Cám ơn anh Đỉnh Sóng đã gửi tài liệu này.
Caroline Thanh Hương
(Re-Submit with recent updates)
|
(Vì không có quốc gia riêng nên chúng ta phải biến toàn bộ thế giới nầy thành thế giới của chúng ta, bắt đầu với những quốc gia chứa chấp chúng ta và chấm dứt với Trật Tự Thế Giới Mới, một tên gọi khác của Thế Giới Đại Đồng Mác-Lê - nghĩa là một chế độ cộng sản toàn cầu Do Thái trị, một loại trật tự do bọn vô gia cư làm chủ, trong đó, cũng giống như Do Thái, mọi dân tộc khác sẽ không có biên giới quốc gia: ARMAGEDDON - TẬN THẾ).
Nếu mục tiêu đó đạt được, thì ai sẽ là bên hưởng lợi nhiều nhất? Đương nhiên là những người không có tổ quốc: Do Thái. Khi những kẻ vô gia cư kêu gọi bạn đoàn kết, điều đó có nghĩa là: (1) Bạn sẽ ra đường sống chung với họ - kịch bản của những tên khùng (2) Họ sẽ vào chiếm nhà của bạn và đuổi bạn ra đường - kich bản của những nạn nhân cộng sản. Trường hợp nào thì họ cũng thắng cả. Khi người Do Thái không có quốc gia riêng theo công pháp quốc tế thì các dân tộc khác khó lòng có quốc gia riêng của họ.
Theo Willie Martin, dòng họ Rockefellers thuộc hệ Sephardic (có nghĩa là Do Thái trong tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha). Thông tin nầy được tìm thấy trong cuốn "Americans of Jewish Decent" do Malcolm H. Stern, một sử gia người Do Thái biên soạn, và chỉ ấn hành cho người Do Thái một vài năm trước đây. Sách nặng 10 pounds và cung ứng tiểu sử của 25 ngàn người Do Thái ở Hoa Kỳ. Điều đáng lưu ý là chỉ có 550 ấn bản được in ra và mỗi ấn bản được đánh số thứ tự. Sách được trao cho những lãnh tụ Do Thái chóp bu ở Hoa Kỳ dùng làm tài liệu tham chiếu cá nhân khi hành xử và tiếp xúc với những người mệnh danh là "Marranos" (tức những người Do Thái giả vờ làm tín đồ Cơ Đốc trong cộng đồng của họ trong khi vẫn bí mật duy trì tôn giáo và chủng tộc Do Thái khi gặp những người Do Thái khác.) Cũng theo tài liệu nầy, nhiều thế kỷ trước, người Do Thái đã tràn ngập Tây Ban Nha với số lượng lớn và nhờ cho vay nặng lãi và ăn cắp họ đã trở thành những đại điền chủ. Người Do Thái kiểm soát cả Tây Ban Nha lẫn Bồ Đào Nha nhờ vào độc quyền trên hệ thống tài chánh của hai quốc gia nầy. Vào năm 1942, Hoàng Đế Ferdinand và Hoàng Hậu Isabella của Tây Ban Nha đã trục xuất người Do Thái khỏi nước và tịch thu tài sản bất chính của họ. Chính trong thời kỳ nầy gia đình Rockefellers đã di cư sang Đế Quốc Thổ bấy giờ đang chào đón người Do Thái, vì tin họ là một "dân tộc đáng thương bị ngược đãi."
Ông nội của cựu phó tổng thống Hoa Kỳ, Nelson Rockefeller, đã thú nhận rằng gia đình ông ta đã có lần di cư từ Thổ Nhĩ Kỳ sang Pháp. Từ Pháp họ di cư sang Hoa Kỳ. John D. Rockefeller, Sr. là một người giàu có ngay cả trước khi tiếp quản công ty Standard Oil Co., khiến gia đình họ trở thành một trong những gia đình giàu nhất thế giới. Chưa thấy ai giải thích tại sao gia đình nầy tự nhiên lại giàu có như thế ngay khi từ Pháp đến Hoa Kỳ. Không có thông tin chính thức giải thích tại sao gia đình Rockefellers có được những số tiền khổng lồ ở Pháp. Có thể họ đã nhận những số tiền đó từ tập đoàn tài chánh Do Thái Rothschilds và ngay từ buổi đầu đã làm việc cho tập đoàn nầy bằng cách mua đứt những cơ sở thương mại Cơ Đốc ở Hoa Kỳ. Như thế, cho dù Rockefellers không thực sự Do Thái đi nữa thì cũng là tay sai của tập đoàn tài phiệt Do Thái Rothschilds. "Marranos" là những người Do Thái giả vờ cải đạo sang Cơ Đốc Giáo để đánh lừa các tín đồ Cơ Đốc trong khi làm ăn nhưng vẫn bí mật tiếp tục theo đạo Judaism trong những buổi lễ riêng tư. Do đó, một gia đình như Rockefellers thường là công cụ hoàn hảo cho tập đoàn Rothschilds ở Pháp vốn từ nhiều thế kỷ đã từng xử dụng những mật vụ để thi hành âm mưu của họ.
"The Thunderbolt" là tờ báo đầu tiên khiến công chúng chú ý đến nguồn gốc Do Thái của Phó Tổng Thống Nelson Rockefeller. Cuối cùng, thông tin giải thích tại sao ông luôn luôn có thể chăm sóc kỹ lưỡng những quyền lợi Do Thái như thế và tại sao khi làm Thống Đốc New York, chính quyền của ông lại đầy người Do Thái từ trên xuống dưới. Những chiến dịch tranh cử của ông trong quá khứ luôn luôn được người Do Thái điều khiển và ông luôn luôn được hậu thuẫn của cộng đồng Do Thái trong bất kỳ đợt tranh cử chính trị nào của ông. Thông thường người Do Thái không hậu thuẫn một tỉ phú Cơ Đốc nào vào vị trí chính trị vì họ sợ sẽ không thể điều khiển được người đó sau khi đắc cử. Các lãnh tụ cộng đồng Do Thái từ lâu đã biết Rockefellers là những đồng bào Do Thái của họ và sự kiện đó chắc chắn giải thích tại sao các cộng đồng Do Thái đã luôn luôn hậu thuẫn những tham vọng chính trị của Rockefellers. Bây giờ chúng ta có thể thấy tại sao Nelson Rockefeller và David Rockefeller tiến cử Henry Kissinger, đồng chí Do Thái của họ, vào chính quyền của Nixon; và Kissinger ngược lại đã xử dụng chức vụ của mình để cất nhắc đồng chủng Rockefeller của ông ta vào hệ thống công quyền. Leonard G. Horowitz đã phơi bày một trong những cấu kết giữa Kissinger và Rockefeller trong một tài liệu mang tựa đề "Kissinger and Rockefeller Connections to American Central Intelligence and the Origins of AIDS and Ebola" ở địa chỉ:
Rockefellers và Hệ thống Bilderberg Group
Bilderberg Group là một trong bốn nhóm đầu nậu của hệ thống siêu quyền lực ẩn danh thường được gọi với nhiều tên khác nhau như Shadow Government, New World Order, Conspiracy for World Domination
1. The Council on Foreign Relation (4500 thành viên),
2. The Trilateral Commission ( 87 Americans 337 từ các quốc gia khác),
3. The Bilderberg Club (120-140 "khách") và
4. Nhiều cơ quan được miễn thuế khác như The Rockefeller Foundation, trong đó những đại biểu và quản gia then chốt cùng với những quyền lợi của tập đoàn tiêu biểu cho những kế hoạch trước mắt và toàn cầu; và nghị trình được bàn thảo, cải thiện và sau đó được thi hành bởi những đám lưu manh chính trị nô bộc.
Trên thực tế, phần lớn những nhân vật chủ chốt của các hệ thống nầy đều là những chủ ngân hàng Do Thái, đứng đầu là David Rockefeller. Nhân vật nầy vừa nắm chức chủ tịch của tỏ chức Council on Foreign Relation vừa nằm trong thành phần lãnh đạo của nhóm Bilderberg Club lại vừa có một tổ chức riêng mang tên The Rockefeller Foundation, vừa là nhà sáng lập của Ủy Ban Trilateral Commission. Chính Ủy Ban The Trilateral Commission và David Rockefeller, kẻ dựng ngôi vua ở Hoa Kỳ, đã đưa một gã vô danh là Jimmy Carter vào Tòa Bạch Ốc năm 1976. Sự nghiệp chính trị của nhiều người đã vươn lên như phép lạ sau khi tham dự buổi hội nghị Bilderberg đầu tiên của họ: Margaret Thatcher, Bill Clinton, and Tony Blair. Obama đã bổ nhiệm 11 thành viên của Ủy Ban Trilateral Commission (nghĩa là hơn 10%) vào những chức vụ hàng đầu và then chốt trong chính quyền của ông trong mười ngày đầu của nhiệm kỳ của ông. Giữa 1945 và 1972, khoảng 45% những viên chức ngoại giao hàng đầu phục vụ trong chính phủ Mỹ cũng là những thành viên của Hội Đồng Tài Phiệt The Council on Foreign Relation, khiến một trong những thành viên hàng đầu có lúc nói rằng việc gia nhập vào Hội Đồng chủ yếu là một "nghi thức thăng tiến" thành một viên chức của chính sách ngoại giao...Khoảng 42% những chức vụ ngoại giao hàng đầu trong chính quyền Truman do các thành viên của Hội Đồng Tài Phiệt nắm giữ; con số đó là 40% trong chính quyền của Eisenhower, 51% trong chính quyền của Kennedy, và 57% trong chính quyển của Johnson. Hội Đồng Tài Phiệt đã và tiếp tục có những ảnh hưởng lớn lao trong thế giới truyền thông, nhờ đó nó có thể quảng bá ý thức hệ của nó, thăng tiến những nghị trình của nó, và che đậy ảnh hưởng của nó... Cơ Quan Tình Báo Trung Ương CIA cũng không phải là kẻ xa lạ trong hệ thống nầy, vì thường xuyên trong những thập niên đầu khi mới hình thành, những giám đốc của nó đều đến từ Hội Đồng, như Allen Dulles, John A. McCone, Richard Helms, William Colby, và George H.W. Bush." Nhóm Bilderberg Club cũng có "mời" những chức sắc vớ vẩn trong giới hàn lâm và khoa học để làm "bình phong" che mắt, như Fouad Ajami, Giám đốc của Middle East Studies thuộc Đại Học John Hopkins University, và Martha Farrah, Giám Đốc của Trung tâm Center for Cognitive Neuroscience thuộc Đại Học University of Pennsylvania, trong khi thành phần nồng cốt vẫn là những tay Do Thái sừng sỏ như:
- Ben Shalom Bernanke: Chủ tịch Ngân Hàng Dự Trữ Tư Nhân Liên Bang
- James Wolfensohn: Nhà tài chánh Do Thái Quốc tế. Chủ tịch công ty đầu tư Wolfensohn & Company Investments. Vì là một cựu Giám Đốc Ngân Hàng Thế Giới, tay Do Thái nầy có hơn 140 nhân viên và văn phòng ở Luân Đôn , Tokyo và Moscow. Wolfensohn cũng có một cổ phần với ngân hàng Fuji Bank của Nhật và Jacob Rothschild của Anh.
- Robert Zoellick: Chủ Tịch tổ hợp ngân hàng US World Bank Group, một chi nhánh ngụy trang của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) do tập đoàn tài chánh Do Thái Rothschild điều hành.
- Josef Ackermann: Chủ Tịch của Ủy Ban Điều hành của Deutsche Bank AG ở Thụy Sỹ. Ackermann là một đồng lõa của tập đoàn tài chánh Do Thái Rothschild về tội phạm tài chánh.
- Kenneth Jacobs: Phó Giám Đốc của Lazard Bank North America. Lazard Bank, một trong những đại bài của tập đoàn tài chánh Do Thái Rothschild, hoạt động trong 39 thành phố khắp Bắc Mỹ, Âu Châu, Úc, Á Châu, và Nam Mỹ.
- David Rockefeller: Chủ nhân của Chase Manhattan Bank. Cựu Chủ Tịch của Hội Đồng Council on Foreign Relations và là nhà sáng lập của Ủy Ban Trilateral Commission. Cho dù không thực sự là người Do Thái đi nữa thì Rockefeller cũng là tay sai của tập đoàn tài chánh Do Thái Rothschild .
Rockefeller và Cộng sản Quốc tế
Trong tài liệu "The Rockefeller File," Gary Allen cho thấy rằng Liên Xô đã được giữ cho tồn tại nhiều thập niên nhờ vào những khoản tiền vay khổng lồ lãi suất nhẹ, do những người thọ thuế Hoa Kỳ tài trợ, và những khoản vay nầy được thực hiện thông qua Ngân Hàng Export-Import Bank ở New York do gia đình Rockefellers thành lập. Từ lâu thế giới đã bị điều khiển theo một nghị trình quốc tế nhằm tiến tới một chính phủ thế giới với giới thượng lưu (Do Thái) của Nga và Mỹ cùng làm việc với nhau. Đó là lý do tại sao gia đình Rockefellers lại dính líu với Liên Xô. Năm 1938, Trotsky nói rằng kế hoạch New Deal báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản ở Hoa Kỳ:
"You will have a revolution, a terrible revolution. What course it takes will depend much on what Mr. Rockefeller tells Mr. Hague to do. Mr. Rockefeller is a symbol of the American ruling class and Mr. Hague is a symbol of its political tools."
(Bạn sẽ thấy một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng khủng khiếp. Cuộc cách mạng đó đi về đâu thì tùy thuộc phần lớn vào những gì Mr. Rockefeller bảo Mr. Hague phải làm. Mr. Rockefeller là một biểu tượng của giai cấp cai trị của Mỹ và Mr. Hague là một biểu tượng cho những công cụ chính trị của giai cấp đó).
Gia đình Rockefellers dàn dựng tổ chức Council of Foreign Relations của hệ thống siêu quyền lực ẩn danh, hoạt động như một chính phủ ma (shadow government) ở Hoa Kỳ. Hầu như mọi tay chơi quan trọng trên chính trường và truyền thông đều là thành viên của tổ chức đó, kể cả Tổng Thống Obama và George Bush Jr. Chính David Rockefeller cuối cùng đã thú nhận có một âm mưu toàn cầu nhằm "đoàn kết" thế giới lại dưới một "chính phủ quốc tế (World Government)."
"Some even believe we are part of a secret cabal working against the best interests of the United States, characterizing my family and me as internationalists and of conspiring with others around the world to build a more integrated global political and economic structure - one world, if you will. If that is the charge, I stand guilty, and I am proud of it." - David Rockefeller
(Một số người tin rằng chúng tôi dự phần vào một âm mưu bí mật chống lại những quyền lợi tốt nhất của Hoa Kỳ, cho rằng gia đình tôi và tôi theo chủ nghĩa quốc tế và đang âm mưu cùng với những người khác trên thế giới để xây dựng một cơ cấu toàn cầu - hay một thế giới, nếu bạn muốn - về chính trị và kinh tế liên kết hơn. Nếu đó là lời cáo buộc thì tôi xin nhận tội, và tôi hãnh diện về điều đó.)
Nga và Mỹ đã từng luôn luôn cấu kết với nhau ở cấp cao, và điều nầy đã không thay đổi với nước Nga hiện tại, một nước Nga đang được Giáo Hội Chính Thống Do Thái hậu thuẫn tuyệt đối, một nước Nga trong đó một số ít tay trùm Do Thái chiếm 50% những tập đoàn cả nước. Những tên trùm Do Thái này, cùng với những cơ sở tài chánh và kinh tế của chúng thường được gọi là "Big Seven": Rem Vyakhirev (Gazprom), Boris Berezovsky (Logovaz), Vladimir Gusinsky (Most Bank), Vaghit Alekperov (Lukoil), Alexander Smolensky (Stolichnyy Bank), Mikhail Khodorkovsky (Rosprom), and Andrey Kazmin (Sberbank).
Mục tiêu của cái Trật Tự Thế Giới Mới (New World Order) là phối hợp chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản thành cái mệnh dang là "chính phủ thế giới tập đoàn-cộng sản" (corporate-communist world government), thường được gọi là "Global Governance ," "Collectivism" hay "Third Way." Từ đó, trong đời thực ở hai chế độ cộng sản Bắc Kinh và Hà Nội xuất hiện những tháp ghép quái đản: tư bản đỏ, tư sản đỏ, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn trị độc đảng nhưng lại có "luật pháp" và "hiến pháp" theo lối Tây Phương, có "quốc hội" và có "bầu cử" dù là "đảng cử dân bầu," có đối lập cuội v.v.. Và cũng từ đó phát sinh chủ thuyết toàn cầu hóa (Globalization), Thuyết Duy Lợi, Thuyết Big Money, chủ nghĩa Dollarocracy, nhập cư bất hợp pháp, lao động xuất khẩu, buôn người xuyên biên giới, kinh doanh hôn nhân; từ đó mới có Liên Hiệp Quốc, Asean, Liên Âu, World Bank, IMF, WTO, APEC, TPP..., những định chế phần lớn do bọn mủi két nắm đầu; từ đó mới có chiêu bài "bình thường hóa quan hệ với cộng sản" - nhưng Do Thái không bịnh thường hóa với những quốc gai không cộng sản, cương quyết xóa sổ Hồi Giáo Trung Đông, nước Đức và dân Da Trắng nói chung, nếu có khả năng. Tom Hayden, chồng của cô đào Do Thái phản chiến Jane Fonda, đã từng thẳng thừng tuyên bố: "White race is the cancer of human history (Dân Da Trắng là ung thư của lịch sử nhân loại)." Cặp vợ chồng phản chiến nầy đã dùng tên của Nguyễn Văn Trổi để đặt tên cho đứa con trai của họ. Khi một bộ trương ngoại giao của Mỹ từng đứng chung hàng ngủ với những tên phản chiến và phản bội như thế thì kẻ khờ khạo nhất thế gian cũng thừa biết tương lai của Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ đi về đâu.
Thuật ngữ Địa Chính Trị (Geopolitics) ngày nay có nghĩa là nhìn đâu cũng thấy Do Thái và sờ đâu cũng chạm phải bàn tay lông lá của Do Thái; và ở đâu có Do Thái ở đó có chiến tranh, mâu thuẫn, và tranh chấp vì chiêu thuật sở trường của Do Thái là dùng quốc gia nầy đánh đổ quốc gia khác, dùng xung đột để xuất khẩu vũ khi, chiến cụ và nhất là NỢ, một món quà được làm bằng giấy lộn và không khí để tạo cảnh phồn vinh giả tạo nơi những quốc gia "đồng chí". Rồi ra, tất cả mọi quốc gia đều trở thành con nợ của Do Thái, kể cả những quốc gia giàu "tiền bỏ ống" như Trung Quốc. Khi một chính phủ cai trị bằng tiền vay ngân hàng thì chính các chủ ngân hàng cai trị chứ không phải chính phủ, và những chủ ngân hàng đó đương nhiên là các tập đoàn tài phiệt Do Thái. Những chính trị gia hàng đầu của thế giới đang trở thành những công sai Do Thái. Giới lãnh đạo đầu não của Kremlin, Trung Nam Hải, và Bắc Bộ Phủ Hà Nội, trước hết và trên hết, dứt khoát không thoát được vòng cương tỏa của con bạch tuộc Do Thái. Chung qui, cái mệnh danh là "phối hợp" đó chỉ là một tên gọi khác của thế giới đại đồng hoang tưởng trong thuyết Mác-Lê. Nếu mục tiêu đó đạt được, thi ai sẽ là bên hưởng lợi nhiều nhất? Đương nhiên là những người không có tổ quốc: Do Thái. Khi những kẻ vô gia cư kêu gọi bạn đoàn kết, điều đó có nghĩa là: (1) Bạn sẽ ra đường sống chung với họ - kịch bản của những tên khùng (2) Họ sẽ vào chiếm nhà của bạn và đuổi bạn ra đường - kich bản của những nạn nhân cộng sản. Trường hợp nào thì họ cũng thắng cả. Khi người Do Thái không có quốc gia riêng theo công pháp quốc tế thì các dân tộc khác khó lòng có quốc gia riêng của họ.
(Vì không có quốc gia riêng nên chúng ta phải biến toàn bộ thế giới nầy thành thế giới của chúng ta, bắt đầu với những quốc gia chứa chấp chúng ta và chấm dứt với Trật Tự Thế Giới Mới, một tên gọi khác của Thế Giới Đại Đồng Mác-Lê - nghĩa là một chế độ cộng sản toàn cầu Do Thái trị, một loại trật tự do bọn vô gia cư làm chủ, trong đó, cũng giống như Do Thái, mọi dân tộc khác sẽ không có biên giới quốc gia: ARMAGEDDON - TẬN THẾ).
** [Cộng đồng Người Việt tị nạn ở Mỹ chống cộng thì cứ chống, nhưng xin đừng quên rằng cộng sản đang ở chung quanh bạn; và chúng được Mossad và CIA bảo vệ đấy (Sorry, just kidding)].
Vài nhận định...không vui:
- Tzipora Menache, Israeli spokeswoman: "Quý vị biết rất rõ, và những người Mỹ ngu xuẩn cũng biết rất rõ, rằng chúng ta kiểm soát chính phủ của chúng, bất luận ai ngồi trong Tòa Bạch Ốc. Như quý vị thấy, tôi biết và quý vị biết rằng không một tổng thống Mỹ nào có thể đủ tư cách thách thức chúng ta cho dù chúng ta có làm chuyện khó tin. Chúng nó - bọn Mỹ - có thể làm gì được chúng ta? Chúng ta kiểm soát quốc hội, chúng ta kiểm soát truyền thông, chúng ta kiểm soát kỹ nghệ giải trí, và chúng ta kiểm soát mọi thứ ở Mỹ. Ở Mỹ, bạn có thể chỉ trích Thượng Đế, nhưng bạn không thể chỉ trích Israel..."
- Thomas Jefferson: "Mặc dù sống rải rác, người Do Thái vẫn tạo thành một quốc gia như những người ngoại quốc trên vùng đất họ đang sống."
- Napoleon Bonaparte: "Những ác quỷ Do Thái không phát xuất từ những cá nhân, mà từ bản chất nền tảng của giống dân đó."
- George Washington: "Người Do Thái chống lại chúng ta hữu hiệu hơn quân thù. Họ nguy hiểm gấp trăm lần cho tự do và lý tưởng mà chúng theo đuổi...."
- Benjamin Franklin: "Mối đe dọa là Do Thái.... Trong bất kỳ quốc gia nào mà họ định cư với số nhiều, họ đều hạ thấp đạo đức, xem thường chính trực thương mại, tự tách rời và không chịu đồng hóa.... Nếu không loại họ ra khỏi Hoa Kỳ nầy, trong Hiến Pháp, thì không đến 200 năm nữa họ sẽ sinh sôi nẩy nở ở đây đông đảo đến độ họ sẽ đô hộ và nuốt hết cả nước và thay đổi hình thức chính phủ của chúng ta, và triệt hạ tự do của chúng ta."
(Còn tiếp)
References:
|
Đỉnh Sóng xin chân thành cám ơn Thanh Hương đã có nhã ý chuyển tiếp bài viết ROCKEFELLERS: ÂM MƯU THỐNG TRỊ THẾ GIỚI CỦA DO THÁI.
RépondreSupprimerXin chia xẻ với các thân hữu khác.
ĐS