Lịch Sử Quân Sử Việt Nam
Lịch Sử Quân Sử Một Ngàn Năm Thứ Hai
Lữ-Đoàn IV Nhảy Dù Khúc-Quanh Oan-Nghiệt
Mũ Đỏ Lê-Minh-Ngọc (Đặc-San Mũ Đỏ)
Ngày 29 tháng 4, 10 ngày sau khi những chuyến
phi cơ C 130 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất, khu vực DAO, chở những
đoàn người tỵ nạn, gồm đủ cả phụ nữ, trẻ em, đàn ông, quân nhân mặc
thường phục lên đường đi tỵ nạn ở đảo Guam, ngày mà những chiếc xà lan
lớn được kéo rời bến Khánh Hội mang đầy ắp đồng bào ta ra đi, ngày mà
từng đoàn tàu đánh cá rời Bến Đá Vũng Tàu trong một chuyến đi không
mang theo lưới, trực chỉ Đệ Thất Hạm Đội chờ ở ngoài khơi Vũng Tàu từ
nhiều ngày, đúng ngày 29 tháng 4 đó, Lữ Đoàn IV Nhảy Dù đánh cư xá
Thanh Đa.
Các đơn vị địch trên đường tiến quân, «trực
chỉ Dinh Độc Lập», phải băng qua cầu Tân Cảng. Và con đường để tiến tới
cầu Tân Cảng, từ phía Bắc đi xuống, xét về mặt quân sự, con đường tốt
nhất là băng qua cư xá Thanh Đa. Nhìn trên bản đồ quân sự, anh em Lữ
Đoàn IV biết rõ điều đó, tin tức thám báo xác nhận. Chúng tôi chọn lựa
chận địch ở vùng cư xá Thanh Đa. Tết Nguyên Đán trôi qua đã ba tháng.
Những tiếng nổ của súng cá nhân, vũ khí cộng đồng, tạc đạn và pháo
cùng những lớp khói trắng bay lên từng cụm, sự hoang vắng của khu nhà
mà dân chúng đã bỏ đi, mang lại cho khu cư xá ở ven đô màu sắc của một
thị trấn miền Trung thu nhỏ của một ngày đầu năm hay một mùa hè của một
thị trấn miền Trung bảy năm trước. Địch quân, dù hỏa lực mạnh hơn, mặc
dù quân số đông hơn không dưới ba lần, mặc dù anh em chúng tôi bị chi
phối không ít bởi tình hình tổng quát của đất nước, đoàn quân viễn
chinh từ phương Bắc không tiến lên được một thước. Tôi muốn nói: cánh
đồng ruộng ở trước mặt vừa chiếm được giờ trước, sau từng đợt xung
phong bị đốn ngã bởi những xạ thủ đại liên Mũ Đỏ, chưa kịp đào hố cá
nhân, chưa kịp thiết lập công sự, bộ đội Văn Tiến Đũng đã bị đẩy lùi
lại vị trí mà họ chiếm giữ lúc trước, chân lùi chấn động trước những tạc
đạn ném ra và những tiếng hô xung phong của anh em chúng tôi. Khu nhà ở
phía hữu bị trọng pháo cày nát sau khi đốn ngã cả đại đội địch tiến
hàng ngang, hổ trợ bởi một đại đội khác bọc ngang hông, sau nhiều giờ
chiến đấu, tại ngôi nhà chỉ còn là đống gạch đỏ, tiếng máy liên lạc của
người lính truyền tin Mũ Đỏ bắt tay trên tần số với bộ tư lệnh Dù vẫn
đều đặn: «Tôi nghe anh năm trên năm, tôi nghe anh…»
Đúng 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4, anh em Dù
phụ trách truyền tin báo cáo cho tôi: «Gọi bộ tư lệnh Sư đoàn Dù không
thấy trả lời». Chúng tôi giả thuyết, trục trặc kỷ thuật. Người này nói
hay là bố truyền tin ở bộ tư lệnh chạy ra kiếm khúc bánh mì, vốn không
phải là thói quen của binh sĩ Dù đang làm nhiệm vụ. Người khác giả
thuyết đang có vụ giao thượng phiên hạ phiên gì đây.
Nhưng làm gì có vụ bàn giao gián đoạn truyền
tin nơi bộ tư lệnh của một quân chủng, nơi mà truyền tin được coi như
là, trên nguyên tắc cũng như trên thực tế, phải hoạt động hai mươi bốn
trên hai mươi bốn. Tôi nói với Trung sĩ Truyền Tin thử lại. Tiếng máy
sè sè. Tiếng gọi liên hồi «anh nghe tôi không, anh nghe tôi không, xin
trả lời…». Không một âm thanh đáp lại. Tôi hoàn toàn không biết bộ tư
lệnh Dù bị địch chiếm, cơ phận truyền tin của bộ tư lệnh trúng pháo
địch, một cuộc phá hoại nào đã xảy ra, điều tôi biết là ngày 29 tháng 4
năm 1975 chúng tôi mất liên lạc với Đại Bàng. Tôi không biết với mọi
người ba tiếng «mất liên lạc» có âm hưởng như thế nào. Với những người
chọn cuộc đời đạp chân xuống đất tự trời cao như anh em Dù chúng tôi,
ba chữ «mất liên lạc» không phải là ba tiếng xa lạ. Cá nhân binh sĩ
chiến đấu mất liên lạc với Tiểu đội, với Trung đội gốc. Phải tự lực
cánh sinh, mưu sinh thoát hiễm, tìm về đơn vị trình diện. Hai Đại đội
không tìm gặp nhau ở địa điểm hẹn, mất liên lạc, kế hoạch A lập tức
được thay bằng kế hoạch B. Một mặt. Mặt khác liên lạc liên lạc với bộ
chỉ huy cao hơn. Dù vậy, dù «Mất liên lạc» không phải là một từ xa lạ,
sự gián đoạn truyền tin giữa một Lữ đoàn Dù và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn không
phải là chuyện xảy ra mỗi ngày. Với tôi đó là lần đầu tiên. Và, cảm
tưởng tới với tôi là cảm tưởng khủng khiếp. Như tim ngừng đập. Như thời
gian bỗng nhiên dừng lại.
Cái gì đã xẩy ra.
Tôi quay ra gọi Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Sợi
dây này còn. Sợi dây nối buộc Lữ Đoàn Dù chiến dấu ven đô trong những
ngày cuối cùng gồm có hai sợi lớn. Một là sợi dây nối kết chúng tôi với
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Và với bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Biệt Khu Thủ Đô
trả lời. Chúng tôi nghe thấy nhịp tim của Biệt Khu Thủ Đô vẫn còn đập.
Nghe năm trên năm. Bên Biệt Khu không cho chúng tôi biết được chi tiết
gì bên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn.
Không sao. Còn nghe thấy nhịp đập của trái tim
Biệt Khu Thủ Đô cùng đời sống vẫn còn. Ba giờ chiều ngày 29 tháng 4,
tức là, anh em Dù tiếp tục chiến đấu ven đô, trái tim Biệt Khu Thủ Đô
ba giờ đồng hồ sau khi trái tim Bộ Tư lệnh Sư Đoàn đứng lại.
Không cho chúng tôi ấp ủ hy vọng, không dành
một mẩu trời xanh nào cho giả thuyết và ảo tưởng, cũng trong buổi
chiều khắc khe đó, ông Vũ Văn Mẫu đương kim Thủ Tướng của chính phủ
Dương Văn Minh cất tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn, kêu gọi các đơn
vị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa án binh tại chỗ và bỏ súng. Mười
sáu năm quân vụ, mười sáu năm tuổi lính, tôi đã nghe được nhiều thứ
lệnh, tôi luôn luôn thi hành lệnh, gồm cả những lệnh đi vào chỗ chết,
lệnh tiến sang Hạ Lào, lệnh đánh đến khi ngã xuống ở Phá Tam Giang,
chưa bao giờ tôi không thi hành lệnh. Nhưng lệnh đứng yên tại chỗ, bỏ
súng xuống, dơ hai tay lên, anh em tôi và tôi, chúng tôi chưa bao giờ
nghe lệnh này bao giờ. Tôi không đứng yên tại chỗ. Chúng tôi không nằm
yên ở cư xá Thanh Đa. Chúng tôi không dơ tay lên cao. Chúng tôi không
bỏ súng xuống.
Ý tưởng mơ hồ không thi hành lệnh đưa xuống từ
Thủ Tướng Mẫu hiện ra trong trí tuệ tôi. Hội ý với Thiếu tá Phú, anh em
thường gọi thân yêu là Phú mập, tiểu đoàn 15, với trung tá Bằng, tức
Bùi Đăng, tiểu đoàn 16, và Thiếu tá Tâm, người Huế, anh em gọi thân yêu
là Tâm trọ trẹ, tôi quyết định đưa hai tiểu đoàn 14 và 15 về vùng trại
Hoàng Hoa Thám, Bà Quẹo, bắt tay với Tiểu đoàn 16 nằm ở Gò Vấp kế bên.
Tại sao tôi chọn quyết định sau khi lệnh tan hàng và án binh ban ra,
đưa anh em Dù Lữ Đoàn IV về Hoàng Hoa Thám? Hy vọng mơ hồ về một cơ
may khác cho vận nước, không muốn nhận lệnh đầu hàng của TT Mẫu? Bản
năng tự vệ của người lính chiến không chịu trao vũ khí và sinh mạng cho
kẻ thù mới trực diện qua họng súng hôm qua? Hay vì, giống như loài
chi trời, bởi bản năng tiền định, luôn bay về lượn vòng trên tổ cũ,
trước khi khởi đi chuyến viễn trình đến tận hư vô?
Lữ Đoàn IV ra đời vì sự sụp đổ của các lực
lượng địa phương. Đứng từ vị trí hiện tại nhìn lại, cuộc chiến tranh nào
cũng vậy, trong giai đoạn cuối, thường có những đoàn quân được thành
lập vội để đáp ứng những nhu cầu cấp bách của thời điểm lúc đó.
Chính vào những ngày tháng đầu năm 1975 đó, Lữ đoàn IV Dù được thành lập.
Lữ Đoàn IV đã thực sự ra đời, đã thực sự chiến
đấu, nhiều chiến hữu của chúng tôi đã ngã xuống đã đổ máu trên lòng đất
mẹ, cho đến giờ phút cuối cùng. Hay đúng hơn, có những đại đội chiến
đấu của Lữ Đoàn IV Dù còn đứng thẳng, đạn lên nòng, tiến thẳng vào chỗ
chết với những tràng cười ngạo nghễ khi mà lệnh bỏ súng quy hàng đã ban
ra. Lữ Đoàn IV Dù không có tên trong bản cấp số của Bộ Tổng Tham Mưu.
Khi còn theo học trong quân trường, sơ đồ tổ chức của QLVNCH được giảng
dạy thường khiếm khuyết một cơ quan là phòng 7 Tổng Tham Mưu. Nhưng
thực sự trong bảng cấp số của Bộ Tổng Tham Mưu có phòng 7, dưới một
danh hiệu khác. Nhưng Lữ Đoàn IV Dù không có trong bản cấp số nổi cũng
chẳng có trong bảng cấp số chìm, chẳng có trong bảng cấp số sở cũng
không có trong chỗ đứng nào trong bảng cấp số kín. Thực tế đất nước và
chiến trường hẳn là phải giao động tới mức độ to lớn nào làm cho các
cấp chỉ huy tối cao chỉ còn thời giờ để lo gia tăng đoàn quân chiến đấu
bù lại phần nào những tan rã, chẳng còn thì giờ để điều chỉnh hành
chánh. Cuối tháng 12 năm 1974 đó tôi đang phục vụ tại Lữ Đoàn II Dù.
Tôi giữ nhiệm vụ Lữ Đoàn Trưởng. Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, lúc đó là tướng Lê
Quang Lưỡng, ra lệnh cho tôi về làm trưởng phòng 3. Chỉ ít tuần sau,
đầu tháng 1-1975, Chuẩn tướng Lưỡng bất ngời gọi tọi vào trình diện.
Lệnh của tướng tư lệnh rõ ràng, chính xác và cũng không kém phần bất
ngờ «Anh lên đường về Sài Gòn ngay. Thành lập ngay cho bằng được, Lữ
Đoàn IV Dù». Tôi bày tỏ nỗi kinh ngạc. Dù có thêm một Lữ Đoàn nữa sao?
Tôi là Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn kỳ lạ đó sao? Anh em Dù chúng tôi nghe ba
chữ Lữ Đoàn IV cũng khác lạ như anh em quân nhân nói chung nhắc đến…
«quân đoàn năm». Chuẩn tướng Lưỡng cười nhẹ và đáp: «Đúng vậy, tôi nhờ
anh về lo thành lập cho tôi càng sớm càng tốt và báo cáo diễn tiến hoạt
động của anh về sự thành lập Lữ Đoàn IV cho tôi rõ. Tôi chào Chuẩn
tướng tư lệnh và lên đường đi Sài Gòn ngay để thi hành chỉ thị.
Thành lập một Lữ Đoàn chiến đấu có danh hiệu
là Thiên Thần Mũ Đỏ trong những ngày tháng dầu sôi lửa bỏng này gồm có
bốn phân vụ căn bản:
Tiếp nhận quân số, trang bị cho đơn vị, thành
lập hậu cứ và tổ chức hành quân. Thành lập một đơn vị quân đội, dù thuộc
bất cứ binh chủng thì cũng phải có ba điều kiện trên, phải có binh sĩ,
hạ sĩ, sĩ quan, phải có vũ khí, phải có hậu cứ. Thành lập xong xuôi
mới tính đến việc hành quân. Lữ Đoàn IV phải thực hiện 4 mục tiêu này
trong cùng một thời gian. Quân sốLữ Đoàn IV được rút từ các tiểu đoàn
Dù khác. Mỗi nơi rút về một đại đội. Sĩ quan lấy từ thăng số. Cán bộ
rút từ Bộ Binh. Có cả những anh em thương bệnh binh đủ các cấp nhập vào
Lữ Đoàn IV đóng góp phần xương máu cho Tổ Quốc. Trong vòng một tháng
tôi thành lập xong hai tiểu đoàn. Không có Lữ Đoàn phó, không cò sĩ
quan hành quân. Thành lập bao nhiêu ra mặt trận bấy nhiêu. Có bao nhiêu
đánh bấy nhiêu. Với tiểu đoàn đầu tiên, anh em chúng tôi trấn giữ và
hành quân vùng tiểu khu Gia Định, lúc đó áp lực nặng ngàn ký. Bộ chỉ
huy Lữ Đoàn chỉ có một xe Jeep của tôi. Qua tháng sau thành lập tiểu
đoàn thứ ba, dù quân số còn thiếu hụt. Tháng hai 75, với nhiệm vụ bảo
vệ Biệt Khu Thủ Đô. Lữ Đoàn IV tiến thẳng, đáng thẳng vào mật khu An
Sơn (Lái Thiêu), như sự thể hiện binh pháp cổ điển «cách phòng thủ tốt
nhất là tấn công». Lữ Đoàn IV thực hiện trục cản xuyên từ An Sơn qua
Phú Giáo chận đường địch quân từ Hố Bò băng xuống như thác đổ.
Những cuộc chạm súng không phải là hằng tháng
hằng tuần, mà là chạm súng hằng đêm. Mỗi đêm mỗi đánh. Mỗi bình minh
những Thiên Thần Mũ Đỏ giao cho Biệt Khu Thủ Đô xác định và những chiến
lợi phẩm. Trong khi đó, tôi vẫn tiếp tục gom cho đủ số của tiểu đoàn
Dù thứ ba của tiểu đoàn 15 do Thiếu tá Phú, tức Phú mập chỉ huy. Gia
Định bị đe dọa, Biệt Khu Thủ Đô ra lệnh cho chúng tôi vào An Sơn, Phú
Giáo, Đức Hòa suy sụp, chưa kịp nghĩ ngơi lấy một ngày, anh em chúng
tôi lại lên đường đi làm sạch rừng Ram Răm, Kinh Ba Tà, mật khu Lý Văn
Mạnh…Chỉ một Lữ Đoàn tận lập, binh sĩ và sĩ quan gồm cả thặng số và
thương bệnh binh, đúng thời điểm hỏa lực địch mạnh hơn bao giờ hết,
chúng tôi làm nhiệm vụ giữ vững vòng đai ven đô. Nói về hỏa lực địch,
riêng về SA7, súng phòng không của địch mạnh hơn bao giờ hết. Trong khi
đó anh em chúng tôi là một đơn vị hành quân tự túc, nói theo thành ngữ
của một nhà thơ, chúng tôi chiến đấu «một mình một ngựa» , đơn vị hành
quân tự túc, không có không yểm. Pháo đội cũng rút ra từ ba Lữ Đoàn đàn
anh để hình thành một đội pháo tạm. Kinh nghiệm chiến trường, khả năng
chiến đấu cao, kỷ thuật đánh tài tình của lính Nhảy Dù thay thế cho
những yếu kém về vũ khí và yểm trợ đã cho phép Lữ Đoàn IV mang về đêm
thì súng phòng không, đêm thì hỏa tiển SA7. Trong những tài liệu vũ khí
mà chúng tôi mang về cho Biệt Khu Thủ Đô có cả những lá cờ đỏ hình tam
giác thêu chữ màu vàng: «Mục tiêu Dinh Độc Lập». Tất cả những thứ lỉnh
kỉnh đó chúng tôi đều trình lên Đô Đốc Chung Tấn Cang, lúc đó là Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Lần lượt ổn định từng khu vực, mỗi khu vực ổn
định xong, chúng tôi giúp các đơn vị Địa phương quân tái tổ chức. Bộ chỉ
huy Lữ Đoàn của chúng tôi đóng ở trường Sinh Ngữ Quân Đội cũ. Đầu
tháng 4, 1975, tình hình bỗng nhiên nặng gấp bội.
Tôi nhớ rất rõ. Đầu tháng 4 năm 1975, Việt
cộng xâm nhập núi Bửu Long, Biên Hòa rồi tiến xuống, chiếm khu Quốc lộ 1
cũ, xâm nhập Quốc lộ 1 mới ở cầu Rạch Chiếc nối liền khu Hải Quân
Giòng Ông Tố, do đó cắt đứt Quốc lộ 1 giữa Biên Hòa và Sài Gòn.
Ngày 10 tháng 4, tôi nhận được lệnh cho phân tán mỏng các đơn vị, chỉ để lại tiểu đoàn nằm phía Bắc nghĩa trang Gò Vấp cũ. Tiểu đoàn 15 lãnh nhiệm vụ này. Hai tiểu đoàn còn lại kéo xuống nhà máy nước Thủ Đức, một giữ khu cư xá Thanh Đa, cầu Rạch Chiếc và Giòng Ông Tố. Ngày đánh, Đêm đánh. Mỗi lúc chạm súng mỗi nhiều hơn. Mỗi ngày đánh một đậm hơn. Ngày 27 tháng 4 lục mà trong lòng thủ đô, đồng bào đã chạy xuống đường nhốn nháo tìm lối thoát thân, những trục xâm nhập quốc lộ cũ bị xâm nhập nặng nề, anh em chúng tôi vẫn đứng yên ở vị trí chiến đấu. Đánh ở Thanh Đa, đánh ở Hóc Môn. Đụng tóe lửa trong ruộng đồng Thủ Đức. Bộ chỉ huy nhẹ của Lữ Đoàn cũng di chuyển lên nhà máy nước Thủ Đức luôn. Chúng tôi trong những ngày chót đó vẫn giữ vững quốc lộ 1, giữ được an ninh cho những bộ phận của Bộ tư lệnh Quân đoàn III Trường Chỉ Huy Tham Mưu, Sư Đoàn III Không Quân v.v…di chuyển an toàn về Sài Gòn trên cả hai quốc lộ là Quốc Lộ mới và cũ. Chính từ những hố tác chiến ven đô anh em chúng tôi nhìn lên trời xanh theo dõi từng cột khói bốc lên ở phi trường Tân Sơn Nhất tạo ra chiều 28 tháng 4 do những A37 bay từ Phan Rang vào oanh kích. Chính ở mặt trận Thanh Đa anh em chúng tôi nghe tiếng đạn đại pháo liên hồi rót vào khu vực Đao và khu Bà Quẹo, phi trường đêm 28.
Ngày 10 tháng 4, tôi nhận được lệnh cho phân tán mỏng các đơn vị, chỉ để lại tiểu đoàn nằm phía Bắc nghĩa trang Gò Vấp cũ. Tiểu đoàn 15 lãnh nhiệm vụ này. Hai tiểu đoàn còn lại kéo xuống nhà máy nước Thủ Đức, một giữ khu cư xá Thanh Đa, cầu Rạch Chiếc và Giòng Ông Tố. Ngày đánh, Đêm đánh. Mỗi lúc chạm súng mỗi nhiều hơn. Mỗi ngày đánh một đậm hơn. Ngày 27 tháng 4 lục mà trong lòng thủ đô, đồng bào đã chạy xuống đường nhốn nháo tìm lối thoát thân, những trục xâm nhập quốc lộ cũ bị xâm nhập nặng nề, anh em chúng tôi vẫn đứng yên ở vị trí chiến đấu. Đánh ở Thanh Đa, đánh ở Hóc Môn. Đụng tóe lửa trong ruộng đồng Thủ Đức. Bộ chỉ huy nhẹ của Lữ Đoàn cũng di chuyển lên nhà máy nước Thủ Đức luôn. Chúng tôi trong những ngày chót đó vẫn giữ vững quốc lộ 1, giữ được an ninh cho những bộ phận của Bộ tư lệnh Quân đoàn III Trường Chỉ Huy Tham Mưu, Sư Đoàn III Không Quân v.v…di chuyển an toàn về Sài Gòn trên cả hai quốc lộ là Quốc Lộ mới và cũ. Chính từ những hố tác chiến ven đô anh em chúng tôi nhìn lên trời xanh theo dõi từng cột khói bốc lên ở phi trường Tân Sơn Nhất tạo ra chiều 28 tháng 4 do những A37 bay từ Phan Rang vào oanh kích. Chính ở mặt trận Thanh Đa anh em chúng tôi nghe tiếng đạn đại pháo liên hồi rót vào khu vực Đao và khu Bà Quẹo, phi trường đêm 28.
Anh em tạp chí Đời hỏi tôi đoạn văn của nhà
văn Pháp Jean Lartéguy về những phút chót của Nhảy Dù, Lartéguy và một
số nhà báo ngoại quốc khác mô tả những Thiên Thần Mũ Đỏ Việt Nam. Anh
em Dù, giống như những hiệp sĩ Nhật Bản thời xưa, cất tiếng cười to,
xác gươm tiến vào chỗ chết khi bị vây khốn, đã đi theo đồ hình tấn công
đại đội tiến về phía chiến xa địch, hạ từng chiếc, bắn tới viên đạn
cuối cùng, rồi ngã gục, súng trên tay. Nhiều bằng hữu nhắc đến hình ảnh
những Hoàng Diệu tuẫn tiết đời xưa. Tôi không biết giá trị của những
bình luận đó ra sao. Điều tôi biết chắc là khi những con đại bàng trở
về tổ cũ bay lượn vòng chót, sau khi ông Mẫu thay mặt tướng Minh, hạ
lệnh bỏ súng quy hàng, đêm hôm 29, nhiều giờ sau khi lệnh án binh và nạp
súng ban ra, anh em tiểu đoàn 14 và 15 lặng lẽ cột chặt dây giày. Kiểm
soát lại vũ khí. Đóng chặt cơ bẩm, mở khóa an toàn. Những người lính
Mũ Đỏ lặng lẽ, không ai nói một lời, trong sự yên lặng lớn của ban đêm.
Rồi như xé toang màn đêm dày đặc, những tiếng nổ chấn động vang dội,
những tia sáng tóe lên. Mười sáu chiếc xe tăng địch bị đốn gục trên
đoạn đường từ Bà Quẹo đến Tham Lương. Sáng 30, chúng tôi đi trong vùng
Tân Bình. Nhìn mặt trời mọc trên quê mẹ một lần chót rồi thay áo quần.
Tan hàng.
Lần đầu tiên tan hàng không hồi âm «cố gắng» như đã ngàn lần hô to.
Mũ Đỏ Lê-Minh-Ngọc.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire