp rút chạy hay bỏ trốn đều bị hạ.
Tuyến phía nam thị xã, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vẫn giữ chặt chẽ
từ lâu, sân bay trực thăng tạm ở đầu xa lộ bắt đầu hoạt đông
lại từ đầu tháng 6, khi các cánh quân từ Tân Khai tiến lên đang
đánh nhau với các đơn vị địch (Bản đồ # 7). Từ khi hai cánh
quân của TĐ6ND và Trung đoàn 15/SĐ9BB vào đến vòng đai An Lộc và
bắt tay với TĐ8ND, thì đã có rất nhiều loại trực thăng chở
quân đến, tải thương đi, khá đều đặn, tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn
còn những quả pháo từ xa rót vào. Điều đáng nêu lên là trong
ngày 13/6 Trung tướng Nguyễn văn Minh ra lệnh cho SĐ18BB đưa trước
Trung đoàn 48 trực thuộc vào An Lộc và đánh chiếm lại hai cao
điểm đông nam thị xã là Đồi Gió và Đồi 169 và trấn đóng trong
khu vực này.
KỲ 11
Đến hết ngày này coi như thành
phố An Lộc, tỉnh lỵ của Tỉnh Bình Long hoàn toàn được giải
tỏa, Sài Gòn và Washington không còn bận tâm lo lắng nhiều nữa.
Hà Nội đã vuột mất thành phố này, không như chúng từng tuyên
bố. Kế hoạch về quân sự và chính trị của CSVN đã hoàn toàn
thất bại.
Ngày kế tiếp, 14/6/1972, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, gởi công
điện khen ngợi các Tướng Tư lệnh QĐIII & V3CT, Tướng Tư lệnh
SĐ5BB, Tướng Tư lệnh SĐ21BB và toàn thể các đơn vị trưởng và
chiến sĩ các cấp của tất cả các đơn vị phòng thủ và khai
thông QL-13.
Trên thực tế, con đường bộ từ Chơn Thành lên đến Tân Khai đã
không thể nối liền được. Trung đoàn 32/SĐ21BB bị thiệt hại nặng
ở khu vực chốt chặn suối Tàu-Ô, phải đưa về SĐ25BB để bổ sung
và Sư đoàn này đưa Trung đoàn 46 trực thuộc vào thay thế để
tiếp tục “bứng” chốt ở đó. Ở đoạn trên, các Trung đoàn 141 và
165 của SĐ-7/CSBV sau mấy trận đánh với Chiến đoàn 15, Trung
đoàn 33 và TĐ6ND trong tuần lễ trước, tuy bị tổn thất nặng nề
về vũ khí và nhân mạng, nhưng ngày 17/6 đã tập trung trong vùng
ngoại vi Tân Khai, tổ chức thành cả hàng chục địa điểm phòng
không và pháo với ý định dứt điểm căn cứ hóa lực Phi Long của
Chiến đoàn 15 ở Tân Khai. Tướng Nghi, Tư lệnh SĐ21BB phải điều
động Trung đoàn 31 từ ngoại vi ấp Đức Vinh quay về, phối hợp
với hai Tiểu đoàn bộ binh và Thiết đoàn 9 Kỵ binh (-) trong căn
cứ để bảo vệ căn cứ hỏa lực này. Ngày 18/6 Lữ đoàn 1 Nhảy Dù
của Đại tá Lê Quang Lưỡng được lệnh xuất phát ra khỏi SĐ5BB
rời chiến trường An Lộc, di chuyển hành quân xuống Tân Khai và
lập thêm thành tích đánh một trận lớn nữa, hạ gần 600 quân
của hai Trung đoàn nói trên của SĐ-7/CSBV --bỏ xác tại trận--
và tịch thu trên 70 súng đủ loại, trong đó cả nhiều loại đại
liên phòng không. Đó là trận đánh lớn cuối cùng của mặt trận
Binh Long mà Lữ đoàn cứu tinh này đã thực hiện. Sau đó tất cả
các đơn vị Dù của Đại tá LQL được trực thăng vận về Chơn
Thành và trở về Sài Gòn bổ sung rồi tăng viện cho QĐI & V1CT.
Tàn quân của các Trung đoàn CSBV rút về tăng cường chốt chặn
Tàu-Ô. Coi như SĐ-7/CSBV đã mất ba phần tư nhân lực và phân nửa
vũ khí ở chiến trường nam An Lộc và trên QL-13 mặc dù chúng
vẫn giữ chặt được chốt chặn Tàu-Ô này trong khi các tướng chỉ
huy của chúng ở TWC/MN đã để thua một cuộc chiến lớn nhất
trong thời điểm đó.
Chiến thắng ở Bình Long là điều khẳng định của các tướng
lãnh, các cấp chỉ huy đơn vị và chiến sĩ phòng thủ và tiếp
ứng An Lộc. Nhưng trên hết vẫn do tinh thần “quyết tử” của
những người giữ thành từ ông tướng đến một chiến sĩ vô danh
như một nghĩa quân, một địa phương quân, một cảnh sát, hay ngay
cả một cư dân, một cậu bé nhỏ tên Đoàn văn Bình từng xin Đại
tá Trần văn Nhật súng để “bắn xe tăng” địch, hoặc giả như một
cô thơ ký hành chánh tỉnh chạy giặc ẩn trú trong khu vực của
LĐ81/BCND đã viết hai câu đối ca ngợi chiến sĩ của đơn vị thiện
chiến này “An Lộc địa sử ghi chiến tích. Biệt Kích Dù vị
quốc vong thân.” Như vậy cô thư ký này cũng đã tham dự vào chiến
công giữ vững An Lộc. Các tỉnh thành miền Đông, miền Tây, ngay
cả Sài Gòn bừng bừng tin chiến thắng, đến chị em bán hàng trong
Chợ Bến Thành và các chợ búa khác ở Sài Gòn cũng biết “Tướng
Hưng tử thủ và chiến thắng An Lộc”. Hình như ít ai biết “giữ
được An Lộc, đánh được Tướng Trần văn Trà là công lớn của vị
Tướng cầm quân hữu tài, túc trí, Nguyễn văn Minh, Tư lệnh QĐIII
& V3CT”. Và chính vì tiếng vọng xa của Hưng đã làm... hại ông
cộng thêm một sự kiện khác diễn ra vào những ngày chót chiến
thắng đã làm cho binh nghiệp của ông không còn hanh thông như
trước nữa. Tôi sẽ nói... nhưng nên nói sao cho phải lẽ trước,
sau.
Trước tiên là mấy ông tướng cầm quân TWC/MN tức ấm ức, nhất là
Tướng Trần văn Trà nổi danh, vì biết sẽ thua ở An Lộc, nhưng
vì Chiến dịch mùa Hè năm 1972 đó của Bộ Chính Trị Đảng và
Quân Ủy Trung Ương quyết nghị và chỉ đạo chưa ngã ngũ ở Vùng 1
và Vùng 2 Chiến Thuật, nên, cũng giống như các võ sĩ thượng
đài có tiếng, chẳng lẽ... mới bị đấm một vài “cú” vào mặt
ngã ngửa mà không cọ quạy tay chân thì người ta tưởng là chết
gục rồi, nên mấy ảnh đành gượng dậy --từ cuối tháng 5/1972 và
tiếp theo từ trung tuần tháng 6/1972-- đánh qua Phước Long, đấm
qua Xuyên Mộc, Đất Đỏ tỉnh Phước Tuy, đấm xuống Đức Huê, tỉnh
Hậu Nghĩa và còn đánh càn xuống Cái Bè, Cai Lậy tỉnh Định
Tường, Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường của Vùng 4 CT. Ở mấy nơi thuộc
lãnh thổ Vùng 3 Chiến Thuật thì Tướng Minh biết rồi và đã có
lực lượng trừ bị đánh trả. Còn sở dĩ Tướng Trà cho đánh lan
xuống Vùng 4 là vì, tuy trong chiến dịch này ông ta là Tư lệnh
Tiền phương của BTL/TWC/MN, nhưng trước đó là Tư lệnh Mặt Trận
B-2, mà theo tổ chức của CSBV, gồm cả lãnh thổ V3CT và V4CT
của QLVNCH, nên lập kế hoạch đánh khắp... nơi cho mặt trận nó
rộng lớn. Đánh thì đánh nhưng ở đâu thì mùa Hè năm đó ông
Trần văn Trà cũng thua thôi. Lý do là vì TWC/MN chỉ có mấy đơn
vị bộ chiến chủ lực, Sư đoàn 5, 7, 9 và Sư đoàn mới thành lập
C30B, còn một số đơn vị địa phương cấp Trung đoàn hay Tiểu đoàn.
Các đơn vị địa phương CS không ai coi ra gì, chủ lực thì, nói
riêng trong mùa Hè đó, chỉ có SĐ-7/CSBV và Sư đoàn 69 Pháo là
các lò nướng rụt rịt qua lại khá lâu tại chiến trường Binh
Long-An Lộc chịu... đốt, còn các đại đơn vị khác thì như những
chiếc lò nướng lớn, di chuyển loanh quanh đông tây nam bắc, mà
bao nhiêu lớp người “sinh Bắc, tử Nam” đưa từ ngoài ấy vào đều
chung vào các lò... đó để nướng, hết lớp này đến lớp khác....
Chết thì châm... thêm. Càng châm thì càng chết. Vậy mới đúng
nghĩa với câu “dĩ ngôn” rất ư là... thản nhiên của các “lãnh
tụ” Đảng CSVN khuyến dụ nhân dân miền Bắc... ái quốc, “chống
Mỹ cứu nước” và “giải phóng nhân dân miền Nam” v.v. và v.v.
Kế tiếp là phải nói đến chiến thắng của quân dân ở An Lộc
chẳng những tạo niềm tin lớn lao trong mọi tầng lớp trong quần
chúng các tỉnh miền Nam mà còn vang xa đến tận nhiều nơi trên
thế giới, những chiến lược gia lỗi lạc như Tướng Moshi Dayan
của Do Thái, đã đến Nam Việt Nam --như nói ở trên-- để tìm hiểu
bằng cách nào mà quân phòng thủ miền Nam trong một thành nhỏ
này lại có thể chiến thắng được đạo quân thiện chiến của Võ
Nguyên Giáp ở Điện Biên Phủ… nhất là Sir Robert Thompson, nhà
chiến lược nổi tiếng của Anh Quốc --lúc đó đang là cố vấn
đặc biệt cho TT Nixon-- cũng được Tướng Hollingsworth hướng dẫn
vào thị xã An Lộc trong ngày 15/6/1972 và được Tướng Hưng đưa đi
quan sát sự đổ nát gẩn như hoàn toàn của thành phố và một số
xác của các chiến xa CSBV ở khắp các tuyến phòng thủ... đã vô
cùng ngạc nhiên về sức chiến đấu, lòng can đảm và sự chịu
đựng của chiến sĩ phòng thủ An Lộc. Ông cho rằng chiến công của
chiến sĩ An Lộc trong trận chiến này lớn lao hơn ĐBP rất nhiều
và tỏ ra khâm phục các tướng, tá, các cấp chỉ huy và chiến
sĩ phòng thủ. Hình như chưa cỏ một nơi nào mà sĩ quan và binh
sĩ ôm vũ khi rượt bắn xe tăng và hạ hầu hết bất cứ chiến xa
nào đã vào thành phố.... Tiếng vang chiến thắng An Lộc cũng
đến thủ đô các nước Nam Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân. Nên
BTTM/QLVNCH định thành lập một phái đoàn gồm các chiến sĩ anh
hùng ở mặt trận này thăm viếng và thuyết trình “Trận An Lộc”
ở Đài Bắc và Hán Thành. Đây là việc làm tốt để biểu dương
thành tích của QLVNCH.
Ngày hôm sau, 16/6 Trung tướng Nguyễn văn Minh mới vào thị sát
và ủy lạo chiến sĩ phòng thủ An Lộc. Ông được hoan nghinh lắm
và rất... lắm lắm bởi chiến sĩ Trung đoàn 8, nhất là của Đại
tá Trung đoàn trưởng Mạch văn Trường. Đêm đó ai nghe Đài Phát
thanh QĐ sẽ được nghe ông MVT nói là hằng ngày vị Tướng Tư lệnh
này đều bay trên nền trời An Lộc để trực tiếp chỉ huy, khích
lệ và khen ngợi, nâng cao tinh thần chiến đấu... của chiến sĩ
và còn cho thả dù... thịt heo quay và bánh hỏi cho chiến sĩ
phòng thủ....
Ngày 18/6/1972, Trung tướng
Nguyễn văn Minh tuyên bố An Lộc đã được hoàn toàn giải tỏa.
Nhưng cũng ngay đêm đó, Tướng Hưng lại mang thêm mối họa khác,
và lần này lớn hơn mọi lần khác: Trung tướng Minh gởi công điện
lệnh cho Tướng Hưng đưa ngay Đại tá Mạch văn Trường về trình
diện BTL/HQ/QĐIII & V3CT để chuẩn bị... mọi thứ --nhất là các
tài liệu cho các buối thuyết trình lớn-- về trận chiến An
Lộc. Đại tá MVT được QĐIII & V3CT chỉ định và đề nghị lên
BTTM/QLVNCH làm Trưởng phái đoàn “nhữnh anh hùng An Lộc”, sẽ
mang chuông sang đấm xứ người. Hình như không cần suy nghĩ Tướng
Hưng... từ chối. Ngày hôm sau chính đích thân Trung tướng Minh
gọi điện thoại cho Tướng Hưng. Ông này xin Tướng Minh nên đề cử
người khác vì Đại tá MVT... không xứng đáng. Đây là lần đầu
tiên Tướng Hưng cãi lệnh Tướng Minh. Trong mấy ngày liền cả
Thiếu tướng Đào Duy Ân, Tư lệnh phó và Đại tá Phan Huy Lương,
Tham mưu trưởng HQ/QĐIII & V3CT đều gọi điến thoại cho Tướng Hưng
yêu cầu nên nghe lời Trung tướng... nhưng Tướng Hưng đều từ chối.
Đêm sau, Tướng Ân cũng gọi điện thoại cho tôi, vì ông mến tôi khi
tôi làm việc ở Phòng 2/BTL/QĐIII & V3CT và biết tôi thân với ông
Hưng, bảo tôi nên khuyên ông Hưng nên tuân theo lệnh của Trung
tướng... Tư lệnh đi. Tôi vào gặp Hưng lập lại lời của Tướng
Đào Duy Ân. Ông Hưng chỉ cười nói: -“Không, không được! Tại sao
Trung tướng không chỉ định Đại tá Vỹ, Đại tá Lưỡng, hay Đại
tá Nhật. Chỉ định Đại tá Nhật là phải nhất, địa phương này
của ông ta....” Chỉ một câu này thôi, ông Hưng quay sang hỏi tôi
chuyện khác... “Dưỡng, nghĩ xem tụi nó còn quân không?’’ Tôi nói
–“Không, tụi nó chỉ còn pháo!”
Mà quả thật, sau khi các đơn vị phòng thủ phản công tái chiếm
lại hoàn toàn các khu vực bị chúng chiếm và Liên đoàn 81/BCND
cắm ngọn quốc kỳ lên ngọn đồi thấp ở sân bay Đồng Long trưa
ngày 12/6 đã không còn trận chạm súng nào nữa, các đơn vị bộ
chiến của TWC/MN đã rút ra khỏi mặt trận An Lộc sau khi bị
thiệt hại rất nặng... gấp hai hoặc ba lần so với các đơn vị
phòng thủ. Theo ước tính của riêng tôi, số quân tổn thất chúng
ở các vòng đai phòng thủ An Lộc nhất là vùng ngoại vi tiếp
cận thành phố có thể lên đến 8,000 người đa số chết bởi KQVH
và KLHK trong hàng nghìn phi vụ không yểm: oanh kích, thả bom,
kể cả B-52 của KQ Chiến lược HK. Đó là chưa kể số thương binh
có thể lên đến gấp đôi hay gấp ba lần số quân chết tại trận.
Tổn thất của tất cả các cánh quân của chúng trong chiến dịch
mùa Hè năm đó có thể lên đến hơn 20,000, hằng trăm chiến xa,
hàng trăm đại pháo và hàng vài nghìn vũ khí cộng đồng và cá
nhân khác trong chiến trận Tỉnh Bình Long.
Lữ đoàn 1 Nhảy Dù rời An Lộc trong hai ngày 16/6 và 17/6 xuống
Tân Khai đánh thắng trận cuối cùng ở đó, rồi về Sài Gòn. Ngày
24/6 Liên đoàn 81/BCND cũng trả về cho BTTM/QLVNCH. Các tuyến
phòng thủ giao lại cho SĐ5BB và các đơn vị ĐPQ của Tiểu Khu, đã
mỏng ra. Nhưng địch đâu còn quân mà đánh nhau nữa. Các đại đơn
vị của chúng, bị thiệt hại nặng, rút sang đất Miên bổ sung,
rồi mở các mặt trận khác như nói ở trên. Nhưng... pháo vẫn
còn bắn vào thành phố nhiều ngày nữa. Đó là các loại pháo
kéo trên các xe, thường xuyên di chuyển sau mỗi đợt bắn, nên khó
diệt. Mỗi ngày ít ra thì cũng còn vài chục quả, muốn rớt
vào đâu cũng mặc, cũng có người chết. Ai mà... chết vào những
giờ phút trận chiến đã chỉ còn là nhúm lửa âm ỉ sắp tàn lụi
này thì... thật là tận số. Nên ông nào... đã lạnh cẳng sẵn
rồi, lúc này lại còn... ớn lạnh hơn lúc trước nữa. Ra sớm
khỏi An Lộc mà... làm anh hùng sớm, hạng bậc nhất “đình
huỳnh”, thì ai mà chẳng muốn ra.... Người giỏi tính như ông MVT
sau khi được ăn “thịt quay bánh hỏi” dỏm xong thì tính chuyện
rút ra sớm thiệt thì quả thật là... giỏi. Còn người chân
chính như Tướng Hưng, không chịu nổi chuyện dỏm chuyện thật mập
mờ bất phân, không biết đáp ứng... chỉ thị của thượng cấp
là... bất tuân thượng lệnh. Mà chuyện cãi lệnh này có nhiều
người biết nên ông Tư lệnh càng giận hơn, giận dữ.... Thôi thì
không thưởng được lúc này thì thưởng lúc khác. Thôi thì chưa
làm gì được nhau lần đó thì để lần khác hạ vậy. Chưa vội.
Rồi cũng đến mà. Lật bật mấy tuần qua mau.
Ngày 7/7/1972, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, một vài Bộ trưởng,
Đại tướng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH và Trung tướng
Nguyễn văn Minh Tư lệnh QĐIII & V3CT vào An Lộc ủy lạo và thăng
thưởng chiến sĩ phòng thủ. Tướng Hưng đã… ra lệnh cho các đơn
vị quanh vòng đai phòng thủ bung ra xa hơn vì sợ bích kích pháo
địch bắn gần hơn là đại pháo bắn từ xa. Tổng thống và phái
đoàn đến bằng trực thăng và đáp ở bãi tạm nam xa lộ, được
Tướng Lê văn Hưng và Đại tá Trần văn Nhật đón rước và mời vào
cái villa phía trên hầm BTL/HQ/SĐ5BB --cái villa và chiếc hầm
chưa hề trúng một quả đạn đại pháo nào trong hơn 70,000 quả
đạn đại pháo CSBV dội vào thành phố từ đúng ba tháng vừa qua.
Bên trong villa đã chuẩn bị sẵn các bản đồ chờ TT hỏi để trình
nhưng TT đến không hỏi mà để tuyên dương công trạng cho chiến sĩ
“Bình Long Anh Dũng”, tuyên bố chiến thắng An Lộc là chiến
thắng vang dội thế giới: “Bình Long là một tiêu biểu của quốc
gia và là một tiêu biểu quốc tế”, đại khái Tonton nói như vậy
và tuyên bố thêm là sẽ thăng cho mỗi chiến
[sĩ] An Lộc một cấp
bậc cao hơn.... Lúc đó các vị sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, BCND và
BĐQ tăng phái đã rời An Lộc rồi nên các vị đó và sĩ quan
chiến sĩ thuộc cấp sau đó đều được thăng cấp (Đại tá Lê Quang
Lưỡng thăng Chuẩn tướng và được bổ nhậm làm Tư lệnh Sư đoàn
Nhảy Dù). Vậy nên Tonton Thiệu gắn lon mới tượng trưng cho một
số sĩ quan của SĐ5BB và Tiểu Khu Bình Long. Chỉ thưởng một ít
huy chương cho mấy vị thôi.
Tướng Hưng đứng đầu hàng được TT đọc lệnh thăng cấp Chuẩn
tướng thực thụ và được gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. Đại tá Trần văn
Nhật thăng Đại tá thực thụ và được gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc
Huân Chương kèm ADBT với Nhành Dương Liễu. Đại tá Mạch văn
Trường thăng cấp Đại tá thực thụ, vừa đọc quyết định xong...
TT Thiệu định bước sang gắn cấp bậc mới cho Trung tá Lý Đức
Quân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 7 đứng kế tiếp... bỗng thấy
Trung tướng Minh bước tới… vừa thưa trình vừa dúi vào tay TT
một cái huy chương vàng nhạt lẫn màu xanh đọt chuối, có vòng
vải quốc kỳ (để đeo vào cổ) tức là Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân
Chương và một cuống huy chương khác là Anh Dũng Bội Tinh với
Nhành Dương Liễu... “Xin TT gắn cho Đại tá Trường Đệ Tam Đẳng
Bảo Quốc Huân Chương và...” TT Thiệu ngắt lời: -“Ông Trường có
Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương chưa?” Trả lời: -“Dạ có... Tôi
đã đề nghị rồi... Sắp được!” TT Thiệu ngần ngừ… nhưng bước
tới tròng chiếc huy chương cao quí đó vào cổ cho MVT, rồi gắn
thêm cái ADBT với Nhành Dương Liễu lên ngực ông này. Đẹp quá!
Đẹp hết chỗ nào chê.… Sau đó TT gắn lon Đại tá cho Trung tá Lý
Đức Quân và Trung tá Trịnh Đình Đăng, Trưởng phòng 3 Sư đoàn.
Kế tiếp gắn cấp bậc Trung tá cho tôi và Thiếu tá Huỳnh văn
Tâm, Trung đoàn phó Trung đoàn 8 -người thực sự chỉ huy Trung
đoàn này suốt trận An Lộc. Thêm vài SQ, HSQ và BS nữa được mang
cấp bậc mới.
Sau buổi lễ, TT và đoàn tùy tùng được Tướng Hưng và các ông
Đại tá hướng dẫn đi thăm viếng các nơi khác trong thành phố An
Lộc. TT Thiệu và phái đoàn viếng An Lộc chừng hơn 2 tiếng đồng
hồ mới ra về. Không nghe tiếng pháo nào nổ quanh đâu đó như mọi
ngày trước. Âu là Tonton có chân mạng... đế vương đó thôi. Sướng
cũng nhiều mà khổ cũng lắm. Nên sau này sang lưu vong ở Hoa Kỳ
không nói hay viết hồi ký về bất cứ điều gì. Im lặng là
vàng.
Trong lần thăng thưởng đó đã... thấy rõ sự bất công: Đại tá
hiện dịch thực thụ Lê Nguyên Vỹ không thấy hiện diện trong lễ
tưởng thưởng này, không thấy thăng chuẩn tướng, không biết sau đó
có được tặng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc huân Chương hay không? Mãi
đến gần hai năm sau khi Trung tướng Phạm Quốc Thuần về làm Tư
lệnh QĐIII & V3CT, Đại tá LNV mới được đề bạt làm Tư lệnh SĐ5BB
thay thế Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch. Một vị nữa, người có
công trạng nhiều nhất ở An Lộc là Đại tá thực thụ Bùi Đức
Điềm, như tôi đã nói, bị bỏ quên như một gốc cổ thụ già ở đâu
đó trong các khu rừng Bình Long: không thăng cấp tướng, không một
chiếc huy chương... mãi cho đến khi mất miền Nam.
Một sự kiện buồn đáng nêu lên là chỉ mấy ngày sau khi TT Thiệu
rời An Lộc, ngày 9/7/1972, Tướng Richard J. Tallman, Tư lệnh phó
TRAC (Third Region Assistance Command –Bộ Tư lệnh Viện Trợ Vùng 3,
Hoa Kỳ) cùng mấy sĩ quan tham mưu và tùy viên của ông, bay trực
thăng vào thăm An Lộc, đáp xuống sân bay trực thăng Tiểu khu, bị
pháo, trái thứ nhất thoát, nhưng trái thứ hai trúng vào giữa
toán của ông đang chạy vào BCH/TK, ba sĩ quan của TRAC chết liền
tại chỗ, Tướng Tallman được tản thương về Bệnh viện 3 Dã Chiến
HK --3rd Field Hospital Sài Gòn-- mổ vết thương. Thương tích quá
nặng ca mổ không thành công, ông từ trần ngay khi mổ, ngày đó.
Trong chiến cuộc Bình Long, từ Lộc Ninh, đến An Lộc và vùng
chốt chặn Tàu Ô-Tân Khai, có nhiều sĩ quan cố vấn HK của các
đơn vị hy sinh hay mất tích. Tôi không biết rõ là bao nhiêu vị.
Chúng tôi, những chiến sĩ của An Lộc-Bình Long xin tri ân và
chia buồn cùng gia đình của các vị. Xin cám ơn tất cả các
chiến sĩ KLHK [Không Lực Hoa Kỳ] và các đơn vị khác đã cứu giúp
chúng tôi trong cuộc chiến này.
Ngày 11/7/1972, SĐ18BB do Đại tá Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn chỉ
huy, đổ quân bằng trực thăng vào An Lộc thay thế SĐ5BB rút toàn
bộ về căn cứ chính Lai Khê. SĐ25BB được lệnh đến Chơn Thành thay
thế cho SĐ21BB ngày 15/7/1972 để tiếp tục giải tỏa QL-13, bứng
các chốt chặn từ suối Tàu-Ô lên Tân Khai. Tính ra thì sự tổn
thất của SĐ21BB của Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi còn nặng hơn của
SĐ5BB nhưng công trạng rất lớn vì suốt ba tháng đã kềm chế
được SĐ-7/CSBV không để cho Sư đoàn này tiến lên An Lộc hợp lực
với các đại đơn vị CSBV dứt điểm thành phố đó. Chúng chắc
chắn bị thiệt hại nặng hơn, số cán binh của chúng bị hạ không
dưới 7,000 người. Sau khi về miền Tây, Tướng Nghi thăng thêm một
sao và được bổ nhậm Tư lệnh QĐIV & V4CT.
Tôi về Lai Khê với nỗi buồn ray rức. Tôi thăng cấp trung tá
nhiệm chức đặc cách mặt trận ngày 7/7/1972 sau hơn 5 năm mang
cấp bậc thiếu tá từ 19/6/1967 --ba năm nhiệm chức, hai năm thực
thụ-- đó là phần thưởng cuối cùng trong binh nghiệp của tôi.
Một năm sau mới được điểu chỉnh trung tá thực thụ. Nỗi buồn
không rõ nguồn cơn. Có thể vì tôi đã nhìn thấy lửa bỏng chiến
trường lần này mới thực sự là chiến tranh, chết chóc, máu
thịt đầm đìa bừa bãi ở trận địa và những nấm mồ tập thể
của người dân thường vô tội. Tôi đã nhìn thấy sự chịu đựng
của chiến sĩ với những hình ảnh hy sinh cao cả và cả... những
hình ảnh bẩn thỉu nhất trong quân ngũ.
Vâng, QLVNCH bất khuất, tôi thương yêu quân đội này như yêu chính
bản thân tôi, hơn tất cả mọi thứ khác trên đời. Và vì tình yêu
đó, sau này khi định cư tại Hoa Kỳ, tôi bỏ tất cả mọi thứ,
vào trường đi học hỏi lại, và mong mỏi làm cho được cái công
việc mà tôi gọi là “lật đất”, thực ra là tìm tòi tài liệu để
tìm hiểu sự thực, để binh vực cho màu cờ sắc áo của chúng
tôi; tôi đã thực hiện sở nguyện viết lại cuộc chiến đó bằng
Anh ngữ --một quyển sách chỉ vài trăm trang nhưng tạm gọi là
đầy đủ-- để trả lời những người đã bôi biếm chúng tôi (xin xem
mạng Google để đọc một vài Chương của quyển sách “The Tragedy of
the Vietnam War”, McFarland, 2008 Van Nguyen Duong và bài thơ “Lật
Đất” đính kèm). Nhưng, những “sự thực” thì một người muốn
“lật đất”, không thể giấu giếm mãi, đến ngày nay tôi phải nói
ra để mong đem lại sự phán đoán công bằng cho cố nhân.
Hình như Tướng Hưng cũng mang vẻ trầm tư hơn trong nét mặt của
ông sau khi từ chiến trường An Lộc trở về. Có lẽ ông đã thấm
thía hơn và suy nghĩ nhiều về câu nói “nhất tướng công thành
vạn cốt khô”. Ông có muốn như thế đâu. Phận làm tướng, là cấp
chỉ huy chiến sĩ đánh nhau ở chiến trường, cái lẽ sống chết,
thành bại, cũng là... đương nhiên thôi. Đâu có cấp chỉ huy nào
muốn cho binh sĩ dưới quyền mình bị hy sinh quá nhiều đâu! Tôi
biết trường hợp mất quân... quá lớn ở Lộc Ninh làm cho ông suy
nghĩ nhiều nhất. Có lẽ ông cũng mang thứ mặc cảm “đã phụ
lòng thầy”. Quả thực ông có phụ lòng Tướng Minh đâu! Tướng Minh
đã nâng đỡ ông từ cấp Trung úy lên cấp Tướng, như ông từng nói
với tôi. Ông rất muốn lấy sự “sống chết” ở chiến trường để
tạ ơn người thầy đã đỡ đầu cho ông. Nhưng tôi cũng biết ông Hưng
đã từng tạo chiến công hãn mã... đem đến sự thăng tiến binh
nghiệp của chính ông và cả... cho Tướng Minh nữa trong bao nhiêu
năm trời. Còn quyết định của ông ở chiến trường An Lộc, dù
không hợp với Tướng Minh, nhưng cũng cứu nguy được An Lộc trong
những giờ phút nguy ngập nhất. Tướng Minh cũng đã đem hết tài
năng của mình điều binh khiển tướng mà cứu Tướng Hưng. Có lần,
sau Trận An Lộc, ông và tôi ăn cơm với nhau... trên một nhà hàng
khá thanh tịnh ở Sài Gòn, ông hỏi tôi: -“Dưỡng có thích đọc
sách triết hay không? Có theo một tôn giáo nào hay hành xử theo
một đạo lý nào không?” Tôi trả lời: -“Không, tôi ghét triết
học, tôi không thích được thuyết giảng, tôi không thích ai nói
cho tôi nghe về “morale”. Tôi dốt.” Hưng nói: -“Tôi cũng vậy. Nhưng
có lắm điều làm cho mình suy nghĩ về đạo lý ở đời... và về
sự sống chết...”
Tôi suy nghĩ và hiểu rằng ông Hưng không hẳn chỉ là một tướng
lãnh chỉ biết đánh nhau. Ông ta có suy tư hơn là những kẻ có uy
quyền chỉ biết hưởng thụ, coi thường sinh mạng chiến sĩ thuộc
cấp. Ông hành xử theo lẽ phải, tôn trọng lẽ phải.... Ông có một
khối óc mẫn đạt, sáng suốt với những ý nghĩ chính chắn trong
sạch và một trái tim đỏ thắm tình yêu chiến sĩ, yêu mầu cờ
sắc áo, và yêu nước cao cả. Chính những người như ông mới dám
cầm súng mà bắn vào óc hay vào tim mình để tự hủy diệt
những gì tốt đẹp ở trong các thứ quí báu của con người đó
trước khi những kẻ khác muốn hủy diệt nó. Tôi biết rõ ở An
Lộc ông đã từng câm nín... để nhận chịu sự bất công của bậc
mà ông vẫn tôn kính là thầy mà ông từng muốn đem sinh mạng để
đền đáp nghĩa ân. Sao người ta nỡ hủy diệt hay tạo ảnh hưởng hủy
diệt uy tín của một người cao thượng và trung chính như vậy...
hở? Mãi đến ngày nay ông đã tuẫn tiết hơn ba mươi năm rồi mà
chiến dịch ngầm phá hoại uy tín ông vẫn còn ảnh hưởng ở một
số người, hiện sống ở hải ngoại, kể cả những chiến hữu ngày
xưa của ông. Trời ơi, tôi hiểu ông và thương ông lắm! Tôi không tin
rằng có một người nào hiểu Hưng hơn tôi, kể cả những người ông
yêu thương nhất. Tôi thành thực xin lỗi khi viết những dòng chữ
này.
Tôi suy nghĩ... hay chỉ vì một quyết định vô cùng ngay thẳng,
theo lẽ phải, từ chối không cho Đại tá MVT về Lai Khê làm
trưởng phái đoàn “Bình Long Anh Dũng” mà Tướng Minh cho Hưng bị
người ta cho là người “phản thầy” hay sao? Hay đó chỉ là giọt
nước làm tràn miệng bát vì uy danh “tử thủ” của Tướng Hưng
trong trận An Lộc đã lan xa trong nước? Tiếng “phản bội” cũng do
chính Tướng Minh nói với tôi trước mặt Đại tá MVT. Hiện nay ông
MVT đang sống ở California. Hai vị tướng đã thành người thiên
cổ. Tôi xin lập lại sự thực vì người sống vẫn còn đó, như
trách nhiệm của một người muốn “lật đất”....
Chỉ chừng một tuần, sau khi từ An Lộc về Lai Khê, được Tướng
Minh cho người điện thoại bảo tôi về Biên Hòa dùng cơm trưa với
ông. Tôi ngạc nhiên nhưng tuân lời, tôi không nhớ rõ ngày, chỉ
nhớ buổi trưa đó tôi đến tư dinh Tướng Minh ở bờ sông Biên Hòa
và được hướng dẫn lên chiếc trailer của tư lệnh. Vào trailer
thì thấy Trung tướng đã có ở đó, bên cạnh chỉ có Đại tá MVT.
Tôi chào Trung tướng và được ngồi vào bàn cơm. Suốt buổi cơm
Tướng Minh nói cười vui vẻ với ông MVT và tôi. Nhưng khi ông
tướng ăn cơm xong, uống cà phê, hút thuốc và nghiêm nghị hỏi tôi
có biết vì sao gọi tôi về ăn cơm trưa buổi đó: -“Dưỡng từng
làm việc với tôi, chắc biết tánh tôi. Tôi rất ghét những người
phản bội. Về nói với Hưng, đừng phản thầy. Tôi đã từng cứu
Hưng không chỉ lần này ở An Lộc mà rất nhiều lần trước ở
SĐ21BB. Tôi đã từng tin tưởng Hưng và nâng Hưng từ một Đại úy
lên cấp tướng. Sao lại trở mặt với tôi!” Tôi nghe xong, chết
điếng trong lòng. Chỉ ngồi im lặng. Ông MVT cũng không thốt một
lời nào.... Buổi cơm tàn, tôi lên trưc thăng trở về Lai Khê. Suy
nghĩ mãi, mấy ngày sau, tôi gặp Tướng Hưng ở văn phòng của ông.
Tôi lập lại từng lời của Trung tướng cho ông Hưng nghe. Tướng
Hưng chỉ cười nhẹ. Một nụ cười gượng, buồn bã, nhưng không nói
gì. Từ đó về sau, trong ánh mắt, Tướng Hưng nhìn tôi như nói
lên sự thương mến tôi nhiều hơn thời gian trước. Ông đã rõ lòng
dạ tôi từ ngày ở An Lộc, tôi từ chối không về Lai Khê, mà ở
lại cùng ông giúp ông đánh nhau với quân CSBV. Ông có cho tôi một
đặc ân nào đâu. Chỉ có tấm lòng... chân thật với nhau. Không lâu
sau đó, Tướng Hưng được lệnh bàn giao SĐ5BB cho Đại tá Nhảy Dù
Trần Quốc Lịch, về Biên Hòa làm Phụ tá Hành quân cho Tướng
Minh. Và cũng... không lâu sau đó, tôi nghe nhiều người châm biếm
về đôi mắt “hay nheo” của Tướng Hưng và bình luận rằng vì ở An
Lộc ông Hưng không hề rời hầm hành quân, ở mãi trong bóng tối
nên sợ ánh sáng mà... nheo mắt. Tôi đã nói Hưng hay nheo mắt từ
khi còn là SVSQ mà…. Hơn thế nữa, người ta đem những điều đó
mà ngầm trình báo lên các giới chức lãnh đạo cao cấp.... Cao
cấp nhất của Chính phủ và QLVNCH. Chê ông Hưng thiếu khả năng
nên thua lớn ở Lộc Ninh.... Khi ông về Quân đoàn III & V3CT, tôi
biết ông Hưng sẽ dừng lại ở ngôi sao của ông....
Trước khi Đại tá Trần Quốc Lịch về thay thế Tướng Lê văn Hưng,
Đại tá MVT được bổ nhậm chức Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Tỉnh Long Khánh. Tôi vẫn ở lại làm việc với Đại tá TQL, ở
chức vụ cũ. Còn các Đại tá Lê Nguyên Vỹ và Bùi Đức Điềm
thuyên chuyển về đâu, tôi không nhớ. Phụ tá Hành quân QĐIII & V3CT
là chức vụ của Đại tá LNV khi ông... bắn xe tank ở An Lộc và
mỗi đêm nằm ngủ trên chiếc ghế bố dã chiến trong hầm BTL/HQ
cạnh anh Trịnh Đình Đăng và tôi trong hơn ba tháng....
Một ngày khác, sau buổi cơm ở trailer Biên Hòa với Trung tướng
Minh và Đại tá MVT, tôi tiếp một sĩ quan báo chí quân đội tại
Lai khê. Trung tá Nguyễn Đạt Thịnh, Trưởng Phòng Báo Chí Cục
Tâm Lý Chiến của Tổng cục Chiến tranh Chính trị QLVNCH, lên Lai
Khê vào Phòng 3 BTL/SĐ5BB hỏi Đại tá Trịnh Đình Đăng xin bản sao
Nhật ký Hành quân của Sư đoàn ở An Lộc để viết Hồi ký... cho
Tướng Minh. Ông Đăng chỉ cho Trung tá NĐT sang gặp tôi, vì Phòng
3/HQ của ông có 6 sĩ quan bị một hoả tiễn 122 ly rơi trúng khi
đang ăn cơm, tất cả đều… hy sinh, nên không ai ghi Nhật ký Hành
quân của Sư đoàn và giữ các tài liệu này, mà chỉ có ông Đăng,
tôi và hai ông Đại úy Dương Tấn Triệu và Nguyễn Chí Cường của
Phòng 2/BTL/HQ của tôi ghi chép khá chi tiết (sau trận An Lộc,
đều thăng cấp Thiếu tá, vẫn làm việc với tôi) nên toàn bộ tài
liệu đó tôi đã cho đánh máy lại và do tôi cất giữ lúc đó. Sơ
sót của tài liệu là không ghi phối trí của các đơn vị bạn ở
An Lộc và chi tiết về các phi xuất yểm trợ của KQVN và KLHK
vì hai ông này chỉ là nhân viên tình báo tác chiến. Khi ông NĐT
nói rõ mục đích xin bản sao tài liệu nói trên, tôi từ chối và
nóí vớí Trung tá Nguyễn Đạt Thịnh một câu mà đến nay tôi vẫn
còn nhớ rõ ràng: -“Nếu anh Thịnh xin các tài liệu này cho
Phòng Báo Chí, Cục TLC, tôi xin đưa ngay, nhưng nếu để viết Hổi
ký... riêng cho Trung tướng Tư lệnh... xin miễn chấp, tôi từ
chối.” Trung tá NĐT ra về không nói gì. Tôi biết làm như vậy
đường hoạn lộ của tôi sẽ bị tắt nghẽn, không thăng tiến được
nữa.
Sau đó vài ngày tôi mang một bản sao tài liệu Nhật ký Hành
quân này về Khối Quân sử /BTTM định trao cho Đại tá Phạm văn Sơn
làm tài liệu nhưng hình như Đại tá PVS đã không còn giữ chức
vụ Trưởng Khối Quân sử nữa hoặc đi đâu vắng. Tôi trao tài liệu
cho một sĩ quan cấp tá ở đó. Sau này tôi được biết phần sử
viết về trận chiến Bình Long–An Lộc là do Trung tá Lê văn Dương,
tân Trưởng Khối Quân Sử/P5/BTTM chủ biên với các vị phụ tá,
Thiếu tá Lê văn Bân và Đại úy Tạ Chí Đại Trường. Thỉnh thoảng
có trích một đoạn trong bản Nhật ký Hành quân của SĐ5BB do các
Đại úy Triệu và Cường của Phòng 2/HQ ghi trong thời gian đang
hành quân ở An Lộc.
Thời gian thấm thoát qua mau. Sau này, Trung tá Nguyễn Đạt Thịnh
và tôi cùng định cư ở thành phố Honolulu, thỉnh thoảng gặp nhau
chỉ cười chào hỏi nhau, ít nói năng thù tạc. Hiện nay, tôi
được biết ông ở Texas, làm báo. Không biết ông NĐT có nhớ
chuyện cũ không? Không nhớ thì tốt hơn.
PHẦN KẾT: VỀ MIỀN TÂY, VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tháng 8 hay 9, năm 1974, tôi không nhớ rõ, Đại tá Lê Nguyên Vỹ
được bổ nhậm vào chức vụ Tư lệnh SĐ5BB thay thế Chuẩn tướng
Trần Quốc Lịch thuyên chuyển về làm Chánh Thanh tra Quân đoàn IV
& V4CT. Đại tá LNV có cơ hội này là vì Trung tướng Phạm Quốc
Thuần đã thay thế Trung tướng Nguyễn văn Minh ở chức vụ Tư lệnh
QĐIII & V3CT. Tướng PQT trước là Tư lệnh SĐ5BB, khi đó ông LNV là
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8. Tôi biết đã đến lúc nên xin trở
lại Phòng 2/BTTM, vì từ đó tôi thuyển chuyển ra SĐ22BB đầu năm
1969, rồi về Phòng 2 BTL/QĐIII &V3CT và SĐ5BB. Đã hơn 5 năm rồi.
Gian truân cũng lắm, hứng đạn pháo cũng nhiều. Tôi xin trở về
Phòng 2/BTTM và được chấp thuận.
Đến cuối năm 1974, Phòng 2/BTTM nhận thấy tình hình bất ổn
càng ngày càng trầm trọng từ sau ngày “Hiệp ước Đình Chiến
Paris tháng Giêng-1973”, được thi hành mà hầu hết các điều
khoản đều cho thấy rõ rệt thực chất của một bản hiệp... đầu
hàng này của Nixon và Kissinger trước CSBV mà hầu hết các nhà
chính trị hiểu biết thế giới đều gọi như vậy... nên QLVNCH đã
đánh giặc một mình theo lối nhà nghèo như TT Nguyễn văn Thiệu
nói. Tình trạng càng ngày càng nguy cấp thêm và người chiến
sĩ miền Nam đã xả thân đánh giặc với vũ khí, chiến cụ, trang
bị cũ kỹ và số đạn dược quá ít oi còn lại... ở tất cả các
binh chủng Hải, Lục, Không quân trong các Vùng Chiến Thuật. Đại
lược, với hiệp ước đầu hàng này, HK không phải “rút ra khỏi
Nam VN trong danh dự” mà mà ngược lại vì... khi ký hiệp ước
trên Kissinger biết mình đã chịu thua Lê Đức Thọ của BV rồi.
Theo đó thì Hoa Kỳ phải rút toàn bộ quân tác chiến ra khỏi Nam
Việt Nam trong những ngày giờ ấn định, kể cả toàn bộ cố vấn
trong mọi cơ quan và đơn vị của QLVNCH, chỉ để lại một số
chuyên viên kỹ thuật và nhân viên tòa Đại sứ và các Lãnh sự
quán. Bộ Tư lệnh Viên trợ MACV to lớn giải thể, gom lại thành
một tổ chức nhỏ gọi là D.A.O., hay DAO (Defense Attaché Office
hay là Phòng Tùy Biên Quốc Phòng, do một tướng hai sao HK chỉ
huy phụ trách liên lạc và yểm trợ BTTM/QLVNCH).
Ở các Vùng Chiến Thuật các tổ chức viện trợ và yểm trợ quân
sự lớn trong hệ thống của MACV như FRAC, SRAC, TRAC và DRAC (First
Regional Assistance Commmand, Second Regional Assistance Command, Third
Regional Assistance Command & Delta Regional Assistance Command; HK gọi
Vùng 4 CT là Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long) cũng giải thể. Mọi
hoạt động yểm trợ cũng gom về tòa Lãnh sự ở thủ phủ của
các Vùng Chiến Thuật.
Toàn thể đạo quân rất lớn của CS Bắc Việt từ trước đánh phá
trong lãnh thổ miền Nam vẫn được Nixon–Kissinger chịu để cho trú
đóng các vùng chúng chiếm được ở miền Nam; dĩ nhiên kể cả
lãnh thổ Lào và Kampuchia…. Chính thức, HK ước tính –cố ý hạn
chế đến mức thấp vừa phải để ép buộc TT Nguyễn văn Thiệu của
Nam VN chấp nhận ký hiệp ước-- là chừng 150,000 quân tác chiến
CSBV ở lại miền Nam. Nhưng trên thực tế phải trên 250,000 người
vì những đơn vị tác chiến, hậu cần và công binh ở Lào, Miên
đang hoạt động ráo riết trên đường mòn Hồ Chí Minh, lúc đó đã
trở thành Đại Lộ Sullivan (xin xem “The Tragedy of the Vietnam War”
để biết rõ chi tiết về các việc đề cập trên và chi tiết về
Chiến Tranh VN trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế và xã
hội trước, trong và sau khi chiến tranh kết thúc). Với hiệp ước
đó, KLHK đã chấm dứt mọi hoạt động trên hệ thống tiếp vận
khổng lồ này, kể cả không thám, không kích bằng các loại bom
CBU hay B-52. Do đó, chẳng những CSBV tu bổ rộng lớn Đường
Trường Sơn Tây bên kia đãy dãy Trường Sơn trong lãnh thổ Lào và
Miên, mà chúng còn mở thêm con đường mới bằng cách mở rộng
QL-14 từ phía tây Cam Lộ, Quảng Trị vào tận Đôn Luân, Tỉnh
Phước Long... sau khi chúng đã đánh chiếm xong tỉnh này trong
tháng 1/1974. Chúng gọi con đường mới kiến thiết này là Đường
Trường Sơn Đông. Trong khi chúng sử dụng hàng nghìn chuyến xe
Molotova đêm ngày vận chuyển tự do trên Đường Trường Sơn Tây đưa
hàng nghìn tấn vũ khí, quân dụng và đạn dược vào miền Nam để
chuẩn bị một chiến dịch lớn nhất “giải phóng” toàn bộ miền
Nam thì Đường Trường Sơn Đông sau này dẫn đến trận chiến Ban Mê
Thuột, từ đó... TT Thiệu quyết định bỏ Cao Nguyên miền Trung mà
gây thảm họa cho miền Nam sớm hơn là Bộ Chính Trị Đảng Cộng
Sản VN dự phóng. Nhưng thảm họa sẽ không thể có nếu HK không
thực sự muốn bỏ rơi Nam Việt Nam mà với các điều khoản khác
trong Hiệp ước Paris tháng Giêng, 1973 cũng nói rõ ràng. Đó là
các điều khoản HK phải thu vét lại hệ thống mìn phong tỏa
Cảng Hải Phòng mà Hải Quân Hoa Kỳ đã thiết lập phong tỏa Cảng
này trong cuối năm 1972, theo lệnh TT Nixon... cùng một lúc với
lệnh không tập dữ dội… Bắc Việt, bất kể Hà Nội, Hải Phòng
và các tuyến đường xe lửa vận chuyển vũ khí, thiết bị chiến
tranh nặng, của Trung Cộng tiếp tế cho quân CSBV từ biên giới
Trung Quốc vào Yên Bái và Việt Trì... để trả đũa chiến dịch
mùa Hè năm 1972 của CSBV tấn công miển Nam.
Điều khoản giải tỏa Vịnh Bắc Việt và Cảng Hải Phòng có
nghĩa là chấp thuận để cho CSBV tái tiếp nhận hàng trăm tấn
trang thiết bị chiến tranh... tank, đại bác, các loại vũ khí
tối tân nhất và đạn dược Liên xô, do hai hạm đội gồm 150 chiếc
tàu vận tải loại lớn từ hai quân cảng Odessy và Vladivostok thay
phiên nhau cập bến cảng Hải Phòng hàng ngày... cũng như điều
khoản “không được tái tấn công quân sự vào Bắc Việt, Lào và
Kampuchia bằng bộ binh, không quân hay hải quân”... nên hai tuyến xe
lửa từ Trung Quốc sang Hà Nội càng hoạt động liên tục hơn,
không còn hạn chế tiếp vận thiết bị chiến tranh của Cộng Sản
Trung Quốc cho Bắc Việt. CSBV tái tiếp nhận hàng trăm tấn vũ
khí đạn dược tiếp viện từ kẻ thù phương Bắc. Cùng với việc
tổng động viên thanh niên từ 16 tuổi trở lên và với khối thiết
bị chiến tranh khổng lồ nhận được liên tục, Quân đội Nhân Dân
CSBV trở thành một quân đội mạnh vào hàng thứ tư thế giới,
chỉ sau hai nước Công Sản quan-thầy nói trên và Hoa Kỳ. Trong khi
đó thì QLVNCH chỉ… được một điều khoản khác của Hiệp ước đó
cho phép thay thế “một đổi một”, nghĩa là HK sẽ thay thế một
một chiến xa, một khẩu đại bác hay các loại súng khác hư không
xài được... bằng một chiếc hay một khẩu khác. Cho nên tại
chiến trường chiến sĩ QLVNCH đã chịu đựng trăm bề... bất lợi,
thua thiệt. Đạn đại bác lúc trước bắn không hạn chế, sau Hiệp
ước Paris-1973, một khẩu đại bác 155 ly hay 105 ly chỉ được phép
bắn 3 quả đạn mỗi ngày và sau cùng chỉ 1 quả mỗi ngày…. Còn
quân CSBV thì sao? Chúng xài thả ga... vì các quan thầy của
chúng cho phép mà. Thêm nữa, và quan trọng hơn là Viện trợ Quân
sự cho QLVNCH đã bị HK cắt giảm quá mức so với các năm trước.
Chiến tranh sau hiệp ước đầu hàng của Hoa Kỳ này càng gia tăng
dữ dội hơn ở Nam VN. Chúng sử dụng vũ khí tối tân hơn, đại
dược nhiều hơn và chiến sĩ của chúng ta đã hy sinh nhiều hơn...
nhất là ở vùng hỏa tuyến và dọc theo biên giới VN với Lào,
Miên.
Trước hoàn cành đó, nhất là sau khi quân CSBV chiếm được Tỉnh
Phước Long trong tháng 1/1/1974, vi phạm trầm trọng Hiệp ước
Paris-1/1973 và Hoa Kỳ làm ngơ, mặc dù Chính phủ Ford đề nghị
Quốc Hội HK cấp cho QLVNCH ngân khoản viện trợ đặc biệt 300
triệu Mỹ Kim cũng bị... từ chối sau cả năm bàn cãi. Các tháng
cuối của năm 1974 CSBV định cắt đôi Nam VN ở phía nam Đà Nẵng
với việc đánh chiếm các Quận Nông Sơn, Đức Dục và Thường Đức,
Tỉnh Quảng Nam, và định tiến ra đánh chiếm Hội An thì bị chận
đứng ở phía tây Quận Đại Lộc. Sư đoàn Nhảy Dù của Tướng Lê
Quang Lưỡng được Tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh QĐI & V1CT rút từ
Quảng Trị vào đã đánh nhau dữ dội với các Sư đoàn 304 và 308
CSBV ở vùng núi phía bắc Thường Đức, nhất là ở vùng đồi
1062, từ tháng 8 đến tháng 12, năm 1974, mà Washington tiếp tục
làm ngơ. TT Nguyễn văn Thiệu và Chính phủ của ông biết rõ hơn
HK đã bỏ rơi miền Nam. Phòng 2/BTTM/QLVNCH cũng đã nhiều lần
báo cáo những âm mưu chiến lược của CSBV là sẽ có trận Tổng
Công Kích của quân CSVN trong mùa Xuân năm 1975.... Hai sĩ quan cấp
bậc đại tá được Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng Phòng 2/ BTTM
đưa đến QĐI & V1CT và QĐII & V2CT đặt cạnh Phòng 2 BTL của các
vùng chiến thuật này, để làm sĩ quan liên lạc. Riêng tôi, lúc
ấy đang biệt phái cho một đoàn tình báo thuộc Đơn vị 101, được
đưa làm sĩ quan liên lạc của Phòng 2 BTTM cạnh Phòng 2 BTL/QĐIV &
V4CT. Nhiệm vụ của các sĩ quan liên lạc Phòng 2/BTTM là giúp
theo dõi và chuyển tin tức chiến sự, địch tình, từ vùng này
sang vùng khác, từ địa phương về trung ương và ngược lại.
Lúc đó, Tướng Lê văn Hưng đã được Tướng Nguyễn Khoa Nam đưa về
làm Tư lệnh phó QĐIV & V4CT. Trước đó, Tướng Hưng khi đang làm
Phụ tá Hành quân cho Tướng Nguyễn văn Minh ở QĐIII & V3CT khoảng
tháng 7 hay 8/1972, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được bổ nhậm làm Tư
lệnh QĐIV & V4CT (thay thế Trung tướng Ngô Quang Trưởng ra Đà Nẵng
nắm quyền Tư lệnh QĐI & V1CT thế Trung tướng Hoàng Xuân Lãm để
mở cuộc phản công tái chiếm Quảng Trị sau trận Mùa Hè năm đó)
đã đề nghị đưa ông về làm Tư lệnh SĐ21BB. Khi Tướng Nguyễn Khoa
Nam về thế Tướng Nghi, đưa Tướng Hưng lên Cần Thơ làm Tư lệnh
phó, trở thành nhân vật quân sự thứ nhì ở miền Tây, tức là
cả vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Trong âm thầm tôi biết rằng
Tướng Hưng được hai Tướng Nghi và Nam hiểu tài, quí trọng, nhưng
chiến dịch bôi biếm ông ta trước đó, đã được đưa trình đến
những cấp lãnh đạo cao hơn cấp tư lệnh quân đoàn và vùng chiến
thuật từ lâu rồi....
Khi đến Cần Thơ sau khi gặp Trưởng Phòng 2 BTL/QĐIV & V4CT tôi đến
văn phòng Tư lệnh phó, trình diện Tướng Hưng. Ông bắt tay mừng
rỡ và hỏi tôi xuống Cần Thơ làm gì…. Tôi nói nhiệm vụ mới
của tôi. Ông hỏi tôi... ở đâu? Tôi trả lời: -“Xin nhờ anh lo
cho...” Ông nói: -“Đến ở nhà tôi.” Tôi chỉ có cái rương sắt màu
xanh từ thuở học trò, đựng mấy bộ quân phục, thường phục và
mấy quyển sách, thêm một cặp vợt tennis. Từ cuối năm 1974, tôi
ở trong tư dinh của Tướng Hưng, Chị Hoàng phu nhân của Hưng
lại... đãi cơm cho tôi hằng ngày. Trên bàn cơm chỉ có hai vợ
chồng ông và tôi. Việc làm không có gì, sáng chiều vào Phòng 2
gọi hotline về Phòng 2/BTTM/QLVNCH hỏi tin tức quan trọng ở các
vùng chiến thuật khác trình Tướng Hưng. Chiến sự có gia tăng ở
khắp nơi, nhưng nhiệm vụ của tôi chỉ có vậy. Khi nào cần thiết
lắm và nếu Tướng Hưng muốn biết những tin tức quan trọng ban
đêm, tôi dùng hotline trong phòng hành quân ở tư dinh Tướng Hưng
hỏi Sài Gòn. Miền Tây tình hình yên ả hơn, nên tôi vẫn có thì
giờ đánh tennis đôi ba buổi chiều trong tuần. Ngày Chúa Nhật
thường xoa mạt chược ở nhà ông chánh án Đỗ Nam Kỳ, mà tôi quen
biết được ở sân Tennis Ngọc Lợi. Ông chánh án Cần Thơ người
Bắc nhưng tên... Nam. Những ngày như vậy, không ăn cơm, thì nhờ
Trung úy Tùng hoặc Trung úy Anh, các sĩ quan tùy viên của Tướng
Hưng, thưa lại với chị Hoàng. Ông bà Hưng có hai con, một trai
chừng 6 tuổi và một gái 2 tuổi, bà ngoại các bé lo chăm sóc,
phụ với Chị Hoàng.
Ông Hưng để tôi hoàn toàn tự do. Ăn, ở, hay đi chơi đâu đó mặc
ý, không bao giờ hỏi. Khi nào buổi chiều ăn cơm ở... nhà, trời
sập tối sau khi cơm nước xong, ông và tôi thường ra trước nhà,
ngồi nhìn qua bên kia đường là một công viên trống trơn hình tam
giác khá dài, mũi nhọn hướng về “bến bắc” Cần Thơ. Những
buổi đó thường nói chuyện chiến sự... lẫn tình người. Những
câu hỏi và câu trả lời đều ngắn gọn như lối đối thoại giữa ông
và tôi. Nhưng mỗi câu đều có ý nghĩa nào đó, mang nhiều suy tư
vì thường không có những giải đáp rõ ràng. Thí dụ như, hỏi:
-“Sao tụi nó đánh Thường Đức, Đại Lộc? Định cắt đôi miền Nam,
cô lập Đà Nẵng hả?” Trả lời: -“Không! Không hẳn! Nếu nó chiếm
Hội An, mình sẽ mất Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị. Nếu Mỹ nín...
tụi nó đánh bứt luôn QL-19.” Hỏi: -“Rồi sao?..” Trả lời: -“Đánh
hết phía bắc Nha Trang, đưa CPLTMNVN vào lãnh thổ chiếm được,
lập... nước... trái độn trung lập.” Tiếp: -“Nhưng Tướng Lưỡng
đánh tụi nó lui rồi...” Trả lời: -“Thì thôi. Mai mốt đánh nữa!
Nhưng không có ông Trưởng, ông Lưỡng đánh giỏi, mình mất miền
Trung thì... đỡ cho miền Nam hơn!” Câu hỏi cuối: -“Sao vậy?...
Không có câu trả lời... Than: -“Mình không thiếu người tài, anh
hùng!..”
Tướng Hưng nói câu này tất nhiên là ông thừa nhận tài dùng binh
của Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI & V1CT và Tướng Lê Quang
Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, đã cứu nguy cho ông và giúp ông
giữ An Lộc. Nhưng ông có biết ông cũng là một trong những người
tài, anh hùng đó không?
Cũng tại tư dinh Tướng Hưng, một buổi tối tôi gặp lại Đại tá
Mạch văn Trường. Tướng Hưng mời ông MVT ăn cơm tối, mừng ông này
vừa được bổ nhậm chức vụ Tư lệnh SĐ21BB. Từ khi xuống Cần Thơ,
tôi được biết nhiều hơn về ông này vì... “tiếng tốt đồn xa...
tiếng xấu... đồn xa.” Người ta nói rằng Đại tá MVT, khi làm
Tỉnh trưởng Long Khánh, bị Giám Sát Viện điều tra về tội tham
nhũng và hối mại quyền thế, với đề nghị ngưng chức, phạt
trọng cấm, cấm chỉ huy trong 5 năm và giáng cấp. Trong khi chờ
đợi ra Tòa án Quân sự ông thuyên chuyển về làm Trưởng phòng
Thanh tra SĐ21BB. Bỗng nhiên, cả tướng tá vùng Đồng bằng Sông
Cửu Long kinh ngạc vì... lệnh từ Sài Gòn xuống phong cho ông MVT
làm Tư lệnh SĐ21BB, qua mặt hàng chục đại tá kỳ cựu, kể cả
Đại tá Nguyễn văn Kiểm đang là quyền Tư lệnh Sư đoàn này và
Đại tá Lâm Chánh Ngôn, Tham mưu trưởng, từng là cấp chỉ huy
trực tiếp của MVT. Người ta cũng nói là ông MVT đã có... vấn
đề với quan thầy cũ, Tướng Nguyễn văn Minh, lúc đó đã về làm
Tư lệnh Quân Khu Thủ Đô thế cho Phó Đô đốc Chung Tấn Cang trở
lại làm Tư lệnh Hải Quân. Ông MVT đang có các quan thầy mới nắm
quyền hạn và vận mệnh quốc gia và quân đội... nên đề nghị của
Giám Sát Viện đã bị vất vào sọt rác.
Đêm đó, ở tư dinh Tướng Hưng, sau buổi cơm Ông Hưng đi nghỉ, ông
MVT ở lại cùng tôi chuyện trò ở cái băng ngồi trước dinh ngó
ra công viên mũi tàu, tôi chưa hỏi thì ông MVT đã nói: -“Tôi biết
khi ở trường học anh là học trò giỏi nhưng vào quân đội anh
trung thực quá nên không tiến xa được. Phải có ông thầy, bà cô.”
Và ông tự động nói vì sao ông... chinh phục được Tướng Minh lúc
trước và các ông... tướng cầm quyền lúc đó. Ông nói trong tử
vi, thân và mệnh của ông “không có sao chính, nhưng ba vì sao mang
chữ “không” đều đắc địa, sách nói là “thân mệnh đồng cung vô
chính diện” nhưng được cách “đắc tam không” và vì vậy nên ông
sẽ lên tướng không bao lâu nữa. Quả thực chỉ mấy tuần sau ông
được phong tướng. Tôi khen ngợi ông là người có chí lớn và
thực hiện được mộng làm tướng mà lúc trước, khi còn ở SĐ5BB,
lúc nào ông cũng cầm quyển sách “Học Làm Tướng” --không rõ
tác giả-- trong tay mỗi khi tôi gặp ông. Tôi tin tưởng rằng nếu
chế độ Cộng Hòa miền Nam còn tồn tại, chỉ vài năm sau ông MVT
sẽ thăng đến cấp tướng hai ba sao hay giữ chức vụ cao trong
chính phủ và quân đội --tổng trưởng hay tư lệnh quân đoàn, vùng
chiến thuật. Còn Tướng Hưng và cả Tướng Lưỡng đã bị các sao
lớn Tử Vi, Tham Lang và Phá Quân án mất bóng rồi. Các ông đã
bị “triệt” rồi... Tướng Hưng không biết có biết hay không...
nhưng Tướng Lưỡng đã biết. Sau này định cư ở HK, khi ông còn sinh
tiền, tôi hân hạnh được điện đàm nhiều lần với ông, một lần
ông nói rõ vì sao lúc đó ông bị bạc đãi và nghi ngờ... tuy
vẫn được sử dụng vì chưa... có người thay thế. Các tướng trẻ
lúc đó đang được tín cẩn là các ông Lân, Đảo, Nhật, Vỹ và
Trường.
Thời điểm đó là sau khi quân CSBV vừa đánh chiếm Ban Mê Thuột,
Tướng Hưng và tôi mấy đêm liền bàn về việc tại sao chúng tấn
công Ban Mê Thuột và nghĩ rằng CSBV thực hiện chủ trương mà tôi
đã trình bày cùng ông lần trước là chúng tấn công suốt dọc
QL-19 từ Ban Mê Thuột xuống tận Ninh Hòa ra bờ duyên hải và lập
CPLTMNVN thành một quốc gia trái độn từ phía bắc Nha Trang trở
ra đến Bến Hải. Nhưng… hông phải. Có thể là chúng làm chưa xong
con đường Trường Sơn Đông vì bị nghẽn ở Quận Đức Lập, Tỉnh
Quảng Đức, làm trở ngại cho việc việc chuyển quân từ Khe Sanh
vào Phước Long và Lộc Ninh là vùng tập trung gần nhất để đánh
thẳng vào Sài Gòn… vì vậy chúng tấn công Ban Mê Thuột, chiếm
Tỉnh Quảng Đức như đã chiếm Tỉnh Phước Long đầu năm 1974 --theo
như ước tính của Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 BTL/QĐII &
V2CT. Tình hình tiến triển quá nhanh làm cho tất cả mọi người
ngạc nhiên và bỡ ngỡ, vì những quyết định của TT Nguyễn văn
Thiệu, kể cả CSBV... vì chúng dự trù sẽ giải phóng... được
miền Nam ít nhất là đến năm 1977, kể cả Hoa Kỳ... vì hình như
chưa đủ thời điểm... Kissinger dự trù mất miền Nam mà Hoa Kỳ
không mang tiếng phản bội bỏ rơi miền Nam mà sau này một sĩ
quan CIA từng làm việc ở Sài Gòn, Frank Snepp, gọi là “decent
interval”, khoảng cách thích nghi. Gom lại là chuyện TT Thiệu ra
lệnh bỏ Vùng 2 Chiến Thuật và Vùng 1 Chiến Thuật. Thôi thì về
các quyết định này và hậu quả ra sao ai cũng biết rồi, tưởng
không nên nhắc lại ở đây.
Từ ngày 20 tháng 4, 1975, Tướng Hưng muốn cho tôi về Sài Gòn tìm
hiểu thực rõ ràng tình hình chính trị và quân sự sau khi
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh BTL/HQ QĐIII & V3CT và Tướng Phạm
Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 KQVN bị... mất tích ở Sân bay Ninh
Thuận và Tướng Lê Minh Đảo đang đánh nhau dữ dội và chận đứng
quân CSBV ở Long Khánh. Nhưng đường bộ bị cả mấy Sư đoàn của
CSBV thuộc cánh quân 232 của Lê Đức Anh mới thành lập cắt đứt ở
vùng Tân Trụ, Tỉnh Long An, từ mấy tuần trước, nên không về
được. SĐ7BB không thể giải tỏa được. Chờ cả tuần liền. Cuối
cùng, đêm 27/4/1975, sau buổi cơm tối, Tướng Hưng cùng tôi ngồi
trước nhà nói chuyện…. Sài Gòn đã thay chủ, từ tay TT Thiệu sang
Phó TT Trần văn Hương và nghe đâu sẽ chuyển sang tay Đại tướng
Dương văn Minh... Ông nói ngày hôm sau, sau khi đi thăm mấy đơn vị
trở về, ông sẽ cho trực thăng chỉ huy của ông đưa tôi về Sài Gòn.
Ngay lúc đó ông chỉ thị Trung úy Tùng, Sĩ quan Tùy viên, mang ra
hai khẩu tiểu liên Tiệp khắc do một đơn vị trưởng biếu ông ở
chiến trường An Lộc. Loại súng này khi xếp lại nhỏ như khẩu
súng lục, băng đạn 79 viên, bắn từng loạt hay từng phát cũng
được. Ông chỉ vào một trong hai cây tiểu liên đó và nói: “Tặng
Dưỡng một cây, nếu tụi VC hôm nào xuất hiện ở công viên trước
nhà, tràn vào, nhớ bắn cho đến viên đạn cuối cùng. Còn tôi,
tôi sẽ chừa lại... bốn viên...” Tôi hiểu ngay và cướp lời ông:
-“Không! Anh chỉ... có quyền chừa lại... một viên thôi...” Im
lặng. Không biết ông Trung úy Tùng có nghe hay không....
Hôm sau, 28/4/1975 trực thăng của ông chở tôi về Sài Gòn, đáp
xuống sân cờ BTTM. Khi đó hình như Đại tướng Dương văn Minh đang
được bàn giao vai trò lãnh đạo... lịch sử về sự sụp đổ miền
Nam.
Chỉ mấy ngày sau ngày 30/4/1975, tôi nghe tin Tướng Lê văn Hưng đã
tuẫn tiết. Hình như không phải bằng cây tiểu liên Tiệp khắc….
Nhưng bằng súng gì hay bằng cách nào thì cũng đã thành Thần.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Hạ Uy Di, ngày 20/4/2012
Hạ Uy Di, ngày 20/4/2012
KỲ 12BẢN ĐỒ & HÌNH ẢNH
BẢN ĐỒ & ẢNH:
1. Bản đồ # 1: Sơ đồ tổng quát Thị xã An Lộc.
2. Bản đồ # 2: Sơ đồ phối trí lực lượng phòng thủ.
3. Ảnh # 3: Nghĩa trang Liên đoàn 81 BKD.
4. Bản đồ 4: An Lộc sau khi CSBV tấn công đợt 1.
5. Ảnh # 5: Phòng 2 BTL/HQ/SĐ5BB bị một chiếc dù tiếp liệu rớt
sập nóc.
6. Bản đồ # 6: Sau khi CSBV tấn công đợt 3.
7. Sơ đồ # 7: Các hướng phản công của lực lượng phòng thủ ngày
8/6/1972.
8. Sơ đồ # 8: Toàn diện mặt trận Bình Long.
9. Sơ đồ # 9: Vị trí chiến xa CSBV bị hạ trong An Lộc.
10. Ảnh số 10: TT Nguyễn văn Thiệu viếng An Lộc ngày 7/7/1972.
11. Hai ảnh các chiếc vòng An Lộc.
GHI CHÚ: Bản đồ và ảnh tìm trong
mấy tài lệu cũ lâu rồi. Chụp sao lại đưa vào bài viết. Mong
các nơi nhận in ấn dựa vào tài liệu này vẽ lại các bản đồ.
Về ảnh, xin sưu tầm ở các nguồn tài liệu khác.
*Bài thơ này dài, không nhớ tựa, chỉ nhớ đoạn thơ dưới đây:
Ngọn đồi A-1 ấy
Nhìn vào ai chẳng thấ́y
Dáng anh em tôi nằm...
Nền của viện bảo tàng
Móng xây vào máu lửa,
Trong đoàn người tham quan
Bao nhiêu bà dóa bụa?
Nhìn vào ai chẳng thấ́y
Dáng anh em tôi nằm...
Nền của viện bảo tàng
Móng xây vào máu lửa,
Trong đoàn người tham quan
Bao nhiêu bà dóa bụa?
Nguồn: Internet E-mail by Đoàn Hữu Định
chuyển
PHỤ LỤC
BẾN PHÀ
TÂY ĐÔ
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH
ĐỊNH NVD
Ngơ ngác nhìn mây trôi lãng đãng
Xuôi dòng hay ngược sóng trường giang...
Lục bình từng mảng xanh xanh quá,
Trắng mắt ta nhìn xa bến xa.
Ngày về hỏi lại, không ai biết
Bến cũ người xưa nay ở đâu?
Chuyến phà qua lại đôi ba chiếc
Năm bảy dòng xe đợi bến qua,
Những buổi ta về mang áo trận
Chờ phà,
Ăn ở quán ven sông.
Cô hàng mắt đẹp, nhìn như nói,
Má phớt mồ hôi, vén tóc mai,
Mởn mơ thân áo bà ba lụa
Bao nếp cong là bấy nét duyên.
Ta đi nhớ mãi màu xanh ổi,
Màu mận hường,
Hay trái em thơm...
Thoáng qua những tháng năm dài ấy
Thành cố nhân rồi em biết không.
Biến thiên cũng đủ thành dâu biển,
Nay bến phà xưa đã vắng tanh.
Chiếc cầu cao ngạo đôi bờ nối
Không lạ mà sao chẳng thấy quen!
Có người thương phế ôm đàn hát
Trên bến phà xưa như nhớ ai...
“Đồng cỗ miên viễn vọng. Chiến lũy bất nan tầm. Trượng phu hà
tất lụy. Danh tướng tuẫn vong thành. Thiên thu giai hữu định.
Quố́c sử lưu kỳ danh. Nam, Hưng, thiên cổ sự. Minh, Minh, xú xú
vinh!..”
Tiếng hát như từ tim trổi đi,
Nhìn anh để thấy anh lần cuối
Thấy rõ trong anh nỗi đoạn trường.
Ôi Tây đô!
Ôi Cửu Long ơi!
Những người năm cũ không còn nữa
Còn một tấm lòng chung thủy xưa.*
Để nhớ ngày tủi hận 30/4/1975
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH ĐỊNH NVD
LẬT ĐẤT
**** LẬT ĐẤT LÊN TÌM SÔNG NÚI XƯA
HỠI HỒN ĐẤT NƯỚC CHẾT HAY CHƯA
MÀ SAO UẤT HẬN CHÔN TA SỐNG
MÁU BẬT LÊN BẦM MẤY TÚI THƠ
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH ĐỊNH NVD
1.
Bỗng chợt khóc chợt cười như người điên vỡ mộng
Vì hình như trong máu có cơn đau,
Nên Thượng đế quay đi không muốn gọi,
Và Nát bàn không có chỗ để nương thân
Nên thẩn thơ lỡ bước lạc vào trần
Như bào ảnh
dễ quên
hay vẫn nhớ....
Vả bạc bẽo vẫn từ muôn thuở
Của thần tiên,
và của cả nhân gian.
Nên,
Em có đến, có đi, và có bận
cuộc tình nào
xin hãy cứ dong chơi...
Anh cũng khóc, cũng cười,
Cũng vật vã như mặt trời ngủ muộn,
Cũng lửng lơ như vầng trăng mất bóng...
Sẽ cưỡi cao trên vô lường ngọn sóng,
Sẽ hát cuồng trong vô tận ảo mê.
Từ những tháng năm đi, về, lạc lõng
Linh hồn anh không chỗ đứng
Tựa vào anh cho thể xác anh đau,
Như nghìn xưa con biển lớn không đầu
Tựa vào đất cho bãi chao thành sóng...
Anh thương con dã tràng
Bỏ công mình cho ngày tháng vô biên...
Vả,
Cuộc đời đầy trắc diện,
Xin chỉ dừng chân
nghe anh kể
về những chuyện không quên...
2.
Khi mùa xuân đi vào vạn vật,
Khi các loài chim bắt đầu ca hót,
Ai không muốn nghe con người kể chuyện
Tình yêu
Hơn những điều không có thực
Ở những cõi thiên đường,
Hay nơi ở của thần tiên.
Những nơi
không có chỗ để làm tình
dù cho họ khoả thân...
Ở đó
Chỉ có mùa xuân và hồn nhiên
Thiếu những mùa thương khó khác..
Hay, anh xin chỉ kể cho em nghe về
VỀ ĐẤT NƯỚC TA
VÀ TỰ TÌNH TỔ QUỐC
Nơi có nước đổ theo trăm sông
trên những cánh đồng lúa mạ.
Nơi có núi cao, biển cả,
Có phù sa đất chìm với nội cỏ thảo nguyên,
Có ngày, có đêm,
với những mùa mưa, nắng...
Khi rừng già còn kín tiếng
Trên những cánh đồng câu hò đối ngẫu đã vang vang;
Trẻ mục đồng kéo cờ lau đánh giặc,
Đàn trâu đen lặng lẽ nhìn bầy cò trắng bay xa…
Con gái cắt lá trầu xẻ cau cho mẹ,
Con trai dành dăm đồng mua xị rượu cho cha.
Giấc mơ không cao hơn mái lá
Mà lòng người thì dậy cả núi sông
Qua những mùa kháng chiến...
Từ nghìn xưa đến tận những nghìn sau.
Người ta theo cuộc chiến
Người ta vẫn yêu nhau.
Em hiểu không em,
Nên hiểu
tự ban đầu
Cái vẻ đẹp của đất nước ta là thế đó,
Cái vẻ đẹp của thế nhân là thế đó...
Sao con người còn gạt nhau
Về những chuyện đâu đâu!.....
3.
Người ta nói với anh rằng
“Không có gì mới lạ
dưới ánh sáng mặt trời.”
Nhưng anh biết có nhiều thay đổi
Trong mùa Thu... máu rơi...*
Buổi sáng khi con ong không còn hút nhụy
trên cành hoa tím
và nhả mật vàng vào tổ trên cây,
Con bướm không còn vẩn vơ
trong ánh nắng thảnh thơi.
Khi lịch sử đứng lên
theo tiếng gọi mị dân
của những người giả danh tổ quốc.
Khi da thịt con người
là mồi ngon
của loài cá tôm dưới nước,
Máu xương con người
là phân mục
cho loài sâu bọ rỉa, bu...
Nên
Nước xanh cũng thay màu
Đồng xanh cũng thay sắc.
Bóng đêm là cõi chết,
Ánh sáng mặt trời mang sợ sệt nơi nơi...
Anh hàng xóm hiền lương trở nên dữ tợn
Mang gậy gộc vào đập chết chị nông dân,
Thằng bé ngu ngơ cũng hát khúc quân hành,
Đến đồng không mông quạnh,
Trường học vắng tanh
Hoa điệp rụi tàn trong sân lạnh.
Cỏ mọc tràn đồng,
Phố thị tiêu sơ...
Dân lành lo sợ
Nồi cơm trên lò cũng biết nói chuyện đói no,
Manh vạt mùng co thành manh áo thay tạm bợ.
Hay con người đã quay về thái cổ
Không biết đến tương lai.
Hay giấc mộng dữ đêm đêm từ đó thực dài
Cũng trường kỳ như chiến tranh thuở ấy.
Và những gì đổi mới
Là cuộc sống thanh bình biến mất trong tầm tay...
MÙA THU NĂM 1945
4.
Từ nhỏ anh đã nghe
Dòng sông nhớm mình trong bóng tối;
Cuộc sống nổi lên ở đó.
Lượng nước mặn của biển Đông với rừng tràm lá đổ
Rừng U-Minh vẫn có lối đi, về,
Mà dân đen không thoát kiếp
“mang gọng cày ví, thá, với con trâu”.
Nên sóng trăm năm vẫn âm thầm cuộn chảy,
Rừng trăm năm vẫn đơm đặc những gai hoang...
Đất nước ấy tự bao giờ đã hỏi:
Ai khơi quá khứ,
Ai mở tương lai?...
Nếu em biết được,
Thôi thì cứ nói
Từ Lạng Sơn núi rừng đến Cà Mau đất mũi
Dù cuộc sống đắm chìm
với nghìn năm xa xôi
với trăm năm u tối,
Khí thiêng vẫn nhuần gội
đất, nước, núi, sông,
khi mưa thuần, khi nắng cháy...
Nếu em biết
Đến thai nhi chín tháng
Tự bẩm sinh từ trời đất sơ khai
Máu, huyết, tạo nên thân thể đủ hình hài
Ngộp hơi thở
vì không gian dồn nén...
Sẽ bung ra từ vòm bụng kín bưng,
Dù Mẹ có đau
với nỗi đau vô lường...
Một dân tộc bị ép mình nhiều năm tháng
Tự thể xác ẩm ê,
Tự linh hồn u uất,
Sẽ vùng lên bức phá không gian
TÌM TỰ DO VÀ HƠI THỞ.
Và an lành hay đau khổ
Ở trong tay thầy hay, cô đỡ giỏi,
Nào phải đâu lệ thuộc giống dân HỒ!..
5.
Có lắm kẻ ngu ngơ bên bờ sông nước xoáy,
Có những người cắm thuyền ngoài bãi,
Mặc những đợt sóng cồn cuốn mãi ra khơi,
Nên lòng người khoắc khoải
Cho vận nước nổi trôi...
dập dồn cơn bão lớn.
Có những người muốn chờ phép lạ,
Có những người muốn dấn thân
Lo việc lớn...
Rồi, có một kẻ xảo ngôn
Muốn làm bậc thánh,
Nhân mùa ly tán đó
dạy dỗ môn đồ
kỹ xảo
đấu tranh...
Gây thành
Máu đổ.
Hắn dấn mãi con người vào cõi vô luân.
KARL MARX hay LENIN?
Không!
HỒ CHÍ MINH...
Phải! HỒ CHÍ MINH, chính hắn
Tên tội đồ dân tộc.
Hắn bảo: “chống xâm lăng và giai cấp...”
Không!
Hắn
Chống núi chống sông,
Chống đồng chống ruộng,
Chống cây cỏ bên đường,
Chống cầm thú muôn xa...
Chống lá chống hoa,
Chống rừng già biển cả;
Chố́ng cha mẹ trong nhà,
Chống mồ mả ngoài hoang...
Ai không là nạn nhân?!.......
Xin em đừng hỏi.
SỰ THỰC HÔM NÀY CÒN LƯU MÃI VỀ SAU...
Buổi đất nước trở mình
Lũ giặc HỒ ngỡ rằng đã làm lịch sử...
Lịch sử chúng bày
HAY LỊCH SỬ CỦA CUỘC CHIẾN NÀY
ĐẦY XẢO TRÁ, DỐI, GIAN.
6.
Mùa Thu máu ấy
Thây tràn trên biển sóng
Họ gióng trống đồng kể chuyện núi sông -chống xâm lăng-
Của Phù Đổng Thiên Vương,
Của Hai Bà Trưng,
Bà Triệu,
Của Ngô
Đinh
Lê,
Lý
Trần,
(với tiếng reo hò của các bô lão
trong Hội nghị Diên Hồng...)
Với Hưng Đạo,
Với Quang Trung.
Anh cũng lớn lên
Thấy dân đen máu đỏ
Xương trắng trên đồng xanh,
Lúa chen cùng cỏ dại.
Người ta giết người bên này
hay bên kia bờ sông cái...
Có cha, mẹ, của em không,
Hay chị, em, của anh,
Hay những người vô tội...
Bỏ cuộc sống phì nhiêu cho mạch đất hoang sơ.
Người ta tìm đồng đội hay chỉ mặt kẻ nội thù...
Xa xa chốn biên khu,
Gần đây trong thành phố,
Họ mang mặt nạ vào chửi đổng kẻ xa xăm
Mồ cha thằng Tư bản,
Mồm đĩ lũ Mác-Lê
Nói cho nhau nghe, nói hết sự tình
Cho những thế hệ cúi đầu suy gẫm...
LÀM SAO CÓ CHIẾN TRANH?
Ảo ảnh trôi qua như bóng nắng qua thềm
Và sư thực cũng không dừng trong chốc lát,
Người ta kể cho nhau nghe, quá nhiều,
về những truyền kỳ trong chiến cuộc,
Nhưng quá ít về những thương đau mất mát.
VÌ NGƯỜI TA MUỐN GIỮ CHO MÌNH DÒNG BÍ MẬT
MÀ LỊCH SỬ SẼ QUÊN ĐI.
Như em muốn giữ cho em tấm trinh nguyên buổi ấy
mà suốt đời anh nhớ không quên...
ANH SẼ LẬT ĐẤT LÊN
TÌM SỰ THỰC
Để nghìn năm không thể dễ quên đi...
7.
Hay cứ mặc
Mặc tình,
Mặc tội,
Mặc cho con người tráo trở, thẳng ngay...
Đọc Thánh kinh xin em đừng đọc vội,
Hát bản tình ca nào đừng nghĩ có chia ly,
Vì thời gian mang ý nghĩa diệu kỳ
Sẽ trả sự thực cho những gì không thật đúng.
Nếu có người bảo cuộc đời nầy là giấc mộng,
Coi những điều thực kinh khủng
Như lửa cháy thành Sodom,
Hay cơn Hồng Thủy
và con thuyền No-ê chập chùng trên biển sóng
Với thái độ lạnh lùng,
Coi thường cõi sống...
Họ là những kẻ vô ân.
Cũng lắm kẻ đã nhân danh những giấc mộng
Gây bão táp bạo hành
giết con người
bằng bạo lực đấu tranh
Mà cho là giải phóng...
Họ là lũ vô nhân.
Nếu người ta tạo cho mình sức mạnh
Để thành kẻ phi nhân...
Thì anh xin em một chút tình
Để sưởi ấm tim anh
mà ấp ủ thương đau,
Khi họ mang bom đạn trùng trùng và ngọn lửa đỏ au au
Vào
Phá tan từng thành phố,
Đốt cháy những cánh đồng
Thiêu xác người già, thui sống trẻ thơ...
Khi từng gốc cây rừng còn hơi thở
Thì từng góc chiến trường rồi sẽ rõ thực hư.
Vì tất cả là sự thực
Diễn ra từng ngày
trên mọi nẻo quê hương
suốt chiều dài cuộc chiến.
Em sẽ nói gì hay em nín lặng
KHI EM LÀ CHỨNG NHÂN,
KHI EM LÀ NẠN NHÂN
CỦA HIỆN HỮU MẤT CÒN,
KHÔNG MỘNG MỊ CHIÊM BAO...
8.
Anh xin kể cho em nghe
Chuyện con người tạo nên tội ác
Bằng hai chữ NHÂN DANH.
Người ta đã nhân danh văn minh để dựng nên những đế quốc,
Nhân danh con trời lập những bậc đế vương,
Nhân danh thánh thần nói những chuyện hoang đường,
Nhân danh giống nòi gây ra thế chiến.
Hitler đã nổ tung trời Âu,
Thiên hoàng ̣đã xé tan biển Á,
Đến vật đổi sao dời, trời sầu, đất thảm...
Giặc Pháp nhân danh sự thịnh vượng
để trở lại Việt Nam.
Những tên cộng sản đã nhân danh
Độc lập
Tự do
Hạnh phúc...
Hay nhân danh lòng yêu nước của giống nòi,
Để đánh đổ nhân luân,
bóp nát cang thường,
xóa tan phong hóa;
Khích động,
Tuyên truyền,
Thủ tiêu,
Tước đoạt...
Một chiến trường dài cày tung mặt đất,
Một chiến trường sâu xoáy mất tâm linh
của hàng triệu triệu dân lành.
Chúng giết người dã man:
sống có tên, chết không còn xác...
Đến núi cao cũng rùng mình vì sợ,
Đến biển rộng cũng rúng mặt vì kinh.
Giấc ngủ đêm đêm từ đó bỗng giật mình,
Tiếng súng ở đâu mà dòn dã đêm, đêm...
Chị em anh run rẩy,
Cha mẹ anh lặng thinh,
Những giọt nước mắt rơi thầm trong gọng kính,
Những nỗi đau lớn dần,
Những linh hồn sụp đổ.
ANH XIN MỘT CHÚT TÌNH,
ANH XIN MỘT CHÚT TÌNH...
XIN ĐỪNG NHÂN DANH.
XIN ĐỪNG NHÂN DANH!
9.
Người ta nói với anh rằng,
“Nước của sông Hoàng Hà đổ đến từ không trung”
Còn có gì để tin.
Nhưng cuộc chiến này bắt đầu bằng những điều phi lý
Bỡi những kẻ lưu manh
với chủ nghĩa phỉnh phờ,
tự cho là “cách mạng”,
Lường gạt người trí thức,
Dối lừa cả dân tộc...
Trang bị cho dân đen
những cây gậy tầm vong
và lòng hận thù giai cấp;
Áp dụng những kỹ xảo đấu tranh bạo lực:
Hợp tác,
Phản bội,
Giết chóc.
Khi hiểu ra rồi chiến cuộc đã lan nhanh...
Vòng lịch sử bắt đầu quay bánh
Với sức mạnh bạo tàn
Hơn tiếng súng khai phóng của cuộc đổ bộ Normandie,
Hơn sự tàn phá của trái bom hình nấm
ở Trường Kỳ, Quảng Đảo,
Hơn những gì không tưởng của những lãnh tụ ngoại bang.
Cả dân tộc Việt Nam bắt đầu đau đớn
Khi một triệu người vượt vĩ tuyến vào Nam!..
Xin đừng hỏi anh những điều gì về lý tưởng
Trong cuộc chiến thảm thương,
Khi Cộng Sản Việt Nam
Giết người không thương tiếc
ở Huế Tết Mậu Thân; ở Đại lộ Kinh hoàng,
ở An Lộc Bình Long trong “mùa hè đỏ lửa”;
ở Đường 7 Kontum trong “mùa xuân đại thắng”;
Cho đến ngày miền tự do sụp đổ,
Chúng đày đọa con người vào muôn cõi trầm luân...
Khi những triệu con người đi tìm tự do và lẽ sống,
vượt rừng ngàn, biển lớn,
Khi những tên đồ tể
ngạo nghễ đùa
trên tính mạng của nhân dân!..
Làm sao anh có thể kể hết cho em nghe
nỗi đau của đất nước trong chế độ côn đồ...
dưới ánh sáng nhập nhằngvà bóng tối nhiêu khê?!.
Thôi,
Anh xin chỉ kể cho em nghe về
Sự chiết trung của nhân thế
Vì một lần... đã lỡ đến nơi đây!..
10.
Nếu người ta bảo nơi nầy là
thiên đường, địa ngục, hay trần gian.
Xin em cứ hỏi...
Khi kể xong rồi em có thể bảo anh điên.
Anh thấy nơi nầy
HỘI ĐỦ CẢ TRĂM MIỀN,
TRONG VÔ TẬN NGƯỜI TA CHƯA TÌM THẤY
NƠI NÀO NHƯ Ở ĐÂY...
Có: cực lạc và bi thương
khổ đau và hạnh phúc
Vì: nơi nầy là vô thường
trong muôn cõi vô chung.
Nếu chưa rõ xin em cứ hỏi,
Có phải con người làm tình tạo nên xã hội,
Vũ trụ làm tình nên nổi gió nổi mưa,
Có phải em đến làm tình với anh nên anh mê dại...
HAY CHÍNH CUỘC TƯƠNG TÀN NẦY
ĐÃ GIẾT CHẾT LINH HỒN ANH...
Nên anh nào biết thiên đường, địa ngục, ở đâu!
Nếu thuở ban đầu
Thể xác chưa gặp linh hồn,
Khi đất nước chưa dựng nên,
Chiến tranh chưa tàn phá,
Khác nào
Khi đôi chân Eva chưa kịp mở giữa địa đàng
Và Adam còn ngủ mê bên trái cấm...
Thì cuộc sống này có ý nghĩa gì đâu!
Em đến cho anh những gì vô giá
Đôi mắt,
Bờ vai
Đôi vú mọng
căng tròn sức sống
Nên tình yêu anh lớn...
Cám ơn MẸ đã cho amh hơi thở.
Cám ơn EM đã cho anh nụ hôn.
Thi nhân sẽ còn làm thơ
Kể chuyện
Chiến tranh và Ái ân
Không là dung tục.
Vì cuộc đời vốn dĩ là TÌNH YÊU.
DÙ CÓ Ở ĐÂU XIN EM GIỮ LẤY.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH
ĐỊNH NVD
Xuân, năm 2010
Xuân, năm 2010
Link Mediafire trọn bài viết ở trên
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire