Ai
về Sông Tương
Bài
viết cảm động về Thầy Ngô Văn Giảng - nhạc sỹ Thông Đạt tác giả
nhiều bài tân nhạc nổi tiếng trong đó có bài Ai Về Sông Tương . Mời các anh chị
nghe lại bài hát này qua giọng ca bất hủ của Elvis Phương . Bài này Elvis
hát lúc còn rất trẻ, chất giọng và phối âm có một chút cổ điển nhưng hay .
Please
enjoy, have a nice weekend . kim yen
http://www.youtube.com/watch?v=M8LQ57orF1Q&noredirect=1
Thầy Ngô Văn
Giảng vừa tạ thế tại Úc, hưởng thọ 89 tuổi. Tin buồn loan ra, tôi bâng khuâng
nhớ về 54 năm trước, năm 1959, thầy là giáo sư âm nhạc của chúng tôi tại trường
Hàm Nghi, Huế. Thuở ấy, thầy mới ngoài 30, dáng điệu phương cường, đi chiếc xe
gắn máy hiệu Zunndapp của Đức nổ bịch bịch nổi bật cả sân trường.
Tôi còn nhớ
ngày đầu tiên khi Thầy bước vào lớp đệ Thất B1 của chúng tôi, trò Trương Phước
Ni bắt tay làm loa đứng dậy chào thầy bằng câu: “Đường trường xa muôn vó câu
bay dập dồn…” Thầy cười rất tươi cho cả lớp, nhưng cũng lâp nghiêm nhìn chú
học trò rắn mắt ở dãy bàn cuối lớp. Đây là câu mở đầu của hùng ca Lục Quân
Việt Nam, một trong những bài ca mang tiết điệu hành khúc, hùng tráng nổi
tiếng nhất của Thầy – nhạc sĩ Văn Giảng – như Thúc Quân, Đêm Mê Linh,
Qua Đèo, Nhảy Lửa…
Thầy đã là
một nhạc sĩ thành danh, nổi tiếng trong cả nước, trước khi trở thành giáo sư âm
nhạc của trường Hàm Nghi. Nhưng nhiều người chỉ biết Văn Giảng qua những
bản hùng ca. Bởi thế, vào mấy năm đầu thập niên 1950, khi bản nhạc để đời của
Thầy, Ai Về Sông Tương, trở thành một bản tình ca thời danh với tên tác
giả là Thông Đạt có lẽ ít ai để ý rằng, trong góc khuất của những tâm
hồn nghệ sĩ thì bên cạnh nhịp đời hào hùng vươn tới vẫn có tiếng thở dài chan
chứa điệu buồn.
Hai niên
khóa học với nhạc sĩ Văn Giảng, tôi thích học nhạc thì ít mà mê Thầy kể chuyện
thì nhiều. Cứ mỗi cuối giờ, Thầy có một câu chuyện kể về các giai thoại âm
nhạc. Thích nhất là những chuyện thâm cung bí sử của những nghệ sĩ âm nhạc tài
hoa. Chẳng hạn như bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác, Thầy xướng âm
lên và phân tích cho chúng tôi nghe rằng, tiết điệu của bài ca đó có những
trường canh trãi dài xa vắng và âm hưởng thương nhớ quặn lòng “rất Tây Phương”
vì đây là bản nhạc do một người lính Đức trong đội quân viễn chinh của Pháp
viết lên giai điệu. Nhạc sĩ Hoàng Giác chỉ soạn ca từ… Hoặc như bản nhạc Trầm
Hương Đốt của Bửu Bác, xuất xứ là bài Hải Triều Âm. Đây là
một trong những bản nhạc nghi lễ đầu tiên dùng trong sinh hoạt chùa viện đã bứt
phá từ giai điệu ngũ âm “Đăng Đàn Cung” để tiến lên bát cung của phương Tây.
Bởi vậy mà ảnh hưởng âm điệu “thánh ca nhà thờ” như âm vang trầm trầm không cao
không thấp quá tầm uyển thanh của organ thể hiện rất rõ trong giai điệu của bản
nhạc.
Nhưng thú vị
hơn cả là lịch sử bản nhạc Ai Về Sông Tương. Thầy kể rằng, thời trai
trẻ, Thầy ở Thành Nội và yêu một cô gái ở Kim Long – Kim Long có gái mỹ
miều; trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi… mà – nhưng duyên không
thành vì gia đình nho phong của cô bé không có cái nhìn thiện cảm với đời nghệ
sĩ, nhất là nghệ sĩ trong ngành âm nhạc, xướng ca… Thế là chia tay và cô bé đi
lấy chồng!
Rồi một hôm,
Thầy vào rạp Xi-nê Tân Tân, gần cầu Trường Tiền bên bờ Bắc sông Hương để coi
phim “Bé Nhà Trời” (Les enfants du paradis). Ngay trước mắt Thầy, ờ hàng
ghế trước có một cô Bé tóc dài. Tuy nhìn không rõ mặt nhưng từ dáng dấp đến
hương tóc thoang thoảng mùi hoa Ngâu của người thiếu nữ đã làm sống lại hình
ảnh người tình Kim Long “ngày xưa Hoàng Thị” ấy. Thầy bị xúc động đến nỗi không
thể còn ngồi lại lâu hơn trong rạp chiếu bóng để xem phim, nên vội vàng ra khỏi
rạp. Thầy cỡi chiếc xe đạp Dura Mercier của Thầy và đạp xe dọc theo bờ sông
Hương để vô cửa Thượng Tứ vào nhà ở Thành Nội. Thoáng chốc dòng sông Hương hiện
ra như là dòng sông Tương chia biệt trong truyện tình cổ thư Trung Quốc. Thầy
vừa đến nhà là dựng ngay chiếc xe đạp ngoài hiên, đi nhanh vào nhà và vội vã
sáng tác bản nhạc bằng tất cả sự hoài niệm và háo hức nghệ thuật với sự chấn
động dị thường như phép lạ hóa thân. Bản nhạc Ai Về Sông Tương được viết
ra trong vòng mười lăm phút!
Sau đó, Thầy
bí mật ký tên là Thông Đạt và chép một bản gởi ra đài phát thanh toàn
quốc là đài Pháp Á ở Hà Nội. Mấy hôm sau, Mạnh Phát vừa là nhạc sĩ vừa là ca sĩ
đã hát bản Ai Về Sông Tương lần đầu trên đài Pháp Á Hà Nội. Bản nhạc
sáng tác năm 1949 đã nhanh chóng nổi tiếng trong toàn cả nước. Đã trải qua hơn
60 năm, những mối tình đã cũ, những hẹn hò thuở răng trắng tóc xanh đã thành
“răng long đầu bạc”. Nhưng Ai Về Sông Tương vẫn mới như thời gian là
nước chảy qua cầu, vẫn còn là tiếng lòng tình tự của những đôi tình nhân ước
hẹn không thành. Bản nhạc với một giai điệu thướt tha lãng mạn, lời lẽ đậm nét
hoài niệm trữ tình làm dậy lên nguồn tình cảm sướt mướt, mượt mà mà rất “sang”
ấy như một dòng suối tươi tắn, mát dịu trong một hoàn cảnh tạm hồi sinh sau
cuộc chiến:
Ai có về bên
bến sông Tương
Nhắn người
duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm
mối tơ vương
Tháng với
ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ
bóng em luôn
Mong vài lời
em ngập hương...
Cũng theo
lời Thầy vui vui kể chuyện rằng, Mạnh Phát, là bạn thân của Văn Giảng, đã nhờ
Văn Giảng đến nhà ấn hành tân nhạc gần như độc nhất thời bấy giờ là nhà xuất
bản Tinh Hoa ở Huế do ông Tăng Duyệt làm giám Đốc để hỏi cho ra Thông Đạt là ai
ngay sau khi bản nhạc phát trên đài Pháp Á. Thầy tảng lờ như không hay biết.
Nhưng mãi đến ba tháng sau thì tông tích của Thông Đạt mới được tiết lộ. “Mạnh
Phát vô Huế chơi khi biết tui là Thông Đạt, hắn đấm lưng tui thùi thụi như rứa thì
thôi!” Thầy Văn Giảng cười vui kể lại.
Một lần
trong giờ học nhạc, trò Nguyễn Xuân Huế là tay đọc tiểu thuyết đệ nhất trong
lớp hỏi Thầy: “Thưa Thầy, tại sao mình có sông Hương, mình cũng có Hương giang
đầu, Hương giang vỹ mà Thầy lại phải vay mượn sông Tương của Tàu như rứa ạ?”.
Thầy trả lời, đại khái là tại sông Hương chưa có chuyện tình nào nổi tiếng
trong tình sử như sông Tương. Tương Giang là một con sông ở Trung Hoa, bắt
nguồn từ núi Duyên Hải, chảy qua Hồ Nam dài hơn hai ngàn dặm. Còn ý “ai về sông
Tương” của Thầy trong bản nhạc là bắt nguồn từ cảm hứng của bốn câu thơ tình sử
trích từ khúc Trường Tương Tư của nàng Lương Ý, đời Hậu Chu. Nàng và Lý
Sinh yêu nhau say đắm nhưng phải chia tay. Nàng làm thơ mong gửi gấm nguồn tâm
sự đau khổ khi phải xa cách người yêu:
Quân tại
Tương Giang đầu
Thiếp tại
Tương Giang vĩ
Tương tư bất
tương kiến
Đồng ẩm
Tương Giang thủy
**
(Chàng ở đầu
sông Tương
Thiếp ở cuối
sông Tương
Nhớ nhau
không thấy mặt
Cùng uống
nước sông Tương)
Trong những
ngày phong trào đấu tranh Phật giáo xẩy ra tại Huế năm 1963, có lần tôi gặp
Thầy trên con đò Thừa Phủ, Thầy nói là lên chùa Từ Đàm nhưng đường sá trở ngại
phải đi đò sang sông rồi đi bộ lên chùa. Khi đò ra giữa sông tôi nghịch ngợm
hỏi Thầy: “Thưa Thầy, đã có ai về sông Tương chưa ạ?” Thầy cũng cười đáp lại: “Đối
với tôi thì sông Tương là sông Hương. Tôi chỉ mong cuối đời về lại con sông
này…” Ngày đó và bây giờ, tôi tự hiểu khái niệm “cuối đời về lại” của Thầy
là linh khí của con người luân lưu sống giữa hồn thiêng sông núi. Nếu vậy, thì
hôm nay Thầy đã về sông Tương.
Đó là lần
cuối tôi gặp Thầy Văn Giảng. Nhưng sau đó không lâu, tôi lại được “gặp” Thầy
qua một tác phẩm mang tính chất đạo ca của khách hành hương mà tôi đã gặp trên
chuyến đò Thừa Phủ: Nhạc phẩm Từ Đàm Quê Hương Tôi. Lần nầy Thầy để tên
tác giả là Nguyên Thông. Bản nhạc tuy được liệt vào thể loại nhạc tôn
giáo nhưng cả giai điệu lẫn ca từ đã vượt ra ngoài khuôn khổ giới hạn của văn
hóa chùa viện. Cảm quan nghệ thuật sáng tạo của người nhạc sĩ tài hoa đã dung
hóa được tính chất tráng liệt của hùng ca như Thúc Quân, Lục Quân Việt Nam,
làn điệu mượt mà lãng mạn của tình ca như Ai Về Sông Tương, Ai Đưa Con Sáo
Sang Sông và biểu tượng thiêng liêng, siêu thoát của đạo ca như Mừng Đản
Sanh, Ca Tỳ La Vệ, Từ Đàm Quê Hương Tôi:
Quê hương
tôi miền Trung
Sớm hôm
chuông chùa nhẹ rung
Tiếng muôn
đời hồn tổ tiên kiêu hùng
Ôi uy nghiêm
bóng chùa Từ Đàm
Nơi yêu
thương phát nguồn đạo vàng
Qua bao
giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn…
Những nhạc
sĩ tài hoa của nền tân cổ nhạc Việt Nam thuộc thế hệ Chiến Tranh Việt Nam lần
lượt ra đi. Nghệ thuật và người nghệ sĩ đến với đời và ra đi không bằng tấm vé
một chiều. Tác phẩm để lại cho thế hệ kế thừa sẽ làm cho con đường sáng tạo
nghệ thuật rộn ràng và phong quang hơn. Với hơn 50 tác phẩm âm nhạc phong phú
giá trị nghệ thuật để lại cho đời, nhạc sĩ Văn Giảng đã cống hiến phần tinh hoa
lớn nhất của đời mình vì lợi lạc của tha nhân mà các nhà tu Phật giáo thường
gọi là “công hạnh viên thành”. Thế hệ đàn em, học trò như chúng tôi có điểm tựa
tinh thần đáng tự hào cùng tấm lòng trân trọng trong giờ phút tưởng niệm và bái
biệt Thầy.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire