Ai có quên hay ai còn nhớ chuyện cũ Sài Gòn với những ngôi mộ như nằm đó từ bao giờ, không làm phiền người dân thời đó và bây giờ đây, chuyện cũ được đem kể lại để người đời sau còn chút gì để nhớ.
Không biết trong tương lai, các ngôi mộ này có may mắn tồn tại theo thời gian hay không?
Bao nhiêu biến cố, bao nhiêu sự ra đi hay xây cất mới, ai sẽ còn giữ tấm lòng quý những nơi ông bà mình nằm xuống và còn chút kỷ niệm này đây?
Thấp nén hương lòng thăm người đời xưa qua ảnh vậy
Không biết trong tương lai, các ngôi mộ này có may mắn tồn tại theo thời gian hay không?
Bao nhiêu biến cố, bao nhiêu sự ra đi hay xây cất mới, ai sẽ còn giữ tấm lòng quý những nơi ông bà mình nằm xuống và còn chút kỷ niệm này đây?
Thấp nén hương lòng thăm người đời xưa qua ảnh vậy
Caroline Thanh Hương
Mộ các danh thần ở Sài Gòn: Lăng Ông Thượng và Ông Tổng
Ở Gò Quéo (ấp Đông, P.Bình Trưng Đông, Q.2, TP.HCM), có một quần thể mộ cổ gồm 15 ngôi mộ.
Trong số đó chỉ 2 ngôi mộ lớn có bia, được xác định là của hai cha con
Triệt Thanh hầu Phạm Quang Triệt và con là Tuần phủ Bắc Ninh Phạm Duy
Trinh.
Hai ngôi mộ linh thiêng
Lăng mộ tọa lạc trên một vùng gò rộng lớn cao hơn 2 m, được bao
quanh bởi rạch Giồng Ông Tố. 13 mộ đã mất bia, 2 ngôi mộ còn bia tuy bị
hư hại nhiều nhưng trông vẫn còn rất hoành tráng, cư dân ở đây gọi là
lăng Ông Thượng (lăng Ngài Triệt) và lăng Ông Tổng (lăng Ngài Trinh),
hay nghĩa trang họ Phạm. Dân quanh vùng nói hai ngôi mộ này rất linh
thiêng, họ thường đến lễ bái, quét dọn.
Hai ngôi mộ có bia ấy kề cận nhau, hình thể uy nghi. Ngôi mộ thứ
nhất được xây dựng vào năm Kỷ Mão 1819, làm bằng hợp chất cổ (ô dước).
Khu mộ bình đồ hình chữ nhật, dài 8,5 m, rộng 5,5 m. Kiến trúc từ ngoài
vào trong như sau: bình phong tiền, ngôi mộ hình chữ nhật và bình phong
hậu gắn liền với vòng tường bao xung quanh. Mặt trước bình phong tiền có
ô hộc trang trí hình chữ nhật, bên trong có hình kỳ lân (long mã) nhưng
đã phai mờ theo thời gian. Cửa mộ có hai trụ gắn vào tường bao. Trên
đầu cột trụ có chạm búp sen nhưng đã sứt mẻ nhiều. Các đoạn tường bao
dày trung bình hơn 0,5 m. Nấm mộ dạng hình chữ nhật giật 2 cấp cao
khoảng 0,3 m so với nền đất và bị nứt, hỏng nhiều trên bề mặt mộ. Gắn
chặt vào chân mộ là tấm bia làm bằng đá Non Nước (Đà Nẵng), khắc 45 chữ
Hán: “Hoàng Việt. Hiển khảo Đồng Đức công thần Phụng trực đại phu chính
trị khanh, Lại bộ Tả tham tri, Triệt thanh hầu, thụy Đôn Mẫn quý công
chi mộ. Gia Long Kỷ Mão niên, nhuận nguyệt cốc đán. Tự tử Quang Chiêm
lập bi” (Nước Hoàng Việt. Mộ Đồng Đức công thần Phụng trực đại phu chính
trị khanh, Lại bộ Tả tham tri, Triệt Thanh hầu Phạm Quang Triệt, thụy
Đôn Mẫn. Con nuôi là Quang Chiêm lập bia mộ ngày tốt tháng nhuận năm
1818 niên hiệu Gia Long - Kỷ Mão). Kết thúc là bình phong hậu gắn liền
với bờ thành. Bình phong rộng 2,1 m chia thành 5 ô dọc hình chữ nhật,
lại có những ô ngang nhỏ như cánh cửa gỗ thường thấy hiện nay. Viền bao
quanh bình phong hậu trang trí hình cúc dây, hai bên bình phong có vành
quai hình cuốn thư cao 1,2 m uốn lượn, được làm rất công phu và có tính
nghệ thuật cao.
Ngôi mộ thứ hai được xây dựng vào năm Tân Hợi 1851, gồm các kiến
trúc: cổng và bình phong tiền, mộ hình chữ nhật, bình phong hậu gắn liền
với vòng tường bao quanh. Bia mộ cũng làm bằng đá Non Nước khắc 51 chữ
Hán: “Đại Nam. Hiển khảo, nguyên thụ Trung phụng đại phu, Binh bộ Tả
tham tri, Bắc Ninh tuần phủ, hộ lý Ninh - Thái tổng đốc quan phòng Phạm
lượng phủ, thụy Trang Khải, phủ quân chi mộ. Tuế thứ Tân Hợi, mạnh hạ
cát đản. Tự tử Quang Bạc lập bi”. (Nước Đại Nam. Mộ người trước đây được
phong Trung phụng đại phu, Binh bộ Tả tham tri, Bắc Ninh tuần phủ, Hộ
lý Ninh - Thái Tổng đốc quan phòng Phạm Duy Trinh, thụy Trang Khải. Con
nuôi là Quang Bạc lập bia mộ ngày tốt tháng tư năm 1851 - Tân Hợi).
Năm 1998, nhân kỷ niệm Sài Gòn - TP.HCM 300 năm, Bảo tàng Lịch sử VN đã đưa 2 bia mộ này về trưng bày tại bảo tàng.
Khoanh vùng bảo vệ khu mộ cổ
Sách Đại Nam chánh biên liệt truyện (do các sử quan biên soạn, hoàn
thành cuối năm 1889) ghi: “Phạm Quang Triệt, tổ tiên người H.Diên Phước
(Quảng Nam), sau đến ở Gia Định, là em họ Hình Bộ Thượng thư Phạm Như
Đăng. Triệt là người cương trực có học thuật. Năm Gia Long thứ 14 (1815)
thăng Lại Bộ Tả Tham tri. Năm thứ 15, sách lập Hoàng Thái Tử (Minh Mạng
sau này) Triệt được phong làm quan Phụng chiếu năm thứ 17 (1818) chết”.
Còn trong Đại Nam thực lục chánh biên cũng có ghi: “Cuối năm 1794, Phạm
Quang Triệt được thăng từ Cống Sĩ Viện lên Hàn Lâm Viện Thị Học theo sự
bảo cử của Cương Đồng (Đình thần). Đầu năm 1803 (năm Gia Long thứ 2)
được cử làm Phiên Trấn Dinh Ký Lục. Năm 1813 làm Lại Bộ Tả Tham tri, lúc
đó Lại Bộ Thượng thư là Trịnh Hoài Đức, Hữu Tham tri là Võ Thanh
Trung”.
Còn thông tin về Tuần phủ Bắc Ninh, Hộ lý Ninh - Thái (Ninh Bình và
Thái Bình) Tổng đốc Phạm Duy Trinh thì hầu như không có. Tuy nhiên,
nhận được nhiều thông tin liên quan đến 2 ngôi mộ này, dòng tộc họ Phạm ở
Huế (đại diện là các ông Phạm Tất Đạt, Phạm Như Lợi, Phạm Lương
Quang...) đã nhiều lần vào TP.HCM liên lạc và ghi nhận hai nhân vật này
có liên quan mật thiết với dòng tộc của họ, cụ thể là 2 mộ tổ thuộc Phái
Nhất, Chi Hai đã thất lạc lần 200 năm nay. Đối chiếu gia phả với các tư
liệu, bia ký của hai ngôi mộ cổ các ông Đạt, Lợi, Quang chắc chắn hai
ngôi mộ đó là mộ ngài Phạm Quang Triệt và ngài Phạm Duy Trinh. Các ông
đề xuất đem lư hương hai ngôi mộ đó nhập vào nhà thờ họ Phạm ở Truồi,
Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế, để thờ cúng.
Ngày 15.11.2006, UBND Q.2 cùng Sở VH-TT-DL và Sở Tài nguyên - Môi
trường TP.HCM đã khảo sát và đề xuất khoanh vùng bảo vệ khu mộ cổ Gò
Quéo.
Hà Đình Nguyên
Mộ các danh thần ở Sài Gòn: Mộ Huỳnh Ngọc hầu Phan Tấn Huỳnh
Nằm sâu
trong con hẻm 120 Huỳnh Văn Bánh (Q.Phú Nhuận, TP.HCM) có một ngôi mộ cổ của một
danh tướng triều Nguyễn, đó là Huỳnh Ngọc hầu Phan Tấn Huỳnh.
- Mộ các danh thần ở Sài Gòn: Hoang phế mộ cha con Trương Minh Giảng
- Mộ các danh thần tại Sài Gòn - Lăng Long Vân hầu Trương Tấn Bửu
- Mộ các danh thần ở Sài Gòn - 3 ngôi mộ của danh tướng Võ Tánh
Ngôi mộ nằm
bên cạnh đường hẻm với tường rào bao quanh (dài hơn 12 m, rộng khoảng 6,5 m).
Khu mộ trông khá nhỏ vì những hộ buôn bán chung quanh đã tận dụng khuôn viên mộ
để dựng vài chiếc xe đạp, xe máy và một số vật dụng.
Vẹn
nguyên sau gần 200 năm
Do cổng khu
mộ không khóa nên chúng tôi “chui” vào dễ dàng. Phải “chui” vì khi xây mộ, những
người thiết kế đã cố tình xây vòm cửa khá thấp (khoảng 1,4 m) để những ai bước
vào khu mộ phải cúi đầu trước anh linh người đã khuất. Cổng mô phỏng dạng nhà
hai mái, lợp giả ngói ống. Trên vòm cửa vào có 4 chữ Hán “Đức hóa lê dân” (dùng
đức để cảm hóa chúng dân).
Chúng tôi thử
dò hỏi những người chung quanh về chủ nhân ngôi mộ nhưng ai cũng lắc đầu không
biết. Hỏi về hậu duệ của nhân vật này có còn ai ở quanh đây không, họ cũng lắc
đầu. Tuy thế, khi vào mộ quan sát, chúng tôi vẫn thấy những chân nhang cắm
trong những bát hương ở bên trong bình phong tiền và trước bia mộ. Chắc hẳn những
hộ buôn bán chung quanh vẫn thường nhang khói cho người nằm dưới mộ để được phù
hộ buôn may bán đắt, họ cũng chăm sóc, quét dọn khu mộ chu đáo, vì vậy nếu so với
lăng mộ được xây dựng cùng thời như mộ Long Vân hầu Trương Tấn Bửu (cũng ở
Q.Phú Nhuận) thì ngôi mộ này còn nguyên vẹn, tươm tất hơn nhiều.
Ngôi mộ rập
theo phương thức xây dựng mộ của các danh thần, võ tướng triều Nguyễn - từ ngoài
vào trong gồm: bình phong tiền, cổng (cửa), bia mộ, mộ và cuối cùng là bình
phong hậu. Bình phong tiền vẽ hình hổ trên nền mây, mặt sau vẽ phong cảnh (biển,
núi, cây cối…). Chắc chắn là những tranh này mới được vẽ lại trong những đợt
trùng tu, tuy vậy cũng đã ố tróc nhiều chỗ. Qua khỏi cổng là mộ có dạng liếp
hình chữ nhật gồm 2 cấp khá thấp. Bia trước mộ ghi: Hoàng Việt, Huỳnh Ngọc hầu,
nguyên Phiên An Tổng trấn, Phan công chi mộ. Minh Mệnh đệ ngũ niên (tức năm
1824 - NV). Cuối mộ (sát tường nhà dân) là bình phong hậu dạng cuốn thư, giữa
là văn bia khắc 18 hàng (dọc) chữ Hán (khoảng 300 chữ) ghi lại công lao, thành
tích của Huỳnh Ngọc hầu Phan Tấn Huỳnh, chữ còn rất rõ nét.
Lập đất,
an dân
Tra cứu lịch
sử chúng tôi thấy có rất ít tài liệu nói về Phan Tấn Huỳnh, chỉ biết rằng ông
sinh trưởng ở đất Gia Định, là một trong những bộ tướng của Nguyễn Vương (Nguyễn
Ánh) chống lại quân Tây Sơn (cùng với Lê Văn Duyệt, Ngô Tùng Châu, Võ Tánh,
Trương Tấn Bửu…). Sau khi Gia Long lên ngôi, năm 1807 ông được phong là Thần
Sách tướng quân, Khâm sai Đô thống chế kiêm Hữu quân phó tướng dưới trướng của
Tả quân - Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt. Từ năm 1809 đến 1816, ông phụng
mệnh vua đi đánh dẹp “Mọi Đá Vách” (người dân tộc thiểu số ở miền núi Quảng
Ngãi) lập được nhiều chiến công, vỗ an dân chúng được vua trọng thưởng.
Năm 1820,
vua Gia Long băng hà, vua Minh Mạng nối ngôi, ông lại được cử vào Gia Định là
phó tổng binh, năm 1822 thăng Tổng binh Gia Định thành giúp Tổng trấn Lê Văn
Duyệt. Ngoài tài dụng binh, cầm quân ông còn nổi tiếng “văn hay chữ tốt” (trên
văn bia khắc ở bình phong hậu, có nói ông là người thảo soạn những tấu chương,
văn biểu cho Lê Văn Duyệt để vị tổng trấn này bẩm báo lên các vị vua Gia Long,
Minh Mạng). Không chỉ có vậy, ông còn được ghi công bởi thành tích khẩn hoang lập
ấp, bình định những vùng đất mới mở nên được vua phong tước “hầu” với mỹ danh
Huỳnh Ngọc hầu Phan Tấn Huỳnh.
Năm 1822 ông
cáo quan lui về quê. Hai năm sau ông mất (1824). Có tài liệu nói rằng ông tự kết
liễu đời mình vì tuổi già không muốn làm phiền con cháu…
Như vậy, Huỳnh
Ngọc hầu Phan Tấn Huỳnh mất trước Long Vân hầu Trương Tấn Bửu 3 năm (tức năm
1827). Cả hai đều là phụ tá đắc lực cho Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt.
Khi ông Trương Tấn Bửu mất (thọ 75 tuổi) vua Minh Mạng sai Lê Văn Duyệt đích
thân lo việc tang lễ và xây mộ. Chẳng biết khi chết, ông Phan Tấn Huỳnh có được
sự vinh hạnh này chăng? Nhưng lăng mộ Long Vân hầu dù bề thế hơn nhưng nay đã
xuống cấp trầm trọng, còn mộ của Huỳnh Ngọc hầu vẫn còn hầu như nguyên vẹn với
thời gian...
Hà Đình
Nguyên
Đọc thêm
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire