caroline thanh huong

caroline thanh huong
catbui

Libellés

mercredi 30 juillet 2014

Truyện ngắn Sống Với Người Chết , tác giả Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Đọc tiếp truyện ngắn lần trước
clique vào link bên dưới
http://catbuicarolineth.blogspot.fr/2014/07/but-xuan-tran-inh-ngoc-thuat-tiep-bai.html

 Sống Với Người Chết (2)


       (tiếp theo)

* Bút Xuân Trần Đình Ngọc


Có người đông con, có kẻ hiếm muộn, xã hội ta hay bất cứ xã hội nào trên thế giới cũng đều vậy, dù sinh nhiều, mắn đẻ như phụ nữ Phi châu hay phụ nữ Mễ. Nhiều cặp chỉ muốn có hai đứa con là đủ nhưng đã tuôn ra cả nửa tá, nuôi không xuể. Các cụ ta xưa quan niệm:”con, của bằng nhau” nghĩa là giầu con cũng quí như giầu của, ai cũng ham, mấy ai nghĩ đến câu:”Con là nợ, vợ oan gia, cửa nhà nghiệp báo!” Cửa nhà nghiệp báo ít thấy chứ con là nợ, vợ oan gia từng thấy nhiều, rất nhiều!


Trở lại với con nuôi. Trước khi về Việt Nam chuyến đó, ông bà Bào đã bàn thảo với ông Tú về chuyện này.

Nuôi con nuôi từ lúc nó mới ra đời, còn bế ngửa thì vẫn thích hơn vì sau này nó ngỡ mình là cha mẹ ruột của nó và nhiều điều thuận tiện khác. Ở Việt Nam không có luật nhưng ở Hoa Kỳ khi con nuôi lớn phải bảo cho nó biết nó chỉ là con nuôi không được chập chí chập ngầu, rồi tuỳ nó đối xử.


Nhưng nuôi lúc còn nhỏ cũng có cái phiền; hai vợ chồng ông Bào cùng đi làm full time, không lẽ bà vợ xin thôi để ở nhà coi đứa nhỏ? Nợ nhà, nợ xe đầm đìa, sao có thể “quit job”?


Nếu vẫn đi làm, rồi mướn một vú em lo chăm sóc đứa nhỏ, cho nó ăn, uống, tắm, chơi với nó, cho nó ngủ v.v...khi xưa tháng 8-900 đô cộng thêm một phòng ngủ có TV, cơm ba bữa, nay phải hơn ngàn thì có đi làm tháng vài ngàn cũng không bõ, thà ở nhà coi con còn hơn vì nhiều chị vú rất lơ đãng, đã bỏ đói, hành hạ nó hoặc làm con chủ chết.


Babysitter Mỹ nhiều đứa mới vài chục tuổi chẳng hiểu biết nuôi nấng con nít ra sao. Con người ta đã bệnh, đã cảm, nó cứ bế ra đường chơi, nắng gió quá về sưng phổi chết. Thiếu gì trường hợp đó. Con mình chết thì nó mất chỗ làm, đi kiếm chỗ khác. Còn mình đau xót đứa con bao giờ quên được?


Bàn đi tính lại, ông bà Bào bằng lòng nuôi đứa đã lớn. Tuy nhiên, nhiều đứa có trí khôn, thà cha mẹ nghèo thì chịu vậy, nó không đi ở với ai hết, dù là làm con nuôi. Nó bằng lòng với cái nghèo của cha mẹ nó, không phàn nàn. Với những đứa này thì chịu nhưng còn một số khác, bằng lòng đi xa với cha mẹ nuôi miễn được học hành, cho ăn ở tử tế.


Trong số những đứa trẻ này có con Ti, em thằng Lớn mà ba cha con ông Tú đã gặp ở bến xe Bình Tây. Trẻ con nhà nghèo ở Việt Nam thích đi làm con nuôi vì cha mẹ chúng muốn cho chúng đi, cứ được ra ngoại quốc là thế nào cũng hơn ở Việt Nam. Vả lại, nhà nghèo, bớt đi một miệng ăn cũng đỡ. Bà Thặng, dì ông Tú, nghe cháu nói kiếm con nuôi cho bạn, cũng giới thiệu cháu một người bạn thân, thằng con trai 11 tuổi.

Ông Tú muốn gặp nó trước khi quyết định giới thiệu cho anh chị Bào một đứa, ông bảo bà Thặng:

“Con muốn coi thằng bé này ra sao. Dì bảo bố mẹ nó đưa nó đến đây con coi mặt mày, lời ăn tiếng nói nó xem ra sao kẻo sau này được đứa tốt thì không sao, phải đứa làm biếng, khó dạy ấy là con cũng có trách nhiệm với anh chị bạn vì họ đã tin cậy, uỷ thác cho mình thăm dò hộ.”

Bà Thặng bảo:

“Cái thằng bé này anh thấy là anh ưng. Nó bẻm mép, lanh lợi và thông minh lắm, mặt mày nó cũng được trai, hơn rất nhiều đứa con nhà người ta mà dì biết. Nhưng anh muốn gặp cho chắc ăn thì để dì nhắn bà bạn bảo cha mẹ nó đưa nó đến đây cho anh gặp.”

Chiều hôm đó, cha thằng bé chở mẹ nó và nó đến nhà bà Thặng. Chào hỏi xong xuôi, mọi người ngồi ở phòng khách chuyện vãn, ông Tú nói mục đích xin con nuôi của anh chị Bào. Ông ngắm thằng bé thấy nó khá tinh nhanh nhưng phải cái mắt nó đảo liên hồi. Ông Tú hỏi:

“Tên cháu là gì?”

“Thưa bác, tên cháu là Kiệu.”

“Cháu học lớp mấy?”

“Cháu đang học lớp 4”

Cha thằng bé thấy 11 tuổi mà học lớp 4 - thay vì lớp 6 - thì hơi xệ nên nói ngay:

“Thưa ông, hồi cháu đang học lớp Hai bị một trận ốm nặng phải nghỉ học hơn một năm. Cháu học thế là giỏi lắm đấy; các thầy, cô giáo cho bằng khen hoài. Thưa ông xin ông coi.”

Người đàn ông trao hai tờ giấy cho ông Tú, đó là hai giấy khen, nhiều học sinh thường có. Để thử trí thông minh thằng bé, ông Tú bảo nó viết vài dòng chữ tiếng Việt, bất cứ câu gì. Nó cắn bút hoài viết không ra. Cha nó bảo thì con viết cái gì mà không được, như hôm nay cháu đi học cháu được điểm cao v.v...

Nó nghe bố nó nói, nó viết y câu đó vào, không nghĩ thêm được gì. Ông Tú lại hỏi:

“Bây giờ bác hỏi cháu nhé: cháu đi học về đến ngã tư. Đường xe đông nườm nượp. Đèn xanh cho người đi bộ qua đường chỉ dài một phút. Tại chỗ chờ có cháu, một ông già mù dắt con chó và một người đàn bà có chửa. Hai người này đều muốn cháu dắt qua đường vì họ thấy xe cộ đông quá, nguy hiểm. Cháu sẽ dắt người nào trước, ông già mù với con chó hay bà có chửa?”

Thằng bé suy nghĩ mấy phút xong nói:

“Thưa bác, cháu dắt ông già mù trước.”

“Vì sao phải dắt ông già mù trước?”

“Vì ông tàn tật, ông đi chậm, sợ ông về nhà tối quá!”

“Đúng. Cháu giỏi lắm! Thế có dắt con chó ông già mù không?”

Thằng bé nghĩ một lát rồi nói:

“Thưa bác nếu con chó cũng mù thì cháu dắt luôn! Còn nó sáng thì để chuyến sau!”

Cả nhà cười ồ. Ông Tú lại hỏi:

“Nếu khi đang đi, ông già mù lỡ đánh rơi cái gói tiền ông đi xin được. Cháu có cúi xuống nhặt không?”

Thằng bé nghĩ một tí rồi nói:

“Cháu đ. nhặt!”

Cả nhà lại cười sặc sụa. Cha mẹ thằng bé có vẻ mắc cở với bà Thặng và ông Tú. Ông Tú bảo:

“Cám ơn ông bà đã chở cháu tới. Để tôi suy nghĩ, sẽ trả lời ông bà sau.”

Cha mẹ thằng bé dẫn con ra về nhưng họ chứng kiến cuộc phỏng vấn, họ nghĩ con họ ít hi vọng.

Chị người làm cho bà Thặng có đứa con, chị ta cũng muốn cho con đi nhưng con bé mới hơn 3 tuổi, chắc gì xa mẹ nó được mà không nhớ, khóc ầm ĩ. Thế là rút lại còn con Ti, em thằng Lớn.


Ba hôm sau, ba cha con ông Tú lại tới nghĩa trang Đồng sạn. Ông Tú đã có định kiến xin con Ti cho vợ chồng ông Bào. 

Ngay lần đầu gặp con Ti rồi cho nó vào quán ăn trưa, ông Tú đã để ý xem cách ăn nói, cử chỉ của nó ra sao. Nếu thằng Lớn còn sống, ông sẽ hỏi Lớn trước nhưng Lớn chết rồi, nay là em nó thì cũng được miễn nó ngoan ngoãn và có đầu óc một chút.



Ông Tú cũng nghĩ, dù sao ông cũng là nguyên nhân đưa đến cái chết của thằng Lớn dù ông không gây ra mà chỉ bởi nó quá hấp tấp nên bị xe tông. Ông lẩn thẩn nghĩ nếu bữa đó ba cha con ông không lai vãng đến cái bến xe Bình Tây thì biết đâu hôm đó Lớn không bị chết?


Mọi chuyện đã qua, nuối tiếc không ích gì, cũng có thể là do số mạng hẩm hiu của nó xui khiến ra. Nhân dịp đi kiếm đứa con nuôi cho bạn, ông Tú nghĩ, thôi giúp cha mẹ thằng Lớn có đứa con sang Mỹ, cũng là một cách giúp lại  Lớn.


Ba cha con ông Tú vào đến ngôi mộ quét vôi trắng, nơi trú ngụ của vợ chồng chú thím Cải. Ông Tú nhìn hoàn cảnh  mà muốn rơi lệ. Chưa bao giờ ông thấy người sống phải ở lẫn với người chết như thế này.

Khi thân phụ ông Tú còn sống, cụ có kể cho ông Tú nghe thời của bố cụ và cụ, cha chết người con trai trưởng phải làm lều bên mộ cha canh giữ mồ cho đến khi mãn tang tức ba năm. Ba năm đó chỉ mặc quần áo tang, không được dự đám cưới, hội Xuân. Ban ngày có thể đi làm đồng áng kiếm sống nhưng đêm đến phải ra lều ngủ. Chữ Hiếu thời xưa giữ kỹ đến thế! Chẳng bù cho thời nay có những đứa con ngỗ nghịch chửi  cha  mắng mẹ hoặc đuổi cha mẹ ra khỏi nhà!


Chú Cải đang nằm trên cái võng máng qua hai ngôi mộ còn thím Cải đi làm, con Ti đi bán vé số chưa về, con Tí đã đi Bình Dương, ở coi cháu cho ông bà bác họ kiếm miếng cơm từ dăm tháng nay.

Chú Cải thấy ba cha con ông Tú tới thì lật đật đứng lên đón khách.

Ông Tú nói mục đích ông đến đây hôm nay:

“Vợ chồng người bạn thân của tôi hiếm muộn, muốn nuôi đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Tôi gặp cháu Ti bữa trước, hôm nay hỏi cháu, nếu nó bằng lòng và anh chị bằng lòng, tôi sẽ nói anh bạn tôi về làm giấy tờ xin nó làm con nuôi cho nó sang Mỹ. Tất nhiên nó được đi học và được hưởng những gì trẻ con Mỹ (con nhà trung bình) được hưởng.”


Chú Cải vừa nghe tới đó chú mừng rỡ vô cùng:

“Thưa anh, vợ chồng con cái tôi hết lòng đội ơn anh. Tôi chắc là cháu bằng lòng. Xin mời anh và hai cháu ngồi tạm trên cái băng này. Nhà tôi và cháu Ti sắp về bây giờ.”

Khoảng mười lăm phút sau thím Cải và Ti về một lượt. Hôm nay Ti bán hết vé số sớm nên lò dò đi đón mẹ cùng về.

Thím Cải và Ti chào ông Tú và hai đứa con ông. Chú Cải bảo vợ, con:

“Vừa nãy má xấp nhỏ chưa về, ông Tú có cho tui hay là ông muốn xin con Ti làm con nuôi cho người bạn thân của ông ở Hoa Kỳ. Má xấp nhỏ và Ti nghĩ sao?”

Con Ti nghe ba nó nói, mắt nó sáng rỡ. Ông Tú nói:


“Để tôi nhắc lại những lời tôi đã nói với anh Cải. Việc xin con nuôi này là chính thức và công khai theo luật lệ hiện hành của nước Việt Nam. Vợ chồng người bạn thân của tôi đang ở Hoa Kỳ, vì hiếm muộn nên muốn xin con nuôi. Nếu anh chị và cháu Ti đồng ý thì anh chị ấy sẽ về đây làm giấy tờ và cho cháu Ti đi theo sang Hoa Kỳ. Cháu sẽ được đi học và săn sóc như con ruột anh chỉ. Đáp lại, cháu Ti cũng phải coi bố mẹ nuôi như bố mẹ ruột bằng cái lòng hiếu thảo của đứa con. Anh chị và cháu cứ suy nghĩ, chưa phải trả lời bây giờ. Khoảng đầu tuần sau, trước khi về Mỹ, tôi sẽ lại đây một lần nữa, lúc đó anh chị và cháu trả lời tôi cũng được.  


Sang chuyện khác. Tôi thấy anh chị bị mất căn nhà để ở với số tiền nợ là nhỏ chứ không lớn lao bao nhiêu. Anh chị thu thập giấy tờ, mốt tôi sẽ trở lại đây, anh dẫn tôi đến chủ nợ coi xem họ tính cả vốn lẫn lời bao nhiêu. Nếu có thể, tôi sẽ giúp anh chuộc lại căn nhà chứ ở nơi tha ma mộ địa này khổ sở quá!”


Chú thím Cải nghe xong quá cảm động. Chú bảo đời chú chưa bao giờ thấy một người tốt như ông Tú. Nhân tiện, chú hỏi ông Tú:

“Thưa anh, anh đã cho phép tôi gọi như thế. Tôi không dám tò mò nhưng xin hỏi anh là chị đang ở đâu để cho chúng tôi gặp và cám ơn chị luôn là cái lòng thành thật của vợ chồng, con cái tôi.”

“Nhà tôi mất ở Hoa Kỳ hơn 5 năm rồi anh chị à, khi hai cháu này còn bé. Tôi có công việc làm ở Hoa Kỳ để lo cho hai cháu này vào Đại học. Tôi về lần trước là vì bà ngoại Jennifer và John qua đời. Cũng đã hơn 2 năm rồi. Chuyến này về vì dì ruột của tôi bị bệnh nhưng nay đã đỡ, hơn nữa đi kiếm đứa con nuôi cho người bạn như tôi đã nói. May là tôi gặp cháu Ti, biết nó là em cháu Lớn, tôi càng thương hơn. Thôi mọi sự cũng là Bề trên sắp đặt.”


Thím Cải lấy ở trong cái bị xách ra cỗ tràng hạt của thằng Lớn khi xưa, nói với ông Tú:

“Thưa ông, cỗ tràng hạt này là của cháu Lớn khi xưa lúc cháu còn sống cháu đi nhà thờ bên Công giáo người ta cho cháu. Hôm đi chôn cháu, lúc hạ huyệt, tôi tiếc bỏ vào túi đem về, giữ cho đến nay.”

Ông Tú bảo:

“Chị cứ giữ đó làm kỷ niệm. Sau này nếu gặp anh chị Bào là cha mẹ nuôi cháu Ti thì kể lai lịch cỗ tràng hạt cho anh chị ấy nghe.”


Ba cha con ông Tú đứng lên cáo từ. Ông Tú dặn lại chú Cải về giấy tờ ngôi nhà. Ba cha con ra khỏi nghĩa trang.


                                   o0o


                                     


Giữ đúng lời hứa, ba hôm sau ông Tú ghé Đồng Sạn rồi cùng chú Cải cầm giấy tờ xuống nghĩa trang Bình hưng Hoà. Chú Cải và ông Tú vào văn phòng gặp nhân viên tên Tào, anh này hai năm trước đã làm giấy tờ để chú Cải cầm thế căn nhà trong hẻm với giá tiền 1.000,000 tiền Sàigòn là tiền mua huyệt chôn cất thằng Lớn.

Mới đầu anh Tào nói vì để lâu quá không chuộc, không trả lời, nên nay không chuộc được nữa. Ông Tú hỏi điều khoản này có trong giấy tờ cầm thế không, thời hạn là bao nhiêu? Anh này không trả lời được. Anh ta xin khất đến trưa hôm sau để ông chủ tịch công ti Đồng hoà về giải quyết. Trước khi ra về, ông Tú nói cho anh ta rõ, mọi việc trao đổi, mua bán, cầm thế, vay vỏ của các công dân với nhau đều căn cứ trên luật pháp. Nhà cầm đồ hay cầm thế khi con nợ có tiền chuộc phải cho chuộc nếu không con nợ có quyền mướn luật sư đưa vụ kiện ra toà án, chiếu theo luật dân sự để xử. Chủ nợ thua sẽ phải trả án phí và tiền luật sư.


Có lẽ nghĩa trang Đồng hoà thấy khó ăn ông “Việt kiều” Tú nên trưa hôm sau, khi ông Tú và chú Cải lại đến văn phòng, ông chủ tịch là Tiển tỏ ra rất lịch sự. Ông ta đưa cho chú Cải và ông Tú một mảnh giấy tính tiền lời từ món nợ 1.000,000 với 1 phân rưỡi lời mỗi tháng. Chú Cải nói hôm làm giấy chỉ có 1 phân lời/tháng sao bây giờ lại tăng lên nửa phân? Ông Tiển nói anh nhân viên tên Tào làm sai, lời 2 phân/tháng chứ không phải 1 phân tháng. Vì chuyện sai ấy, nay ông ta cho chú Cải hưởng giá đặc biệt là 1 phân rưỡi, tốt quá rồi, còn kêu ca gì nữa.

Ông Tú liếc chú Cải và bảo, không sao đâu, cứ đồng ý cho lẹ. Số tiền tính tổng cộng cả vốn lẫn lời là 3.680.000 đồng. Tiền đôla lúc đó là 1.600.000; ông Tú bỏ ra 230 đôla. Ông Tiển trả giấy nhà cho chú Cải. Ông Tú lại hỏi:

“Thế bao giờ trả lại nhà?”

Ông Tiển đáp:

 “Phải một tuần!”

“Lâu quá, xin ông rút ngắn thời hạn!”

Ông Tiển tính toán một lúc xong nói, sớm lắm cũng phải 5 ngày. Ông Tú bằng lòng, nói ông chủ tịch viết xuống miếng giấy là sau 5 ngày, kể từ ngày mai, nhà đã dọn trống để giao lại cho sở hữu chủ. Ông Tiển bằng lòng.

May là một tuần sau cha con ông Tú mới trở lại Mỹ. Chiều ngày thứ 5, ông Tú cùng chú Cải trở về cái xóm ngập nước khi xưa, những người đang ở trong đó đã dọn đi.

Chú Cải được anh Vầng cho mượn cái xe ba gác, chú gom đồ lại chở từ nghĩa trang Đồng Sạn về nhà. Thím Cải đứng trong hiên căn nhà xưa yêu dấu, thím cảm động quá đứng khóc. Con Ti lăng xăng thu nhặt những thứ lặt vặt như bát đĩa, quần áo cho lên xe ba gác để ba nó chở về. Ngưới lối xóm như vợ chồng bác Cư, chú cô Giỏi, chú thím Rạt, anh chị Tuỳ và nhiều người khác thấy chú thím Cải đã chuộc lại được căn nhà, họ vui mừng đến hỏi thăm và chúc mừng. Người tặng thùng mì gói, người cho trái dưa hấu, người cho vài chai nước mắm hay một cái nồi nhôm cũ để nấu ăn.

Chú thím Cải luôn miệng cám ơn; nhân dịp có đông lối xóm, chú nói với mọi người sau khi đã giới thiệu ông Tú:

“Vị ân nhân của vợ chồng con cái tôi chính là ông đây. Ông đã giúp chúng tôi rất nhiều, nhờ ông mà vợ chồng con cái tôi lại được về sống nơi căn nhà này. Ông là người đã biết cháu Lớn ngày cháu bị tai nạn cách đây hai năm.”


Ông Tú có hỏi về chiếc xe chú Cải đem cầm 200 đôla. Đã hơn hai năm không có tiền chuộc, lại cũng không liên lạc, nay chú Cải lại đó thì lối xóm nói anh ta đã dọn đi đâu mất tiêu cả năm nay rồi. Có thể anh ta đã đi kiếm chú Cải nhưng không biết chú đã dọn vào nghĩa trang Đồng Sạn.

(còn tiếp)

Bút Xuân Trần Đình Ngọc

 



                       

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire