Cách Dạy Dễ Mà Học Sinh Mau Đọc Được Chữ
Quốc Ngữ
Nguyễn Phước Đáng.
Giáo viên và Phụ Huynh học sinh chắc
ai cũng muốn biết cách làm sao dạy dễ mà học sinh và con em của mình mau đọc
được chữ quốc ngữ, tức chữ Việt chúng ta đang dùng.
Xin thưa, muốn được vậy thì giáo
viên và PHHS phải thấu hiểu cách cấu tạo chữ Việt.
Tôi bỏ ra 6 năm để tìm hiểu, nghiên
cứu chữ quốc ngữ theo cách nhìn hoàn toàn Việt Nam. Kết quả có thể tóm
gọn một phần trong bài viết nầy:
I.- Vài định nghĩa:
1 - Chữ cái: còn gọi là mẫu tự, ký tự, con chữ, là những ký tự la-tinh a,
b, c, d……
2 - dấu âm là những dấu thêm
vào một số chữ cái la-tinh để tạo thêm chữ cái quốc ngữ, ă, â, ơ, ô, ê, ư,
đ.
3 - Chữ lời, giới ngôn ngữ
gọi là từ, là chữ ghi được 1 lời nói. Đó là một hay nhiều chữ cái
ráp lại để ghi được 1 lời nói. Chữ Việt (quốc ngữ) có khoảng trên 6,000
từ đơn và 3 – 4 chục nghìn từ kép. Theo nhu cầu phát triển, người ta vẫn
tiếp tục tạo thêm từ kép.
4 - Chữ gốc (ngữ căn) của chữ Việt là chữ chưa có dấu giọng. (đề
nghị của tôi)
5 - chữ ráp thanh là chữ có đánh dấu giọng sắc, huyền, hỏi, ngã,
nặng.
6 - dấu
giọng là những dấu đánh trên hay dưới ngữ căn để tạo thêm chữ lời (từ)
II.- Mẫu tự trong hệ thống chữ Việt.
Chữ Việt là loại chữ ghi âm, mượn
mẫu tự la-tinh làm gốc, chế thêm một số chữ cái nữa, rồi thiết lập một bộ mẫu
âm, đủ để theo những qui tắc nhất quán mà tạo ra những từ ghi lại tiếng nói của
người Việt.
Vậy từ đơn Việt là 1 hoặc một tập
hợp chữ cái ghi lại 1 tiếng nói của người Việt. Nhìn 1 từ Việt (chữ lời),
người ta phát ra được 1 tiếng đúng với tiếng mà người viết muốn ghi lại.
Mượn mẫu tự la-tinh, nhưng người
sáng tạo chữ quốc ngữ không lấy hết, mà bỏ bớt 4 chữ cái f, j, w và
z, chỉ lấy 22 chữ cái gồm:
6 chữ cái nguyên âm a,
e, i, o, u, y, và
16 chữ cái phụ âm b, c, d, g, h, k, l, m, n, p, q, r,
s, t, v, x.
Như vậy không đủ âm căn bản để ghi
hết được tiếng nói Việt Nam.
Người ta bèn tìm cách chế biến thêm
các chữ cái khác. Đầu tiên người ta chế biến thêm một chữ cái phụ âm, bằng cách
thêm dấu âm, gạt đầu d để có thêm đ, rồi thêm râu, đội mũ cho một
số chữ cái để có thêm một số chữ cái chánh âm nữa là: ă, â, ê, ô, ơ, ư.
Như vậy, đếm lại, ta thấy có tất cả 29
chữ cái, gồm:
12 chữ cái chánh âm: a, ă, â,
e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y, và
17 chữ cái phụ âm: b, c, d, đ,
g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x.
[Chú thích:
Tôi không lấy ngữ âm học, xem cách
phát âm của chữ cái, để xác định chữ cái nào là chánh âm, chữ cái nào là phụ
âm, mà tôi quan sát vai trò chánh/phụ của chữ cái. “Chánh âm là âm phải có trong một
chữ ghi được 1 tiếng nói. Có bao nhiêu chữ cái ráp lại mà thiếu một chánh
âm thì ‘tổ hợp chữ cái’ đó cũng không tạo thành được 1 chữ, như định nghĩa ‘chữ
lời’ nêu trên”. Qua khảo sát chữ quốc ngữ, chúng ta thấy, thiếu 1
trong 12 chữ cái a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y nầy thì có ráp bao
nhiêu chữ cái khác vào cũng không tạo ra được 1 chữ lời tiếng Việt. Do
đó, tôi gọi a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y là chánh âm. Trước
kia gọi là nguyên âm, nay tôi gọi là “chánh âm” để ngược nghĩa với “phụ âm”
17 chữ cái phụ âm còn được gọi là tử
âm, vì chúng không phát ra âm khi ráp với chánh âm, dù chính phụ âm định
đoạt tiếng phát ra của một chữ lời. Thí dụ âm của chữ “ta” khác
với âm của chữ “cha” là do phụ âm “t” khác phụ âm “ch”,
chứ âm chính “a” giống nhau. Giáo sư Phạm Văn Hải còn gọi phụ âm
là “âm kề”, ý của ông là phụ âm luôn luôn phải đứng kề chánh âm, hoặc
trước hoặc sau, hoặc kề cả trước lẫn sau]
III.- Mẫu Âm (âm căn bản) trong hệ
thống chữ Việt.
Trong quốc ngữ có 29 chữ cái,
lý ra chỉ có 29 âm căn bản.
Nhưng 29 âm căn bản không đủ,
nên người ta đã tìm cách tạo thêm âm mới, đủ để ghi lại lời nói của dân tộc Việt
Nam. Người ta dùng đến biện pháp ghép 2 chữ cái lại để có thêm âm mới,
ghép iê, uô, ươ để tạo thêm chánh âm (bán chánh âm kép); ghép ch, gi,
ng, nh, ph, qu, th, tr để tạo thêm phụ âm.
Do đó, quốc ngữ có tất cả 39
âm căn bản (q đứng một mình chưa là 1 một âm, không có vai trò gì trong
quốc ngữ. Nó phải có u ráp vào mới là phụ âm qu, “quơ”)
Phân tích ra như sau:
A.- Chánh âm: Có 15 chánh âm, gồm:
a. 10 chánh âm: a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y
b. 2 bán chánh âm đơn: ă, â.
c. 3 bán chánh âm kép: iê, uô, ươ.
[Chú
thích:
1) Gọi là chánh âm, vì chúng có 4
chức năng tạo chữ: đứng một mình, đứng đầu, đứng giữa và đứng cuối chữ; gọi
là bán chánh âm, vì chúng chỉ có 2 chức năng tạo chữ, đứng đầu và
đứng giữa chữ. Ă, â, iê, uô, ươ chỉ có 2 chức năng tạo chữ: ăn chắc,
ân hận, uống nước, ước suông, yên
tiếng. (chữ yên gốc là iên, nhưng tuân thủ qui tắc “iê đứng đầu chữ thì i đổi thành y”.Tất
cả các chữ yểm (trợ), yết (kiến)…đều tuân theo qui tắc
nầy).
2) Trước đây, những nhà ngữ học dùng từ
“bán nguyên âm” để chỉ cái âm bị mất phân nửa của nguyên âm khi nguyên âm nầy
ráp với nguyên âm kia. Thí dụ a ráp với i ra âm ai,
người ta dùng ngữ âm học tây phương để phân biệt vai trò của a và của i
trong âm ai. Người ta thấy a có đủ âm a, còn i
chỉ có ½ âm i trong âm ai mới tạo ra. Thí dụ ngược lại, lấy
âm i ráp với âm a, thì i có đủ âm i, còn a
chỉ có ½ âm a. Thế là người ta phán “trong tổ hợp có 2 nguyên
âm thì nguyên âm sau là bán nguyên âm”. Gặp trường hợp o ráp
với a, với e để có âm oa, âm oe hoặc u ráp
với ê, với y để có âm uê, âm uy, thì theo ngữ âm
học, người ta thấy ngược lại, nguyên âm đầu là bán nguyên âm, nguyên âm sau là
nguyên âm (o và u là bán nguyên âm, còn a, e, ê, y là
nguyên âm). Những nghiên cứu như vậy làm rối trí mọi người. Cùng 1
chữ cái nguyên âm, mà khi thì là nguyên âm, khi lại là bán nguyên âm. Chỉ
khi nó đứng một mình mới chắc nó là nguyên âm. (G/s Phạm Văn Hải còn gọi các
bán nguyên âm theo cách nghiên cứu nầy là âm lướt). Phát biểu như
vầy thì có thể chấp nhận được “Khi 2 nguyên âm ráp với nhau để tạo chữ vần, nếu
tạo ra vần hợp âm như ai, ia, oi, ui, ưu,… thì nguyên âm đầu có đủ âm,
nguyên âm sau chỉ phát ra ½ âm, hay là âm lướt; trái lại nếu tạo ra chữ vần hoà
âm, thì nguyên âm đầu là âm lướt hay chỉ phát ra ½ âm, còn âm sau có đủ âm.”
3) Xưa kia thầy cô từ bậc tiểu học chỉ
dạy tới 12 nguyên âm a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y, khi tôi xem xét
lại chữ quốc ngữ, mới đọc thấy một bài của Giáo Sư Nguyễn Đình-Hoà cho biết iê,
uô, ươ là nguyên âm kép. Tôi nhận xét thấy đây là một phát kiến mới,
rất quan trọng cho việc nghiên cứu chữ quốc ngữ, trong phần cấu tạo của chữ
quốc ngữ.]
B.- Phụ âm: Có 24 phụ âm, gồm (k
đồng âm với c, nên kể là một. Tôi coi k là biến thể của c.
Do vậy, tính theo âm thì mất đi 1 phụ âm, chỉ còn 24 phụ âm)
a. 15 phụ âm đơn: b, c (+k), d, đ, g (+gh), h,
l, m, n, p, r, s, t, v, x (không có q)
b. 9 phụ âm kép: ch, gi, kh, ng
(ngh), nh, ph, qu, th, tr.
Xét về mặt công dụng (hay chức năng)
trong việc thành tạo chữ, thì 25 phụ âm chia làm 3 nhóm:
a. 17 phụ âm đầu, chỉ đứng đầu chữ thôi: b, d,
đ, g, gi, h, k, kh, l, ph, qu, r, s, th, tr, v, x.
b. 1 phụ âm cuối, chỉ đứng cuối chữ thôi: p
c. 7 phụ âm lưỡng dụng, có 2 công dụng, đứng đầu và cuối chữ: c,
ch, m, n, ng, nh, t .
Một số rất nhiều người không phân
biệt được tên của mẫu tự với âm của mẫu tự đó, mà đã được qui ra mẫu
âm, nên gây ra ngộ nhận chuyện phát âm theo VNCH hoặc theo VC.
IV.- Bảng đối chiếu tên mẫu tự và
mẫu âm
Nhân dịp nầy tôi xin giải toả minh
bạch vụ nầy qua bảng đối chiếu sau đây:
Số
thứ tự
|
Chữ cái
|
Tên
Chữ cái
|
Âm căn bản
|
Tên âm
|
1
|
a
|
A
|
a
|
A
|
2
|
ă
|
Á
|
ă
|
Á
|
3
|
â
|
Ớ
|
â
|
Ớ
|
4
|
b
|
Bê
|
b
|
Bơ
|
5
|
c
|
Xê
|
c, k
|
Cơ
|
6
|
ch
|
Xê-Hát
|
ch
|
Chơ
|
7
|
d
|
Dê
|
d
|
Dơ
|
8
|
đ
|
Đê
|
đ
|
Đơ
|
9
|
e
|
E
|
e
|
E
|
10
|
ê
|
Ê
|
ê
|
Ê
|
11
|
g
|
Giê
|
g, (gh)
|
Gơ
|
12
|
gi
|
Giê-I
|
gi
|
Giơ
|
13
|
h
|
Hát
|
h
|
Hơ
|
14
|
i
|
I
|
i
|
I
|
15
|
iê
|
I-ê
|
iê
|
I-ê
|
16
|
kh
|
Ca-hát
|
kh
|
Khơ
|
17
|
l
|
En-lờ
|
l
|
Lơ
|
18
|
m
|
Em-mờ
|
m
|
Mơ
|
19
|
n
|
En-nờ
|
n
|
Nơ
|
20
|
ng
|
En-nờ-Giê
|
ng, (ngh)
|
Ngơ
|
21
|
nh
|
En-nờ-Hát
|
nh
|
Nhơ
|
22
|
o
|
O
|
o
|
O
|
23
|
ô
|
Ô
|
ô
|
Ô
|
24
|
ơ
|
Ơ
|
ơ
|
Ơ
|
25
|
p
|
Pê
|
p
|
Pờ
|
26
|
ph
|
Pê- Hát
|
ph
|
Phơ
|
27
|
q
|
Cu
|
qu
|
Quơ
|
28
|
r
|
E-rờ
|
r
|
Rơ
|
29
|
s
|
Ết-sờ
|
s
|
Sơ
|
30
|
t
|
Tê
|
t
|
Tơ
|
31
|
th
|
Tê-hát
|
th
|
Thơ
|
32
|
tr
|
Tê-E-rờ
|
tr
|
Trơ
|
33
|
u
|
U
|
u
|
U
|
34
|
uô
|
U-ô
|
uô
|
U-ô
|
35
|
ư
|
Ư
|
ư
|
Ư
|
36
|
ươ
|
Ư-ơ
|
ươ
|
Ư-ơ
|
37
|
v
|
vê
|
v
|
Vơ
|
38
|
x
|
It-xờ
|
x
|
Xơ
|
39
|
y
|
Y dài
|
y
|
Y
|
Chú thích:
1) Tất cả các chữ cái chánh âm tên sao thì âm cũng là vậy. Còn
các chữ cái phụ âm có tên khác với âm của chúng
2) Đánh vần chính tả, đọc tên CHỮ
CÁI. Đánh vần phát âm, đọc tên ÂM liền nhau để ra tiếng Việt
mà chữ lời ghi lại.
V.- Cách tạo chữ
Việt.
Tiếng Việt có trên 6,000 từ đơn (chữ
lời đơn), trong đó có chưa đủ 60 từ do 1 âm tạo thành. Còn lại hơn 6,000
từ đơn khác đều do 2 âm ráp lại.
Do đó
nguyên tắc chủ đạo để thành tạo mỗi từ đơn tiếng Việt là HAI ÂM RÁP LẠI TẠO
THÀNH MỘT ÂM MỚI. Đây là một nguyên tắc nhất quán, áp dụng để thành
tạo cho tất cả từ đơn tiếng Việt, từ chữ lời đơn giản đến chữ lời phức tạp
nhứt.
Ban
đầu, người sáng tạo thiết lập ra 39 âm căn bản, để dùng từng cập 2 âm ráp lại,
mà tạo ra âm mới, tức tạo ra các từ đơn đơn giản, như:
- phụ âm ráp với chánh âm (ba, má, cô, chú, dì…);
- chánh âm ráp với phụ âm (anh, em, ăn, uống…);
- chánh âm ráp với chánh âm (ai, ia, oi, ôi, ua,
uê, uy…)
Khi
có một âm mới rồi, người ta có thể lấy một mẫu âm (chánh âm hoặc phụ âm) ráp
với âm mới đó mà tạo ra một âm mới khác, tức một từ mới khác nữa.
Thí dụ: Có âm an,
lấy phụ âm t ráp với âm an, sẽ có được âm tan,
tức chữ (từ) tan = t+an.
Có âm anh, lấy chánh âm o ráp với âm anh
sẽ có được từ oanh = o+anh.
Có âm ai, lấy phụ âm m ráp vào sẽ có từ mai
= m+ai,
hoặc lấy chánh âm o ráp vào sẽ có từ oai = o+ai…
Với
những từ phức tạp hơn, người ta lấy âm vần xuôi ráp với âm vần ngược sẽ tạo ra
một từ mới.
Thí
dụ: Lấy âm vần xuôi kho ráp với âm vần
ngược an sẽ có từ mới khoan = kho+an.
Lấy âm vần
xuôi ngu ráp với âm vần ngược yên sẽ có từ mới nguyên
= ngu+yên…
Cứ 2 âm ráp lại thì sẽ tạo ra một âm mới, tức tạo ra từ mới, chữ mới.
Cứ như vậy mà ta tạo được toàn bộ
chữ lời
đơn tiếng Việt.
Theo nghiên cứu của tôi, tôi phân
chữ Việt ra làm 3 loại chữ. Có 12 cách tạo ra 3 loại chữ đó, từ đơn giản
đến phức tạp, như sau:
1) chữ âm, tức chữ chỉ có một
nguyên âm: à. ồ, ò, ó, o, í, ý, u, ù, ừ...
2) chữ vần hay chữ ráp âm,
tức chữ do 2 mẫu âm ráp lại, trong đó phải có 1 chánh âm:
an ủi, ăn uống, yên ổn... (uống do bán
chánh âm kép uô ráp với phụ âm kép ng; yên do bán chánh âm
kép yê ráp với phụ âm n)
thủ thỉ, ta và chú, cô, dì,... (thỉ do phụ
âm kép th ráp với chánh âm i; chú do phụ âm kép ch
ráp với chánh âm u)
3) chữ ráp vần, nghĩa là đã
có một vần rồi, đem vần đó ráp với một mẫu âm nữa hoặc ráp với một vần khác:
thỉnh thoảng vang
lên tiếng chim oanh hót thảnh thót.
Thỉnh: vần inh ráp với phụ âm th phía trước
Thoảng: vần xuôi tho ráp với vần ngược ang (2 vần ráp với nhau)
Tiếng: vần iêng ráp với phụ âm t phía trước.
Oanh: vần anh ráp với nguyên âm o phía trước.
Theo ông Đòan Xuân, từ đơn tiếng
Việt có chừng trên 6.000.
Nhiều như vậy, nhưng tất cả trên
6.000 chữ lời đơn tiếng Việt chỉ nằm trong 3 loại chữ đó mà thôi.
VI.- Áp dụng nghiên cứu vào việc dạy vỡ lòng tiếng Việt:
A)
Đánh vần: Day tiếng Việt có cần dạy
đánh vần không? Xin trả lời ngay là cần.
Có hai cách đánh vần: Đánh vần
chính tả và đánh vần phát âm
1) Đánh vần chính tả là đọc
tên chữ cái từ trái sang phải, để học sinh viết đúng chính tả. Gặp chữ
dấu hỏi dấu ngã phải đọc tên dấu giọng nữa. Gặp các phụ âm kép phải đọc
rời ra từng chữ cái, gh không đọc gơ, mà đọc rời ra là giê,
hát; ngh đọc rời ra en-nơ, giê, hát.
Thí dụ. đánh vần chữ nguyễn
là đọc ra tên từng chữ cái có trong chữ là en-nơ, giê, u, y dài, ê, en-nơ
ngã = N,G,U,Y,Ê,N, ngã.
2) Đánh vần phát âm (Dạy
trong thời kỳ học sinh học vỡ lòng cho đến khi chúng đọc thông được hết chữ
Việt). Từ xưa tới nay có rất nhiều cách đánh vần phát âm. Áp dụng
cách nghiên cứu “hai âm ráp lại thành một âm”, như trình bày ở trên, tạo
ra cách đánh vần tân tiến nhất và dễ nhất để phát ra âm chuẩn nhất. Đó là
đọc ráp 2 âm liền lại với nhau. Nên nhớ phụ âm là tử âm, nghĩa là không
phát thành tiếng khi đánh vần, nghĩa là sửa soạn phát ra âm, nhưng chưa ra
tiếng thì ráp ngay chánh âm vào.
Thí dụ, đánh vần chữ ba là
ngậm miệng lại, chớm phát ra tiếng bơ, nhưng chưa ra tiếng bơ ráp
ngay âm a vào thì đương nhiên ra ngay tiếng ba. Đánh vần chữ mô
là ngậm miệng lại, sửa soạn phát ra tiếng mơ, nhưng chưa ra tiếng mơ
ráp âm ô vào thì đương nhiên ra tiếng mô. Dạy đánh vần như
vậy chừng 5 – 10 chữ vần xuôi, thì học sinh sẽ tự suy ra và đọc được tất cả chữ
vần xuôi. Tự nhiên chúng sẽ bỏ đánh vần mà không hay. Tôi cho rằng
dạy 1 mà học sinh biết 10 là như vậy. Chúng rất mau đọc được chữ Việt.
Riêng vần ngược thì hơi khó hơn một chút, vì đọc liền chánh âm với phụ âm
(không ra tiếng) có vần đương nhiên ra được tiếng đúng như mình muốn, nhưng có
vần không đương nhiên ra tiếng như mình muốn, mà mình phải áp đặt ra một âm như
mình muốn.. Thí dụ, Đánh vần các chữ am, em, om, ôm…(chánh âm ráp
với phụ âm m, n) thì phát âm ra tiếng chánh âm rồi ráp vào phụ âm (không
phát ra tiếng) thì đương nhiên sẽ ra tiếng am, em, om, ôm…(an, en,
on, ôn). Đánh vần các chữ ac, ach, ap, anh… phát ra tiếng
chánh âm rồi ráp với tiếng phụ âm dợm phát ra thì không chắc ra đúng âm ac,
ach, ap, anh…, mà mình phải buộc học sinh phát ra tiếng mình muốn, ác,
ách, áp, anh…
Vần ngược với bán chánh âm ă, â, nhứt là bán chánh âm kép iê (yê),
uô, ươ càng khó hơn. Đánh vần không đương nhiên ra tiếng mình muốn,
mà phải áp đặt ra tiếng mình muốn.
Còn vần hợp âm ai, ia, oi, ơi, ôi, ui, ưi…thì dạy đánh vần là đọc nguyên
âm đầu rõ, nguyên âm sau đọc lướt thì gần như đương nhiên ra âm mình uốn.
Một số ít vần hoà âm oa, oe, uê, uy, thì ngược lại, đọc lướt nguyên âm
đầu rồi đọc rõ nguyên âm sau thì đương nhiên ra âm trộn lộn 2 nguyên âm tạo ra
vần đó.
Áp dụng nghiên cứu “hai
âm ráp lại tạo ra âm mới”, thì khỏi dạy theo lối cũ 31 vần xoắn môi chúm
miệng sau đây: OAC, OACH, OAI, OAM, OAN, OANG,
OANH, OAT, OAY, OĂC, OĂN, OĂNG, OĂT, UÂC, UÂN, UÂNG, UÂT, UÂY, OEC, OEO, OEN,
OENG, OET, UÊCH, UÊNH, UYA, UYÊN, UYÊT, UYNH, UYT, UYU.
Những vần nầy rất khó dạy, trẻ con
học cũng rất khó, phát âm trật mãi, không chuẩn. Gọi là vần, nhưng thực
ra không phải là vần, mà phải chính danh gọi là “chữ ráp vần” (chánh âm
ráp với vần ngược, chánh âm ráp với vần hợp âm):
OAI = O+AI (OAI do chánh âm O
ráp với vần hợp âm AI);
OAN = O+AN (OAN do chánh âm O
ráp với vần ngược AN);
UYÊN = U+YÊN (UYÊN do chánh âm U
ráp với vần ngược YÊN).
Cứ phân tích như vậy thì ta sẽ xoá
hết những vần phức tạp rất khó dạy, mà chỉ cần dạy 4 loại vần rất đơn giản, dễ
dạy, dễ học mà thôi. Bốn vần đơn giản trong chữ Việt là: vần xuôi, vần
ngược, vần hợp âm, vần hoà âm (như trình bày ở trên).
Học xong 4 loại vần đó rồi, thầy cô
giáo chỉ cần chỉ cách cho học trò cắt chia chữ hoà âm (chữ có 2 vần) ra làm 2
phần, rồi đọc vần xuôi liền với vần ngược thì đương nhiên ra tiếng của chữ
đó. Thầy cô giáo không cần sửa gì cả. Học sinh không cần uốn vặn
đôi môi, mà cũng phát ra được tiếng rất đúng giọng chuẩn. Sau đó, học
sinh gặp một chữ lạ, phức tạp tới đâu, chúng cũng phân tích ra được thành 2 âm
để đọc ráp 2 âm đó lại để phát ra tiếng của chữ đó, đọc đúng giọng chuẩn và
viết đúng chính tả.
Những chữ loại nầy bắt đầu bằng
nguyên âm o hay u, hoặc bắt đầu bằng vần xuôi có o hay vần
xuôi có u: (Gió) thoảng, thuyền (lướt sóng). Tho+ảng, thu+yền.
Dạy và học theo cách nầy chừng 5 – 7
chữ thì học sinh sẽ tự học được những chữ mà chúng chưa từng được dạy, nghĩa là
chúng sẽ đọc được những chữ chưa từng thấy trước đó bao giờ. Tôi gọi là
học một biết mười.
Nhẹ dạy phần nầy là rất nhẹ cho giáo
viên lớp Một, cũng rất nhẹ cho học sinh trong việc tập đọc đúng giọng
chuẩn. Sau nầy chúng lại giỏi chính tả về các chữ phức tạp nầy.
Tôi từng đọc thấy chừng 20 lần nhà
văn, nhà báo, vi hữu (netter) viết sai chữ huênh
hoang, khuếch đại, rỗng tuếch. Những vị đó viết huyênh hoang, khuyếch
đại, rỗng tuyếch. Nếu lúc bé được dạy
phân tích chữ 2 vần thì chắc không sai các loại chữ nầy. Chữ Việt không
có vần ngược yêch, yênh,
mà chỉ có vần ngược êch, ênh. Các vần xuôi có u như hu, khu, tu
ráp với vần ngược ếch, ênh sẽ ra hu+ênh = huênh;
khu+ếch = khuếch;
tu+ếch = tuếch...
Tóm lại, khi thấu hiểu nguyên tắc
căn bản và nhất quán trong cách thành tạo chữ quốc ngữ, “HAI ÂM RÁP LẠI TẠO
THÀNH MỘT ÂM”, và đem áp dụng vào việc dạy học vỡ lòng cho học sinh Mẫu
giáo và lớp Một, thì kết quả sẽ nhanh và dễ ngoài tưởng tượng, so với lối dạy
thuở trước.
Đem áp dụng dạy tiếng Việt & chữ
Việt cho người nước ngoài, nhứt là người lớn, kết quả càng nhanh và càng dễ
hơn.
Kính chúc quí vị thành công trong
việc dạy tiếng Việt & chữ Việt cho học sinh và cho con cháu trong nhà,
trong lúc sống xa quê hương.
Kính,
Nguyễn Phước Đáng.
Viết thêm:
Trong bài trên, tôi hai lần viết câu
“dạy một biết mười”.
Thật ra, công việc dạy trẻ chữ Việt,
không phải tất cả đều dạy 1, bọn trẻ đều biết 10, có những giai đoạn dạy một
biết 1, dạy bao nhiêu chỉ biết bấy nhiêu thôi:
1) Giai đoạn dạy đọc tên 10 chánh âm
a, e, ê, i, o, ơ, ô, u, ư, y thì dạy chữ nào trẻ chỉ biết chữ đó.
Cũng như dạy đọc ra tiếng các phụ âm bơ, cơ, dơ, đơ, gơ (ghơ), hơ, lơ, mơ,
nơ, ngơ (nghơ), pơ, phơ, quơ, rơ, sơ, xơ cũng dạy một biết một mà
thôi. Cho tới lúc dạy đọc phụ âm không ra tiếng thì có thể dạy 1 chúng
biết 10.
2) Giai đoạn đánh dấu thanh trên
nguyên âm, có thể dạy một chúng biết 2, 3. Dạy đánh dấu thanh chừng 5
nguyên âm thì có thể chúng biết được cả 10 nguyên âm:
Bảng liệt kê 60 chữ âm trong
tiếng Việt
Chữ gốc
|
sắc
|
huyền
|
hỏi
|
ngã
|
nặng
|
a
|
á
|
à
|
ả
|
ã
|
ạ
|
e
|
é
|
è
|
ẻ
|
ẽ
|
ẹ
|
ê
|
ế
|
ề
|
ể
|
ễ
|
ệ
|
i
|
í
|
ì
|
ỉ
|
ĩ
|
ị
|
o
|
ó
|
ò
|
ỏ
|
õ
|
ọ
|
ơ
|
ớ
|
ờ
|
ở
|
ỡ
|
ợ
|
ô
|
ố
|
ồ
|
ổ
|
ỗ
|
ộ
|
u
|
ú
|
ù
|
ủ
|
ũ
|
ụ
|
ư
|
ứ
|
ừ
|
ử
|
ữ
|
ự
|
y
|
ý
|
ỳ
|
ỷ
|
ỹ
|
ỵ
|
3) Giai đoạn dạy vần ngược ráp với n,
m, có thể dạy 1 biết 5 – 10, nhưng vần ngược ráp với các phụ âm c, t,
ch, ng, nh, p thì dạy tới đâu biết tới đó mà thôi:
Bảng liệt kê các vần ngược (*)
P.âm>
N.âm
|
c
|
ch
|
m
|
n
|
ng
|
nh
|
p
|
t
|
Số vần
|
a
|
ac
|
ach
|
am
|
an
|
ang
|
anh
|
ap
|
at
|
8
|
e
|
ec
|
-
|
em
|
en
|
eng
|
-
|
ep
|
et
|
6
|
ê
|
-
|
êch
|
êm
|
ên
|
-
|
ênh
|
êp
|
êt
|
5
|
i
|
-
|
ich
|
im
|
in
|
-
|
inh
|
ip
|
it
|
6
|
o
|
oc
|
-
|
om
|
on
|
ong
|
-
|
op
|
ot
|
6
|
ơ
|
-
|
-
|
ơm
|
ơn
|
-
|
-
|
ơp
|
ơt
|
4
|
ô
|
ôc
|
-
|
ôm
|
ôn
|
ông
|
-
|
ôp
|
ôt
|
6
|
u
|
uc
|
-
|
um
|
un
|
ung
|
-
|
up
|
ut
|
6
|
ư
|
ưc
|
-
|
-
|
ưn
|
ưng
|
-
|
-
|
ưt
|
4
|
y
|
không
|
có
|
chức
|
năng
|
tạo
|
vần
|
ngược
|
|
|
ă
|
ăc
|
-
|
ăm
|
ăn
|
ăng
|
-
|
ăp
|
ăt
|
6
|
â
|
âc
|
-
|
âm
|
ân
|
âng
|
-
|
âp
|
ât
|
6
|
iê
|
iêc
|
-
|
iêm
|
iên
|
iêng
|
-
|
iêp
|
iêt
|
6
|
uô
|
uôc
|
-
|
uôm
|
uôn
|
uông
|
-
|
-
|
uôt
|
5
|
ươ
|
ươc
|
-
|
ươm
|
ươn
|
ương
|
-
|
ươp
|
ươt
|
6
|
|
|
|
|
|
Tổng
|
cộng
|
số
|
vần
|
80
|
Tới đây, tôi thấy có 3 giai đoạn dạy
1, trẻ có thể biết 10:
1) Dạy vần xuôi: Có
chừng 200 vần xuôi gốc, nhưng chỉ cần dạy chừng 5-10 vần là học sinh có thề đọc
được hết các vần xuôi còn lại:
Bảng liệt kê các vần xuôi (*)
|
a
|
e
|
ê
|
i
|
y
|
o
|
ô
|
ơ
|
u
|
ư
|
b
|
ba
|
be
|
bê
|
bi
|
-
|
bo
|
bô
|
bơ
|
bu
|
bư
|
c
|
ca
|
-
|
-
|
-
|
-
|
co
|
cô
|
cơ
|
cu
|
cư
|
k
|
ka (1)
|
ke
|
kê
|
ki
|
ky
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
ch
|
cha
|
che
|
chê
|
chi
|
-
|
cho
|
chô
|
chơ
|
chu
|
chư
|
d
|
da
|
de
|
dê
|
di
|
-
|
do
|
dô
|
dơ
|
du
|
dư
|
đ
|
đa
|
đe
|
đê
|
đi
|
-
|
đo
|
đô
|
đơ
|
đu
|
đư
|
g
|
ga
|
-
|
-
|
-
|
-
|
go
|
gô
|
gơ
|
gu
|
gư
|
gh
|
-
|
ghe
|
ghê
|
ghi
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
gi
|
gia
|
gie
|
giê
|
gii
|
-
|
gio
|
giô
|
giơ
|
giu
|
giư
|
h
|
ha
|
he
|
hê
|
hi
|
hy
|
ho
|
hô
|
hơ
|
hu
|
hư
|
kh
|
kha
|
khe
|
khê
|
khi
|
-
|
kho
|
khô
|
khơ
|
khu
|
khư
|
l
|
la
|
le
|
lê
|
li
|
ly
|
lo
|
lô
|
lơ
|
lu
|
lư
|
m
|
ma
|
me
|
mê
|
mi
|
my
|
mo
|
mô
|
mơ
|
mu
|
-
|
n
|
na
|
ne
|
nê
|
ni
|
ny (1)
|
no
|
nô
|
nơ
|
nu
|
nư
|
ng
|
nga
|
-
|
-
|
-
|
-
|
ngo
|
ngô
|
ngơ
|
ngu
|
ngư
|
ngh
|
-
|
nghe
|
nghê
|
nghi
|
-
|
-
|
-
|
-
|
|
-
|
nh
|
nha
|
nhe
|
nhê
|
nhi
|
-
|
nho
|
nhô
|
nhơ
|
nhu
|
như
|
p
|
-
|
-
|
-
|
pi (1)
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
ph
|
pha
|
phe
|
phê
|
phi
|
-
|
pho
|
phô
|
phơ
|
phu
|
-
|
qu
|
qua
|
que
|
quê
|
qui
|
quy
|
quo
|
-
|
quơ
|
-
|
-
|
r
|
ra
|
re
|
rê
|
ri
|
-
|
ro
|
rô
|
rơ
|
ru
|
rư
|
s
|
sa
|
se
|
sê
|
si
|
sy
|
so
|
sô
|
sơ
|
su
|
sư
|
t
|
ta
|
te
|
tê
|
ti
|
ty
|
to
|
tô
|
tơ
|
tu
|
tư
|
th
|
tha
|
the
|
thê
|
thi
|
-
|
tho
|
thô
|
thơ
|
thu
|
thư
|
tr
|
tra
|
tre
|
trê
|
tri
|
-
|
tro
|
trô
|
trơ
|
tru
|
trư
|
v
|
va
|
ve
|
vê
|
vi
|
vy
|
vo
|
vô
|
vơ
|
vu
|
-
|
x
|
xa
|
xe
|
xê
|
xi
|
xy (1)
|
xo
|
xô
|
xơ
|
xu
|
xư
|
2) Dạy chữ ráp vần: Khi trẻ
đã biết 4 loại vần rồi thì gần như chúng cũng đọc được chữ ráp vần, nghĩa là
chỉ cần dạy chừng 10 chữ ráp vần thì chúng sẽ tự biết cách đọc được chữ ráp
vần, chúng biết còn hơn 10 – 20 lần mình dạy.
3) Dạy chữ hoà âm: Mình
chỉ cần dạy cách tách làm đôi chữ phức tạp hoà âm ra thành âm của vần xuôi có o
hay âm của vần xuôi có u với âm của vần ngược hay vần hợp âm, rồi dạy
đọc liền 2 âm đó lại. Chỉ chừng vài lần thì học sinh sẽ tự học được và
đọc được tất cả các chữ Việt.
Dạy theo nghiên cứu “HAI ÂM
RÁP LẠI TẠO THÀNH MỘT ÂM MỚI” chúng ta sẽ tránh được cách dạy từ chương,
bắt học trò đánh vần dài ê a mà chúng chẳng biết gì cả. Dạy
cách nầy chúng ta tập cho học sinh vận dụng trí óc để hiểu biết và tự học, mở
mang nghĩ suy của chúng. Chúng sẽ không chán nãn khi học, mà tự thấy phấn khởi
và nhớ dai.
Nguyễn Phước Đáng,
Email: namkymietvuon@gmail.com
Tel: (408) 441-0559
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire