Đừng
nghỉ giaù là không mang nợ, đừng tưởng cho mượn là cho luôn và
đừng tham tiêu thụ , vì càng có nhiều ham muốn thì càng vất
vả cho sự ham muốn giả tạo chứ không do nhu cầu.
Caroline Thanh Hương(America's Coming Bankruptcy: The Real Crash)
- Peter Schiff
Hoa Kỳ khánh tận:
Đến lúc phải thú nhận điều đó
Mọi người
đều biết nợ công của chúng ta quá lớn.
Nợ lớn đến độ khó đo lường
được kích thước của nó.
Cả hai đảng
đều nói rằng họ muốn cắt giảm
nợ, nhưng không đảng nào muốn làm thế. Khi
Đảng Dân Chủ nói về cắt giảm thâm
thũng, điều đó có nghĩa là họ muốn
tăng thuế. Khi Đảng Cộng Hòa nói về cắt
giảm thâm thũng, điều đó có nghĩa là họ
muốn tấn công chính sách chi tiêu của Đảng Dân
Chủ. Nhưng thực tế mà nói, không đảng nào,
trong hình thức hiện nay, có thể giải quyết
nợ công (national debt), vì vấn đề quá lớn và
những bước cần thiết để giải
quyết nó lại quá cực đoan.
Năm tới, chúng ta
sẽ trả khoảng $450 tỉ tiền lời. Chúng ta
sẽ dùng tiền vay để trả số tiền
đó. Nhưng trong tương lai không xa, lãi suất sẽ
tăng lên, khiến chúng ta thậm chí còn khó lòng trả
dứt nợ. Căn cứ trên nợ công hiện nay
của chúng ta, và theo xu thế đang đi, nếu lãi
suất tăng lên theo ước tính của tôi, chúng ta
sẽ đối diện với một hoàn cảnh trong
đó nợ và lãi nợ sẽ bằng tiền thu thuế
hiện nay.
Tóm lại, chúng ta sẽ
phá sản. Chúng ta không thể trả nỗi nợ. Hoa
Kỳ đang khánh tận. Đến lúc phải thú
nhận điều đó.
Núi nợ
Nợ quốc gia
hiện nay là $15 trillion. Chúng ta thử đem nó ra
đối chiếu. Tất cả tiền thuế thu vào
năm 2011 là $2.2 trillion - không đến một
phần sáu tổng số nợ công. Số $15 trillion
nợ tính ra bằng $133,000 cho mỗi đầu
người thọ thuế. Người giàu nhất
nước Mỹ, Bill Gates, có cả thảy $59 tỉ. Nếu
ông đem hết số tiền đó cho Bộ Tài Chánh
để tra nợ công thì ông không thể trả
được thậm chí chỉ nửa phần trăm
món nợ đó. Nói cách khác, ông có thể trả
được hai tháng lãi nợ. Nếu Obama tịch thu
tất cả tài sản - chỉ tài sản, không kể
lợi tức - của 50 người giàu nhất
nước Mỹ thì ông có thể dùng $700 tỉ đó
để trả khoảng 5% nợ công.
Trong tài khóa 2011, những
người thọ thuế đã trả $454 tỉ lãi
nợ. Đó là 20% thu nhập liên bang, tương
đương với hơn hai lần thuế lợi
tức xí nghiệp mà Washington thu được.
Nhưng ngay cả
những con số nầy của nợ công cũng không nói
hết những nợ nần của Chú Sam. Con số $15 trillion
thực ra chỉ tượng trưng cho cái đỉnh
của một băng sơn rất lớn. Nếu tính
hết những nợ bất thường và ngoài ngân sách
(off-budget and contingent liabilities) thì tổng số nợ liên
bang vượt quá $100 trillion. Không ai biết
được những món nợ sắp đến do
những chương trình cấp dưỡng. Dự chi ngân
sách cho Medicare thường được ước
tính rất thấp. Chi phí Medicare tăng theo chi phí
bảo hiểm y tế, và đó không phải là điều
mà chúng ta có thể dự kiến được. Hơn
nữa, ObamaCare đã tạo nên những món nợ
bảo hiểm y tế liên bang mới chỉ để gia
tăng tốc độ nợ nần.
Chúng ta nghĩ sao về
những nợ học của sinh viên được chính
phủ bảo kê hiện vượt quá một ngàn tỉ?
Vì những giới hạn mới của Obama đối
với việc bắt buộc trả nợ học nên
một phần rất lớn của tổng số nợ
nầy hiện đang đè nặng trên người
thọ thuế. Và vì chính chương trình tự nó giúp cho
các đại học dễ dàng tăng học phí hơn nên
kích thước của món nợ nầy hiện cũng gia
tăng nhanh hơn.
Chúng ta cũng thấy rõ
ràng là nhiều vụ cứu nguy tài chánh nữa sẽ
xảy ra. Mỗi vài tháng một lần Fannie Mae lại xin
cứu nguy đến hàng tỉ dollars. Chẳng bao lâu
Tổng Cục Gia Cư (FHA) vượt quá giới hạn
của cứu nguy tài chánh. Một số ngân hàng cũng có
khả năng thất bại. Vì Công ty Bảo Hiểm Ký
Thác Liên Bang (FDIC) sẽ thiếu tài nguyên để bao
quản những khoản ký thác được bảo
chứng, đó sẽ là một vụ cứu nguy khác
đang chờ xảy ra. FDIC không phải là cơ quan duy
nhất do liên bang hậu thuẫn sẽ cần
được cứu nguy. Công Ty Bảo Vệ Đầu
Tư Chứng Khoán (SIPC) bảo hiểm những
trương mục môi giới lên đến $500,000.
Chương Trình Bảo Hiểm Trợ Cấp (PBGP) đặt
những bảo hiểm liên bang phía sau hàng tỉ dollars
cho các chương trình đã được xác
định. Trong chiều hướng đi xuống nghiêm
trọng như tôi dự kiến, cả hai cơ quan
nầy cũng sẽ đòi hỏi cứu nguy. Và biết đâu
rồi đây sẽ xảy ra một đợt cứu
nguy theo kiểu cưu nguy Detroit, hay rồi đây sẽ
xảy ra đại họa quốc gia?
Còn Bưu Điện Hoa
Kỳ thì sao? Khả năng tăng giá tem thư
được hạn chế theo chỉ số lạm phát
chính thức. Tuy nhiên, những chỉ số đó thậm
chí không phản ảnh đúng những gia tăng trong
bưu phí. Kết quả, Bưu Điện đang
đề nghị đóng cửa và ngưng phát thư ngày
thứ bảy. Cước phí cao hơn và dịch vụ
giảm xuống là một truyền thống của bưu
điện. (Xin nhớ trước đây có hai lần phát
thư mỗi ngày, sáng và chiều.)
Trước mắt,
Bưu Điện đang cố giải quyết khó
khăn bằng cách bán loại tem "Forever Stamps."
Loại tem nầy bán bằng giá với tem thường
nhưng có thể xử dụng khi giá tem tăng lên.
vấn để là lợi tức do việc bán tem nầy
lại được dùng để trang trải phí
tổn cho công tác phát thư hiện nay. Khi giá tem cuối
cùng tăng lên, thay vì mua tem giá cao hơn, khách hàng vẫn
chỉ dùng tem Forever đã mua. Do đó Bưu
Điện sẽ phải giao thư nhưng không thu thêm
được đồng nào khi làm thế. Người
thọ thuế chắc chắn phải cứu nguy.
Amtrak có lẽ cũng sẽ kêu cứu, cùng
với những chính phủ tiểu bang, kể cả
những trợ cấp công cộng của họ (public
pensions). Obama đã đề nghị một ngân hàng hạ
tầng liên bang (federal infrastructure bank). Những đồng
minh của ông cũng đã kêu gọi một "Ngân Hàng
Xanh (Green Bank)." Đây là những ý tưởng nhằm nới
rộng sự dính dáng của liên bang đến nợ
tư trong các thị trương rủi ro. Obama cũng
đã gia tăng những cơ quan tín dụng chính phủ
hiện hữu như Ngân Hàng Xuất Nhập Cảng
(Export-Import Bank). Vấn đề là chính phủ Hoa Kỳ
đứng phía sau quá nhiều món nợ đột xuất
(contingent liabilities) đang chờ bùng nổ nên không có cách gì
nói được món nợ nào sẽ bùng nổ kế
tiếp. Chấn động toàn hệ có thể kích ngòi
nhiều món nợ đột xuất cùng một lúc.
Thực vậy, trong một cuộc khủng hoảng
như vậy chúng có thể ngả xuống như
những con cờ dominos.
Điểm then chốt
là nợ công của chúng ta phản ảnh quá thiếu sót
những món nợ liên bang. Nếu chính phủ Hoa Kỳ là
một công ty tư bị thanh tra bằng những thủ
tục tiêu chuẩn thì nó sẽ bị xem là nguy kịch
hơn nhiều so với những số liệu chính
thức. Thực vậy, nó sẽ đóng cửa và kẻ
điều hành đứng đầu sẽ bị truy
tố về tội gian lận. Hơn nữa, Chú Sam có
thể vay nợ với lãi suất gần như không
chấm. Điều nầy khiến chúng ta hầu như
đủ sức chi trả những gì chúng ta thiếu. Tin
buồn là lãi suất đó sẽ tăng lên. Khi nợ công
của chúng ta nhiều gấp bảy lần tiền thu
thuế và lãi suất bắt đầu tăng gấp
đôi và gấp ba, mọi việc sẽ tồi tệ
đi. Ban đầu người ta có thể giả vờ
như không có chuyện gì xảy ra nhưng rồi chúng ta
phải thú nhận đã vỡ nợ.
Cấp dưỡng
(Pensions)
Chúng tôi đã đè
cập đến hầu hết những cặm bẫy
về nợ như Social Security, Medicare, và chi tiêu quá
đà trong những chương trước. Tôi xin phép nói
qua ở đây về một quả bom định giờ
sắp nổ: cấp dưỡng công nhân viên (public employee
pensions).
Theo một lượng
định năm 2011 của một cựu giám đốc
cấp dưỡng của New Jersey, các chính phủ tiểu
bang và địa phương sẽ thiếu khoảng $2.5 trillion
đẻ trả tiền cấp dưỡng cho công nhân
viên chính phủ. Trong một quan hệ loạn luân giữa
các nghiệp đoàn công nhân và các chính trị gia mà họ
giúp thắng cử, những phúc lợi rộng rãi đã
được hứa hẹn với các công nhân viên chính
phủ. Tuy nhiên, để tránh sự công phẫn của
những cử trị trong khu vực tư, những phúc
lợi như thế đã không được tài trợ
đúng qui cách. Tiền nợ chỉ được
đặt trên lưng người thọ thuế. Như
thế, tương lai là đây và người thọ
thuế không thể đài thọ để trả biên lai.
Một bản nghiên
cứu của Trung Tâm Pew Center năm 2010 về các
tiểu bang đã cho thấy rằng chỉ có 10 tiểu
bang có tiền cấp dưỡng của họ có tài
khoản 91.6% hay nhiều hơn. Chỉ có ba tiểu bang có
tài khoản đầy đủ. Illinois không có cách gì
trả nỗi 46% của $119 tỉ nợ cấp
dưỡng công nhân viên. Theo Trung tâm nói trên, California hụt
$59.5 tỉ, New Jersey $34.4 tỉ. Những số liệu
nầy phản ảnh một cái nhìn khái quát trong năm
2009. Nhưng sự việc đang thoái hóa nhanh chóng. Ở
Michigan, chẳng hạn, nợ cấp dưỡng không tài
khoản đã nhảy vọt từ $3.1 tỉ năm 2009
lên $4,0 tỉ năm 2010.
Các tiểu bang đã
cứu nguy những kế hoạch cấp dưỡng
địa phương. Pittsburgh chính thức yêu cầu
Pennsylvania cứu nguy kế hoạch cấp dưỡng
của họ. Câu hỏi tiếp theo lá liệu chính phủ
liên bang sẽ cứu nguy những kế hoạch cấp
dưỡng của các tiểu bang hay không. Đạo
luật kích cầu của Obama năm 2009 dành ra những
khoản tiền khổng lồ để lấp
đầy những thâm thũng của tiểu bang và
địa phương. Năm 2010, Quốc Hội đã
thông qua một kế hoạch cứu nguy đặc
biệt chỉ dành cho công nhân viên tiểu bang và địa
phương.
Như thể liệu Washington
sẽ nhảy vào cứu nguy những kế hoạch
cấp dưỡng công nhân viên tiểu bang bị thất
bại không? Đảng Cộng Hòa ở cả hai viện
đã đề nghị những dự luật nhằm
cấm cứu nguy những kế hoạch cấp
dưỡng tiểu bang. Nhưng nếu phải tin
những gì Đảng Cộng Hòa nói thì chớ vội tin
chuyện cấm cứu nguy của họ.
Tôi sẽ không ngạc
nhiên nếu thấy một tổng thống Cộng Hòa thúc
đẩy liên bang cứu nguy những chương trình
cấp dưỡng của tiểu bang và địa
phương, xử dụng những lời lẽ bảo
thủ cường điệu về quyền của tiểu
bang và địa phương - và dưới áp lực
của những xí nghiệp đầu tư lệ
thuộc vào những tài khoản cấp dưỡng
của tiểu bang dành cho kinh doanh.
Trường hợp nào
đi nữa, cấp dưỡng công cộng là một nguyên
nhân khác khiến nợ thực sự của chúng ta -
được đo lường bằng những nợ
không tài trợ - lớn hơn nhiều so với lời thú
nhận của bất cứ ai.
Cạn vốn
Đây là chi tiết mà
không ai muốn thú nhận, vì thú nhận như thế
sẽ làm sập sòng bài của chúng ta: Không có giải pháp
nào cho nền kinh tế hiện nay của chúng ta mà không dính
dáng đến lãi suất cao hơn nhiều. Vấn
đề lớn nhất bên dưới nền kinh tế
Hoa Kỳ là lãi suất thấp giả tạo. Đó là
nguyên nhân chính của tình trạng mất cân đối kinh
tế vĩ mô (macro economic imbalances) đang làm cho chúng ta què
quặt. Một nền kinh tế không thể thực
sự phục hồi cho đến khi lãi suất
được cho phép tăng lên để phản ảnh
đúng giá thị trường.
Người Mỹ không
tiết kiệm. Vào tháng 9/2011, chính phủ báo cáo rằng
người Mỹ đã tiết kiệm 3.6% lợi
tức của họ, khoản tiết kiệm thấp nhất
kể từ năm 2007. Nhưng khoản tiết kiện
đó đã là thấp và thường sút giảm nhiều
thập niên. Đầu thập niên 1980, tỉ lệ
tiết kiệm cá nhân lên trên 11%. Trong giai đoạn bong
bóng Internet của Greenspan, tỉ lệ nầy
xuống dưới 4%. Tại đỉnh cao của
thị trường địa ốc, tỉ lệ rơi
xuống dưới 1%. Sau một đợt phục
hồi yếu ớt tiếp theo cơn hỗn loạn tín
dụng cuối năm 2008, người ta một lần
nữa lại bỏ rơi tiết kiệm năm 2011.
Mối ác cảm nầy đối với tiết kiệm
không chỉ là một nét tự hủy của người
Mỹ. Đó là một đáp ứng bán lý trí đối
với những điều kiện thị trường -
những điều kiện thị trường vốn
đã bị giàn dựng bởi Quỹ Dự Trữ Liên
Bang (FED). Lãi suất thấp làm cho người ta nản chí
tiết kiệm. Vào lúc viết chương nầy, tôi
đang vất vã tìm một ngân hàng có thể trả cho tôi
thậm chí chỉ 1% lời. Trong khi đó, lạm phát
năm nầy qua năm khác đã là 3.86% - và đó là dựa
theo đo lường CPI, vốn phản ảnh rất sai
tỉ lệ lạm phát thực sự. Nếu tôi bỏ
tiền vào một trương mục tiết kiệm thì
lạm phát cướp đi của tôi hơn 2.5% giá
trị mỗi năm. Do đó người ta không tiết
kiệm là đúng.
Đương nhiên,
trong một nền kinh tế mà thị trường
định đoạt lãi suất thì những lãi suất
thấp như thế chỉ xảy ra nếu có quá
nhiều tiết kiệm so với nhu cầu vay vốn. Thử
suy nghĩ về điều đó - lãi suất là cái giá mà
các nhà cho vay tính để đem tiền tiết kiệm ra
cho vay. Giá rẻ trong bất kỳ thứ gì đều có
nghĩa là cung cao hơn cầu. Nhưng chúng ta không có
tiết kiệm nhiều để cung ứng cho vay thì
tại sao chúng ta lại có lãi suất thấp?
Câu trả lời là do
sự thao túng của FED.
FED định
đoạt lãi suất bằng cách định đoạt lãi
suất giảm (discount rate) - để các ngân hàng vay
của FED - và bằng cách qui định lãi suất hoán
đổi (federal-funds rate) giữa các ngân hàng với nhau.
FED qui định lãi suất hoán đổi bằng cách mua
hay bán những công khố phiếu (U.S. treasuries) và những
chứng khoán khác. Nhờ mua vào những chứng khoán mà FED
bơm thêm tiền vào hệ thống ngân hàng.
Greenspan và Bernanke đã
giữ lãi suất hoán đổi dưới 4% trong
phần lớn 20 năm qua. Kể từ cuộc khủng
hoảng tín dụng, lãi suất đã rơi xuống gần
không chấm. Như thế FED đã thành công trong việc
bơm thêm tiền vào hệ thống ngân hàng và do đó
đã hạ lãi suất xuống. Đa số những kinh
tế gia chính nguồn - và đương nhiên cả
Bernanke - đều có vẻ nghĩ đây là phương
hướng hồi phục. Nhưng không phải vậy.
lãi suất thấp giả tạo là một trong những
chướng ngại lớn nhất của phục
hồi.
"Thấp giả
tạo" nghĩa là gì? Đó có nghĩa là chúng ta có
tiền dư trông thấy mà không có ai tiết kiệm
cả. Nếu không có sự thao túng của FED thì những khối
lượng tiền sẽ tượng trưng cho tiết
kiệm, nghĩa là, tiềm năng của tiêu dùng
tương lai. Nhưng khi những khối lượng
tiền mặt đó bắt nguồn từ những
đợt bơm tiền của FED thay vì từ tiền
tiết kiệm cá nhân, chúng không tượng trưng cho tiêu
dùng được dự phòng. Chúng chỉ tượng
trưng cho đồng tiền phá giá. Tiền nầy
sẽ không thực sự được đầu tư
vào nền kinh tế. Các ngân hàng có thể xử dụng
số tiền tự do nầy của FED để mua công
khố phiếu (nghĩa là tài trợ nợ công), và lấy
về một ít tiền lời. Đó là tiền tự do
không có hoặc có ít rủi ro, nhưng nó cũng chẳng
cung ứng chút giá trị kinh tế nào cho Hoa Kỳ.
Lãi suất sẽ
tăng
Như thế những
lãi suất thấp giả tạo nầy không tài trợ cho
cái gì hữu ích, và chúng thực sự loại trừ
tiết kiệm, do đó ngăn cản người Mỹ
đạt được khả năng đài thọ
việc tiêu dùng của họ. Với lãi suất thấp,
các ngân hàng không hứng thú trong việc cho vay các xí nghiệp
nhỏ và trung bình. Ngược lại tiền vay
được dành cho Wall Street để họ tài trợ
những đầu cơ phi sản xuất, dành cho
những người mua nhà hay cho những sinh viên nhận
được bảo đảm của chính phủ.
Những công ty lớn vốn có thể truy cập
được thị trường chứng khoán có thể
tái tài trợ với lãi suất thấp hơn, xử
dụng tiết kiệm để mua lại chứng khoán.
Tuy nhiên, mua lại chứng khoán không làm kinh tế tăng
trưởng. Trước mắt, những xí nghiệp
nhỏ và trung bình nào không thể bán chứng khoán và không có
bảo đảm của chính phủ sẽ ra khỏi
thị trường tín dụng. Lãi suất thấp nầy
có ích gì nếu họ không vay được tiền?
Các ngân hàng không có quỹ
thực sự để cho vay, vì bất kỳ ai muốn có
lãi vay đều cảm thấy lôi cuốn bởi thì
trường chứng khoán, hy vọng sẽ có chút may
mắn. Như thế sự thao túng lãi suất của FED
khuyến khích đầu cơ (speculation) và can ngăn
đầu tư (investment) hay tiết kiệm. Khi lạm
phát vượt quá lãi suất, ít có lý do gì lại không tiêu
xài - vì khó lòng làm cho đồng tiền có lời.
Nhiều tiền hơn
trong nền kinh tế khiến đồng dollar
mất giá. Điều nầy có nghĩa là người
Mỹ đang mất mãi lực (purchasing power). Nói cách khác,
hành động của FED khiến cho dân nghèo hơn.
Người nghèo
thường dùng tiền để tiêu xài, ít biết
tiết kiệm hay đầu tư nhưng thích
đầu cơ hơn. Đó có phải là nền tảng
của phục hồi không?
Khi chính phủ thao túng
giá cả, của cải bị phân bố sai lệch.
Với lãi suất cũng vậy, vì đó là giá vay vốn.
Kinh tế được định nghĩa là lành
mạnh khi nào những tài nguyên được lưu thông
đến nơi chúng được khai thác tốt
nhất. Cách phục hồi duy nhất là chấm dứt
sai lầm mà FED đã phạm phải trong 20 năm trong
việc phân phối tài nguyên.
Điều đó đòi
hỏi phải nâng lãi suất.
Nếu FED ngưng thao
túng lãi suất và bơm tiền vào ngạch thì lãi suất
sẽ tăng lên. Nếu các ngân hàng không được
nhận tiền tự do của FED thì họ cần
phải quay sang những người ký thác để vay
tiền. Như cầu ký thác sẽ đưa lãi suất
tiết kiện lên. Với lãi suất cao hơn, nhiều
người tiết kiệm hơn và việc cho vay vốn
sẽ nhiều hơn. Nếu lãi suất cao hơn thì các
ngân hàng sẽ hứng thú hơn trong việc đầu
tư vào tiểu thương đang phát triển.
Điều nầy sẽ giúp tăng việc làm. Lãi
suất cao hơn cũng sẽ làm giảm những
hoạt động đầu cơ, chuyển
hướng trở lại sang đầu tư kinh doanh
hợp pháp. Tín dụng trước đây vốn chỉ
được dùng để tài trợ đầu cơ
nay ngược lại sẽ được giải
tỏa để tài trợ đầu tư vốn
hợp pháp. Trong khi đầu cơ làm giàu một số
người trên xương máu của người khác,
đầu tư hợp pháp làm lợi cho mọi
người bằng cách gia tăng sản xuất, tạo
việc làm, hạ thấp giá cả, và nâng cao mức
sống.
Cho dù bạn không
đồng ý với tôi rằng chúng ta cần lãi suất
cao hơn để chấm dứt đầu cơ đi
nữa thì bạn cũng nên hiểu rằng lãi suất cao
hơn cũng vẫn đang xảy đến. Nếu
chúng ta tiếp tục chi tiêu và tiếp tục vay nợ, và
nếu chúng ta trả dứt món nợ đó bằng cách vay
thêm nợ thì sớm muộn gì những chủ nợ
cũng sẽ bắt đầu lo ngại hơn và khả
năng trả nợ của chúng ta. Họ sẽ bắt
đầu đòi lãi suất cao hơn để bù cho
rủi ro.
Như thế, nếu lãi
suất cao là con đường phục hồi của
người Mỹ thì tại sao FED lại cản
đường? Vì những gì tốt cho sức khỏe dài
tầm của kinh tế Hoa Kỳ đều tai hại cho
chính sách kinh tế giả tạo mà FED đang cố duy trì,
và tuyệt đối khủng khiếp cho Chú Sam. Chúng ta
thử làm toán. Trong tài khóa 2011, tiền lãi nợ lên
đến khoảng 3% nợ công. Với ước tính
công bình, nợ công vào năm 2020 sẽ vào khoảng $24 trillion.
Nếu lãi suất là 7% (có thể hãy còn thấp), lãi nợ
sẽ bằng $1.68 trillion mỗi năm, tương
đương với tất cả mọi chuẩn chi
của năm đó, dựa theo ngân sách tài khóa 2011. Con
số nầy vượt xa mọi dự chi cho An Sinh Xã
Hội và Medicare.
Trong bối cảnh
đó, muốn nợ khỏi tăng trong năm 2020, chúng ta
sẽ phải loại bỏ tất cả những chi tiêu
thoải mái và cắt giảm 15% những cấp
dưỡng. Thử tưởng tượng: toàn bộ
mục tiêu của chính phủ liên bang của chúng ta là
đánh thuế người dân rồi sau đó chi trả
cho những người già và những chủ nợ,
phần lớn là nước ngoài. Thay vì giải pháp trên,
chúng ta có thể tăng thuế khoảng 50% - trên mọi
người chứ không chỉ những người giàu.
Có lẽ chúng ta không
chấp nhận bất kỳ giải pháp riêng rẻ nào
như trên hay phối hợp chúng một cách đầy
đủ. Do đó, nợ công của chúng ta sẽ tiếp
tục tăng lên, đẩy chúng ta xuống hố sâu
hơn. Tất cả các chính trị gia đều nói
đến giảm nợ công, nhưng không có lý do gì tin
rằng ai đó có thể thực sự làm giảm nợ
được - hay thậm chí chỉ làm cho nó chậm
tăng. Tóm lại, chúng ta mắc phải những món
nợ mà chúng ta không thể trả được.
Phá sản
Hoa Kỳ dứt khoát
không còn có thể trả nợ được nữa. Chính
phủ của chúng ta đã hứa quá nhiều điều
với quá nhiều người. Phần lớn ngân sách
của chúng ta ngày nay đều dành cho cấp dưỡng
(entitlements), điều mà chính phủ nói là bổn phận
của họ. Bạn nhận được những tài
liệu về an sinh xã hội khẳng định rằng
bạn sẽ có một số tiền nào đó khi bạn
65 tuổi. Bất kỳ khi nào có một ai đó đề
nghị cải tổ Medicare thì những người
mị dân sẽ cáo buộc người cải tổ toan
cướp "Medicare của bạn."
Chúng ta có thể giảm
bớt những hoang phí và tăng thuế người giàu
tùy thích, nhưng chẳng bao lâu chúng ta sẽ phải thú
nhận phải hy sinh một cái gì đó. Chúng ta dứt
khoát không thể trả nợ được. Một
người nào đó sẽ bị thối thiếu
tiền.
Đây là câu hỏi
của tôi: Tại sao chúng ta phải xem trọng những
chủ nợ Trung Quốc hơn những người già
của chúng ta? Lý ra chúng ta đã không vay tiền của Trung
Quốc hay tạo ra An sinh xã hội, nhưng bây giờ khi
mà chúng ta bị mắc kẹt, tôi không tin rằng những
người già Mỹ - vốn đã đóng thuế cả
đời - lại phải chịu hậu quả của
chính sách tài chánh sai lầm của Washington trong khi những
chủ nợ Trung Quốc lại không hề hấn gì
cả.
Khi tôi viết
chương nầy, thanh niên Hy Lạp đang biểu tình
chống những kế hoạch khắc khổ nhằm
tăng thuế và cắt giảm phúc lợi. Họ có phải
là những thanh niên hư hỏng, đang hưởng
trợ cấp? Chắc chắn là thế. Nhưng họ
cũng có điểm đúng. Họ biết rằng họ
đang bị hy sinh để những chủ nợ
của Hy Lạp - phần lớn là những ngân hàng Đức
và Thụy Sỹ - không bị thiệt hại nhiều.
Rồi đây Hoa Kỳ
cũng sẽ ở trong tình trạng tương tự, và
tôi không mong đợi người Mỹ sẽ dùng
những biện pháp khắc khổ (nhằm làm lợi cho
Trung Quốc) theo lối người Hy Lạp.
Khi một người
không thể trả nợ thì người đó khai phá
sản. Sau đó người nầy đưa ra một
kế hoạch gia hạn trả nợ càng xa càng tốt,
nhưng số nợ phải được giảm xuống.
Đến lúc Hoa Kỳ
tuyên bố phá sản.
Tri giác và thực
tại
Những con số không
nói dối - và chúng cho thấy rằng chúng ta đã phá
sản. Nhưng bây giờ tri giác về khả năng thanh
toán vẫn còn. Vấn đề là tri giác nầy rồi
đây sẽ thay đổi. Có lúc người ta đã xem
những người vay nợ khó đòi với lãi suất
thật thấp là những người có tín chỉ tốt.
Có lúc tri giác đó là có thực đối với chính
phủ Hy Lạp.
Tri giác có thể thay
đổi nhanh chóng, và thường là thế. Xin nhớ
rằng khả năng trả nợ của Hoa Kỳ được
dựa trên nền tảng lung lay của lãi suất
ngắn hạn thấp. Cách duy nhất chúng ta có thể
giả vờ trả nợ là vay tiền để làm
thế với lãi suất không chấm. Tôi nói là giả
vờ vì nếu bạn phải vay tiền để
trả nợ thì bạn không trả nợ gì cả. Tuy
nhiên, sự giả vờ chỉ có thể kéo dài bao lâu lãi
suất còn thấp và những chủ nợ của chúng ta
chịu hợp tác.
Như đã đề
cập trên đây, tôi tin rằng Bộ Tài Chánh Hoa Kỳ
đang chơi trò chơi Ponzi. Nợ công luôn luôn tăng lên.
Ngay cả trong những năm của Clinton khi mà ngân sách
được giả định là thặng dư, nợ
công đã tăng lên mỗi năm. Khi công khố phiếu
đáo hạn, chính phủ bán công khố phiếu khác
để trả nó. Khi phải trả lãi nợ chính
phủ vay tiền để trả. Đó chính là cách mà
Bernie Madoff tiến hành công tác đầu tư của ông ta.
Nó "thành công" một giai đoạn, cho đến
khi quá nhiều người đòi tiền trở lại.
Điều gì sẽ
xảy ra khi những chủ nợ của Hoa Kỳ đòi
tiền lại? Hiện nay, Hoa Kỳ có thể giải
quyết những thâm thũng của mình phần lớn
bằng cách bán các loại công khố phiếu ngắn
hạn (T-bills). Đó là vì lãi suất của T-bills
thấp hơn nhiều so với công khố phiếu dài
hạn (T-bonds). Điều nầy giúp làm cho những
thâm thũng hiện nay của chúng ta nhỏ hơn. Rủi
ro là ở chỗ, khi lãi suất cuối cùng lên cao,
những thâm thũng tương lai sẽ lớn hơn
nhiều. Tuy nhiên, những chính trị gia đang làm
những gì tiện lợi về mật chính trị thay vì
hữu hiệu về mặt tài chánh. Đây cũng chính là
sai lầm mà những chủ nhà đã phạm phải
với tiền vay theo lãi suất điều chỉnh.
Họ đã đổi những chi trả ban đầu để
lấy những chi trả tương lai cao hơn. Vấn
đề là, một khi những chi trả cao hơn kia xảy
ra, nhiều người vay tiền không thể trả
nỗi. Hậu quả trước mắt là bỏ
cuộc.
Khi đồng dollar
xuống giá, ngay cả lạm phát tính theo tỉ lệ CPI cuối
cùng cũng sẽ tăng lên đến mức không thể
chấp nhận được. Kế đó những
chủ nợ của chúng ta sẽ không còn muốn cho chúng ta
vay tiền với lãi suất thấp như thế. Khi
chuyện đó xảy ra, không những tiền lời
đáo hạn mà cả tiền vốn cũng thế luôn.
Ví dụ những món
nợ với hạn kỳ ngắn, rất có thể trong
bất kỳ năm nào đó, hơn $5 trillion nợ
sẽ đáo hạn. Vì số tiên đó lớn gấp hai
lần số tiền thuế thu được cả
năm, lấy đâu ra tiền để trả? Câu
trả lời thông thường là chúng ta sẽ không
phải trả nợ, vì chúng ta chỉ việc vay thôi.
Nhưng nếu chúng ta không thể vay? Điều gì sẽ
xảy ra nếu những chủ nợ của chúng ta không
muốn triển hạn nợ lãi thấp trong một môi
trường lạm phát cao? Cuốn cách nầy mang tựa
đề The Real Crash vì một lý do. Đây chính là lý
do.
Quả vô lý khi quan
niệm cho rằng Hoa Kỳ có thể vay nợ mãi mãi mà
không phải trả nợ nào cả. Hàm ngụ trong giả
định đó là: phần còn lại trên thế giới
sẵn sàng cho vay mà không lấy lại tiền. Điều
nầy không xem xét đến phương diện quan
trọng nhất của tiến trình cho vay, cái phần liên
quan đến việc bạn lấy tiền lại.
Nếu bạn không lấy tiền lại thì đó không
phải là cho vay; đó là biếu không. Khi những chủ nợ
của chúng ta khám phá ra rằng họ thực sự là
những ân nhân thì tiền biếu không sẽ ngưng ngay.
Tại một thời
điểm nào đó, FED sẽ đối diện với
sự thực mà họ đã tìm mọi cách để
lần lửa khỏi đối diện ngay. Khả
năng của FED muốn giữ lãi suất thấp
được tiên liệu qua quyết tâm kèm chế
lạm phát. Vì quyết tâm đó không khác nào một màn khói,
uy tín của nó dựa trên một sự nói dối. Tuy nhiên,
nhiều người không nhận thấy sự nói dối
đó. Đó là điều sẽ thay đổi. FED chỉ
có thể giữ cho lãi suất thấp bao lâu những
chủ nợ của chúng ta còn tin tưởng vào quyết
tâm và khả năng kèm chế lạm phát. Nhưng, bất
chấp những rêu rao chống lạm phát, FED vẫn không
hành động. Thực vậy, lý do chính khiến FED
giả vờ không có lạm phát là họ tự biết mình
không sẵn sàng chống lạm phát. Họ giả vờ không
có lạm phát để không phải đối phó với
nó. Nhưng họ phải duy trì ảo tưởng là
họ sẽ chống lạm phát, do đó họ nói dối
và hy vọng mọi chuyện đều tốt
đẹp.
Tại một thời
điểm nào đó khoản chênh lệch của CPI sẽ
rất cao nên FED sẽ bị bắt buộc phải nâng
lãi suất đột ngột hay mất tất cả uy
tín còn lại trên vấn đề khống chế lạm
phát. Nếu mức chênh lệch CPI là 5% và FED bị buộc
phải nâng lãi suất để khống chế nó thì nâng
nó từ 0 lên 0.25 sẽ không cắt giảm nó
được. FED sẽ phải hành động quyết
liệt hơn nhiều. Ngay cả nâng lãi suất lên 3%
đi nữa cũng không đủ, vì lãi suất vẫn
còn âm. Lãi suất âm sẽ chỉ kích thích lạm phát
chứ không khống chế được nó. Muốn
đối phó với lạm phát có thể phải cần
một lãi suất 7% cho các khoản vay hoán đổi
(fed-funds). Tuy nhiên, với 7%, chúng ta không còn có thể trả
lãi nợ, chẳng khác gì tình cảnh mất khả năng
trả nợ của Hy Lạp.
Chúng ta còn nhớ
rằng nhiều năm trước cuộc khủng
hoảng ở Hy Lạp, người dân xứ nầy đã
từng hưởng được lãi suất thấp
kỷ lục. Nhờ vậy họ có thể giả
vờ đủ khả năng trả nợ cũng
giống hệt như bây giờ người Mỹ
đang làm. Trả dứt nợ không phải là vấn
đề bao lâu lãi suất còn rất thấp. Nhưng lãi
suất rất thấp lại dựa trên tiền
đề giả tạo rằng hệ thống tài chánh Hy
Lạp thực sự đang hoạt động tốt.
Lãi suất thấp ở Hoa Kỳ cũng dựa trên
tiền đề tương tự. Một khi tiền
đề nầy bị thách thức, sòng bài Hy Lạp
bị sụp đổ. Hy Lạp không thể triển
hạn nợ với những lãi suất như cũ, và
họ thiếu tiền để trả lãi suất cao
hơn. Khi điều nầy trở nên hiển nhiên,
tiến trình đi vào thế kẹt và nhanh chóng xảy ra
khủng hoảng.
Sự khác biết chính
giữa Hy Lạp và Hoa KỲ là Hy Lạp không thể in
đồng Euro. Tuy nhiên, sự kiện FED có thể in
đồng dollar không thể làm an lòng những chủ
nợ của chúng ta. Nó có thể cung ứng một mức
độ trấn an nào đó bây giờ, nhưng
điều đó sẽ thay đổi một khi đồng
dollar mất giá.
Khi những chủ
nợ của Hoa Kỳ cuối cùng nói chấm dứt, trò
chơi kết liễu. Nhạc sẽ ngưng và nhạc
sỹ thổi kèn sẽ đòi tiền. Khi tôi đề
cập điểm hiển nhiên nầy với những
học giả tài chánh đồng nghiệp của tôi, nói
chung, họ bác bỏ điều đó với lý thuyết
cho rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra,
vì FED sẽ mãi mãi giữ cho lãi suất thấp. Lãi suất
không còn thấp mãi cũng như giá nhà đã không có thể
tăng mãi được. Điều hấp dẫn là
chính những gã đã tin giá nhà lên mãi nay lại cho rằng
lãi suất sẽ thấp mãi.
Điều không may là
cách duy nhất mà FED có thể giữ lãi suất thấp
giả tạo trong khi lạm phát tăng lên là tạo ra thêm
lạm phát. Những chủ nợ của chúng ta muốn
cho chúng ta vay với lãi suất thấp chỉ vì họ tin
rằng lạm phát không phải là một vấn
đề, và họ tin rằng, nếu có vấn
đề, thì FED sẽ nhanh chóng dập tắt nó. Một
khi họ nhận ra không phải thế thì những chủ
nợ của chúng ta sẽ từ chối cho vay. Như
thế muốn giữ lãi suất thấp FED sẽ
phải mua bất kỳ công khố phiếu nào mà những
chủ nợ của chúng ta từ chối gia hạn.
Vấn đề là càng in tiền ra để trả
dứt nợ đáo hạn càng phải tạo ra thêm
lạm phát để mua chúng. Tiến trình nầy chính là con
rắn cắn cái đuôi. Chẳng bao lâu FED không những
chỉ phải mua có công khố phiếu mà mua tất
cả những món nợ tính bằng dollar (dollar-denominated
debt). Không ai sẽ chịu mua công khố phiếu với
lãi suất rẻ hơn tỉ lệ lạm phát chính
thức. Đó là khi bản kết toán của FED thực
sự vỡ tung. Chẳng bao lâu hỏa hoạn lạm phát
sẽ đe dọa đốt cháy đồng dollar và
toàn bộ nền kinh tế của chúng ta thành tro. Đến
lúc đó, chỉ có một lựa chọn: hoặc siêu
lạm phát hoặc quỵt nợ. Đây chính là tảng
đá và vách tường mà FED cuối cùng sẽ bị
kẹp ở giữa. Dù quyết định thế nào
đi nữa thì sự sụp đổ thực sự
sẽ bắt đầu. Nếu FED làm đúng và tăng lãi
suất đáng kể thì họ sẽ chọc thủng
nền kinh tế bong bóng. Những ngân hàng nào
được TARP cứu nguy sẽ thất bại
một lần nữa, nhưng lần nầy không một
ngân hàng nào sẽ được cứu nguy nữa. FED không
thể nới lỏng hay siết chặt cùng một lúc.
Nếu họ tăng lãi suất và giảm lưu
lượng tiền tệ thì không có tiền để tài
trợ một đợt cứu nguy khác. Trong bối
cảnh đó, giá nhà thực sự sẽ sụt xuống
một lần nữa, thất nghiệp sẽ gia tăng,
và chính phủ liên bang và nhiều chính phủ tiểu bang
sẽ vỡ nợ. Suy thoái kinh tế tiếp theo sẽ
gắt gao hơn nhiều so với năm 2008. Điều
đáng buồn là: đây mới thực sự là viễn
cảnh màu hồng. Hậu quả thê thảm hơn
nhiều bắt nguồn từ việc FED từ chối
cho phép viễn cảnh nầy xảy ra. Nếu FED tiếp
tục tạo ra lạm phát để trì hoãn tiến trình
thì kết quả sẽ là siêu lạm phát và sụp
đổ hoàn toàn của nền kinh tế và đời
sống.
Tái cấu trúc nợ
công
Như thế chúng ta
phải thú nhận điều tất yếu. Dứt khóa
không cách gì những người thọ thuế Hoa Kỳ có
thể trả món nợ mà chính phủ liên bang đã vay.
Điều đó có nghĩa là những chủ nợ
của chúng ta sẽ thua lỗ lớn. Thực sự
chỉ có hai câu hỏi chưa được trả
lời.
Thứ nhất, những
thua lỗ đó sẽ xảy ra dưới hình thức
nào? Hoặc những chủ nợ của chúng ta sẽ
không lấy lại đủ số tiền đã cho vay,
hoặc mãi lực của số tiền lấy lại
sẽ kém đi rất nhiều. Như thế hoặc là
chúng ta quịt nợ (default) hoặc chúng ta cho phép lạm
phát, nhưng trả nợ đàng hoàng là không thể
được. Nếu phải lựa chọn thì quịt
nợ là tốt nhất, thậm chí tốt cho cả
những chủ nợ. Câu hỏi thứ nhì là thời gian.
Chúng ta sẽ quịt nợ để tránh một cuộc
khủng hoảng hay để phản ứng với
một cuộc khủng khoảng? Chúng ta quịt nợ
theo những điều kiện của chính chúng ta hay theo
những điều kiện mà các chủ nợ áp
đặt lên chúng ta? Tôi cho rằng chúng ta quịt nợ
càng sơm càng tốt, và những điều kiện
sẽ thuận lợi hơn khi chính chúng ta là những
người đưa ra những điều kiện
đó.
Khi dùng chữ default,
tôi không nói là quịt hết mọi món nợ. Nhưng tôi
nói đến một tái cấu trúc, qua đó những
chủ nợ được trả ít hơn số nợ
thực sự. Nếu chính phủ của chúng tôi thiếu
nợ bạn thì bạn sẽ không lấy lại
đủ 100 cents cho một dollar. Bạn có
thể nhận 30 cents cho một dollar. Tùy theo
bạn là ai và bản chất của món nợ Mỹ
đối với bạn là gì, bạn có thể nhận
nhiều hay ít.
Chúng ta nên bàn cãi phải
quyết định trả cho ai và trả bao nhiêu. Trong khi,
thông thường, một thẩm phán về phá sản
quyết định việc nầy, chúng ta là Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ, và không một thẩm phán nào
đứng trên chúng ta được. Chúng ta phải
quyết định những gì công bằng nhất.
Nếu chúng giải
quyết những cấp dưỡng an sinh xã hội theo
trắc nghiệm phương tiện (means-test),
điều mà chúng ta nên làm, thì có thể chúng ta phải
giải quyết những món nợ khác cũng bằng
trắc nghiệm phương tiện? Những ngân làng phát
đạt có thể nhận ít hơn những bà cụ
đang nắm giữ công khó phiếu. Điều đó có
thể là công bằng nhất, hay chúng ta cho người
Mỹ ưu tiên hơn người ngoại quốc.
Có lẽ chúng ta nên đối
xử mọi người một cách bình đẳng
tối đa, nhưng sự thể sẽ trở nên
phức tạp hơn khi chúng ta nhìn nhận rằng công khố
phiếu ngắn hạn (T-bills) và công khố phiếu dài
hạn (T-bonds) không phải là những món nợ duy nhất
mà chúng ta có mà một số chi tiêu của chúng ta cũng là
một loại nợ. Không có câu trả lời nào dễ
dàng cả. Đó là lý do chúng ta cần bắt đầu
tuyên bố phá sản.
Quịt nợ là
xấu, nhưng không có lựa chọn nào khác.
Tôi biết chính xác
những học giả kinh tế sẽ phản ứng ra
sao khi nghe đến lời khuyên của tôi.
Peter Schiff nói rằng
chúng ta nên quịt nợ! Quả thật là vô trách nhiệm!
Sao ông ta dám thốt ra những lời như thế!
Chúng ta đã thấy
những phản ứng hốt hoảng tương tự
trong buổi thảo luận về nợ trần
(debt-ceiling) năm 2011. Điều duy nhất mà tất
cả các lãnh tụ của cả hai đảng đều
đồng ý là: quịt nợ là không thể chấp
nhận được. Thực vậy, cả hai bên
đề tấn công nhau bằng cách nói rằng bên kia
chỉ "muốn quịt nợ thay vì cắt giảm chi
tiêu," hay "muốn quịt nợ thay vì chấm
dứt giảm thuế cho người giàu."
Quịt nợ là
điều cấm kỵ duy nhất. Nhưng chúng ta làm gì
khi điều cấm kỵ của chúng ta là khó tránh
khỏi? Thực vậy, nếu thử đặt lựa
chọn quịt nợ lên bàn thì chúng ta để những
chủ nợ của chúng ta biết họ bị xếp
hạng thấp thế nào trong những ưu tiên trả
nợ. Theo quan điểm của họ, điều
nầy lý ra đã là một thú nhận chính thức rằng
chúng ta đã chơi trò chơi Ponzi lớn nhất
thế giới. Chúng ta lưu ý những chủ nợ
của chúng ta rằng chuyện quịt nợ là khó tránh
khỏi. Những nhà lãnh đạo của chúng ta lý ra có
thể đã dẹp chuyện quịt nợ ra ngoài bằng
cách nói rằng chúng ta sẽ ưu tiên trả nợ của
chúng ta trước mọi chi tiêu khác của chính phủ.
Họ đã không làm thế. Xin nhớ rằng nợ
trần tự nhiên được đặt ra. Không nâng nợ
lên chỉ có nghĩa là từ chối vay nợ. Tuy nhiên,
điều gì xảy ra khi chúng ta đụng phải "trần
cho vay (lending ceiling)"? Đó là một giới hạn mà
chúng ta không thể vi phạm, vì chúng ta không có khả
năng dở hỏng nó lên được. Những
chủ nợ của chúng ta đã biết câu trả
lời vì chúng ta đã nói với họ. Nếu họ
từ chối cho chúng ta vay thêm nợ thì chúng ta sẽ
từ chối trả lại cho họ số tiền mà
chúng ta đã vay!
Một lần nữa,
nếu chúng ta cố trả dứt nợ thì căn bản
chúng ta sẽ phải dẹp bỏ mọi thứ mà chính
phủ làm, nhưng vẫn giữ thuế cao. Những
chức năng duy nhất của chính phủ sẽ là thu
thuế và sau đó chi trả cho các chủ nợ. Chúng ta
sẽ là một thuộc địa của Trung Quốc và
Wall Street. Bạn nghĩ hoàn cảnh đó sẽ kéo dài
đến bao giờ?
Và tăng thuế 50%
chỉ để duy trì nợ ở mức độ
hiện nay? Làm thế cũng sẽ không hiệu quả. Bạn
sẽ đi đến hoàn cảnh như trong tiểu
thuyết Atlas Shrugged của Ayn Rand, khi tất cả
những người làm ra của cải chạy ra
nước ngoài hay lao vào chợ đen.
Cách khả thể duy
nhất để trả nợ là bằng lạm phát
thật nhiều. Nhưng lạm phát thật nhiều
cũng chẳng khác nào quịt nợ. Dĩ nhiên chúng tôi
sẽ trả những công phố phiếu cho bạn,
nhưng giá trị chỉ bằng phân nửa hay ít hơn
thế. Dĩ nhiên bạn vẫn nhận được
cấp dưỡng Social Security, nhưng chúng tôi sẽ làm
cho những điều chỉnh đắt đỏ không
thực sự tương ứng với vật giá gia
tăng mà chúng tôi đã tạo ra bằng cách in tiền.
Cho dù thăm dò hết
mọi khả năng đi nữa thì chúng ta vẫn không
thể trả dứt nợ. Chúng ta thú nhận điều
đó càng sớm càng tốt. Nếu ngày nay chúng ta tuyên
bố phá sản - trong lúc nợ chính thức của chúng ta
"chỉ mới" $15 trillion hay $16 trillion -
những chủ nợ của chúng ta sẽ khá hơn là
nếu chúng ta chờ đến khi nợ lên để $20 trillion
hay $21 trillion. Vấn đề không phải quịt
nợ là xấu hay tốt. Vấn đề là quịt
nợ co khá hơn là không quịt nợ. Sự thực cho
thấy rằng lạm phát còn tệ hại hơn cả
tái cấu trúc nợ. Vạ lây cho nền kinh tế của
chúng ta và những mất mát thực sự cho những
chủ nợ của chúng ta sẽ lớn hơn rất
nhiều nếu chúng ta cho lạm phát. Ngay bây giờ, chúng ta
không cố chỉnh hướng con tàu. Mỗi năm, chúng
ta gia tăng thâm thũng và tăng tóc độ nợ. Không
những chúng ta giảm bớt nợ mà thậm chí chúng ta
cũng không làm cho nó tăng chậm lại.
Cường điệu
của hai đảng về vấn đề kiểm soát
thâm thũng luôn luôn chấm dứt với một trò hề
khó hiểu nào đó, giống như một ủy ban
(commission), một siêu ủy ban (super-committee), hay một
thỏa thuận nào đó nhằm khống chế bớt
những gia tăng trong chi tiêu bừa bãi. Tuy nhiên, bất ký
đề nghị cắt giảm nào cũng đều
bị bác bỏ, và những lựa chọn khó khăn
đều bị trì hoãn thêm một lần nữa. Cho dù
chúng ta không đạt được một thỏa
thuận nào đi nữa, những con số
được đưa ra chẳng quan trọng gì cả.
Các chính trị gia có làm cho những con số nghe lớn lao
bằng cách đề nghị những cắt giảm theo
những thời biểu dài hơn mười năm,
như trường hợp kế hoạch cắt giảm
tự động $1.2 trillion thỏa thuận năm
2011 như một phần trong dự thảo gia tăng
nợ trần. Hơn 200 tỉ của cái mệnh danh là
"cắt giảm" chỉ tượng trưng cho lãi
nợ được giảm xuống trên những thâm
thũng nhỏ hơn, với cả ngàn tỉ trải dài
trên mười năm. Không một cắt giảm nào
tượng trưng cho cắt giảm thực sự trong
chi tiêu chính phủ, mà chỉ là những cắt giảm
tốc độ chi tiêu đó. Cắt giảm duy nhất
đáng kể là những cắt giảm năm đầu
tiên. Do đó Quốc Hội có thể kể công đã
cắt giảm chi tiêu mà không hề cắt giảm một
cái gì cả. Thực dễ dàng bỏ phiếu cho những
cắt giảm chỉ xảy ra nhiều năm trong
tương lai vì biết rằng những cắt giảm
đó khó có thể có hiệu lực. Quốc Hội ngày nay
không thể buộc một Quốc Hội tương lai
tôn trọng những đề nghị ngân sách, do đó
tất cả những gì họ thực sự đạt
được đều là đề nghị cả. Luôn
luôn có cớ để trì hoãn những cắt giảm.
Như thế mọi
người đều chỉ giả vờ là họ có
thể giải quyết vấn đề nợ.
Đảng Cộng Hòa nói về một tu chính ngân sách cân
bằng. Nhưng họ biết đây là một cách vô
hại để thắng điểm. Cần phải có 67
phiếu ở Thượng Viện và 290 phiếu ở
Hạ Viện để đề nghị một tu chính
hiến pháp. Sau đó, 38 tiểu bang cần phải phê
chuẩn tu chính đó.
Với những thủ
tục phức tạp như vậy, các nhà lập pháp
Cộng Hòa được tự do huênh hoang mà không sợ
bị ràng buộc bởi một ngân sách cân bằng.
Trò chơi giả vờ
của Đảng Dân Chủ tạp trung trên việc
đánh thuế người giàu. Họ nói giống như
nợ của chúng ta sẽ chấm dứt nêu chúng ta chỉ
việt để cho kế hoạch giảm thuế
của Bush đáo hạn, đưa thuế suất lên cao
một vài điểm. Nhưng nếu bạn muốn cân
bằng ngân sách của chúng ta bằng cách bóp vắt
người giàu thì bạn sẽ cần đánh thuế hầu
hết lợi tức của họ, lúc đó bạn
sẽ thấy lợi tức thọ thuế của họ
sẽ giảm xuống. Nếu bạn đã tăng
thuế mọi người một cách đáng kể thì bạn
có thể cân bằng ngân sách, nhưng bạn sẽ phải
tiếp tục làm thế sau nầy.
Những tranh cãi nầy
- Cộng Hòa gọi là một tu chính ngân sách cân bầng, và
Dân Chủ gọi là tăng thuê vì đấu tranh giai
cấp - chính là cách những chính trị gia giả vờ
rằng vấn đề nợ của chúng ta có thể
giải quyết được. Mọi người
đều muốn giả vờ rằng chúng ta thực
sự có thể trả được nợ. Chúng ta không
thể tra nợ.
Trên quan điểm
đạo đức, chúng ta cũng đừng nên quan tâm.
Điều vô đạo đức chính là đưa ra
những lời hứa mà Quốc Hội đã hứa -
đặt để những thế hệ tương lai
trên núi nợ do những chương trình bất khả
kham. Và tôi không cảm thấy khó chịu mấy nếu
những chủ nợ nước ngoài lớn nhất
của chúng ta phải chịu mất một phần tiền.
Họ đã truy cập vào ngân sách của chúng ta. Họ có
thể đọc những cuốn sách của tôi. Họ
biết rằng ho đã cho một quốc gia què quặt
về tài chánh vay nợ.
Và hậu quả ra sao
đối với tín chỉ của chúng ta và khả
năng vay nợ nữa trong tương lai?
Đương nhiên, quịt nợ sẽ gây khó khăn cho
chúng ta khi muốn vay nợ rẻ. Cũng như gã chạy
nợ có chiến thuật, chúng ta sẽ chạy nợ dù
biết rằng lãi suất tương lai sẽ gia
tăng, nhưng tính ra đó hãy còn là một động thái
tốt. Bất kỳ điều gì ngăn cản chính
phủ Mỹ vay tiền đều tốt cả. Thứ
nhất, tiền vay được xử dụng
để bành trướng chính phủ trên thiệt hại
của nền kinh tế. Thứ nhì, tiền vay phải
được trả lại có lời. Tôi không muốn
chính phủ Mỹ buộc tôi phải trả nợ cho
những chỉ tiêu chính phủ mà trước tiên tôi không
thích có. Nếu chính phủ của chúng ta hoạt đông
thích hợp thì chúng ta sẽ không thường xuyên vay
nợ. Chú Sam sẽ vay nợ ngắn hạn để
giải quyết những trường hợp khẩn
cấp. Và sau khi chúng ta đã tái lập một chính phủ
được hạn chế về phạm vi và có kỷ
luật chi tiêu, thì những chủ nợ sẽ xem chúng ta như
một tay chơi an toàn hơn bây giờ.
Thanh toán
Bây giờ thử
tưởng tượng một Hoa Kỳ phá sản. thay vì
choi trò giả vờ và xuyên tạc hệ thông chính phủ
và tài chánh hiện có, chúng ta có thể tái dựng lại
từ đầu. Muốn trả nợ cho những người
chúng ta thiếu, chính phủ Ha Kỳ sẽ phải bán
hết những tài sản và đốn toàn bộ các
phủ bộ. Nghị trình mà tôi đề cập trong
chương vừa qua không khả thi mà còn tất yêu trong
trường hợp phá sản.
Tất cả những
chi tiêu không cần thiết sẽ được chấm
dứt, giao cho các tiểu bang và khu vực tư.
Đất đai và công thự liên bang sẽ mang ra
đấu giá. Những chương trình trợ cấp liên
bang sẽ bãi bỏ. Trong một tiến trình nhanh chóng
nhưng trật tự, chính phủ sẽ thanh toán mọi
thứ có thể được. Sau khi bán hết những
gì có thể bán và trả nợ được chừng nào
hay chừng đó, chúng ta sẽ hủy hết nợ
của chúng ta. Cổ xe sẽ sạch sẽ. Tương
tự như một công ty kinh doanh đã xóa hết
những đầu tư xấu, chính phủ Hoa Kỳ
sẽ được giải phóng khỏi những
hoạch định chính sách cẩu thả trong thế
kỷ vừa qua của Washington. Đây là cơ hội
chỉnh hướng con tàu.
Những chương
trình như Social Security và trợ cấp nông nghiệp
sống sót đến ngày nay không phải vì người ta
nghĩ chúng là một ý tưởng tốt mà vì có những
quyền lợi ích kỷ muốn bênh vực chúng, và
những nhà cải cách bị bác bỏ vì bị xem là
cực đoan. Nếu phá sản buộc chúng ta hủy
bỏ những chương trình nầy, bạn có thực
sự nghĩ rằng chúng ta sẽ thiết lập chúng
trở lại sau nầy không, nhất là khi biết rõ
những gì chúng ta biết bây giờ?
Khi chính phủ Hoa Kỳ
chịu đựng vài năm phá sản, những chính
phủ tiểu bang sẽ đứng ra cung ứng
những dịch vụ quan trọng mà Washington đã cung
ứng. Các cơ quan bất vụ lợi và những
tổ chức tôn giáo sẽ đứng ra lấp vào
những chỗ trống để lại do những
chương trình như Medicare bị dẹp bỏ. Và
những cơ sở thương mại và gia đình nào
đã từng lệ thuộc và chính phủ sẽ trở
nên tự lập hơn.
Những kỹ nghệ
nào đã từng được chính phủ dựng lên,
như năng lượng tái chế và ngay cả phần
lớn khu vực tài chánh, sẽ thu nhỏ lại, tái
phối trí hay thậm chí biến đi. Tài sản sẽ
từng bước bắt đầu tự bố trí theo
giá trị kinh tế thay vì theo sở thích chính trị.
Chúng ta sẽ không tự
thấy mình trong tình cảnh hỗn loạn như trong
bộ phim Mad Max của Úc hay một thế giới
hậu tận thế. Sẽ không có cảnh ăn thịt
người, và những công sở của chúng ta sẽ
không bắt đầu sụp đổ. Sẽ có một
số "khắc kỷ" trong giai đoạn nầy,
nhưng đó chỉ là cơn sốt nhằm giải
độc nền kinh tế.
Tôi xin hỏi bạn: Giải
pháp thay thế là gì? Giả vờ và giả vờ rằng
chúng ta có thể trả được những món nợ
của chúng ta cho đến một ngày, đùng một cái
như Hy Lạp, những chủ nợ của chúng ta ùn ùn
đến rút tiền? Hay chúng ta sẽ cố cho lạm
phát để thoát nợ, liều cho siêu lạm phát, và
sụp đổ hoàn toàn?
Nền kinh tế
của chúng ta và chính phủ của chúng ta đang nằm
trong một chiếc xe lạc tay lái, đang tăng tốc
xuống sườn đồi đóng băng. Tôi nói
rằng chúng ta cần phải đưa nó vào hố bên
đường trước khi sự thể trở nên
thậm chí tệ hại hơn. Chúng ta không né tránh sự
sụp đổ nầy. Điều tốt nhất mà
chúng ta có thể làm là cố tự mình kiểm soát nó và cài
dây an toàn chờ xe lật bên đường.
Xin tìm đọc
HOA KỲ TRƯỚC HIỂM HỌA PHÁ SẢN
- Đông Yên Lương Tấn Lực
Phỏng theo "America' Coming Bankruptcy: The Real
Crash" - Peter Schiff
Có bán tại Nhà Sách TỰ LỰC, TÚ QUỲNH và các nhà
sách Việt Nam tại Mỹ
Hoặc đặt mua trực tiếp
tại
Đỉnh Sóng P.O. BOX 5201, Santa Ana CA 92704-9998
(714) 473-3691 * Email: dinhsong.net@gmail.com
Thưa Caroline Thanh Hương,
RépondreSupprimerTôi xin phép tự giới thiệu là tác giả của cuốn “Hoa Kỳ trước hiểm họa phá sản” chuyển ngữ từ cuốn “America's Coming Bankruptcy: The Real Crash” – Peter D. Schiff
Thật là một tình cờ lý thú khi mở link
http://catbuicarolineth.blogspot.fr/2014/07/kinh-te-hoa-ky-ben-bo-vuc-americas.html
Bài viết trên trang blog nầy quá ư hàm súc và minh bạch, hàm súc hơn cả phần giới thiệu ngắn của tác giả ở địa chỉ:
http://www.dinhsong.net/DS/GioiThieuTacPham.aspx?ind=13
Xin chân thành cám ơn Caroline Thanh Hương đã giúp một tay quảng bá tác phẩm nầy của Peter D. Schiff và hỗ trợ công trình của dịch giả.
Trân trọng
Đông Yên Lương Tấn Lực